Một cách giải thích về những giấc mơ Sigmund Freud, cha đẻ của "phân tích tâm lí" (psychoanalysis) đưa ra giải thích của ông về những giấc mơ. Một giải thích dưới góc độ tâm lí học nhưng đã chứng minh được tính lôgic và hiện thực của nó. Trong cuốn "Nhập đề phân tích tâm lí", ta dễ dàng nhận thấy Freud đề cập đến 3 nhân tố một cách thường xuyên: Ý thức, Vô thức, Sự đẩy lùi. Freud nhấn mạnh đến sự khác biệt giữa Vô thức và Ý Thức với một nét gạch nối giữa 2 thế giới đó: Sự đẩy lùi. Ý Thức ---Sự đẩy lùi---> Vô Thức Freud cho rằng, những mong muốn, những lo sợ, những khát khao của con người trong khi thức giấc tạo nên thế giới vô thức của con người, cũng là căn nguyên của những giấc mơ bởi khi ta ngủ, trạng thái vô thức được giải phóng. Có nghĩa là tất cả những gì bạn mơ là những lo sợ, những mong muốn của bạn được hình thành ban ngày khi bạn hoạt động bình thường. MỘt điểm quan trọng trong giải thích của Freud là những khát khao, những lo sợ đó đều có một đặc điểm chung: không thể thực hiện được trong khi bạn còn ý thức, hay ý thức kô dám đối mặt với nó. Khi đó ý thức sử dụng công cụ của nó: "sự đẩy lùi" để vùi lấp tất cả vào Vô thức. Trạng thái Vô Thức nằm ở "lớp dưới" theo cái nhìn của Freud, tức là ở trạng thái bình thường nó kô được biểu hiện, kô được cảm nhận, khác hoàn toàn với Ý thức là những gì ta cảm nhận hằng ngày. Như vậy có thể ví "sự đẩy lùi" như thứ công cụ kìm nén, cất giấu "những ước mơ, những lo sợ" vào một góc kín đáo của "tủ sách" hòng...quên nó đi, kô đối mặt với nó. Cách giải thích của Freud với 3 nhân tố: Ý thức, Vô thức, sự đẩy lùi cũng là cơ chế hoạt động của giấc ngủ thôi miên(hypnosis). Theo những nhà tâm thần học, giấc ngủ thôi miên là một Trạng thái Ý Thức đặc biệt. Một trạng thái mà Ý Thức và Vô thức hoàn toàn bị tách rời nhau, giống như ai đó cầm cái kéo cắt đứt cái dây nối giữa chúng là "sự đẩy lùi". Hypnosis như vậy giúp cho các nhà tâm thần học chạm được vào thế giới Vô Thức của con người, đọc những lo sợ, những ước mơ của họ. Hypnosis và trị liệu tâm thần học. Có những căn bệnh xuất phát hoàn toàn từ thế giới vô thức... Freud trong thời kì đầu những nguyên cứu của ông về tâm thần học có nói đến một trường hợp lạ lùng mà các đồng nghiệp của ông gửi đến hỏi í kiến ông khi họ kô thể chữa trị được. Một cô gái hoàn toàn bình thường về mặt thể xác, kô có một thiệt hại nào trong các cơ quan nhưng lại có những triệu chứng kô thể giải thích được: giảm khả năng nhìn, mất cảm giác, mất cử động ở tay phải, kô thể uống được cái gì mặc dù rất khát... Freud sau đó với Hypnosis khám phá ra rằng tất cả những triệu chứng của cô gái mắc phải là bắt nguồn từ khi cô chăm sóc người cha mới chết khá lấu trước đó. Sau mỗi buổi hypnosis, cô gái dường như được giải phóng và trở lại trạng thái bình thường trong một khoảnh khắc, để rồi sau đó tiếp tục quay lại với những triệu chứng cũ. Ý tưởng của Freud cho rằng, khi mà cõi vô thức chứa đựng một mơ ước, một lo sợ quá lớn, "sự đẩy lùi" của Ý thức kô còn khả năng giữ cho nó nằm yên trong "góc kín", mơ ước hay lo sợ đó đạt đến tầng ý thức, gây nên những triệu chứng khó giải thích dưới góc độ khoa học thuần túy. Bí ẩn về những triệu chứng của cô gái đều được hé mở sau những buổi hypnosis: -Giảm khả năng nhìn: Hypnosis trong mục tiêu nhằm tái hiện lại những gì đã diễn ra cho thấy rằng