bạn đang suy nghĩ về lượng tử trên hình thánh cơ học cổ điển..một điều tuyệt đối ko nên nhé! còn về sự giản nở của vũ trụ, như một thuyết dc bik, vũ trụ ko thể giản nở mãi mãi dc..một lúc nó sẽ ngừng lại và bắt đầu co rút lại so trường hấp dẫn của các vật chất trong vũ trụ..khoa học gọi nó là Big gì ấy quên rồi (ai nhắc mình nhớ với)
^Big Crunch. Nhưng đây cũng chỉ là 1 giả thuyết thôi, cũng có thể là vũ trụ vẫn sẽ giãn nở mãi mãi nữa.
nhớ rồi..sao mãi mãi đc, đến một lúc nào đó các sao toàn bộ cạn kiệt nhiên liệu, vũ trụ sẽ lạnh và ngụi đi, khi đó lực hấp dẫn là duy nhất và sẽ hãm sự giãn nỡ của vũ trụ và rồi bắt đầu co rút lại
Phật giáo và Vũ-trụ-học Trần Chung Ngọc Trong thời đại khoa học, khi mà những tiến bộ khoa học đã làm lui đi phần nào quan niệm thần thánh và những mớ huyền thoại, mê tín dị đoan của con người, thì càng ngày Phật Giáo càng chứng tỏ là một tôn giáo, từ cấu trúc, tư tưởng trong các Kinh điển cho tới phương pháp hành trì, rất là tương hợp với khoa học. Ngày nay, Phật giáo đã đi vào thế giới Tây phương một cách nhẹ nhàng, cởi mở và hòa đồng. Cho nên thế giới Tây phương càng ngày càng hâm mộ Phật Giáo về những sắc thái tiến bộ của Phật giáo, và những khoa học gia thượng thặng ngày nay cũng đã nhận ra rằng tư tưởng Phật Giáo đã giúp họ rất nhiều trong việc giải thích những hiện tượng khoa học và đã dẫn họ đến những tư tưởng mới và khám phá mới trong khoa học. Muốn hiểu được hiện tượng kỳ lạ trên, chúng ta cần duyệt sơ lại lịch sử khoa học Tây phương cũng như tìm hiểu những sắc thái đặc biệt của Phật giáo đối với khoa học. Theo quan niệm của một số khá đông, nhất là ở Tây phương, thì có vẻ như khoa-học và tôn giáo khó có thể tương hợp. Thật vậy, tôn giáo Tây phương đặt căn bản trên niềm tin ở 1 đấng siêu nhiên toàn năng, tác giả của mọi vật trên thế gian và có toàn quyền quyết định số phận con người trong đời sau, dù rằng cho tới nay không có cách nào con người có thể kiểm chứng được sự hiện hữu của một đấng toàn năng, hoặc những ai đã được thưởng hay bị phạt, và thưởng phạt như thế nào. Trái lại, khoa học đặt căn bản trên thực nghiệm, trực tiếp liên hệ tới những vấn đề xã hội ngay trong đời này, và không chấp nhận những sự việc có tính cách mơ hồ, viển vông, không phù hợp với đầu óc ngày càng tiến bộ của con người. Trong mấy thế kỷ gần đây, khoa-học phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ ở Tây phương, do đó Tây phương rất tự hào về nền văn minh thường được biết là "nền văn minh Thiên Chúa Giáo Tây Phương" (Western Christian Civilization), vì tôn giáo chính ở Tây phương là Thiên Chúa Giáo, và vì những phát triển, tiến bộ ngoạn mục nhất của khoa học và nhiều bộ môn khác cũng ở Tây phương. Nhưng ít người để ý đến sự nhập nhằng kết hợp tôn giáo và khoa học làm một nền văn minh chung. Ít người để ý đến sự kiện là khoa học tiến bộ và phát triển ở Tây phương không phải vì niềm tin trong tôn giáo của các khoa học gia Tây phương, mà chính là vì các khoa học gia đã phủ nhận niềm tin này, hay ít ra cũng là lãnh đạm với niềm tin này. Thật vậy, lịch sử