DĨ LOẠN TRỊ LOẠN, ĐẠI THẾ LOẠN TÂM THÙ BÁO THÙ, THIÊN HẠ THÙ Hậu Tam Quốc, Bát Vương chi loạn, Cầm Nhị Đế, Ngũ Hồ loạn Hoa. Định Kiến Khang, Đông Tấn tái lập. Tranh Quan Trung, Ngũ Triều hốn chiến. Thập lục quốc, Đế vương thành mộng ảo Nam Bắc Triều, Hào kiệt khắc tre xanh Hiện tại trong trang wiki có hai bản đồ Thời Tây Tấn và Đông Tấn - Ngũ Hồ - 16 nước Zinzin và RTK11 có thể down load và dịch sang Tiếng Việt dùm không? Thanks a lot! Vì là Tiếng Tầu nên tôi không dịch được! Trên cơ sở 2 bạn dịch, tôi mới có thể vẽ được bản đồ các nước và cục diện biến đổi của thời kỳ này. Hiện tại vì nó quá phức tạp và không có bản đồ nên đọc rồi lại trả về cho wiki. Đây là thời kỳ cực kỳ biến loạn nhất lịch sử Trung Quốc, so với thời Đông Chu Liệt Quốc thì còn phức tạp hơn nhiều. http://vi.wikipedia.org/wiki/Nhà_Tấn Bài viết mang tính chủ quan và còn một số thông tin chưa chính xác. Sẽ được cập nhật và hiệu đính Nguồn: Internet free A. Nhà Tây Tấn: Năm 263, Tư Mã Viêm diệt Tây Thục Lưu Thiện, phế Ngụy Đế Tào Hoán lập ra nhà Tấn. Năm 264, Tư Mã Viêm xưng là Tấn Vũ Đế, truy tôn ông nội Tư Mã Ý làm Tấn Tuyên Đế, bác Tư Mã Sư làm Tấn Cảnh Đế, cha Tư Mã Chiêu làm Tấn Văn Đế. Năm 280, nhà Tấn diệt Đông Ngô Tôn Hạo, chính thức hoàn thành thống nhất Hoa Hạ. Lịch sử gọi thời kỳ này là Tây Tấn. Tấn Vũ Đế Tư Mã Viêm trị vì 265 - 290 được 35 năm. Tây Tấn đánh chiếm cả Liêu Đông và Nam Việt, đặt quan cai trị. Các bộ tộc và các rợ đều thần phục triều cống. Để tiện cho việc cai trị, nhà Tấn chia nước thành 19 châu (tăng so với số 12 châu thời Hán). Lập lại chế độ phân phong chư hầu thời Đông Châu, các nước chư hầu đều có quân đội riêng do quý sĩ tộc và hoàng tộc lãnh đạo. A. I Vấn đề ngoại tộc: Tộc Khương: Từ thời nhà Hán đến thời Tam Quốc, các bộ tộc phương Bắc đã xâm nhận Trường Thành ở lẫn với người Hán. Trong giai đoạn Tam Quốc, chính các bộ tộc người Khương đã được các trấn chư hầu lợi dụng trong việc tranh đoạt thiên hạ. Đầu tiên là Thứ sử Tây Lương Đổng Trác tạo ra đội quân mà nòng cốt là người Khương để trấn áp cấm quân Lạc Dương và quân Tịnh Châu Đinh Nguyên nòng cốt là người Hán. Quân Khương một khi đã vài chiếm Đông và Tây Kinh, thỏa sức cướp bóc, Đổng Trác vì muốn giữ lòng quân củng không thể ngăn chặn triệt để. Đấy cũng là một trong những nguyên nhân khiến các trấn chư hầu Quan Đông tụ họp để chống lại Sau khi Đổng Trác chết, Lý Thôi - Quách Dĩ cũng lại lợi dụng người Khương tấn công Trường An một lần nữa. Từ đây dân Khương bắc đầu có một vai trò nhất định trên chiến địa Trung Nguyên. Sau khi Lý Thôi - Quách Dĩ bị Tào Tháo đánh bại, người Khương về mặt hình thức vẫn chịu sự cai quản của người Hán, nhưng một số tộc Khương bắt đầu rút xa Trường Thành lập nước riêng. Người Khương được sự vổ về của các Thứ sử Mã Đằng - Hàn Toại và Chung Do do đó tạm yên. Mã Đằng muốn mở rộng thế lực tranh đoạt đã tranh thủ các tộc Khương, sau đó là Mã Siêu. Sau khi Tào Tháo đánh bại Mã Siêu đã để Hạ Hầu Uyên, Dương Phụ cai quản người Khương. Thời kỳ Gia Cát Lượng Ngũ phạt Trung Nguyên chủ trương chỉ dựa vào người Hán, vổ về người Khương. Gia Cát Lượng đưa hết người Hán dời về Hán Trung và Thành Đô. Ung Châu trở thành vùng đất hoang hóa, địa bàn tranh đoạt. Thời kỳ Khương Duy Cửu chinh bắc tiến, tộc Khương trờ thành thế lực được cả hai phe Thục - Ngụy lôi cuốn. Sau khi Tư Mã Viêm dẹp được nhà Thục, các tộc Khương thần phục nhà Tấn, người Khương được tự do sinh hoạt ở Ung Châu, một bộ bận lớn người Khương di dời đến Trường An , thậm chí Lạc Dương sinh sống. Tộc Tung Là một tộc người ở Quan Trung, vì đói kém di dời vào Thục Quận - Thành Đô kiếm sống. Tôc Trưởng là Lý Đặc và cháu là Lý Hùng. Đến thời Bát vương chi loạn, nhà Tấn sai La Thượng ép dân Tung rời khỏi Thành Đô. Lý Đặc, Lý Hùng dẫn người Tung nổi dậy lập nhà Thành Hán. Nhà Tấn mất Ba Thục. Hung Nô: Chính sách nhà Hán đối với Hung Nô là vừa vổ về vừa trấn áp. Khi nhà Hán còn thịnh, Hung Nô phải đi xa Trường Thành về phía Bắc. Đến cuối đời Đông Hán, chính quyền suy yếu, Đinh Nguyên và Lưu Yên (cha Lưu Chương) cầm quân ở Tinh Châu và U Châu chống Hung Nô. Sau Đinh Nguyên tranh chiếm Lạc Dương bị bộ tướng là Lữ Bố làm phản giết, Lưu Yên bị triều đình sai đi trấn thủ Ba Thục. Vấn đề phòng bị Hung Nô bị bỏ ngõ. Khi Tào Tháo thống nhất phương bắc lập lại vấn đề phòng bị Hung Nô, Do muốn thống nhất Trung Nguyên, nhà Ngụy chủ trương hòa hoãn, vổ về. Dân Hung Nô lại trờ về chăn bắt sinh sống gần Trường Thành. Một số bộ tộc Hung Nô thỉnh thoảng dấy binh tạo phản, nhà Ngụy phải vất vả chống đỡ. Thời kỳ đầu là Trương Yên đến Tào Chương. Khi nhà Tấn thống nhất được Trung Nguyên, một bộ phận lớn dân Hung Nô đã vào ở trong Trường Thành ở U Châu và Tinh Châu. Năm 272, ở phía bắc, Hữu hiền vương Nam Hung Nô là Lưu Mãnh lại dấy binh chống lại nhà Tấn ở Tinh Châu (Sơn Tây), sau cùng bị trấn áp Tiên Ty: Tiên Ty, một tộc người sống ở Tần Châu, Lương Châu (Cam Túc). Năm 271, thế lực của tộc Tiên Ty ở Lũng Hữu nhanh chóng lớn mạnh, tháng 6, Thụ Cơ Năng, thủ lĩnh bộ Thốc Phát giết chết Thứ sử Tần Châu Hồ Liệt. Tấn Vũ Đế phái Tư Khang Hiệu úy Thạch Giám làm An Tây Tướng quân, Đô đốc Lũng Hữu, Đỗ Dự (Tả truyện) làm An Tây quân sự đem quân đàn áp người Tiên Ty, đến năm sau tình hình Lũng Hữu mới yên ổn. Trong thời Tào Ngụy, ý tưởng đề phòng sự nổi dậy của những tộc người này đã được Đặng Ngải nêu ra và Tư Mã Sư tán đồng, nhưng chưa thực hiện. Tấn Vũ Đế đã tiến hành các chiến dịch quân sự chống người Tiên Ty và người Khương ở Tần Châu, Lương Châu (Cam Túc), trước khi tiêu diệt Đông Ngô. Kế hoạch quân sự này được các tướng Dương Hộ, Vương Tuấn và Tể tướng Trương Hoa ủng hộ. Khi Tấn Vũ Đế diệt Ngô, Quách Khâm cũng đề cập nguy cơ này và khuyên Vũ Đế điều lưu dân ngoại tộc trở về bản quán để tách họ với người Hán; đồng thời điều quân vừa thắng Ngô lên biên cương đề phòng, từng bước đẩy người thiểu số ra khỏi biên cương. Tuy nhiên, Tấn Vũ Đế đã không tiếp thu ý kiến này. Các nhà nghiên cứu hiện nay xem quyết định của Vũ Đế ít nhiều mang tính đạo lý để tránh xáo trộn xã hội. Nhưng sau khi Vũ Đế qua đời, trào lưu bài trừ lưu dân trong triều Tây Tấn tiếp tục dấy lên, tiêu biểu là bài "Đồ Nhung luận" (Thuyết đuổi người Nhung) của Thái tử Tẩy mã Giang Thống, cho rằng các tộc người không phải cùng tộc với người Hán thì lòng dạ họ tất khác nhằm di dời người thiểu số ra khỏi lãnh thổ đề nghị cho dời khỏi Quan Trung nhưng Triều đình không chấp nhận. Tuy nhiên những năm sau đó, việc Triều đình Tây Tấn theo đuổi chính sách này ngay trong "Loạn bát vương" đã dẫn đến các cuộc nổi dậy của lưu dân, trong đó hậu quả tai hại nhất là của Lý Đặc và Vương Nhung, góp phần càng làm suy yếu nhà Tấn. Triều đình Tây Tấn sau thời Vũ Đế đã không biết áp dụng hòa hợp dân tộc, dùng chính sách thù địch với người thiểu số nên mới dẫn đến loạn lạc. A. 2 Mầm mống loạn lạc: Nếu như nhà Ngụy chủ trương sự dụng nhân tài, hòa hợp dân tộc, xây dựng tập quyền trung ương thì nhà Tấn lại chủ trương phân phong chư hầu, trọng dụng hoàng tộc và sĩ quý tộc. Ngoại trừ Tấn Vũ Đế quan tâm đến hòa hợp dân tộc, các triều vua sau đề bài trừ ngoại tộc đẩy mâu thuẫn các sắc dân lên cao, ngay trong nội bộ người Hán, vấn đề phân biệt giai tầng cũng trở nên sâu sắc. Một bộ phận lớn trí thức, sĩ tộc không được trọng dụng cũng bất mãn với triều đình. Chủ trương phân phong chư