cô gái lúc đó đang khóc thì bất chợt người cha bệnh nặng nằm trên giường hỏi cô mấy giờ. Nước mắt khiến cô nhìn kô rõ, cô cố gắng đưa đồng hồ lại sát vào mắt và thấy đồng hồ như to lên (hoàn toàn tự nhiên). Nhưng những biểu hiện đó lại quay trở lại trở thành tật do nó gắn liền với kỉ niệm về người cha đã mất. Một kỉ niệm đau lòng mà Ý thức tìm mọi cách đẩy lùi vào vô thức. -Mất cảm giác ở cánh tay phải: Một buổi hypnosis khác hé lộ rằng một lần trong khoảng thời gian chăm sóc người cha bên giường bệnh. Cô gái mệt mỏi và ngủ quên đi, cánh tay phải gác lên trên cái ghế con cạnh giường. Trong trạng thái mơ ảo đó, cô gái mơ thấy một con rắn đen chui ra từ tường nhà đối diện và muốn cắn bố cô. Cô tìm cách đuổi nó đi bằng cách cử động cánh tay phải (trong trạng thái mơ) nhưng cô không thể làm được (chỉ là trong mơ). Cái cảm giác tuyệt vọng kô thể cứu được cha mình trở thành một triệu chứng thật sau khi bố cô mất. ... Freud nói rằng: công trình của ông về những giấc mơ là công trình quan trọng nhất của cuộc đời ông và là công trình có khả năng tồn tại mạnh mẽ nhất. Thực tế đã cho thấy điều đó. Hypnosis và psychoanalysis hiện nay luôn là một trong những nền tảng của tâm thần học. Khoa học thuần túy giải thích thế nào về những giấc mơ ??? Một ý kiến đang được sử dụng nhiều hiện nay là: giấc mơ là biểu hiện cho hoạt động của trí nhớ. Nande ? Hoạt động "nhớ" của bộ não hoàn toàn giống như hoạt động của một máy tính cá nhân. Xin làm sự so sánh thế này: Máy tính cá nhân <------------------------> Bộ não con người RAM <----------------------------------> Trí nhớ ngắn hạn ROM <------------------------------> Trí nhớ dài hạn Trí nhớ ngắn hạn cho phép bộ não của bạn "lưu lại" các thông tin "mới" và sử dụng nó trong vòng vài giây. Khá giống như bộ nhớ RAM của máy tính giúp máy tính hoạt động trức tiếp trên nó mà kô phải đọc trên ổ đĩa cứng. Tiện lợi và nhanh chóng nhưng kô hề dài lâu. Ví dụ về trí nhớ ngắn hạn là khi bạn đọc một số điện thoại 3 lần để cố gắng ghi nhớ nó, cốt để đưa lại cho người bạn khoảng 1 phút sau đó vì bạn kô có giấy bút trên tay. Nếu bạn để ý một chút, ngày hôm sau khi tỉnh dậy, bạn kô còn khả năng nói lại cái số đó nữa. Ví dụ đơn giản khác khi bạn ngồi trong một quán cà phê có tầm hơn 20 khách, bạn vô tình nhìn thấy mặt một người khách cách đó 2 bàn trong khoảng vài giây. Giả dụ sau đó khi đi bạn gặp lại người đó trên xe bus, bạn nhận ra người đó đã cùng trong quán với bạn nhưng nếu giả dụ 1 tuần sau mà gặp thì chưa chắc. Trí nhớ dài hạn là nơi lưu các thông tin mà bạn cần dùng thường xuyên. Sự tạo thành trí nhớ dài hạn đòi hỏi một sự "lập lại" kô chỉ của bạn mà còn của bộ não. Lấy ví dụ bạn có một bài kiểm trang 2 trang lịch sử vào cuối tuần. Trong tuần đó bạn phải xem đi xem lại nhiều lần để cố gắng ghi nhớ nó, khi đó bạn đang ghi lại những kiến thức lịch sử vào bộ nhớ dài hạn của bạn. Vậy tại sao lại có những người 1-2 ngày hay chỉ vài giờ trước khi kiểm tra mới học mà vẫn nhớ được ? Bởi vì khi đó, họ sử dụng trí nhớ ngắn hạn nhiều hơn là trí nhớ dài hạn. Cái ưu điểm của trí nhớ dài hạn là những thông tin được ghi lại có tuổi thọ hơn những thông tin trong trí nhớ ngắn hạn. Bởi thế, một người học ôn một vài giờ trước khi kiểm tra quên những gì mình học nhanh hơn một người dành ra vài ngày để học cùng một lượng kiến thức. Như vậy