khoa học cho thấy tôn giáo Tây phương, thường tự cho là văn minh tiến bộ, là khai phóng, đã luôn luôn làm đủ mọi cách, trong phạm vi quyền lực thế gian, để ngăn chặn những khả năng tự tại quý báu nhất của con người, thí dụ như óc sáng tạo, tự do suy tư v...v..., những thành tố tất yếu của sự phát triển khoa-học nói riêng, kiến thức con người nói chung. Trong khi đó, Phật Giáo, thường bị xuyên tạc là một tôn giáo yếm thế, chậm tiến, lại có rất nhiều điểm tương đồng với khoa học, luôn luôn hòa hợp, cổ võ, và hỗ trợ những tiến bộ của khoa học, và ngày càng giữ một vị thế thoải mái trong thời đại khoa học. Điều này không có gì là lạ, vì căn bản tu tập trong Phật giáo cũng dựa trên thực nghiệm giống như khoa học, và nếu ta để tâm tìm hiểu thì ta sẽ thấy trong nhiều bộ môn, Phật Giáo đã tiến trước khoa học khá xa về tư tưởng và phương pháp hành trì chứng nghiệm trực tiếp. Hẳn nhiên trong một bài báo ngắn ngủi tôi không có cách nào trình bày toàn vẹn tinh thần khoa học trong Phật Giáo cũng như không thể đi vào tất cả các bộ môn mà tư tưởng Phật Giáo có thể coi như là tiền phong cho những khám phá khoa học sau này. Cho nên sau đây tôi chỉ đưa ra vài sự kiện so sánh giữa những khám phá của Phật Giáo hơn 2500 năm trước và những khám phá mới đây của khoa học chính xác, và tôi sẽ tự hạn trong đề tài "Vũ Trụ Luận" trong Phật Giáo. Tôi sẽ chứng tỏ để bạn đọc thấy nhiều khi Phật Giáo còn chính xác hơn và đầy đủ hơn khoa học, và rằng một số tư tưởng Phật Giáo và phương pháp trình bày các tư tưởng này đã đi trước khoa học nhiều thế kỷ. Quan niệm của Phật Giáo về vũ trụ như sau: thế giới chúng ta đang sống không phải là duy nhất và cũng không phải là trung tâm vũ trụ. Ngoài thế giới chúng ta đang sống còn có rất nhiều thế giới khác, và Phật giáo phân loại các thế giới thành 3 loại: Tiểu Thiên Thế Giới, Trung Thiên Thế Giới, và Đại Thiên Thế Giới. Danh từ thế giới trong Phật -giáo chỉ một thiên thể (thí dụ như trái đất) hoặc một tập hợp các thiên thể được coi như thuộc một nhóm (thí dụ như thái-duơng-hệ mà trái đất là một hành tinh trong đó). Vậy, một ngàn thế giới họp thành một Tiểu Thiên Thế Giới, một ngàn Tiểu Thiên Thế Giới họp thành một Trung Thiên Thế Giới, và một ngàn Trung Thiên Thế Giới họp thành một Đại Thiên Thế Giới. Vậy, lấy đơn vị là một hệ thống tương tự như hệ thống Thái Dương Hệ và gọi là thế giới thì Tiểu Thiên Thế Giới gồm có khoảng một ngàn thế giới, Trung Thiên Thế Giới gồm khoảng một triệu thế giới , Đại Thiên Thế Giới gồm khoảng một tỷ thế giới v..v.. Đó là quan niệm về vũ trụ của Phật Giáo từ hơn 2500 năm về trước. Nhưng sau đó 22 thế kỷ, vào thế kỷ thế 17, Tây phương vẫn còn chưa thoát khỏi quan niệm tối tăm về trời tròn đất vuông, trái đất được coi là trung tâm vũ trụ, và rằng mặt trời quay xung quanh trái đất như đã viết trong Thánh Kinh. Những khám phá mới, xác thực về vũ trụ của các khoa học gia như Copernicus (các hành tinh quay xung quanh mặt trời) và Galileo Galilei (trái đất quay xung quanh mặt trời), vì không phù hợp với thánh kinh, nên đều bị quyền lực tôn