hầu đã làm suy yếu chính quyền trung ương. Vị vua kế tiếp không có năng lực điều hành, quyền lực trung ương hổn loạn. Bát vương chi loạn càng đẩy nhà Tây Tấn đến sát vực diệt vong. Dân số cũng là một nguyên nhân. Sau thời Tam Quốc loạn lạc liên miên khiến dân số suy giảm. Đến loạn bát vương số người Hán chết còn nhiều hơn. Cả vùng Quan Đông thành chiến địa,việc phòng bị biên cương lơi lỏng, khiến các sắc tộc khác nổi dậy. A. 3 Bát vương chi loạn: Các vương tham chiến 1. Sở vương Tư Mã Vĩ (司馬瑋; con thứ 5 Tấn Vũ Đế) 2. Nhữ Nam vương Tư Mã Lượng (司馬亮; con thứ 4 Tư Mã Ý, vào hàng chú Tấn Vũ Đế, ông Tấn Huệ Đế) 3. Triệu vương Tư Mã Luân (司馬倫; con thứ 9 Tư Mã Ý, em Tư Mã Lượng) 4. Tề vương Tư Mã Quýnh (司馬冏; con Tư Mã Du - em Tấn Vũ Đế. Du từng được Tư Mã Chiêu cho làm con nuôi Tư Mã Sư) 5. Thường Sơn vương (sau là Trường Sa vương) Tư Mã Nghệ (司馬乂; cháu thứ 6 Tấn Vũ Đế) 6. Thành Đô vương Tư Mã Dĩnh (司馬穎; con thứ 16 Tấn Vũ Đế) 7. Hà Gian vương Tư Mã Ngung (司馬顒; cháu nội Tư Mã Phu - em trai Tư Mã Ý) 8. Đông Hải vương Tư Mã Việt (司馬越; cháu nội của Tư Mã Quỳ - em trai Tư Mã Ý) Ngoài ra, phải kể tới Đông An công Tư Mã Do, Tân Dã công Tư Mã Hâm, Hoài Nam vương Tư Mã Doãn, Đông Bình vương Tư Mã Lâm, Phạm Dương vương Tư Mã Hổ. Các vương tham chiến thuộc cả 3 thế hệ, từ hàng chú của Tấn Vũ Đế tới hàng con em Vũ Đế. Hoàng tộc tự tàn hại nhau như kẻ thù, khi lửa chiến tranh của ngoại tộc li khai lan tới vẫn không lo dập tắt mà vẫn mải thanh trừng nhau. Vua Hán Triệu Lưu Thông khi diệt được nhà Tấn cũng phải ngạc nhiên hỏi Hoàng hậu Dương Hiến Dung - vốn là vợ cũ Tấn Huệ Đế, bị phế xuống dựng lên khỏi ngôi Hoàng hậu ba bốn lần - rằng: “Sao họ Tư Mã giết hại nhau nhiều thế?” Cuộc chiến bát vương châm ngòi cho ngọn lửa loạn Ngũ Hồ rồi sau đó là sự chia cắt Nam Bắc triều bùng cháy dữ dội và dai dẳng trong vòng gần 300 năm (304 - 589). A.4 Diệt vong: A.4.1 Người Tung, người Hung Nô nổi dậy Loạn tám vương làm nhà Tây Tấn suy yếu trầm trọng. Khoảng 20 - 30 vạn người bị chết. Hàng loạt tôn thất có thế lực và tài năng bị giết, khiến Hoàng tộc khủng hoảng nhân sự không có người lao động đường phố trợ. Chiến tranh xảy ra khiến nhiều vùng bị tàn phá. Các bộ tộc ngoại vi thừa cơ xâm nhập và làm loạn Trung Hoa. Tại vùng Quan Trung, lưu dân tộc người Tung, vì mất mùa mấy năm, kéo hàng chục vạn người vào quận Thục kiếm ăn. Nhà Tấn sai La Thượng vào Thục, ép lưu dân người Tung rời khỏi Ích Châu vào tháng 7 năm 302. Thủ lĩnh người Tung là Lý Đặc xin được gặt mùa xong, tới mùa đông sẽ đi. La Thượng không bằng lòng, mang quân đến đánh đuổi Lý Đặc. Người Tung bèn theo Lý Đặc và cháu là Lý Hùng nổi dậy làm phản, cát cứ Tây Xuyên mà nhà Tấn không còn khả năng quản lý. Sau khi Lý Đặc tử trận, Lý Hùng lập ra nước Thành Hán (303). Từ đó nhà Tây Tấn mất hẳn đất Thục. Trong Loạn bát vương, do khủng hoảng nhân sự, các vương nhà Tấn phải dùng tới các tướng sĩ người “Hồ” và họ nhân đó phát triển thế lực. Một bộ tướng của Thành Đô Vương Tư Mã Dĩnh (tham chiến bát vương) là Lưu Uyên[10] đã lớn mạnh trong lúc các sứ quân họ Tư Mã giết hại lẫn nhau. Khi Loạn bát vương chấm dứt, Tư Mã Dĩnh đã bị giết; trong 8 vương chỉ còn lại Đông Hải Vương Tư Mã Việt nắm quyền trong triều. Lưu Uyên phát triển thành cánh quân độc lập. Năm 304, Uyên xưng làm vua, lập ra nhà Hán, sử gọi là Hán Triệu. Uyên mang quân đánh chiếm đất nhà Tấn. Tháng 11 năm 306, Huệ Đế Tư Mã Trung bị giết, Hoài Đế Tư Mã Xí được lập lên thay. Nhà Tấn phải đối phó với nguy cơ làm loạn của các ngoại tộc người Hồ tràn lan khắp Trung Nguyên. A.4.2 Đánh nhau với quân Hán Triệu Bộ tướng cũ của Tư Mã Dĩnh là Công Sư Phiên khởi binh báo thù cho chủ. Thứ sử Duyện Châu Tuân Hi đánh bại và giết chết Phiên. Bộ tướng của Phiên là Cấp Tân và Thạch Lặc vẫn không chịu bãi binh. Năm 307, Tân và Lặc mang quân đánh chiếm Nghiệp Thành, giết Tân Thái Vương Tư Mã Đằng. Tư Mã Việt sai Tuân Hi mang quân đánh chiếm lại được Nghiệp Thành. Tân bỏ chạy rồi bị giết, còn Thạch Lặc chạy về hàng Lưu Uyên. Trong lúc đó, một cuộc nổi dậy do Lưu Bá Căn đứng đầu cũng bị dẹp yên. Căn bị giết, bộ tướng Vương Di đóng quân ở Hà Bắc cũng quy phục Lưu Uyên. Năm 308, Lưu Uyên sai con là Lưu Thông Nam tiến đánh Thái Nguyên, sai Thạch Lặc đánh đất Triệu, Ngụy, lại lệnh cho Vương Di đánh phá các châu. Vương Di lại liên tiếp khiến các châu Dự, Duyện, Từ, Thanh bị uy hiếp, Thứ sử Thanh Châu Tuân Hi (Tư Mã Việt điều Hi từ Duyện Châu về Thanh Châu) đối phó rất vất vả. Tháng 5 năm đó, Di tấn công Kinh thành Lạc Dương nhưng bị viện binh nhà Tấn đánh bại, phải chạy về nhập vào quân Lưu Uyên. Tháng 7 năm 308, quân Hán Triệu hạ được Bình Dương (Sơn Tây, Trung Quốc). Lưu Uyên dời đô về đây, xưng làm Hoàng đế. Tháng 9 năm đó, Vương Di và Thạch Lặc hợp binh tấn công Nghiệp Thành, tướng Hòa Úc bỏ thành chạy. Sau khi chiếm Nghiệp Thành, Thạch Lặc lại cùng tướng Hán Triệu khác là Lưu Linh đánh Ngụy Quận, Cấp Quận, Đốn Khâu, liên tiếp hạ 50 đồn. Các châu quận vùng Ký Nam, Hà Bắc bị tàn phá thời Loạn bát vương, binh lực yếu ớt, nên quân Hán Triệu tiến rất dễ dàng. Năm 309, Lưu Uyên sai Lưu Thông, Vương Di đánh Thượng Đảng. Thứ sử Tinh Châu Lưu Côn mang quân cứu. Tư Mã Việt ở Lạc Dương cũng sai Vương Khoáng đi cứu. Thông và Di hợp binh đánh bại hai cánh viện binh, sau đó lại chiếm lấy Đồn Lưu, Trưởng Tử khiến tướng giữ Thượng Đảng là Bàng Thuần cùng kế phải đầu hàng. Quận Thượng Đảng chỉ còn thành Tương Viên giữ được, Lưu Côn sai bộ tướng Trương Ỷ đến trấn thủ. Tháng 8 năm 309, Lưu Uyên tấn công Lạc Dương. Quân Tấn nhân lúc Uyên vừa thắng trận, chủ quan khinh địch, bất ngờ đánh úp khiến Uyên bị thua to, phải rút chạy. Tháng 10 năm đó, Uyên cùng các tướng Lưu Thông, Vương Di, Lưu Cảnh tấn công Lạc Dương lần thứ hai. Quân Tấn chống trả quyết liệt, giết chết 3 tướng Hô Diên Yến, Hô Diên Hạo, Hô Diên Lãng, lại chặn đường tiếp lương từ huyện Thiểm khiến quân Hán Triệu thiếu lương. Uyên phải rút quân về Bình Dương. A.4.3 Lạc Dương thất thủ: Năm 310, Lưu Uyên chết, con thứ Lưu Thông giết anh là Lưu Hòa lên ngôi, tức Vũ Đế. Đầu năm 310, tướng Hán Triệu là Vương Di sai bộ tướng Tào Nghi đánh chiếm Đông Bình[11] và tấn công Lang Nha; Thạch Lặc mang quân hợp với Di đánh 3 châu Từ, Duyện, Dự, chiếm được Yên Thành[12], giết Thứ sử Duyện Châu nhà Tấn là Viên Phu, sau đó đánh chiếm các quận thuộc Ký Châu. Khi đó phần lớn đất đai phía đông Lạc Dương đã bị mất, Thứ sử Thanh Châu Tuân Hi và Thứ sử Dự Châu Phùng Tổng có thực lực nhưng vì bất hòa với Tư Mã Việt nên không phát binh cứu. Trong lúc đó, Tư Mã Việt lại phạm sai lầm khác. Lưu dân Ung Châu đang ở Nam Dương, Việt hạ lệnh cho dân phải về quê. Lưu dân vì Quan Trung đã bị tàn phá không muốn về, Việt sai quân áp giải ép phải đi. Do đó lưu dân theo Vương Như làm loạn, đánh phá các huyện quanh Lạc Dương khiến nhà Tấn càng nguy khốn, bốn mặt phải thụ địch[13]. Tháng 10 năm 310, các tướng Hán Triệu là Lưu Diệu, Lưu Xán (con Lưu Thông), Vương Di, Thạch Lặc chia đường cùng nhau tấn công Lạc Dương lần thứ ba. Trong thành lại thiếu lương, tình hình rất nguy cấp. Nhưng nội bộ nhà Tấn vẫn bị chia rẽ. Tư Mã Việt chuyên quyền, giết các tâm phúc của Tấn Hoài Đế khiến vua tôi càng mâu thuẫn. Lưu Côn ở Tinh Châu muốn mượn quân Tiên Ty của Thác Bạt Y Lư vào đánh Hung Nô nhưng Tư Mã Việt không nghe, vì sợ các địch thủ Tuân Hi, Phùng Tổng cũng