não bộ cần có hoạt động ghi lại các thông tin từ trí nhớ ngắn hạn vào trí nhớ dài hạn nếu thông tin đó cần thiết phải sử dụng thường xuyên. Hoạt động này có thể ví như khi bạn kích "Save" một file word vừa mới đánh xong. Não bộ "save" các thông tin vào bộ nhớ khi bạn đang ngủ. Dòng in đậm ở trên mang đến 2 suy luận quan trọng: +Muốn nhớ được tốt, bạn phải ngủ tốt. +Nó giải thích cho giấc ngủ nghịch thường với những tín hiệu điện theo vòng (xem bài trên). Có thế coi những tín hiệu điện đó là khi não bộ đang làm việc "sắp xếp chọn lọc và ghi lại" các thông tin bạn đã thu lượm được vào ban ngày. Và phải chăng nó cũng là nguyên nhân của những giấc mơ ? Giấc mơ thực ra là một sự tổ hợp lộn xộn các thông tin ban ngày hòng ghi một cách trật tự vào trí nhớ ??? Nhưng cách giải thích này có một điểm yếu: Khi bạn mơ là bạn đang ở trong giai đoạn "giấc ngủ nghịch thường" nhưng điều ngược lại kô hoàn toàn đúng. Bạn có thể trải qua giai đoạn giấc ngủ nghịc thường 2-3 lần trong một đêm mà kô hề mơ. Có những lần bạn đặt mình xuống giường rồi hôm sau tỉnh dậy kô hề mơ về cái gì cả.
Ông bà Phạm trước đây luôn luôn cư ngụ ở thành phố, nhưng trước khi ông Phạm hồi hưu, hai ông bà quyết định về sống tại miền quê để được hưởng bầu không khí trong lành và sự yên tĩnh cần thiết cho tuổi già. Họ mua một mảnh đất xinh xắn nằm trên một sườn đồi, và vừa dọn vào, công việc đầu tiên của bà Phạm là cho trồng ngay một vườn rau với đủ những loại rau cải mà ông bà ưa thích. Với một vườn rau xanh tươi, mỗi tuần ông bà chỉ cần mua sắm thêm một ít thực phẩm và một vài thứ lặt vặt là đã có thể sống thoải mái suốt tuần. Một hôm trong khi đang làm việc ngoài vườn, bà Phạm có cảm tưởng như mình đang bị ai đó theo dõi. Ngước mắt nhìn lên, bà thấy một thiếu niên ốm yếu với đôi mắt trũng sâu đang đứng nhìn bà. Cậu bé mặc một chiếc quần jean cũ và đi chân không. Bà giơ tay vẫy chào nhưng cậu bé cứ đứng bất động. Bà thầm nghĩ có lẽ cậu ta yếu ớt quá tới độ không đủ sức giơ tay lên vẫy lại. Cậu bé gầy trơ xương và bà Phạm có thể đếm được từng cái xương sườn của nó. Đứng theo dõi bà làm việc trong vài phút, cậu bé quay mình rảo bước và chẳng mấy chốc đã biến dạng sau những bụi cây rậm rạp. Hai hôm sau cậu ta trở lại và đi cùng là một người đàn bà khoảng bốn mươi tuổi, cũng ăn mặc rách rưới, mặt mũi hom hem. Người đàn bà tiến tới sát hàng rào, lên tiếng hỏi bà Phạm trong khi cậu bé cúi đầu lẽo đẽo theo sau: - Bà là người mới mua mảnh đất này phải không? - Dạ đúng đó. Bà có cần tôi giúp gì không? Người đàn bà nói với vẻ cứng cỏi: - Tôi tới đây xem có giúp được gì cho bà hay không. Đây là Mẫn, con trai tôi. Nó làm việc rất giỏi và rất khoẻ mạnh chứ không yếu ớt như cái dáng vẻ bề ngoài của nó đâu. Nếu bà cần, nó sẽ phụ bà trong công việc vườn tược cũng như để bà sai vặt. Mỗi ngày chỉ xin bà cho cháu 5 ngàn đồng. Bà Phạm toan từ chối vì bà không muốn cần có ai phụ giúp mà trái lại bà rất thích hoạt động một mình trong bầu không khí trong lành tại đây. Tuy nhiên trước hình ảnh tiều tụy của cậu bé với đôi tay buông xuôi và đôi mắt trõm lơ, bà hơi ngập ngừng: - Con bà coi bộ còn nhỏ quá, và hình như nó cũng không được mạnh khoẻ lắm... Người đàn bà giơ tay ngắt lời: - Năm nay nó đã được mười sáu tuy coi nó có vẻ nhỏ hơn tuổi của nó. Như tôi đã nói, nó rất mạnh khỏe chứ không yếu đuối như hình