giáo đương thời lên án. Vì trường hợp của Galileo đã nói lên phần nào tinh thần tôn trọng sự thật và bất khuất của các khoa học gia, và vì Galileo được coi như là người đã mở một kỷ nguyên mới cho nền khoa-học tân tiến Tây phương, nên tôi nghĩ kể lại vài dòng về trường hợp của ông cũng không phải là vô ích: "Năm 1633, khi Galileo, dựa trên những dữ kiện khoa học không thể phủ nhận, đoan quyết trong một cuốn sách khảo cứu thiên văn của ông rằng: không phải là mặt trời quay xung quanh trái đất mà chính là trái đất quay xung quanh mặt trời, thì ông bị kéo ra trước tòa án dị giáo của giáo hoàng Urban VIII, vốn là bạn của Galileo. Khi đó ông đã già, gần chết. Giáo hoàng phán: "Trước khi chết, ngươì hãy sửa lại điều trên vì nó ngược lại với thánh kinh. Bất cứ điều nào ngược với thánh kinh đều đương nhiên sai lầm, vì thánh kinh là lời của Thượng Đế." Galileo là một khoa học gia vĩ đại, dù đã 80 tuổi, sắp chết, nhưng vẫn còn đầy đủ óc khôi hài tuyệt vời. Ông nói: "Không thành vấn đề, tôi sẽ sửa lại lời tôi viết, tôi sẽ viết lại trong sách của tôi đúng như lời Thượng Đế đã viết trong thánh kinh - nghĩa là mặt trời quay xung quanh trái đất. Nhưng có một điều tôi cần trình ngài rõ: cả trái đất lẫn mặt trời đều không đọc sách của tôi. Và sự thực thì, trái đất sẽ tiếp tục quay xung quanh mặt trời. Nếu ngài nhất định muốn biết tại sao thì tôi có đầy đủ bằng chứng. Tôi đã dùng cả đời tôi để nghiên cứu vấn đề này, và những người có đầu óc khoa học đều tuyệt đối đồng ý với sự khám phá của tôi. Trước sau gì rồi ngài cũng phải đồng ý vì không ai có thể chống lại sự thực lâu dài." (Galileo was a great scientist who, even at the age of eighty, when he was dying, had such a beautiful sense of humor. He said: There is no problem. I will change it; I will write in my book exactly what God has written in the bible - that the sun goes around the earth. But one thing I must make clear to you: neither the sun reads my book nor the earth reads my book. As far as reality is concerned, the earth will continue going around the sun. And why should you insist? Because I have every proof; I have devoted my whole life to the search, and all those who have a scientific mind are in absolute agreement with me. Sooner or later you will have to agree because one cannot remain against truth for long. "Priests and Politicians", Second revised edition, Cologne, West Germany, p.27) " Tuy vậy Galileo vẫn bị buộc phải sửa đổi sự thực khoa học ông đã viết trong sách, bị kết án là "lạc đạo" và bị biệt giam tại nhà cho đến khi ông chết, năm 1642. Nhưng lời tiên đoán của ông đã thành sự thực, tuy hơi chậm. 359 năm sau, ngày 29 tháng 10 năm 1992, giáo hoàng John Paul II, tuyên bố vụ án Galileo là một sai lầm và phục hồi danh dự cho Galileo, sau khi một ủy ban gồm những bộ óc thượng thặng của toà thánh nghiên cứu trong 13 năm về vấn đề Galileo. Trong dòng thời gian vô tận, 359 năm cũng chẳng phải là lâu. Và, 13 năm dùng để nghiên cứu một vấn đề mà đối với toàn thế giới đã rõ như ban ngày từ mấy trăm năm nay cũng chẳng phải là điều