đang trấn thủ phía bắc sẽ thừa cơ cùng tràn vào. Hoài Đế sai người đi cầu cứu, chỉ có Sơn Giản[14] ở Tương Dương và Vương Trừng ở Kinh Châu muốn phát binh, nhưng hai cánh quân này lại bị quân của Vương Như (lưu dân Ung Châu) chặn đánh nên phải rút về cố thủ. Tháng 11 năm 310, Tư Mã Việt thấy Lạc Dương nguy cấp không thể giữ nổi, bèn mang 4 vạn quân sang Hứa Xương, bỏ lại Hoài Đế. Vương Diễn ở lại Lạc Dương không khống chế được tình hình hỗn loạn. Tháng 3 năm 311, Hoài Đế tức giận viết thư lên Thanh Châu sai Tuân Hi đánh Việt. Việt ở Hứa Xương đang thấy Thạch Lặc đến gần, lại bắt được thư của Hoài Đế gửi cho Tuân Hi, căm giận thành bệnh mà chết. Tư đồ Vương Diễn mang xác Việt ra ngoài chôn cất, bị Thạch Lặc chặn đánh, giết chết mấy vạn quân Tấn. Thạch Lặc bắt được Vương Diễn và quan tài của Tư Mã Việt. Lặc giết Diễn rồi băm xác Việt. Tuân Hi nhân lúc quân Hán Triệu đi đánh Việt, nới lỏng vòng vây bèn sai người mang xe đến Lạc Dương đón Hoài Đế. Nhưng các đại thần tiếc gia tài nên lần lữa không đi. Sứ của Tuân Hi phải trở về. Mãi sau, liệu tình hình không thể ở được, Hoài Đế đành tự đi bộ với vài chục quan viên, ra ngoài thành Lạc Dương bị lưu dân chặn đường trấn lột hết đồ mang theo, buộc phải quay trở lại[15]. Thạch Lặc cùng Vương Di, Hô Diên Yến biết Lạc Dương đã rất rệu rã, mang quân quay trở lại, ồ ạt tấn công lần thứ tư. Ngày 11 tháng 6, quân Hán Triệu phá được cửa Nam, kéo vào thành, giết 3 vạn quân dân nhà Tấn, bắt sống Hoài Đế và Dương Hoàng hậu thứ hai của Tấn Huệ Đế. Kinh thành Lạc Dương bị cướp bóc và tàn phá. A.4.4 Trường An thất thủ Vua Tấn bị bắt nhưng vẫn không ai lập vua thay để có chính lệnh điều khiển thiên hạ cứu vãn tình thế. Tuân Hi nắm được Dự Chương Vương Tư Mã Đoan (cháu Hoài Đế), đang định đưa lên ngôi. Tháng 8 năm 311, tướng Hán là Lưu Xán và Lưu Diệu (con nuôi Lưu Uyên) đánh chiếm Trường An, bắt giết Nam Dương Vương Tư Mã Mô. Sang tháng sau, Thạch Lặc đánh chiếm Mông Thành, bắt sống Tuân Hi và Tư Mã Đoan. Khi Lạc Dương thất thủ, một người cháu Hoài Đế là Tần Vương Tư Mã Nghiệp chạy về huyện Mật, gặp cậu là Tư không Tuân Phiên. Vừa lúc đó Thứ sử Dự Châu Diêm Đỉnh mộ được vài ngàn quân ở đó, bèn cùng hợp binh cố thủ. Các tướng Quan Trung là Sách Lâm, Giả Thất dấy binh khôi phục nhà Tấn, được dân Quan Trung hưởng ứng, mang quân bao vây Trường An. Lưu Diệu và Lưu Xán thua trận, phải cố thủ. Tới tháng 4 năm 312, Giả Thất chiếm được Trường An, hai tướng Hán phải bỏ chạy về Bình Dương. Giả Thất sai người đi đón Tư Mã Nghiệp về Ung Thành rồi rước về Trường An. Tháng 9 năm 312, Nghiệp được tôn làm Thái tử. Nhưng khi quân địch rút lui, các tướng Tấn là Giả Thất, Sách Lâm và Diêm Đỉnh lại tranh giành quyền bính. Tháng 12 năm đó, Giả Thất giao chiến với tướng Hán là Bành Thiên Hộ tử trận. Quân Hán rút đi, Diêm Đỉnh giết Lương Tổng; Sách Lâm và Cúc Doãn lại mang quân đánh và giết chết Diêm Đỉnh. Năm 313, Tấn Hoài Đế bị Lưu Thông giết ở Bình Dương. Sách Lâm tôn Tư Mã Nghiệp lên ngôi, tức Tấn Mẫn Đế (313-316). Mẫn Đế viết chiếu, triệu các trấn cần vương đánh Hung Nô: Vương Tuấn ở U Châu, Lưu Côn ở Tinh Châu, Tư Mã Bảo (con Tư Mã Mô) ở Thượng Khuê, Tư Mã Tuấn ở Giang Nam. Tuy nhiên Vương Tuấn chỉ lo cát cứ phát triển thế lực riêng, Lưu Côn không đủ thực lực vốn phải dựa vào các bộ lạc người Tiên Ty mới đứng được ở Tinh Châu, Tư Mã Tuấn muốn yên ổn ở Giang Nam, lấy cớ đánh dẹp quân phiến loạn Đỗ Thao nên không phát binh; còn Tư Mã Bảo rất yếu không có khả năng đương đầu với quân Hán. Sách Lâm và Cúc Doãn ở Trường An phải đơn độc chiến đấu với quân Hung Nô. Dù quân Tấn vài lần đánh lui được địch nhưng ngày càng hao mòn, lại không được tiếp viện nên không thể giữ lâu. Tháng 8 năm 316, Lưu Diệu tấn công Trường An lần nữa. Thành ngoài bị mất nước, Sách Lâm phải lui vào thành nhỏ. Trong thành giá 1 đấu gạo lên tới 2 lượng vàng, người trong thành giết nhau để ăn. Mẫn Đế cùng đường, bèn bàn với Cúc Doãn "nhẫn nhục ra hàng, để cứu sĩ dân". Sách Lâm mưu tính việc riêng, sai người ra nói với Lưu Diệu rằng trong thành đủ lương, nhưng nếu Lâm được phong chức lớn thì Lâm sẽ hàng. Lưu Diệu cự tuyệt. Ngày 11 tháng 11 năm đó, Mẫn Đế mang ngọc tỉ truyền quốc ra hàng, bị giải về Bình Dương, phong làm Hoài An Hầu. Cúc Doãn tự vẫn trong ngục, Sách Lâm bất trung nên bị Lưu Thông giết chết. Nhà Tây Tấn diệt vong, tồn tại được 52 năm, có tất cả 4 vua. Hơn 1 năm sau, Mẫn Đế bị Lưu Thông giết ở Bình Dương khi mới 18 tuổi. B. Nhà Đông Tấn và Ngũ Hồ loạn Hoa (Hay còn gọi là Ngũ Hồ Thập Lục Quốc): Quá trình thành lập: Đường lối chính trị và kinh tế: Biến loạn Vương Đôn và Tô Tuấn Đối phó với Ngũ Hồ: Tổ Địch Bắc phạt Thụ động phòng ngự Dữu thị Bắc phạt Hoàn Ôn Bắc phạt Trận Phì Thủy, Tạ Huyền đẩy lui Tiền Tần Suy yếu loạn lạc Diệt vong C. BẢN KỶ: C.1 Bát Vương Chi Loạn Chiến Kí Cuộc chiến trong cung đình Hoàng đế ngây ngô Tấn Vũ Đế sau khi đánh chiếm nước Ngô, thống nhất Trung Quốc có ý hưởng lạc. Việc triều chính dựa vào hai đại thần Giả Sung và Vệ Quán là hai người từng theo giúp Tư Mã Chiêu cuối thời Nguỵ trước kia. Sau khi Dương thị được lập làm hoàng hậu, Vũ Đế cất nhắc cha Dương hậu là Dương Tuấn làm đại thần. Tấn Vũ Đế có con cả Tư Mã Trung vốn là người đần độn. Vũ Đế muốn chọn con gái Vệ Quán cho Trung nhưng lại nghe Dương hậu khuyên nên lấy con gái Giả Sung là Giả Nam Phong làm con dâu. Trước khi lấy Giả thị, Trung đã sinh được con trai là Tư Mã Duật, con cung nhân Tạ thị. Vũ Đế sắp qua đời, lo lắng vì thái tử Trung đần độn. Vệ Quán từng khuyên thay thái tử nhưng Vũ Đế không nghe vì thấy cháu là Duật có tư chất thông minh, hy vọng cháu có thể giúp được con. Năm 290, Tấn Vũ đế mất, Tư Mã Trung lên thay, tức Tấn Huệ đế, Giả thị được làm hoàng hậu. Cha Dương thái hậu là Dương Tuấn, tức ông ngoại Huệ đế, làm phụ chính. Huệ đế lúc đó đã 32 tuổi nhưng vẫn ngờ nghệch. Sử chép lại một số câu chuyện về hoàng đế ngây ngô này. Khi nghe ếch kêu, Huệ đế hỏi thị thần: Ếch nó kêu vì việc công hay vì việc tư đấy? Lúc nghe tin dân bị đói, đến gạo cũng không còn để ăn, Huệ đế lại buột miệng hỏi: Dân không có gạo ăn, sao không ăn thịt? Tư Mã Vĩ, Tư Mã Lượng Giả hậu hơn Huệ đế 2 tuổi, thấy vua ngây ngô, muốn đoạt quyền. Nhân các vương họ Tư Mã bất bình vì ngoại thích Dương Tuấn nắm quyền, Giả hậu bèn cùng Đông An công Tư Mã Do và Nhữ Nam vương Tư Mã Lượng (con thứ tư của Tư Mã Ý, vào hàng chú Tấn Vũ đế, ông Tấn Huệ đế) bàn mưu kết tội Dương Tuấn chuyên quyền. Năm 292, Do và Lượng làm binh biến bắt giết cả nhà Dương Tuấn. Dương thái hậu là con Tuấn cũng bị kết tội, bị phế. Vợ Dương Tuấn, mẹ Dương thái hậu là Bàng thị cũng bị hành hình, dù Dương thái hậu nhẫn nhục viết thư xưng làm thần dân để mẹ được tha cũng không kết quả. Sau đó chính Dương thái hậu cũng bị kết tội chết. Huệ đế ngơ ngác ngồi nhìn ông ngoại, bà ngoại và mẹ bị vợ hành hình. Giết được Dương Tuấn, Tư Mã Lượng và Tư Mã Do cầm quyền trong triều. Dần dần hai người sinh mâu thuẫn. Lượng sai người dèm pha Do với Giả hậu, Giả hậu bèn cách chức Do. Lượng tiến cử Sở vương Tư Mã Vĩ (con thứ 5 của Vũ đế, tức là em Huệ đế) cùng lão thần Vệ Quán thay chức của Do. Sau một thời gian, chính Vĩ lại lấn át quyền của Lượng. Lượng tức giận bàn mưu với Vệ Quán trừ Vĩ, nhưng việc bại lộ. Vĩ nói vu với Giả hậu rằng Quán và Lượng mưu phế Giả hậu. Giả hậu tức giận bèn sai Vĩ vây bắt, giết chết