dáng của nó đâu. Tôi bảo đảm là bà sẽ không có điều gì than phiền. Mẫn là một người giúp việc rất giỏi. Năm ngàn đồng một ngày đối với bà Phạm không nghĩa lý gì và bà nghĩ rằng nếu cho cậu bé này phụ giúp bà một tay, bà sẽ có cơ hội cho cậu ta ăn uống đầy đủ. Nghĩ thế, bà Phạm bèn đáp: - Được thôi! Mỗi ngày cháu Mẫn có thể tới đây vào lúc mười giờ sáng và đi về vào lúc năm giờ chiều. Tôi sẽ cho cháu ăn trưa luôn. Rồi bà Phạm quay sang phía cậu bé: - Sao Mẫn, cháu thấy như vậy có được không? Mẫn không trả lời khiến bà Phạm tự hỏi không biết cậu ta có nghe bà nói hay không vì cậu ta vẫn đứng yên cúi đầu, không hề ngước mắt. Mẹ của Mẫn ra hiệu cho bà Phạm bước ra xa với bà rồi bà thầm thì: - Thưa bà, tôi không muốn con tôi phải đi đi về về vì nhà chúng tôi ở cách đây khá xa. Nó có thể ngủ trong căn chòi nhỏ đàng kia và xin bà đừng bận tâm gì về việc cho nó ăn uống. Tôi sẽ đem đồ ăn tới cho nó mỗi ngày. Nó ăn uống khó khăn lắm. Tôi biết nó muốn ăn món gì và sẽ lo cho nó. Mỗi lần tôi tới, xin bà cho tôi năm ngàn đồng. - Thế còn cháu Mẫn thì sao? Nếu cháu ấy làm việc cho tôi, tôi phải trả tiền cho cháu mới phải! Người đàn bà lắc đầu: - Thưa bà, bà không hiểu. Tôi cần tiền để nuôi mấy đứa nhỏ ở nhà. Ba của cháu Mẫn mất rồi và bây giờ chỉ có mình nó là người có thể làm việc được để nuôi gia đình. Nó muốn làm việc để giúp đỡ tôi và bà sẽ không ân hận khi nhận cho nó giúp việc. Nó rất siêng năng, làm việc không biết mệt và không bao giờ than phiền bất cứ điều gì cả. - Thôi được rồi. Nhưng tôi nghĩ rằng có lẽ nó không nên ngủ ngoài lều, để tôi sửa soạn một phòng trong nhà dành cho nó. Nhà tôi rất rộng! - Thưa bà không sao đâu. Nó không cần ngủ trong nhà đâu. Nó khó ngủ lắm và tôi không muốn nó làm phiền bà. Nó ngủ trong cái chòi tranh kia là tốt nhất. Thế là ngày hôm sau Mẫn tới làm việc cho bà Phạm. Chẳng bao lâu, bà Phạm nhận thấy những gì mẹ cậu ta nói với bà hoàn toàn đúng. Mẫn không bao giờ than phiền cũng như không bao giờ tỏ ra mệt mỏi. Mỗi buổi sáng dù ông bà Phạm dậy sớm tới đâu đi nữa, Mẫn đã đang làm việc hăng say, khi thì cho gà vịt, cho cá ăn khi thì làm vườn... Dần dần bà cho Mẫn làm một vài việc vặt trong nhà và bất cứ việc gì bà sai cậu ta, không bao giờ bà phải nhắc lại lần thứ hai. Một hôm, bà nói với ông Phạm: - Thằng bé Mẫn nó giỏi thật! Nhưng nó không giống một đứa con trai mà giống như... một cái máy vậy. Ông có biết là nó không hề nói một lời nào với tôi hay không? Nó cũng không bao giờ nhìn tôi mà chỉ luôn luôn nhìn xuống đất. Ông Phạm càu nhàu: - Hừ! Tôi chỉ biết một điều là nó làm cho tôi nổi da gà. Có thể nó bị câm hay sao đó. Và theo ý tôi, có thể tâm trí nó không được bình thường cho lắm. Bà Phạm lắc đầu: - Không thế đâu, tôi thấy nó rất thông minh. Tôi chỉ có cảm tưởng như nó là một kẻ mộng du, làm việc trong khi đang ngủ... Ông Phạm ngắt lời: - Ờ, thì... giá thuê mướn như vậy cũng được... À, mà không được! Chỉ có năm ngàn đồng một ngày quả là không thể chấp nhận được khi nó làm việc thật siêng năng. Mình cho nó lên mười ngàn đồng đi. Tôi không bực bội gì vì sự hiện diện của nó, nhưng để coi việc tăng lương có khiến nó phản ứng gì hay không. Bà Phạm thì không nghĩ rằng Mẫn để ý tới vấn đề tiền bạc vì cậu ta không bao giờ đụng chạm tới. Mỗi ngày, sau buổi trưa cậu bé ngưng làm việc, đứng yên một chỗ nghiêng đầu như