phí phạm thì giờ, nhân lực và tiền bạc một cách vô ích, lẽ dĩ nhiên, theo quan điểm của "tòa Thánh" Vatican. Trở lại quan niệm về vũ trụ của Phật Giáo, chúng ta thấy rằng quan niệm này hầu như tương hợp hoàn toàn với những kiến thức ngày nay của những nhà thiên văn (astronomers) hay những nhà vật-lý-học về thiên thể (astrophysicists), và đã đi trước khoa-học nhiều thế kỷ. Một Tiểu Thiên Thế Giới có thể so sánh với quan niệm hiện đại về một thiên hà (galaxy) gồm có cả triệu ngôi sao và những hành tinh có thể có sinh vật trên đó. Thí dụ như giải ngân hà (Milky Way) hay M31, hay chòm sao (constellation) Andromeda. Một Trung Thiên Thế Giới có thể so sánh với một chùm thiên hà (galactic cluster) thí dụ như chùm Coma Berenices, và một Đại Thiên Thế Giới có thể so sánh với cái mà Hannes Alfven gọi là siêu thiên hà (metagalaxy) ở trong Đại Vũng (Big Dipper) của Tiểu Ursa (Minor Ursa) trong đó có ít ra là cả triệu thiên hà. Cho tới nay, vì những giới hạn tự tại của những dụng cụ quan sát cho nên các khoa học gia chưa thể đi xa hơn trong việc khảo sát vũ trụ. Nhưng không phải vì những giới hạn kỹ thuật này mà vũ trụ cũng bị giới hạn theo, và nay chúng ta đã hiểu tại sao Đức Phật lại "bỏ ngỏ" quan niệm về vũ trụ hữu hạn hay vô hạn. Điều này chứng tỏ Đức Phật đã thấy rõ khả năng vô tận của con người, và rằng Phật Pháp không phải là những giáo điều cứng ngắc không bao giờ thay đổi. Và đây cũng chính là tinh thần khoa học hiện đại, không có gì có thể coi như là vĩnh cửu, bất biến. Nói đến quan niệm về vũ trụ của Phật Giáo thì chúng ta không thể bỏ qua Kinh Hoa-Nghiêm, phẩm Thế Giới Thành Tựu. Trong phẩm này, Bồ Tát Phổ Hiền tuyên thuyết về 10 đặc tính của các thế giới: nhân duyên khởi, chỗ trụ nương, hình trạng, thể tánh, trang nghiêm tánh, thanh tịnh tánh, Phật xuất hiện, kiếp trụ, kiếp chuyển biến sai biệt, và môn vô sai biệt. Để cho vấn đề tương hợp với khoa học được rõ ràng, sau đây tôi xin luận về hai điểm : hình trạng và kiếp trụ các thế giới. Chúng ta hãy xét đoạn kinh văn sau đây: Lúc đó Phổ Hiền Bồ Tát lại bảo đại chúng rằng: "Chư Phật tử! Thế giới hải có nhiều hình tướng sai khác, hoặc tròn....hoặc hình như nước xoáy....hoặc hình như hoa ... có vi trần số hình sai khác như vậy." Rồi trong phẩm tiếp theo, phẩm Hoa Tạng Thế Giới, Phổ Hiền Bồ Tát lại tuyên thuyết: "Chư Phật tử! Tất cả thế giới chủng đó hình trạng đều khác nhau: hoặc hình núi Tu Di, hoặc hình sông, hoặc hình xoay chuyển, hoặc hình nước xoáy, hoặc hình trục xe...hoặc hình hoa sen...có vi trần số hình trạng như vậy." ("Kinh Hoa-Nghiêm", Thích Trí Tịnh, Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản) So sánh với những hình trạng của các chòm sao, giải thiên hà, ngân hà khám phá bởi khoa học ngày nay, trong bất cứ cuốn sách nào về Vũ Trụ Học, chúng ta cũng thấy Phật giáo đã mô tả hình trạng của chúng một cách vô cùng chính xác. Thí dụ như các hình như bánh xe, nước xoáy chúng ta có thể quan sát được trong các chòm sao như Cetus, Pegasus và Hercules; hình của Thiên hà NGC 2997 đúng như là hình nước xoáy; hình