cả nhà Vệ Quán và Tư Mã Lượng. Sau Giả hậu mới biết Lượng bị vu cáo, lại thấy Vĩ chuyên quyền nên ghét Vĩ, lại thương Lượng và Vệ Quán bị oan. Nghe lời Trương Hoa, Huệ đế và Giả hậu sai tướng Vương Cung phục binh bắt giết Vĩ tại triều. Phế Thái tử Tư Mã Duật Giả Hậu dâm tà, thường bắt con trai ngoài Kinh thành vào cung để tư thông[2], việc đồn cả ra ngoài nhưng Huệ Đế ngô ngọng không hay biết. Giả Hậu không có con mà Thái tử Duật, con Tạ thị, đã lớn, lại đã sinh được 3 người con trai. Mẹ Giả Hậu, vợ Giả Sung là Quách Hòe khuyên Giả Hậu nuôi Duật làm con để giữ ngôi, nhưng Giả Hậu không nghe. Quách Hòe lại khuyên Giả Hậu lấy con gái lớn của Tư đồ Vương Diễn cho Thái tử Duật để lấy lòng, nhưng Giả hậu lại lấy cô chị xinh đẹp cho em mình Giả Thụy, lấy cô em Vương Huệ Phong xấu xí cho Thái tử Duật. Thái tử biết chuyện nên căm ghét Giả Hậu. Năm 300, Giả Thụy xui Giả Hậu hại Thái tử bằng cách sai người dụ uống rượu say rồi lừa viết bức thư phản nghịch. Giả Hậu mang thư cho Huệ Đế xem để có cớ bỏ Thái tử. Vua nghe theo, bèn phế Tư Mã Duật, sai mang ra thành Kim Dung an trí, bất chấp lời can ngăn. Mẹ Thái tử là Tạ Phi cũng bị tống giam và tra tấn tới chết. Tư Mã Luân cướp ngôi Các đại thần Sĩ Ỷ và Tư Mã Nhã muốn phục ngôi Thái tử, bèn nhờ cậy Triệu Vương Tư Mã Luân. Luân là con thứ 9 Tư Mã Ý, so với Huệ Đế vào hàng ông, với Tư Mã Duật vào hàng cụ. Nhưng Luân lại là kẻ gian hùng, sợ Thái tử Duật là người thông minh, sau khi được phục ngôi thì khó chế ngự. Cho nên nghe theo lời mưu sĩ Tôn Tú, Luân phao tin rằng triều thần muốn phục ngôi Thái tử để phế Giả Hậu. Giả Hậu sợ hãi, quyết giết Tư Mã Duật để tuyệt lòng mong đợi của triều thần, bèn sai người hạ sát Thái tử Duật ở nơi giam cầm. Lúc đó Tư Mã Luân mới ra mặt, lấy cớ trị tội Giả Hậu để khởi binh. Luân hợp sức với Tề Vương Tư Mã Quýnh, cháu Vũ Đế. Quýnh là con Tư Mã Du – em ruột Vũ Đế, được nối cha làm Tề Vương. Hai người phao tin Đông An Vương Tư Mã Do bị cách chức trước kia oán hận làm phản nên cầm quân đi dẹp, rồi cùng nhau mang quân vào cung bắt sống Giả Hậu, giết hết phe cánh. Giả Hậu đến lượt bị giam ở thành Kim Dung. Huệ Đế theo lời Tôn Tú, lập con gái đại thần Dương Lục là Dương thị làm Hoàng hậu. Sau đó Tư Mã Luân sai người đến thành Kim Dung giết Giả Hậu. Huệ Đế phong con cả Thái tử Duật là Hoài Lâm Vương Tư Mã Tân làm Hoàng thái tôn. Hoài Nam Vương Tư Mã Doãn bị Luân tranh quyền trong triều, mang quân đánh Luân trong cung, cuối cùng bị Luân giết chết. Năm 301, Tư Mã Luân theo kế Tôn Tú, phế truất Tấn Huệ Đế giành ngôi, an trí Huệ Đế ra thành Kim Dung. Tề Vương Tư Mã Quýnh vốn có công cùng Luân phế Giả Hậu chỉ được ban chức nhỏ, có ý oán hận, nhân dịp Luân cướp ngôi, bèn sai người cầm hịch triệu tập một loạt vương thất tham chiến để trừ bỏ Luân. Từ lúc đó Loạn tám vương không còn là cuộc đấu riêng lẻ của từng cặp vương thất trong cung đình mà mở rộng với phạm vi to lớn. Chiến trường lan rộng Hợp binh đánh Triệu Vương Luân Tư Mã Quýnh phát hịch triệu tập Hà Gian Vương Ngung, Thành Đô Vương Dĩnh, Thường Sơn Vương Nghệ, Tân Dã Công Hâm cùng đánh Tư Mã Luân cướp ngôi. Tháng 4 năm 301, Tề Vương Quýnh hợp binh với các vương công, được hơn 50 vạn người, thanh thế rất lớn. Tư Mã Luân có hơn 20 vạn quân, chia đường chống lại nhưng không nổi. Quân của Luân nhanh chóng tan rã thua trận. Tề Vương Quýnh cùng các vương công tiến vào kinh, bắt Luân và phe cánh Tôn Tú rồi sai người tới thành Kim Dung rước Huệ Đế về cung, lập lại làm vua. Tư Mã Luân cướp ngôi chỉ được 3 tháng, đến lượt bị giam ở thành Kim Dung, sau đó bị buộc tự vẫn. Các vương có công phục ngôi đều được thăng chức, Thường Sơn Vương Nghệ được đổi làm Trường Sa Vương. Thái tôn Tư Mã Tân chết, Huệ Đế lập người con khác là Tư Mã Đàm làm Thái tử. Tư Mã Quýnh một mình cầm quyền, lại có ý chuyên quyền lấn vua, rồi chơi bời không lo chính sự. Tư Mã Ngung, Tư Mã Dĩnh đều ghen tức có ý trừ đi. Nghe lời mưu sĩ, Tư Mã Ngung gian hùng viết thư sai Tư Mã Nghệ đánh Quýnh, để mượn tay Quýnh giết Nghệ, lúc đó sẽ có cớ cùng Dĩnh hợp binh đánh Quýnh, rồi phế Huệ Đế mà dựng Dĩnh làm vua. Tam vương hỗn chiến Nhưng Tư Mã Nghệ không phải là người tầm thường. Tháng 12 năm 302, Nghệ tự tay cầm quân giết được Tư Mã Quýnh và nắm quyền trong triều. Ngung và Dĩnh thấy mưu sự bất thành vì quyền lại rơi vào tay Tư Mã Nghệ, có ý tức giận. Năm 303, hai người bèn ra ngoài hợp binh làm phản, kéo về đánh Kinh thành để giết Nghĩa và phế Huệ Đế. Hai bên đánh nhau ác liệt, giằng co nhiều trận. Sau cùng Nghệ yếu thế, bị tướng của Ngung là Trương Phương vây hãm. Theo kế Tổ Địch, Nghệ sai người mang thư tới Thứ sử Ung Châu Lưu Trầm, sai Trầm đánh vào Trường An là sào huyệt của Hà Gian Vương Ngung. Giữa lúc Trương Phương vây đánh lâu ngày núng thế không hạ được, định rút lui thì trong Kinh thành có biến. Đông Hải Vương Tư Mã Việt đố kỵ Tư Mã Nghệ, nói loan lên rằng Ngung và Vĩnh đánh thành không phải vì muốn hại Huệ Đế mà vì muốn giết Nghệ. Do đó trong thành theo lời Việt, bắt trói Nghệ. Huệ Đế bất lực không cứu được trung thần. Nghệ bị mang về giam ở thành Kim Dung rồi bị Trương Phương giết. Các quan ra ngoài, thấy quân vây thành của Trương Phương yếu ớt không đáng sợ, mới ân hận vì đã nghe lời Việt mà hại Nghệ. Từ đó Tư Mã Việt lại nắm quyền trong triều. Thứ sử Ung Châu là Lưu Trầm theo lệnh Huệ Đế mang quân đánh Trường An bị thua trận, bị quân Tư Mã Ngung bắt được và bị giết. Ngung và Dĩnh mang quân vào kinh, ép Huệ Đế phế bỏ Dương Hậu và Thái tử Đàm, lập Dĩnh làm Hoàng thái đệ. Dĩnh được làm Thái đệ sinh kiêu căng. Tư Mã Việt tức giận mang quân đánh Dĩnh. Dĩnh thua chạy về Nghiệp Thành. Việt phục ngôi cho Dương Hậu và Thái tử. Việt nhân đà thắng trận phát hịch đi các trấn triệu tập, lại mang Huệ Đế thân chinh cùng đánh Nghiệp Thành để tận diệt Thành Đô Vương Dĩnh. Việt chủ quan, tưởng quân Dĩnh tan rã, bị Dĩnh đánh úp, thua chạy tơi tả, trốn về đất phong là quận Đông Hải. Huệ Đế bị Tư Mã Dĩnh bắt được, cầm giữ ở Nghiệp Thành, tướng Trần Mạch chạy về Lạc Dương lao động đường phố Thái tử Đàm. Tình hình vô cùng hỗn loạn. Châm lửa cho loạn Ngũ Hồ Việt thua trận, bèn mời Đô đốc U Châu Vương Tuấn và Thứ sử Kinh Châu Tư Mã Đằng mang quân đánh Tư Mã Dĩnh. Tuấn vốn có hiềm khích với Dĩnh nên sai người liên hợp với các bộ tộc Ô Hoàn, Tiên Ty cùng đánh Dĩnh. Dĩnh bí thế, bèn triệu tướng Hung Nô Lưu Uyên tới giúp sức, phong Uyên làm Bắc Thiền vu. Khi nội bộ mâu thuẫn, Dĩnh giết Đông An Vương Tư Mã Do. Anh Do là Lang Nha Vương Tư Mã Tuấn sợ liên lụy, bèn cùng văn thần Vương Đạo bỏ trốn về quận Lang Nha. Sau này Tuấn trở thành người lập ra nhà Đông Tấn và Vương Đạo là đại thần Đông Tấn. Không ngờ Lưu Uyên được chức tự ý phát triển lực lượng riêng, được 20 vạn quân. Năm 304, Uyên tự xưng vương, lập ra nhà Hán. Dĩnh bị Vương Tuấn và Tư Mã Đằng vây ngặt, bèn phá vây chạy về Lạc Dương. Dĩnh lại bỏ Dương Hậu và Thái tử, tự xưng Hoàng thái đệ như trước. Vương Tuấn tiến vào chiếm giữ Nghiệp Thành. Hà Gian Vương Ngung ở Trường An, nghe tin Huệ Đế về Lạc Dương, bèn sai bộ tướng Trương Phương mang quân vào Lạc Dương lấy danh nghĩa cứu giá. Phương thấy Lạc Dương bị tàn phá, không đủ lương, bèn ép mang Vua về theo Tư Mã Ngung ở Trường An. Kho tàng châu báu từ thời nhà Ngụy (Tam Quốc) tới đó bị quân Phương tranh cướp lấy hết. Tháng 11 năm 304, Huệ Đế tới Trường