nghe ngóng. Chỉ mấy phút sau mẹ cậu xuất hiện từ sau hàng cây dâm bụt dầy đặc, mang đồ ăn trên một cái gà-mên đậy kín tới cho cậu. Bà ta chờ tới khi bà Phạm trả tiền rồi mới dẫn con tới lều và ngồi chờ trong khi con bà ăn uống. Bà Phạm nói với chồng bằng một giọng bất bình: - Tại sao bà ta lại không chịu để tôi cho nó ăn uống? Tôi đã thấy món ăn bà ta đem tới cho nó, trông giống như một loại cháo lỏng. Đó không phải món ăn thích hợp cho một đứa bé làm việc vất vả như vậy. Tôi thấy hình như nó còn ốm hơn khi vừa mới tới đây nữa. Ông Phạm hoàn toàn đồng ý. Xương mặt của Mẫn bây giờ lộ ra rõ rệt. Khi cậu cúi xuống, những đốt xương sống hiện lên thật rõ sau làn vải áo. Bà Phạm cố gắng một lần nữa khi gặp mẹ Mẫn: - Tôi muốn cho cháu Mẫn ăn đồ nóng hàng ngày. Nếu không, tôi không thể để nó tiếp tục làm việc như hiện tại. Nó mỗi ngày một gầy yếu. Tôi sợ rằng nó có thể bị bệnh hay làbị suy dinh dưỡng. Một nét hoảng hốt hiện lên trong đôi mắt người đàn bà: - Thưa bà, bà không hiểu đâu. Mẫn giống y như cha nó. Nó không ăn được những món ăn của bà và của tôi. Nó không thể ăn muối được. Cơ thể của nó không chịu đựng được muối. Xin bà cứ để mọi việc diễn tiến như hiện tại và xin cho cháu nó tiếp tục làm việc với bà. Nó là đứa con duy nhất mà tôi nhờ cậy được. Nếu không có số tiền mà nó kiếm được ở đây, mấy em nó ở nhà sẽ chết đói hết cả. Bà Phạm đành phải nhượng bộ: - Thôi được. Nó có thể tiếp tục làm việc với tôi. Phải nhìn nhận rằng nó làm việc rất giỏi nhưng nó có vẻ không được vui lắm khi ở với chúng tôi. Nó không bao giờ cười và cũng không bao giờ nói một lời với tôi hoặc nhà tôi. Người đàn bà nhún vai: - Thưa bà, điều đó không có nghĩa gì hết. Mẫn là đứa trẻ rất khác người. Nó không có cùng sự xúc cảm như những đứa trẻ khác. Nó chỉ biết một việc duy nhất là giúp đỡ tôi và các em nó. Xin ông bà đừng thắc mắc gì về nó. Nó luôn luôn làm những gì nó muốn. Xin hãy để yên cho Mẫn… Tuy nhiên bà Phạm vẫn tự hỏi “Có phải đó là việc Mẫn muốn làm hay không?”. Rồi một buổi tối hôm đó bà đứng ở cửa sổ phòng ngủ nhìn ra căn chòi tranh nơi Mẫn thường ngủ. Cậu bé không ngủ mà ngồi ngay ở cửa, hai tay bó gối nhìn ánh trăng không chớp mắt. Bà nói lớn: - Chắc có điều gì lạ lắm thì phải. Ông Phạm đang ngái ngủ lên tiếng: - Bà nói cái gì thế? - Thằng Mẫn đó. Tôi đứng theo dõi nó đã nửa tiếng đồng hồ. Nó ngồi yên như phỗng đá vậy. Với những việc nó làm ban ngày, đáng lẽ nó đã phải ngủ từ lâu rồi. Nhưng mà không, nó vẫn ngồi bó gối ngoài kia kìa. Ông Phạm vừa ngáp vừa tiến tới bên vợ: - Đáng lẽ tôi phải cho bà biết điều này từ lâu rồi. Tôi thấy nó vẫn luôn luôn ngồi đó suốt đêm. Theo tôi biết, nó hình như không bao giờ ngủ. Thú thực với bà, tôi thấy thằng bé này có vẻ ma quái quá! Nhưng thực ra nó đâu có làm gì phiền ai đâu! Bà Phạm không nói nhưng biết rõ rằng Mẫn đã khiến bà lo nghĩ rất nhiều. Sáng hôm sau, hình dáng cậu bé khiến bà cảm thấy bất nhẫn. Làn da xanh xao của Mẫn bây giờ đã trở thành vàng khè, bóng loáng. Xương trán và xương má của Mẫn như lộ rõ ra. Bà còn lo lắng hơn nữa khi thấy Mẫn có vẻ chậm chạp hơn và mệt mỏi hơn thường lệ. Bà hỏi: - Sao, cháu thấy không được khoẻ trong người có phải không? Mẫn không đáp lại, lặng thinh cúi đầu đi qua trước mặt bà. Cảm thấy bứt rứt, bà Phạm nói với chồng: - Ông coi nó kìa. Tôi nghĩ rằng nó bị bệnh. Nó di chuyển