của khối Tinh Vân Trifid trông giống như một bông hoa, lý do các khoa học gia đã gọi hình này là "những cánh hoa của khối Tinh Vân Trifid" ("Petals" of the the Trifid Nebula); hình của Thiên hà Andromeda trông giống như một cái đĩa; hình của chùm siêu sao mới (Supernova) SN 1987A trông giống như một bánh xe có trục; hình sông là giải Ngân Hà (Milky Way) quen thuộc mà Thái Dương Hệ của chúng ta nằm trong đó v..v… Thật tôi không thể tưởng tượng được ở một thời chưa hề có kính thiên văn, dù thô sơ nhất, mà Đức Phật và các Đại Bồ Tát đã có những hiểu biết chính xác về vũ trụ như trên. Nếu không phải vì đã giác ngộ hoàn toàn, nắm vững cơ cấu huyền bí của vũ trụ, thì làm sao có thể biết được những điều như trên. Và chúng ta cũng nên nhớ là những điều đức Phật và các Bồ Tát chọn để tuyên thuyết cho người đời chẳng qua cũng chỉ là một nắm lá trong tay so với số lá cây trong rừng. Tiếp theo, về kiếp trụ của các thế giới, Kinh văn viết rằng: "Lúc đó Phổ Hiền Bồ-Tát lại bảo đại chúng rằng: "Chư Phật tử! Nên biết thế giới hải có thế giới hải vi trần số kiếp trụ, hoặc có a-tăng-kỳ kiếp trụ, hoặc có vô-lượng kiếp trụ, hoặc có vô biên kiếp trụ, hoặc có vô đẳng kiếp trụ, hoặc có bất-khả-sổ kiếp trụ, hoặc có bất khả xưng kiếp trụ, hoặc có bất khả tư kiếp trụ, hoặc có bất khả lượng kiếp trụ, hoặc có bất khả thuyết kiếp trụ, ..có vi trần số kiếp trụ như vậy." Rồi trong bài kệ để tuyên lại nghĩa này Bồ Tát Phổ Hiền có giải thích bằng một câu: "Hoặc chỉ một kiếp hoặc vô số, Bởi những tâm nguyện đều chẳng đồng." Chỉ một câu "bởi những tâm nguyện đều chẳng đồng" cũng đã giải quyết vấn đề "thiên sai vạn biệt" trong vũ trụ. Thật là đầy đủ, thật là rốt ráo, thật là chính xác. Nếu chúng ta đi sâu vào một chút trong đoạn kinh văn trên, chúng ta sẽ thấy Phật Giáo đã đi trước khoa học như thế nào. Phật giáo phân biệt: Tiểu Kiếp có 16 triệu 8 trăm ngàn năm, Trung Kiếp có 336 triệu năm, và Đại Kiếp có 1 tỷ 344 triệu năm. Theo khoa học hiện nay thì một ngôi sao (coi như là một thế giới) mà chất lượng (mass) càng nặng thì đời sống của ngôi sao càng ngắn. Do đó có những ngôi sao chỉ "sống" được từ 1 tới vài tỷ năm và người ta đã tính được rằng một ngôi sao có chất lượng nhẹ hơn những ngôi sao trên khoảng 90 phần trăm thì ngôi sao này có thể sống tới hàng ngàn tỷ năm. Điều này rất phù hợp với câu kệ trên của Phổ Hiền Bồ Tát, có thế giới chỉ tồn tại một kiếp, có thế giới tồn tại vô số kiếp v...v.... Thứ đến, những danh từ như a-tăng-kỳ, vô lượng, vô biên,...bất khả thuyết có vẻ như mơ hồ và không rõ ràng như những con số trong thời đại khoa học. Thật ra không phải vậy, vì trong phẩm A-Tăng-Kỳ, Kinh Hoa Nghiêm ta đọc được như sau, tôi xin đánh số cho nó rõ ràng hơn: Phật nói: Này thiện nam tử! 1. Một trăm Lạc Xoa làm một Câu Chi. 2. Câu Chi lần Câu Chi làm một A-Giu-Đa 3. A-giu-Đa lần A-Giu-Đa làm một Na-Do-Tha 4. Na-Do-Tha lần Na-Do-Tha làm một Tần-Bà-La và tiếp tục như vậy tất cả là 123 lần, trong đó số 104 là A-Tăng-Kỳ, số 106 là Vô Lượng, số 108 là Vô Biên, số 110 là Vô Đẳng, số 112 là Bất-Khả-Sổ, số 114 là