An, quyền thế lọt vào tay Tư Mã Ngung và Trương Phương. Tháng 12, Ngung lấy chiếu vua phế ngôi Hoàng thái đệ của Dĩnh, lập Dự Chương Vương Tư Mã Xí làm Hoàng thái đệ. Lưu Uyên lấy danh nghĩa giúp Tư Mã Dĩnh đánh nhau với Vương Tuấn - người mang danh nghĩa giúp Tư Mã Việt, nhưng cả hai chỉ lo tranh giành đất đai phía bắc, không ngó tới tình hình ở Trường An. Ngung - Việt giao phong Tư Mã Việt thấy Ngung chuyên quyền, liền hợp binh với Đông Bình Vương Tư Mã Lâm, Phạm Dương Vương Tư Mã Hổ đánh Ngung. Trong khi đó, phe Tư Mã Dĩnh thấy Dĩnh bị truất ngôi Hoàng thái đệ, bộ tướng Công Sư Phiên cũng khởi binh làm loạn. Tư Mã Việt sai Tuân Hi đi đánh không dẹp được. Cùng lúc đó, Việt lôi kéo được Lưu Dư, lại muốn tận dụng binh lực của Thứ sử Dự Châu Lưu Kiều nhưng Kiều không nghe lệnh, chống lại Việt và theo phe Ngung. Tình hình thêm rối ren, Triều đình Trường An không thể khống chế được, Tư Mã Ngung đành dùng lệnh Huệ Đế phục chức cho Tư Mã Dĩnh ở Nghiệp Thành để đốc việc quân Hà Bắc. Từ bấy giờ hình thành 2 tuyến: Tư Mã Ngung – Tư Mã Dĩnh có Lưu Kiều giúp; Tư Mã Việt – Tư Mã Hổ có Lưu Dư giúp. Việt đóng ở Tiêu Viện, chia quân cho Hổ và Dư đóng ở Hứa Xương. Tháng 12 năm 305, Tư Mã Dĩnh nhân Lạc Dương bỏ trống, bèn từ Nghiệp Thành vào chiếm Lạc Dương. Trong khi đó, Tư Mã Ngung sai bộ tướng Trương Phương hợp binh với Lưu Kiều đánh Hứa Xương. Tư Mã Hổ và Lưu Dư thua chạy, hợp với tướng Lưu Côn về nương náu Thứ sử Ký Châu Ôn Tiễn. Lưu Côn lại sai người liên minh với Thứ sử U Châu Vương Tuấn, sai Tuấn đánh phe Ngung-Dĩnh. Tuấn trước giao phong với Lưu Uyên, nay mang quân đánh Vinh Dương, giết bộ tướng của Dĩnh là Thạch Siêu rồi tiến đánh Lạc Dương. Tư Mã Dĩnh thất thế bỏ thành Lạc Dương chạy về Trường An với Ngung. Tư Mã Việt thấy phe mình thắng thế, bèn tiến binh giết được con Lưu Kiều (phe Ngung) là Lưu Hựu. Kiều thua chạy về Trường An. Quân Ngung thua bại không còn đủ sức chống cự. Việt ra điều kiện với Ngung phải trả lại Huệ Đế về Lạc Dương mới bãi binh. Ngung đang bại trận, muốn nghe theo nhưng sợ bộ tướng Trương Phương hung hãn, bèn lập mưu ám sát Phương, nộp đầu cho Việt. Tháng 6 năm 306, Việt sai Kỳ Hoằng tới Trường An lấy Huệ Đế khỏi tay Ngung, mang về Lạc Dương, phục ngôi cho Dương Hậu. Hết thời oanh liệt Trong khi Huệ Đế rời Trường An thì Tư Mã Dĩnh đang đi (từ Lạc Dương) chưa tới Trường An. Một số bộ tướng cũ của Dĩnh muốn dựng Dĩnh làm vua nhưng bị Tư Mã Hổ dẹp tan. Dĩnh chỉ còn trơ trọi ở Tân Hội. Tháng 9 năm 306, Phạm Dương Vương Hổ chết. Bộ tướng Lưu Dư sợ Dĩnh gây hậu họa, bèn sai người đánh thuốc độc giết chết Dĩnh. Tháng 11 năm 306, Tư Mã Việt đầu độc giết Huệ Đế, lập Hoàng thái đệ Tư Mã Xí – con thứ 25 Tấn Vũ Đế, em út Huệ Đế - lên ngôi, tức là Tấn Hoài Đế. Lại sợ Ngung sinh biến, Việt dùng lệnh Hoài Đế hạ chiếu mời Ngung về triều làm Tư đồ. Ngung nghe lệnh rời Trường An về triều. Nam Dương Vương Tư Mã Mô ở Hứa Xương có thù với Ngung, sợ Ngung có quyền trong triều sẽ hại mình, bèn mang quân đón đường giết chết Ngung. Vì Ngung có nhiều tội nên Triều đình cũng không bắt tội Mô giết Ngung. Sau các biến cố liên tiếp, mấy vương đồng loạt rời khỏi chính trường. Tư Mã Việt trở thành người nắm chính trường, làm chức Thái phó điều hành triều đình. Loạn bát vương chấm dứt. C.II Ngũ Hồ Loạn Hoa - Thập Lục Quốc Chiến Kí Đã qua rồi cái thời Vệ Thanh, Hoắc Khứ Bệnh dẫn quân vào sâu sa mạc đánh đuổi Hung Nô. Đã hết rồi cái thời Phục Ba tướng quân Mã Viện hiên ngang rút gương tự sát giữa sa trường, Lý Lăng chịu nhục hàng Hung Nô để mưu sự báo thù. Sự chấm dứt nhà Đông Hán cũng đồng nghĩa với việc kết thúc thời kỳ dài Hán - Hồ giao hão, người Hồ cũng được xem như Hán tộc. Kể từ đây các tộc Hồ xâm lấn Trung Nguyên, gây ra vô số cuộc chiến tranh chinh phạt, cai trị Hán tộc ở Bắc và Nam Hoàng Hà, thượng lưu sông Trường Giang. Đại bộ phận Hán tộc lùi về sau nam Trường Giang, yên phận với nữa mãnh giang sơn. Dẫu cho một số tướng soái quyết tâm Bắc phạt thu phục Trung Nguyên như Tổ Địch, Lưu Côn, Hoàn Ôn, Tư Mã Đạo Tử ...vv tiếp sau này là các tướng Nam Tống như Nhạc Phi, Hàn Thế Trung ..vv, nhưng đại bộ phận Hoàng tộc và quý sĩ tộc phương nam đều an phận thủ thường cho đến khi bị diệt vong hoàn toàn bởi nhà Nguyên. Đó cũng là thời kỳ đầu tiên mà Hán tộc hoàn toàn bị khuất phục bởi tộc người khác mà hơn thế kỷ trước vẫn xem họ là man rợ với những cái tên: Rợ, Nhung, Địch, Man. II.1 Thành lập nhà Hán Triệu Loạn bát vương chấm dứt nhưng chính quyền nhà Tấn đã rất suy yếu. Trong loạn bát vương, Thành Đô Vương Tử Mã Dĩnh dựa vào Lưu Uyên người Hung Nô. Lưu Uyên tự xưng là con cháu nhà Hán cũ, khi Tư Mã Dĩnh chết tự lập làm vua Hán Triệu tộc Hung Nô, tận dụng cuộc hỗn chiến của họ Tư Mã để khuếch trương thế lực, ngang nhiên chống nhà Tấn mà nhà Tấn không đủ sức dẹp. Bộ tướng của Tư Mã Dĩnh là Công Sư Phiên lại khởi binh báo thù cho chủ. Phiên chết, bộ tướng Ngập Tân và Thạch Lặc vẫn không chịu bãi binh, mang quân đánh chiếm Nghiệp Thành, giết Tân Thái Vương Tư Mã Đằng. Tư Mã Việt sai Tuân Hi mang quân đánh chiếm lại được Nghiệp Thành. Thạch Lặc thua chạy về hàng Lưu Uyên. Năm 310 Uyên chết, con là Lưu Thông lên thay. Quân Hán Triệu mạnh lên, đánh chiếm các quận huyện nhà Tấn. II.2 Thành lập nhà Thành Hán Trước khi Lưu Uyên nổi dậy, năm 303, người tộc Tung là Lý Đặc, Lý Hùng ở Tây Thục đã nổi lên chống Tấn. Sau khi Lý Đặc bị quân Tấn giết, Lý Hùng kế tục, tỏ ra là tướng có tài, đánh chiếm Tây Xuyên mà nhà Tấn không còn khả năng quản lý, lập ra nước Thành, sử gọi là Thành Hán. Tháng 11 năm 306, Tư Mã Việt giết Huệ Đế Tư Mã Trung, lập Hoài Đế Tư Mã Xí lên thay. Nhà Tấn không dẹp nổi sự làm loạn của các ngoại tộc người Hồ tràn lan khắp trung nguyên. Trong triều Tấn tiếp tục lục đục. Hoài đế ghét Tư Mã Việt chuyên quyền, bèn sai Tuân Hi đánh Việt. Hi oán Việt dời chức của mình, bèn bắt giết phe cánh của Việt. Việt không làm gì được, già yếu thành bệnh rồi chết (tháng 4 năm 311). Tư đồ Vương Diễn mang xác Việt ra ngoài chôn cất, bị tướng của Lưu Thông là Thạch Lặc chặn đánh, giết chết mấy vạn quân Tấn. Thạch Lặc bắt được Vương Diễn và quan tài Tư Mã Việt. Lặc giết Diễn rồi băm xác Việt. Năm 310, Lưu Uyên chết, con là Vũ Đế Lưu Thông lên thay. Năm 311, Thông tấn công kinh thành Lạc Dương, bắt sống Tấn Hoài Đế và nhiều triều thần nhà Tấn. Trong cuộc tấn công của Lưu Thông, quân Tấn thất bại nhanh chóng do không đủ mạnh và các sứ quân nhà Tấn đều chỉ nhân loạn lạc để phát triển cơ đồ riêng, không có bụng cứu vua. Vua Tấn bị bắt nhưng vẫn không ai lập vua thay để có chính lệnh điều khiển “thiên hạ” cứu vãn tình thế. Mãi tới năm 313, nghe tin Hoài đế bị Lưu Thông giết hại, một bộ phận triều thần lập Tư Mã Nghiệp lên nối ngôi ở Tràng An, tức là Tấn Mẫn Đế. Tuy nhiên chính thể của Mẫn Đế cũng đã rất suy yếu, chỉ cai quản một góc Tràng An. Năm 316, Lưu Thông lại điều quân dễ dàng đánh chiếm Tràng An bắt sống Mẫn Đế. Tấn Mẫn Đế làm tù binh rồi bị Lưu Thông giết chết. Nhà Tây Tấn diệt vong. II.3 Thành lập nhà Đông Tấn Một quý tộc nhà Tấn là Lang Nha vương Tư Mã Tuấn (hay Duệ - cháu nội Tấn Vũ Đế) tập hợp lực lượng ở Giang Đông, tự xưng làm vua, tức là Tấn Nguyên Đế, trở thành người kế tục Tấn Mẫn Đế. Do nhà Tấn của Tư Mã Tuấn đóng đô ở Kiến Khang, phía đông so với nhà Tấn của Tư Mã Viêm nên sử gọi là nhà Đông Tấn (317-420). Ngũ Hồ hỗn chiến [sửa] Tiền Triệu - Hậu Triệu Một bộ tướng của cha con Lưu Uyên - Lưu Thông là Thạch Lặc, người tộc Yết, trong quá trình giúp Hán Triệu diệt nhà Tấn, đã tranh thủ phát triển thế lực riêng. Sau khi diệt được Tây Tấn, Lưu Thông không chú tâm đến chính sự, chỉ chơi bời hưởng lạc. Việc triều đình bị Lặc Chuẩn thao túng. Năm 318, Thông quá ham tửu sắc mà chết, con là Lưu Xán lên thay. Lặc Chuẩn nắm quyền lấn át Xán, lộng hành phế truất giết Xán, tàn sát con cháu Lưu Uyên và Lưu Thông. Một người con nuôi của Lưu Uyên là Lưu Địch (hay Diệu) đang cầm quân ngoài mặt trận, kéo về kinh đô Bình Dương (Sơn Tây) diệt Lặc Chuẩn. Lưu Địch được một số lớn đại thần ủng hộ đưa lên ngôi đế, đặt quốc hiệu là Triệu, còn gọi là Tiền Triệu. Lúc đó các tộc Hồ tràn xuống trung nguyên rất nhiều. Lưu Địch lên ngôi, bình định dẹp hết sự phản kháng của các dân tộc thiểu số như Chi, Khương, Ba, Yết. Để củng cố quyền thống trị, ông chia rẽ tộc Hồ và Hán và lợi dụng một số phần tử thượng tầng dân tộc để cai trị dân tộc ấy. Thành lập nhà Hậu Triệu - Hậu Triệu tiêu diệt Hán Triệu Cùng lúc Lưu Địch diệt Lặc Chuẩn, tướng Thạch Lặc cầm quân ở ngoài cũng ra mặt xưng vương, ly khai Tiền Triệu, cũng đặt tên nước là Triệu, sử gọi là Hậu Triệu. Vì giới thống trị chính trị thối nát, nội bộ Tiền Triệu mâu thuẫn gay gắt, cơ bản quốc gia hoàn toàn bất ổn. Năm 329, Lưu Địch bị Thạch Lặc đánh bại, bắt sống và giết chết. Nước Hán Triệu mất. Hán Triệu diệt vong. Tiền Lương - Tiền Yên - Bắc Đại Thành lập Tiền Lương Trong khi Ngũ Hồ xâu xé đất đai trung nguyên, một tướng vùng biên phía Tây của nhà Tây Tấn là Trương Quỹ coi giữ Lương Châu, không hàng phục các chính quyền Ngũ Hồ, tự giữ bờ cõi cai trị và vẫn dùng niên hiệu nhà Tấn. Tới khi trung nguyên cơ bản mất về tay Ngũ Hồ, ông tự lập làm Lương Vương, lập ra nước Tiền Lương, định kỳ vẫn sai người đi sứ tới Kiến Khang xin lệnh nhà Đông Tấn. Dòng họ Trương Quỹ cai trị Tây Lương rất được lòng dân, truyền được 9 đời kéo dài hơn 70 năm, một thời gian dài trong số 16 nước thời đó. Thành lập Bắc Đại - Tiền thân của Bắc Ngụy Trong khi đó tại vùng phía bắc và đông bắc có đông người Tiên Ty sinh sống, trong đó có họ tộc Mộ Dung và họ Thác Bạt lớn mạnh. Họ Thác Bạt trấn trị phía bắc, xen lẫn với người Hung Nô. Cuối thời Tây Tấn, thủ lĩnh Thác Bạt Ỷ Lư có công cùng thứ sử U châu nhà Tấn là Vương Tuấn (tham chiến trong loạn bát vương) đánh lui vài cuộc tấn công của quân Hán Triệu do Thạch Lặc chỉ huy. Vì vậy, Ỷ Lư được nhà Tấn phong làm Đại Công, cai trị đất Đại. Khi Tiền Triệu và Hậu Triệu lấy gần trọn trung nguyên, họ Thác Bạt xưng vương, lập ra nước Bắc Đại. Thành lập Tiền Yên Ở phía đông bắc, họ Mộ Dung cũng nhân lúc hai nước Triệu hỗn chiến và nhà Tấn nép xuống phía nam để phát triển lực lượng. Năm 337, Mộ Dung Ngôi lập ra nước Tiền Yên. Tiền Tần: Hậu quả từ sự tan rã của Hậu Triệu Tới giữa thế kỷ 4, phía bắc Trung Quốc có một loạt biến động dẫn tới sự diệt vong của hàng loạt quốc gia Ngũ Hồ và thay vào đó là sự ra đời của một loạt nước khác. Sau khi diệt Tiền Triệu, Hậu Triệu trở thành nước lớn nhất miền bắc, tuy chưa diệt được Thành Hán, Tiền Yên và Tiền Lương nhưng vẫn hay can thiệp vào Bắc Đại. Thạch Lặc rất chú trọng xây dựng chính quyền, tiếp thu văn minh Hán tộc. Năm 333, Thạch Lặc chết, quyền hành rơi vào tay em Lặc là Thạch Hổ. Hổ giết hết con cháu Lặc, tự xưng làm vua. Nhưng Hổ là bạo chúa, tàn sát rất nhiều quan lại rồi cả con cháu của mình. Ông còn xây dựng tràn lan, cướp cả vợ con người khác để hoang dâm vô độ, nhân dân chết đói rất nhiều. Do vậy các dân tộc nổi dậy phản kháng không ngừng. Các con trai Thạch Hổ tranh quyền. Thái tử Thạch Tuyên giết Thạch Thao, Thạch Hổ giết Thạch Tuyên. Năm 349, Thạch Hổ chết, chính quyền rơi vào tay con nuôi Hổ là Thạch Mẫn (vốn tên là Nhiễm Mẫn, là người Hán). Mẫn giết hết con cháu Thạch Hổ, tự lập làm vua, đặt tên nước là Nguỵ, tức là nước Nhiễm Nguỵ. Một người trong hoàng tộc Hậu Triệu là Thạch Chi tự lập ở Tương Quốc. Nhiễm Mẫn đánh bại bức hàng tướng của Chi là Lưu Hiển, sai Hiển đánh giết Thạch Chi. Hậu Triệu mất. Tuy nhiên Nhiễm Mẫn hung hăng không được bao lâu. Có trong tay binh hùng tướng mạnh, Mẫn diệt Hậu Triệu. Năm 352, Mẫn mang quân đánh Tiền Yên, đánh chiếm hơn nửa đất Yên, sắp thống nhất miền bắc. Biết Mẫn kiêu ngạo chủ quan khinh địch, Yên vương Mộ Dung Tuấn dùng kế bắt sống được Mẫn chém chết. Nước Nhiễm Ngụy tồn tại chỉ hơn 2 năm. Năm 347, quyền thần Đông Tấn là Hoàn Ôn mang quân bắc tiến, diệt nước Thành Hán của Lý Thế (cháu Lý Hùng). Khi Hậu Triệu tan rã, một loạt các tù trưởng các bộ tộc người Chi, người Khương ra sức tự lập. Năm 350, một tướng cũ của Hậu Triệu, người tộc Chi (hay Đê) là Bồ Hồng chiếm giữ Quan Trung, lập ra nước Tiền Tần, đổi ra họ Phù. Khi đó Hậu Triệu chưa mất hẳn, Phù Hồng bị tướng Hậu Triệu là Ma Thu đầu độc chết, con là Phù Kiện lên thay. Năm 351, đại tướng Hoàn Ôn của Đông Tấn sau khi diệt Thành Hán lại mang quân đánh Tần. Phù Kiện bỏ Tràng An chạy, nhưng lại dùng kế "vườn không nhà trống", đốt hết lúa ngoài đồng khiến quân Tấn bị đói. Hoàn Ôn buộc phải rút quân về. Tạm yên mặt nam, Phù Kiện tấn công về phía đông, tranh giành đất cũ của Hậu Triệu và Nhiễm Ngụy với Tiền Yên. Về cơ bản, sau năm 352, trung nguyên nằm trong tay Tiền Tần và Tiền Yên, phía bắc xa xôi là Bắc Đại, phía tây xa xôi là Tây Lương (Tiền Lương). Năm 355, Phù Kiện chết, con là Phù Sinh lên thay. Phù Sinh sinh ra đã chỉ có 1 mắt, rất tàn ác, sát hại nhiều quan lại và người trong họ, hễ những người này lỡ phạm phải những chữ "một", "thiếu" "lẻ"... vì Sinh cho rằng ám chỉ đến tật một mắt của mình. Vì thế lòng người chán ghét Sinh. Năm 357, em họ Sinh là Phù Kiên giết Sinh lên thay, trở thành một trong những vua nổi tiếng nhất thời Ngũ Hồ. Nhờ chính sách hòa hợp dân tộc, thu hút nhân tài người Hán, Tiền Tần dưới tay Phù Kiên lớn mạnh rất nhanh. Năm 371, Kiên đánh bắt sống vua Tiền Yên là Mộ Dung Vĩ[4]. Tới năm 376, bức hàng nước Tây Lương của Trương Thiên Tích. Sau đó, nhân khi Bắc Đại có tranh chấp nội bộ, Phù Kiên diệt Bắc Đại, chia đất làm hai. Về cơ bản, lần đầu tiên Phù Kiên thống nhất toàn miền bắc Trung Quốc kể từ năm 304. Vai trò của Đông Tấn [sửa] Bắc phạt Đông Tấn dù phải nép xuống phía nam, nhưng nếu so tiềm lực với các nước Ngũ Hồ bị chia cắt ở phía bắc thì cũng là một nước lớn. Tuy nhiên, nội bộ Đông Tấn luôn ẩn chứa mâu thuẫn giữa các họ tộc nắm quyền trong triều. Họ Tư Mã làm vua chỉ có hư vị, quyền hành trong tay các chi họ quý tộc lớn, một số ở Giang Nam, một số di cư từ phương bắc xuống. [sửa] Tổ Địch Xem chi tiết: Tổ Địch Khi nhà Tây Tấn mới mất, nhiều thành trì phía bắc vẫn trong tay các tướng trung thành với nhà Tấn. Phía nam, một bộ phận tướng lĩnh, điển hình là Tổ Địch, rất tha thiết phối hợp với các tướng phía bắc tiến hành bắc phạt để thu phục trung nguyên. Nhưng vua Đông Tấn và đại đa số các địa chủ miền nam không muốn chiến tranh, do đó không cấp quân và vũ khí, chỉ cho Tổ Địch một ít lương thực. Tổ Địch vượt sông Trường Giang đến lưu vực sông Hoài, tự tổ chức chế tạo vũ khí và mộ quân. Trong vòng 7-8 năm từ năm 323, quân Tổ Địch tấn công vào quân Hậu Triệu của Thạch Lặc, giành lại khá nhiều đất đai. Nhưng các đại thần nhà Đông Tấn sợ chiến thắng ngoài mặt trận sẽ khiến uy thế của ông quá lớn nên tìm cách kìm chế ông. Những hành động đơn lẻ của Tổ Địch dần dần bị cô lập, yếu đi và không mang lại kết quả lớn. Quân Ngũ Hồ thừa cơ phản công giành lại đất đai. Ông buồn rầu qua đời. Không lâu sau đó các tướng phía bắc như Vương Tuấn, Lưu Côn, Lý Củ lần lượt bị quân Ngũ Hồ đánh bại, miền bắc mất hoàn toàn. [sửa] Hoàn Ôn Xem bài chính: Hoàn Ôn Tuy không thành công, nhưng ý chí chống Ngũ Hồ của Tổ Địch, Lưu Côn đã trở thành những tấm gương cho tướng sĩ thế hệ sau các ông noi theo[5]. Sau Tổ Địch, một thời gian dài Đông Tấn cố thủ ở miền nam không phát binh đánh miền bắc. Mãi tới khi Hoàn Ôn cầm quyền trong triều, việc bắc phạt mới được chú trọng. Là người có tài và quyết đoán, Hoàn Ôn tổ chức quân đội đánh Thành Hán. Năm 347, ông diệt nước Thành Hán của người Tung (con cháu Lý Hùng). Năm 351, ông lại tiến quân đánh Tiền Tần của Phù Kiện nhưng đường xa bị thiếu lương nên phải rút về. Năm 354, Hoàn Ôn làm trấn thủ Kinh châu lại cất quân bắc phạt đánh Phù Kiện nước Tiền Tần. Nhân dân người Hán thấy quân của Hoàn Ôn đều mừng rỡ, mang rượu thịt ra đón, nhưng các địa chủ ở gần Tràng An lại không có ai hoan nghênh. Hoàn Ôn lấy làm lạ. Hỏi ra ông mới biết rằng từ khi vào chiếm trung nguyên, các triều đình người Hồ đã dùng chính sách ưu đãi địa chủ người Hán, cất nhắc làm quan và cho miễn sưu dịch. Vì thế các địa chủ người Hán rất ủng hộ các triều đình Ngũ Hồ. Hoàn Ôn đóng quân thêm một thời gian nữa nhưng vẫn không thể kêu gọi được tầng lớp này. Ông đành phải rút quân về nam. Trong lần bắc phạt này Hoàn Ôn cũng đã cầu danh sĩ người Hán là Vương Mãnh ra giúp mình, nhưng Mãnh từ chối và quay sang giúp quý tộc Tiền Tần, người sau đó trở thành vua Tần là Phù Kiên[6]. Do mấy lần bắc phạt không thành, uy thế trong triều của Hoàn Ôn bị giảm sút. Họ Vương, họ Tạ nhân dịp ông già yếu, đã ngăn cản việc đoạt ngôi nhà Tấn của ông năm 372. [sửa] Đại chiến Phì Thuỷ Hoàn Ôn mất, Tạ An nắm quyền. Tạ An tỏ ra là người mềm mỏng hơn Hoàn Ôn, không hiếp chế vua Tấn. Lúc đó, Tần vương Phù Kiên thôn tính toàn bộ miền bắc, huy động 100 vạn quân gồm nhiều sắc tộc Hồ và cả người Hán đi đánh miền nam, bất chấp sự phản đối của nhiều văn thần. Phù Kiên chủ quan kiêu hãnh nói rằng, quân Tần chỉ cầm ném roi ngựa xuống sông Trường Giang là đủ lấp sông rồi. Tướng tiên phong là Phù Dung được lệnh cầm 27 vạn quân tiên phong đi trước. Tạ An tiến cử cháu là Tạ Huyền với Tấn Hiếu Vũ Đế Tư Mã Diệu làm tướng, mang 8 vạn quân ra đóng ở Lạc Giản đón quân Tần. Khi hai bên sắp đối trận, Phù Kiên đã mắc sai lầm là tin tưởng vào hàng tướng người Hán của Đông Tấn mới hàng là Chu Tự, sai Tự đi dụ hàng Đông Tấn. Chu Tự còn nhớ Đông Tấn, nên mang hết tình hình Tiền Tần tiết lộ cho Tạ Huyền, khuyên nên chủ động đánh quân Tần trước khi đại quân 100 vạn kịp họp đông đủ. Tự còn hẹn làm nội ứng cho quân Tấn. Lúc đó Phù Dung đang án ngữ sông Phì. Tạ Huyền bèn sai người nói với Phù Dung xin quân Tần tạm rút để quân Tấn qua sông quyết chiến. Phù Kiên cũng muốn lợi dụng quân Tấn qua một nửa sẽ đánh úp nên đồng ý rút lui một đoạn. Đúng hẹn, quân Tấn sang sông. Trong đêm tối, quân Tần đang chờ nghênh địch, Chu Tự cầm một cánh quân, bỗng hô to: Quân Tần thua to rồi! Quân Tần đa sắc tộc, vốn bị cưỡng bức ra trận cho Phù Kiên, nghe nói thua trận liền quay đầu nhất loạt bỏ chạy, tiên phong Phù Dung không thể ngăn lại được. Tạ Huyền thấy quân Tần chạy, thừa cơ thúc quân Tấn truy kích, giết chết rất nhiều. Phù Dung bị tử trận trong loạn quân. Đó là trận Phì Thuỷ, lớn nhất thời Ngũ Hồ, quyết định cục diện nam bắc, cứu vãn sự tồn tại của nhà Tấn và làm suy yếu trầm trọng nước Tần. 100 vạn quân Tần đại bại bỏ chạy về phía bắc. Phù Kiên về tới Lạc Dương thu thập tàn quân chỉ còn vài chục vạn. Sự thống nhất của Bắc Nguỵ [sửa] Xé nát Tiền Tần Đại quân Tiền Tần của Phù Kiên chạy về bắc, tan rã từng mảng. Nhân sự suy yếu của Tiền Tần, các tướng dưới quyền bắt đầu thực hiện ý định ly khai, tái lập thế chia cắt Ngũ Hồ ở miền bắc như trước đây. Thực ra, nguy cơ tái chia cắt đã tồn tại ngay khi Phù Kiên thống nhất, vì trong hàng ngũ tướng sĩ của ông, có nhiều người dị tộc được ông thu phục, đã manh tâm ly khai. Khi cầm đại quân xuống phía nam, Phù Kiên đã giao cho tướng Lã Quang đi dẹp các nước thiểu số phía Tây thuộc nước Tiền Lương cũ. Dẹp xong vùng Tây Lương, Quang nhân Phù Kiên bại trận bèn cắt đất Lương xưng làm Lương vương, lập ra nước Hậu Lương (384). Năm sau, một thủ lĩnh người Tiên Ty khác là Khuất Phục Quốc Nhân cũng nổi dậy xé đất Tần, lập ra nước Tây Tần (ở vùng Cam Túc ngày nay). Ngay năm 383, các tướng họ Mộ Dung, con cháu nước Tiền Yên cũ, đã tách riêng khỏi đại quân Tiền Tần tháo chạy về phía bắc, lập lực lượng riêng chống lại Phù Kiên. Ngay trong hàng ngũ các tướng họ Mộ Dung cũng chia cắt và không thần phục nhau. Con Tiền Yên vương Mộ Dung Tuấn là Mộ Dung Thùy lập ra nước Hậu Yên, một tướng khác là Mộ Dung Xung chiếm vùng Sơn Tây lập ra nước Tây Yên. Năm sau, một bộ tướng người Khương, cũng từng được Phù Kiên cho hàng không giết trong khi thống nhất phương bắc là Diệu Tràng, nhân bị sai đi đánh Tây Yên bại trận, sợ bị Phù Kiên bắt tội, bèn ly khai, lập ra nước Hậu Tần. Dòng dõi nước Bắc Đại cũ là Thác Bạt Khuê, được một số cựu thần trung thành, nhân khi thiên hạ đại loạn, đón lập làm vua, tái lập nước Bắc Đại, đến năm 386 đổi tên là Nguỵ, sử gọi là Bắc Nguỵ. Như vậy, chỉ sau một thời gian rất ngắn sau trận Phì Thuỷ, miền bắc lại bị chia cắt trở lại, trên bản đồ phía bắc có sự tồn tại của 7 quốc gia Ngũ Hồ tái hỗn chiến [sửa] Tần diệt Tần, Yên nuốt Yên Mộ Dung Thùy nắm trong tay lực lượng khá mạnh cũ của Tiền Tần, nên nhanh chóng phát triển nước Hậu Yên thành nước lớn, đóng đô ở Trung Sơn. Hai nước Tây Yên và Hậu Tần liền kề với đất Tiền Tần nên xung đột xảy ra ác liệt. Năm 385, Phù Kiên bị quân Tây Yên của Mộ Dung Xung cũng kéo đến đánh Tiền Tần để báo thù họa vong quốc năm 371, vây đánh ở Tràng An, phải phá vây ra ngoài. Cùng lúc đó quân Hậu Tần của Diệu Tràng thừa cơ đón bắt giết Kiên. Một số triều thần sót lại của Tiền Tần lập con Kiên là Phù Phi lên ngôi ở Nghiệp Thành, nhưng nhanh chóng bị quân Tây Yên đánh bại. Phù Phi bị tử trận. Chính trong nội bộ các quốc gia ly khai Tiền Tần cũng vô cùng rối ren. Nước Tây Yên từ năm 384 đến 386 liên tục đổi chủ, họ Mộ Dung chém giết lẫn nhau. Cuối cùng, năm 386, Mộ Dung Vĩnh giành được ngôi vua. Nhưng lúc đó Tây Yên đã suy yếu, bị mất Tràng An vào tay Hậu Tần. Năm 386, nghe tin vua Tiền Tần là Phù Phi bị giết, cháu họ của Phù Kiên là Phù Đăng được lập làm vua. Các vua Tiền Tần nối đời kế tục nhau chiến tranh với Hậu Tần của Diệu Tràng, nhưng cuối cùng đều bị cha con Diệu Tràng - Diệu Hưng đánh bại. Năm 394, Phù Đăng bị quân Hậu Tần của Diệu Hưng giết chết. Phù Xung được lập lên thay, nhưng vẫn không xoay chuyển được tình thế. Xung bị quân Hậu Tần đánh bại, bỏ chạy về phía tây, bị quân Tây Tần bắt giết. Nước Tiền Tần mất. Hậu Tần diệt được Tiền Tần, phát triển thành nước lớn phía Tây. Trong khi đó, Hậu Yên vương Mộ Dung Thùy không muốn họ tộc Mộ Dung bị chia rẽ, bèn mang quân đánh Tây Yên. Năm 394, Mộ Dung Thùy giết được Mộ Dung Vĩnh, diệt nước Tây Yên. Hậu Yên cũng trở thành nước lớn. Về cơ bản, Hậu Tần và Hậu Yên đóng ở vị trí như Tiền Tần và Tiền Yên trước đây. [sửa] Hai nước Yên mới Tuy nhiên, cục diện đó lập tức bị phá vỡ. Nước Ngụy của Thác Bạt Khuê nhanh chóng