như một ông già vậy. Ông Phạm chăm chú nhìn Mẫn đang cắt cỏ một cách chậm chạp: - Bà nói đúng. Sao da nó bị đen nhiều chỗ thế nhỉ? - Tôi không biết nhưng chắc chắn một điều là nó bị thiếu dinh dưỡng quá độ. Tôi không cần biết mẹ nó nói những gì và tôi sẽ chuẩn bị một vài món ăn ngon lành và bổ dưỡng cho nó. Rồi ngày mai ông đưa nó lên tỉnh gặp bác sĩ xem sao. Nghĩ rằng có lẽ Mẫn thiếu chất protein, bà Phạm bèn làm món súp khoai tây, cà rốt, sườn heo, hột gà, còn thêm một ly sữa tươi và một cái bánh ngọt. Xong xuôi bà gọi Mẫn vào, đưa cậu ta vào phòng ăn và nói thật ngọt ngào: - Cháu mau ngồi vào bàn đi. Tôi sửa soạn một bữa ăn thật đặc biệt cho cháu vì hôm nay là đúng ba tháng cháu làm việc với tôi. Đây là một dịp kỷ niệm dành cho cháu. Mẫn cắn một miếng, rồi một miếng nữa. Cậu nhai miếng sườn heo chầm chậm trước khi nuốt. Rồi cậu ta từ từ đứng lên. Bà Phạm lên tiếng với vẻ lo lắng: - Sao vậy? Cháu chưa ăn xong mà muốn đi đâu vậy? Nhưng Mẫn đã đi ra ngoài rồi. Bà Phạm chạy tới mở tung cánh cửa. Mẫn đã đi tới hàng cây bao quanh mảnh đất với những bước chân thật dài. Bà Phạm lớn tiếng gọi nhưng Mẫn vẫn không hề nhìn lại. Ông Phạm cầm tay vợ: - Thôi cứ để nó yên. Chắc là nó muốn đi về nhà. Có lẽ mẹ nó nói đúng. Đáng lẽ bà không nên cho nó ăn những món đó. Đêm hôm đó bà Phạm trằn trọc suốt đêm. Hôm sau khi trời mới tờ mờ sáng bà đã dậy, ra vườn đi tới đi lui. Đúng như bà lo ngại, Mẫn đã không quay trở lại. Tuy nhiên ngay trước buổi trưa, mẹ cậu ta tới nơi, tiến thẳng tới trước mặt bà Phạm, khuôn mặt bà ta đanh lại: - Bà đã làm việc đó phải không? Bà cho nó ăn sau khi tôi đã dặn bà không được làm như vậy. Bà cho nó ăn cái gì thế? - Thì... tôi cho nó ăn súp khoai tay và sữa tươi, là những thứ đồ ăn cần thiết cho Mẫn. Người đàn bà rên lên: - Súp khoai tây! Trời ơi! Bà cho nó ăn muối rồi! Rồi bà ta rít lên the thé: - Bà điên rồi hay sao? Tại sao bà không để nó được yên? Bà Phạm có vẻ bối rối: - Tôi rất tiếc nếu đồ ăn của tôi khiến cho cháu Mẫn bị bệnh. Đột nhiên bà Phạm đổi giọng giận dữ: - Nhưng... nó thiếu ăn tới độ gần chết đói ngay trước mắt tôi. Tôi không thể nhắm mắt làm ngơ được. Tôi sẽ trả tiền thuốc men và sẽ nhờ một bác sĩ săn sóc cho nó. Người đàn bà kia im lặng trong một phút trước khi lên tiếng bằng một giọng khá buồn bã: - Thưa bà, xin bà vui lòng đi theo tôi để xem những gì bà đã làm cho con tôi. Người đàn bà quay lưng. Bà Phạm đi theo bà ta xuyên qua cánh rừng trước khi tiến tới một chân đồi. Khoảng nửa tiếng sau, hai người tới một túp lều xiêu vẹo nơi ba đứa nhỏ đang ngồi yên ngoài cửa. Khi bà Phạm ngưng lại, người đàn bà nắm tay bà tiếp tục kéo lôi đi. Bà Phạm hỏi: - Đây không phải nhà bà hay sao? Cháu Mẫn không có trong căn nhà này hay sao? Người đàn bà lắc đầu tiếp tục đi tới. Mấy phút sau cả hai vượt qua một hàng cây trước khi tiến tới một khoảng đất trống với một vài ụ đất cỏ mọc um tùm. Một vài ụ đất có cắm cây thánh giá, những ụ khác thì không. Bà Phạm rùng mình: - Đây là chỗ nào vậy bà? Người đàn bà thản nhiên đáp: - Một khu nghĩa trang cũ. Không còn ai dùng đến nữa. Đây, mời bà tới đây. Rồi bà ta chỉ vào một ụ đất. Bà Phạm giật mình nổi gai ốc khi thấy đám cỏ phía trên như bị xé bung ra và dường như có người tìm cách đào một cái hố ở phía dưới. Không một ai hoặc một sức mạnh nào có thể buộc bà tới gần ngôi mộ bị đào