Bất-Khả-Xưng, số 116 là Bất-Khả-Tư, số 118 là Bất-Khả-Lượng, và số 120 là Bất-Khả-Thuyết. Chúng ta biết rằng khoa học ngày nay dùng ký hiệu lũy thừa để viết những con số lớn. Thí dụ như 1 triệu là con số 1 với 6 con số 0 đằng sau, 1 000 000, theo ký hiệu điện toán được viết như sau: 10^6 và đọc là 10 lũy thừa 6; 1 tỷ gồm có 9 số 0 và được viết là 10^9 (billion), lớn hơn nữa là 10^12 (1 ngàn tỷ hay trillion), 10^15 (1 triệu tỷ hay zillion) và khoa học chưa có những danh từ riêng để chỉ những con số lớn hơn. Tiếng Việt thì chỉ tới số tỷ là cao nhất. Theo Kinh Phật thì 1 Lạc Xoa là 100 ngàn, nghĩa là 10^5. Như vậy 1 Câu Chi là 10 triệu, nghĩa là 10^7; 1 A-Giu-Đa là 100 ngàn tỷ, nghĩa là 10^14; 1 Na-Do-Tha là 10 tỷ tỷ tỷ, nghĩa là 10^28. Tiếp tục tính ra ta sẽ thấy 1 A-Tăng-Kỳ là khoảng, nếu chỉ lấy 9 số lẻ, 10^(7.098843361 x 10^31), nghĩa là con số 1 tiếp theo bởi hơn 7000 tỷ tỷ tỷ con số 0 ở đằng sau, một con số vô cùng lớn nhưng vẫn có một tên riêng. Chúng ta có thể suy ra: Vô Lượng = 10^(2.839537344… x 10^32), Vô Biên = 10^(1.135814938… x 10^33),...và Bất-Khả-Thuyết = 10^(4.652297985… x 10^36) nghĩa là con số 1 tiếp theo bởi khoảng hơn 4 tỷ tỷ tỷ tỷ con số 0 đứng đằng sau. Những con số khoa học hiện đại dùng tới có lẽ chỉ vào khoảng 10^40 nghĩa là chỉ có 40 con số 0 đứng sau. Chúng ta thấy ngay rằng, ngay cả về phương diện toán số, Phật giáo đã đi trước khoa học khá xa về sự biểu thị chính xác những con số và đã có quan niệm về những con số vô cùng lớn, lớn ngoài mức tưởng tượng của các khoa học gia hiện đại. Trên đây tôi đã trình bày sơ lược, sơ lược vì còn rất nhiều chi tiết tôi chưa nói tới, những sự tương đồng giữa Phật Giáo và khoa học hiện đại trong một số quan niệm về vũ trụ, và chứng tỏ rằng những tư tưởng Phật Giáo đã đi trước khoa học nhiều thế kỷ, và rằng Phật giáo cũng vô cùng chính xác trong một số nhận định. Nhưng Phật Giáo không phải chỉ có những tương đồng với khoa học trong bộ môn thiên văn như vừa trình bày ở trên, hay với môn Vật lý các hạt nhỏ (particle physics) như đã trình bày trong cuốn The Tao of Physics của Fritjoff Capra, mà còn nhiều tương đồng khác trong các bộ môn như sinh học (bioscience), vật lý hạt nhân (nuclear physics), triết lý khoa học (philosophy of science), tâm lý học (psychology), phân tâm học hay tâm lý trị liệu (psychotherapy), di truyền học (genetics) v...v..., và nếu khảo sát kỹ thì trong bộ môn nào, tư tưởng Phật Giáo cũng đi trước khoa học khá xa. Cũng vì vậy mà những bộ óc khai phóng, tiến bộ nhất của nhân loại hiện nay càng ngày càng phải tìm về những chất liệu trong Phật Giáo với hi vọng giải quyết những bí tắc trong việc mở mang kiến thức loài người. Ngoài ra, cái tinh thần từ bi hỉ xả và bản chất khoan dung của Phật giáo cũng lần lần đi vào đầu óc của những con người tiến bộ trong thời đại khoa học. Để kết luận, tôi xin mượn lời của luận gia Gerald Du Pré như sau: "Trong thế kỷ này, đã có nhiều công cuộc hòa hợp tôn giáo trên thế giới, với mục đích đáng tán thưởng là tìm ra những điểm chung giữa các tôn giáo, và cổ súy tinh