lớn mạnh, cất quân nam tiến, đánh Hậu Yên. Quân Yên không chống nổi, thái tử Mộ Dung Bảo liên tục bị thua trận. Mộ Dung Thùy phải tự tay cầm quân tạm đẩy lui được quân Nguỵ, nhưng không lâu sau thì già yếu mà mất (396). Quân Ngụy lại nam tiến, lấy đất Hậu Yên như tằm ăn lá dâu. Vùng Hà Nam, Hà Bắc bị quân Ngụy chiếm. Hậu Yên rút lên phía bắc, chỉ bao gồm đất của nước Yên cổ thời Chiến Quốc xưa kia. Cùng lúc đó nội bộ Hậu Yên lại xảy ra tranh đoạt, chém giết lẫn nhau, khiến liên tiếp chỉ trong chưa đầy 10 năm, các vua Mộ Dung Bảo (398), Mộ Dung Thịnh (401), Mộ Dung Hy (407) đều bị giết. Một người con nuôi của Mộ Dung Bảo là Cao Vân giết Hy làm vua, nhưng không lâu sau bị quyền thần giết chết (409). Một đại thần người Hán là Phùng Bạt được lập lên ngôi, đổi quốc hiệu là Bắc Yên, vì khi đó nước Yên nằm ở phương bắc, để phân biệt với nước Nam Yên. Khi Hậu Yên bị Ngụy xâm chiếm, một người con của Mộ Dung Thùy là Mộ Dung Đức bỏ chạy về vùng Sơn Đông, bị tách khỏi lực lượng của Mộ Dung Bảo, không thể liên hệ được. Nghe tin Mộ Dung Bảo bị giết (398), Đức bèn chiếm lấy vùng Hoài Bắc, giáp với Đông Tấn, xưng làm Nam Yên vương. Trên thực tế Nam Yên và Bắc Yên đều rất nhỏ bé, không có đủ thực lực để tái lập sự hùng mạnh của Tiền Yên. [sửa] Chia nhỏ Hậu Lương Tại nước Hậu Lương, sau khi vua sáng lập Lã Quang chết (399), nội bộ cũng lục đục, những người trong họ tranh nhau quyền, giết hại lẫn nhau. Các bộ tộc lân cận thừa cơ ly khai, chia cắt nước Hậu Lương lớn thành 4 nước nhỏ: người tộc Hung Nô là Thủ Cừ Mông Tổn dựng Đoàn Nghiệp làm vua Bắc Lương, người Tiên Ty là Thấu Phát Ô Cô lập ra nước Nam Lương, người Hán là Lý Cao lập ra nước Tây Lương. Cùng lúc đó nước Hậu Lương vẫn chưa mất hẳn. Tới năm 403, cháu Lã Quang là Lã Long bị vua Hậu Tần là Diệu Hưng diệt. Trên bản đồ phía bắc khi đó có 8 nước: Bắc Ngụy (lớn nhất), Bắc Yên, Nam Yên, Hậu Tần, Tây Tần, Bắc Lương, Nam Lương, Tây Lương. [sửa] Cá lớn nuốt cá bé Chiến tranh sinh tồn giữa Đông Tấn và Ngũ Hồ vẫn ác liệt. Năm 407, hậu duệ của một tộc người Hung Nô, con của Lưu Vệ Thần - thủ lĩnh người Hung Nô bị Thác Bạt Khuê đánh bại khi dựng nước Ngụy năm 386 - tên là Lưu Bột nổi dậy ở miền bắc, đổi họ là Hách Liên[7]. Hách Liên Bột Bốt vốn là thuộc tướng của Hậu Tần. Diêu Hưng phân cấp cho ông 5 bộ Tiên Ti và hơn 2 vạn người Hồ trấn thủ phương bắc, vì đó ông được nắm quân tự lập ra nước Hạ, định đô ở Thống Vạn (Hành Sơn, Thiểm Tây). Năm 410, tướng Đông Tấn là Lưu Dụ diệt nước Nam Yên của con Mộ Dung Đức là Mộ Dung Chiêu. Năm 414, vua Tây Tần là Khuất Phục Xí Bàng diệt nước Nam Lương của Thấu Phát Nậu Đàng. Năm 417, tướng Đông Tấn là Lưu Dụ lại bắc tiến, chiếm Tràng An, diệt nước Hậu Tần của cháu Diệu Tràng là Diệu Hoàng. Dụ để con là Nghĩa Chân ở lại giữ Tràng An rồi rút quân về. Nhân khi Lưu Dụ mải tranh giành quyền hành trong triều Tấn để chuẩn bị cướp ngôi, không chú ý tới miền bắc, vua Hạ là Hách Liên Bột Bốt (Lưu Bột) mang quân đánh chiếm Tràng An - kinh đô cũ của Hậu Tần. Lưu Nghĩa Chân bỏ Tràng An chạy về nam. Từ đó Hạ cũng thành một nước lớn, thế chỗ của Hậu Tần. Năm 420, Lưu Dụ cướp ngôi nhà Tấn, lập ra nhà Tống, sử gọi là Lưu Tống. Năm 421, vua Bắc Lương là Thủ Cừ Mông Tổn (cướp ngôi Đoàn Nghiệp năm 401) mang quân diệt Tây Lương của cháu Lý Cao là Lý Tuần. Như vậy tới năm 421, trên bản đồ phía bắc chỉ còn các nước: Bắc Nguỵ, Bắc Yên, Hạ, Bắc Lương, Tây Tần. Năm 431, vua Hạ là Hách Liên Định mang quân diệt Tây Tần. Nhưng cùng năm 431, vua Bắc Ngụy là Thái Vũ Đế Thác Bạt Đào điều quân đánh Hạ. Nước Hạ vừa qua chiến tranh với Tây Tần, bị quân Ngụy diệt gọn, nước Hạ mất. Thế là 2 nước bị diệt năm 431. Đây cũng là lần duy nhất trong lịch sử nội chiến Trung Quốc, một nước vừa diệt một nước khác lại bị diệt ngay trong 1 năm. Năm 436, Bắc Ngụy đánh Bắc Yên, bắt vua Yên là Phùng Hoàng. Nước Bắc Lương còn lại trơ trọi cũng không tồn tại được lâu. Năm 439, Thác Bạt Đào đánh Bắc Lương, bắt vua Lương là Thủ Cừ Mục Kiền. Cục diện Ngũ Hồ loạn Hoa hơn 100 năm với hơn 20 quốc gia chấm dứt. Toàn thể phương bắc được thống nhất trong tay Bắc Ngụy. Ở miền nam trong tay nhà Lưu Tống, sử gọi thời kỳ các triều đại nam và bắc nối nhau cai trị hai miền là Nam Bắc triều. Chiến tranh vẫn chưa chấm dứt.
Uhm hay lắm ông, post thêm về Nam Bắc triều nữa nhé, thời Nam Bắc triều không biết gì nhiều ngoài Lương Sơn Bá-Chúc Anh Đài
Anh trinhphuctuan, em cả lịch sử Trung Hoa nắm tương đối tốt, có cái thời kì Ngũ Đại Thập Lục quốc này em mới biết gần đât là mình thiếu sót anh à :( mà nó loạn cào cào lên ấy, cứ như thời Xuân Thu Chiến Quốc, Đông Chu Liệt Quốc gì ấy, nhưng lại không có nhiều nhân vật nổi bật , chỉ có sau thời này, Triệu Khuông Dẫn tạo binh biến Trần Kiều, lập nên vương triều Đại Tống - lấy hiệu là Tống Thái Tổ mới thấy nổi lên nhiều nhân vật xuất chúng, mà tiêu biểu có Bát Hiền Vương, Hô Diên Tán, Dương Nghiệp và Dương Gia Tướng, Khấu Chuẩn, Triệu Phổ, Dương Quang Mĩ,... sau này Nam Tống còn có Nhạc Phi anh à ...
Thực ra tiểu thuyết lịch sử của Trung Quốc không viết nhiều về thời kỳ này, phim ảnh cũng ít vì đây là thời kỳ ô nhục của Hán tộc. Chỉ có giới viết sử mới quan tâm ít nhiều nhưng lại đứng trên quan điểm Đông Tấn là chính thống, của Hán tộc. Thực ra trong thời kỳ này anh hùng danh tướng rất nhiều mà gian thần phản loạn lại càng lắm. Chính vì thế là nguyên nhân tôi viết hai câu dẫn in hoa ở đầu bài và sáu câu luận tiếp theo. Dám cá là nhiều người biết Nhạc Phi và Hàn Thế Trung nhưng ít ai biết Lưu Côn và Tổ Địch. Các tộc Khương, Tiên Ty, Đột Quyết đều có những anh hùng nổi danh chiến trận khiến cho hậu thế phải khâm phục như Mộ Dung Tuấn, Mộ Dung Vỹ, Phù Kiên, Thác Bạt Đào ..vv. Những quyền thần như Vương Tuấn, Hoàn Ôn ..vvv đều có những hành động khác thường trong những thời khắc quyết định. Nó khiến cho thế cục xoay vần, khiếm cho hậu thế phải suy ngẫm. Trong tay tôi đang có cuón Hậu Tam Quốc nhưng tôi thấy viết chưa đạt. Chính vì thế mà mở Topic này một là giới thiệu, đàm luận với anh em. Hai là sưu tầm tư liệu để sửa lại. @ Songnguyen: Nếu được xin đừng viết đậm! Thanks!
Anh post cho em xem với , mà sao không cho em viết đậm vậy anh, em tham gia mấy diễn đàn khác toàn viết đậm, vì mắt em kém, nhìn lại bài mình xem có sai gì không, sửa cho dễ, nên nhìn chữ đậm nó mới rõ :(
Bác tuấn già rồi nhưng mắt chưa già đâu, để chữ thường cho bác ấy luyện mắt Nói chơi thôi nha, đừng giận:P
cho hỏi rợ Hồ có phải là quân Hung nô kô vậy ? còn theo bản đồ thì quân Tiên ty nó nằm ở phía Bắc ngay nuớc Yên khi xưa có phải kô tại các tuờng tiên ti có họ Mộ dung ?
Rợ Hồ chỉ các dân tộc phía bắc và Đông Bắc ngoài Trường Thành, bao gồm: Hung Nô, Tiên Ty, Đột Quyết (lập nhà Liêu), Nữ Chân ( sau này lập ra nhà Kim và Thanh). Tộc Tiên Ty có hai họ lớn: họ Thác Bạc lập ra nhà ?? và nhà Bắc Ngụy, họ Mộ Dung lập ra các nhà Yên như Tiền Yên, Hậu Yên, Bắc Yên, Nam Yên. Kim Dung lấy cảm hứng mà viết về Mộ Dung Phục. Rợ Liêu chỉ tộc Đột Quyết và người Tiều Tiên cũ. Tiên Tý ở bản đồ trên vị trí nước Yên thời Chiến Quốc.
Bài tóm tắt ở trên rất hay nhưng thời kỳ này quá phức tạp & tài liệu cũng không có nhiều trinhphuctuan ko up lên hay share link thì khó cho mọi người quá.
Quả thật bộ Hậu Tam quốc viết chưa đạt. Không có thần thái của Tam quốc tí xíu nào. Có lẽ vì khó chọn ra n/v chính để cốt truyện xoay vần.