tung lên đó. Tuy nhiên từ nơi bà đứng, bà Phạm nhìn thấy dưới hố một hình thù co quắp trong chiếc quần jean sờn rách và cái áo thun bẩn thỉu. Người đàn bà rên rỉ: - Đó, thằng Mẫn đó. Đó là chỗ bà đưa nó tới đó. Chồng tôi và nó chết từ hai năm nay giữa một mùa đông lạnh lẽo vì chứng sưng phổi. Tôi cầu khẩn cả hai trở lại nhưng chỉ có thằng Mẫn đáp lại lời cầu xin của tôi. Nó biết là tôi cần nó. Nó muốn săn sóc cho tôi và mấy em của nó. Nó luôn luôn là một đứa con ngoan ngoãn. Bà Phạm ngẩn ngơ: - Bà nói gì thế? Tôi... tôi không hiểu gì cả... Người đàn bà dường như không để ý, lẩm bẩm: - Tôi phải săn sóc cho nó thật cẩn thận. Bà có biết là bà không thể cho người chết ăn muối hay không? Muối làm người chết quên tất cả mà chỉ nhớ chỗ ngơi nghỉ cuối cùng của họ mà thôi. Chính bà đã khiến cho thằng Mẫn phải trở về với nấm mồ cũ của nó, và từ bây giờ trở đi, chắc chắn là nó sẽ không bao giờ rời khỏi nơi đó nữa…
666-Con số mang đầy ý nghĩa Khơi nguồn của con số 666 hãy phân tách con số 666 để hiểu tại sao con số này lại được dùng để ám chỉ tên của nó. Con số 333 chỉ thần tính của Thiên Chúa. Vì kiêu ngạo mà Lucife nổi lên chống lại Thiên Chúa. Nó muốn được vượt lên trên Thiên Chúa. Con số 333 chỉ về màu nhiệm của Thiên Chúa. Kẻ muốn trổi vượt hơn Thiên Chúa mang số 666, do đó, nó là tên của Lucife, Satan, tên phản Kytô. Số này có nghĩa là tên của kẻ nào đứng lên chống lại Chúa Kytô. Số 333 lần đầu, diễn tả màu nhiệm duy nhất tính của Thiên Chúa. Số 333 lần hai, chỉ Chúa Giesu có hai bản tính: Bản tính Thiên Chúa và bản tính loài người. Số 333 lần ba, chỉ màu nhiệm Ba Ngôi Vị riêng biệt của Thiên Chúa, nghĩa là màu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Do đó, số 333 như đã được diễn giải ở trên, chỉ những màu nhiệm căn bản của Đức Tin Công Giáo, đó là: (1) Màu nhiệm Một Thiên Chúa, nhưng có Ba Ngôi. (2) Sự Nhập thể, chịu nạn chịu chết và sống lại của Chúa Giesu Kytô. Kẻ muốn vượt lên trên Thiên Chúa mang số 666: Số 666 lần đầu (666x1= 666) chỉ năm 666. Vào giai đoạn này của lịch sử, phản Kytô được tỏ hiện dưới hiện tượng Hồi Giáo (*1). Họ chối bỏ màu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi và thiên tính của Chúa Giesu Kytô. Đạo Hồi với lực lượng quân sự, đã chiến thắng mọi nơi. Họ tàn xát các cộng đồng Thiên Chúa Giáo, xâm chiếm Âu châu. Nhờ sự can thiệp của Mẹ với Chúa Cha, mà họ đã không thành công trong việc tiêu diệt hoàn toàn Kyto giáo Số 666 lần hai (666x2 =1332) chỉ năm 1332. Vào giai đoạn này của lịch sử, phản Kytô được tỏ hiện qua đợt tấn công vào căn bản niềm tin vào Lời (Parola) Chúa. Các triết gia bắt đầu đề cao gía trị độc tôn của khoa học, và rồi của lý trí. Dần dần người ta có xu hướng chỉ dựa vào trí thông minh của loài người làm tiêu chuẩn độc nhất để tìm ra sự thật (*2). Từ đó làm nảy sinh ra những sai lầm về triết học ghê gớm mà nó còn kéo dài cho tới ngày nay. Việc dành cho lý trí một vị trí quang trọng qúa đáng, coi đó như là tiêu chuẩn độc tôn để định ra sự thật, thì việc dẫn đến sự phá huỷ niềm tin vào Lời (Parola) Chúa là chuyện tất yếu! Thật vậy, với việc cải cách tôn giáo của giáo phái Tin Lành, Thánh Truyền bị bãi bỏ, không được kể là mạc khải của Thiên Chúa, họ chỉ chấp nhận duy có Thánh Kinh. Nhưng ngay cả với Thánh Kinh cũng phải được diễn giải bằng phương tịện là lý trí. Họ cố tình chối bỏ những giáo huấn chân thật của Giáo Hội, một Giáo hội đã được Chúa Kytô trao phó trách nhiệm bảo vệ kho tàng Đức Tin. Mỗi người được tự do đọc và hiểu Thánh Kinh theo sự giải thích của riêng mình. Với cách thức đó, niềm tin vào Lời Chúa đã bị phá hủy. Trong giai đoạn này của lịch sử, công việc của phản Kytô là gây chia rẽ trong Giáo Hội, đưa tới việc thành lập những giáo phái Kytô mới, để dần dần làm mất niềm tin chân thật vào Lời Chúa (*2). Số 666 lần ba (666x3=1998) chỉ năm 1998. Vào giai đoạn này của lịch sử, tổ chức Tam Điểm được trợ lực bởi những thành viên Tam Điểm nằm trong Giáo hội, sẽ xúc tiến một dự án vĩ đại của họ, đó là dựng lên một ngẫu tượng để thay thế Chúa Kytô và Giáo Hội Người. Một kytô gỉa và một giáo hội gỉa. Do đó, bức tượng được dựng lên để vinh danh con Thú thứ nhất, sẽ được mọi người trên mặt đất tôn thờ. Và nó sẽ đóng ấn tín của nó trên tất cả những ai muốn mua hoặc bán. Dãu đó là dấu của phản Kytô. Cho nên, các con đang ở vào cao điểm của sự thanh tảy, của những đau khổ lớn lao, và của sự bội giáo. Và rồi, tình trạng bội giáo sẽ trở nên phổ quát, vì hầu như mọi người sẽ đi theo kytô giả và giáo hội giả. Rồi cánh cửa sẽ được mở ra. Một gười, hay một kẻ phản Kytô đích thực sẽ lộ nguyên hình” Vậy 666x4=... Câu trả lời chắc chúa mới biết - Theo những bản thảo của người Hy Lạp (bản copy viết bằng chữ Hy Lạp và được "dịch" từ chữ Hebrew )nó không phải là six-six-six (tức 6-6-6 như theo cách thường hiểu ) mà giống như χξϛ, tiếng Hy lạp -- εξ εξ εξ:, - Nếu như dịch theo bảng chữ cái của người Hy Lạp chữ số 666 = Summation ("tổng" trong toán học ) và cũng có nghĩa là "Ella "-một câu cửa miệng của người Ả rập (Lạy Thánh Ala) - tiếng Anh là "GOD" bởi vì Ε=ε=5 , L=λ=30 , Α=α=1 , Η=χ=600. tổng của nó = 5 + 30 + 30 + 1 + 600 =666. Ngoài ra còn có nghĩa là "Sword of the God" (Muốn tìm hiểu thêm về bảng chứ cái Hy Lạp có thể tìm trong Harry Potter tập 12-13 -loại truyện mỏng ấy,phần đố vui thì fải ,ko nhớ lắm ) - Một cách hiểu đơn giản khác về 666 là nó tượng trưng cho lòng nhân đạo bởi vì trong Kinh Thánh nó có ý nghĩa rất đặc biệt : 6 là một con số không hoàn hảo bởi nó chỉ là một phân của số 7 - một con số hoàn hảo ( 7 ngày trong 1 tuần ,7 lưỡi lửa ,7 linh hồn..v.v ). Ba số 6 ( 666 ) là cực kỳ không hoàn hảo.Bởi vậy 666 tượng trưng cho con người , 777 tượng trưng cho Chúa trời . - Có một cách hiểu khác nữa,666 là con số tượng trưng cho một cuộc tấn công chống lại Jesus Christ.Tiếng Hy Lạp Christ được viết là Χριστός (thường có ký tự χς ),và 666 được viết là χξϛ'.Từ ξ trông giống như vật nhọn hay mũi tên (khi viết bằng tay ) ,có thể hiểu rằng nó là một vũ khí để chống lại Chúa.Số 616 ((χιϛ') cũng có ý nghĩa tương tự như 666 do có số lỗi chính tả khi viết ξ thành |. Có thể ξ là ký hiệu tượng trưng cho con rắn. - Người Do Thái nhìn nhận 666 là con số bí ẩn và linh thiêng.6 tượng trưng cho 6 hướng (trên,dưới,nam,bắc,đông, tây).6 là con số của Chúa trời bởi nó là kết quả của Vav.Và 6 là số ngày mà Chúa trời tạo ra thế giới. Tổng của 666 được hỉu là "Ata yigdal na koach Ado-nai " (nghĩa là j thì tôi đêk bít ). Theo tớ trong kinh thánh có 665 điều là dành cho con người, điều 666 là dành cho satan
Chú này cũng rãnh ta, lại còn chả đi thử nữa mới kinh Làm quái gì có chuyện ma quỷ can thiệp được vào cả request giữa client và server