thần khoan dung giữa các tôn giáo. Tuy nhiên, điều này không làm cho tôn giáo sống lại, vì những thứ mà hầu hết những tôn giáo (độc thần) cùng có là lòng tin, giáo điều, thánh kinh và các thần tính, tất cả những thứ này làm cho các tôn giáo đó không tương hợp với khoa học. Phật giáo (cùng với Lão giáo) là một biệt lệ, vì Phật giáo không phải là một tín giáo, không có giáo điều cứng ngắc, không có thần quyền và không chấp nhận hiệu lực cứu rỗi của bất cứ ai khác. Tôi không tin rằng chúng ta nên tìm cách hợp nhất Phật giáo với các tôn giáo khác. Điều này chỉ đưa đến sự lẫn lộn. Chúng ta hãy cố gắng tranh đấu để hợp nhất Phật giáo và khoa học, để tạo nên một tôn giáo khoa học cho thế giới hiện đại. Khoa học Phật giáo sẽ làm tan biến sự hoang mang, bối rối bằng cách làm sáng tỏ và hợp nhất lý thuyết và phương pháp hành trì Phật Giáo để làm một căn bản giác ngộ vững chắc, hữu hiệu cho người Tây phương." (During this century, a great deal of work has been done for uniting the religions of the world, with the praiseworthy object of discovering what they have in common, and for promoting tolerance among them. However, this has not lead to a revival of religion, because what most religions have in common is faith, dogma, divine scriptures and deities, all of which make them incompatible with science. Buddhism (along with Taoism) is the great exception to this, for it is not a faith, has no dogma or divine authority of its own and does not accept the validity of anyone else's. I don't believe that we should be trying to unite Buddhism with other religions. This only leads to confusion. Instead, we should be striving to unite Buddhism and science, so as to produce a religion of science for our modern world. Scientific Buddhism will dispel confusion by clarifying and unifying Buddhist practice and theory and making it an effective stepping-stone to enlightenment for Westerners." ("Scientific Buddhism" by Gerald Du Pré, in "Buddhism and Science", Edited by Buddhadasa P. Kirthisinghe, New Delhi, India, 1984). http://giaodiemonline.com/thuvien/doithoai/PGvavutruhoc.htm Bạn nào đọc hết thì vỗ tay cái
Đã từng đọc cái bài dài ở trên kia rồi. Mấy cái bài như vậy hết sức vớ vẩn chẳng có gì gọi là khoa học cả. Toàn tự diễn dịch tự sướng và trích dẫn kinh văn ở đâu đâu rồi ráp vô so sánh để cuối cùng kết luận Phật giáo hơn khoa học (?) Tào lao hết chỗ nói. Muốn đọc Phật giáo và Vũ trụ thì nên tìm cuốn Lượng Tử và Hoa Sen (The Quantum and The Lotus) của Matthieu Ricard và Trịnh Xuân Thuận. Một ông là tu sĩ Phật giáo Tây Tạng (trước kia từng là khoa học gia, cùng làm việc với người đoạt giải Nobel), ông kia là nhà vật lý thiên văn nổi tiếng (được sinh ra trong một gia đình truyền thống đạo Phật).
đỌC 14 đề bit thêm 1 theỏy mới... universe của chúng ta thật ra là 1 con sâu http://www.mangareader.net/597/fourteen.html
Taoism là Đạo giáo, người lập ra là Lão Tử. Taoist là Đạo sĩ, chả có liên quan gì đến Phật gia cả. Có liên quan thì đó là 2 giáo tiên đoán về hình thái của vũ trụ rất chính xác và hợp lý.
Hì, toàn proton với lựong tử ...cao siêu quá :) .Xin cho hỏi Có nhà khoa học trẻ nào giải thích giùm việc tại sao ngừoi ta cho rằng có hàng nghìn tỉ vũ trụ song song không? Và einsteins nói " god does not play dice " có ý gì vậy?
(2) Theo thuyết tương đối của Einstein, di chuyển nhanh hơn ánh sáng đồng nghĩa với du hành thời gian, trong trường hợp này "du hành thời gian" tương đương "du hành về quá khứ". Nhà vật lý Ronald Mallett thuộc Đại học tổng hợp Connecticut (Mỹ) cho biết đã có cách chế tạo cỗ máy thời gian để đưa con người hành trình ngược dòng về quá khứ và du lịch vào tương lai. Theo Ronald Mallett, đó là một kiểu “khí tài bay” có khả năng di chuyển mọi vật và con người từ quá khứ đến tương lai và ngược lại. Khác với đa số các nhà khoa học, giáo sư 57 tuổi này không hy vọng thực hiện được ước mơ xa xưa của loài người là du ngoạn theo hai chiều của thời gian mà ông chỉ nghiên cứu tìm ra phương pháp để di chuyển các nguyên tử cũng như con người đang sống đi theo thời gian. Giáo sư Mallett tuyên bố: “Tôi không phải là một kẻ lập dị. Tôi có ý định xây dựng một mô hình hoạt động và sẽ sớm bắt đầu các cuộc thí nghiệm. Đây cũng không phải là một lý thuyết gì mới mẻ về vật chất, để rồi sẽ mang tên tôi kiểu như “Lý thuyết Mallett”, mà hoàn toàn dựa vào lý thuyết tương đối của Einstein. Tóm lại, tất cả đều được dựa trên những quy luật vật lý đã được biết đến từ trước đến nay”. Theo lý thuyết về trường hấp dẫn của Einstein, bất kỳ vật thể nào có khối lượng và năng lượng đều làm méo không gian và dòng thời gian xung quanh nó, hệt như khi quả cầu rơi xuống một tấm cao su căng phẳng, nó làm cho bề mặt tấm cao su võng xuống tại điểm quả cầu rơi. Theo nhận xét của Mallett, những tia laser một khi bị làm chậm lại khi đi qua đường cáp quang và các tinh thể đặc biệt, có thể tạo nên sự méo mó không gian và thời gian tương tự và có thể dịch chuyển theo thời gian. Giáo sư Mallett và cộng sự tại Đại học dự kiến xây dựng một thiết bị để kiểm tra xem liệu các hạt cơ bản như nơtron có thể di chuyển theo dòng thời gian hay không. Theo dự kiến của Mallett, năng lượng của chùm tia laser đang quay có khả năng làm biến dạng không gian trong vành khuyên ánh sáng sao cho lực hấp dẫn sẽ buộc các nơtron thay đổi hướng quay của nó. Ông cho rằng, khi sử dụng một khối lượng năng lượng lớn hơn có thể làm xuất hiện một nơtron thứ hai. Hạt vật chất thứ hai này sẽ là tương lai của hạt thứ nhất. Trong thực tế, để cho con người có thể du ngoạn trong thời gian cần phải có năng lượng nhiều tới mức mà hiện nay chúng ta chưa thể tạo ra được. Nhưng điều này không làm cho Mallett bận tâm. Theo ông, đây chỉ là vấn đề thuần tuý về mặt kỹ thuật, còn điều quan trọng nhất là đã tạo ra một khả năng có tính nguyên tắc để du ngoạn trong thời gian. Nguồn: lzvetia QUOTE: viễn tưởng củng là viễn tưởng việc này có thể không thực hiện được trong thế kỷ 21 :(
Một số người đặt ra giả thuyết như thế, không ai kiểm chứng tới giờ. Còn câu của Enstein là 1 câu chuyện dài liên quan giữa 2 trường phái Copenhagen và Einsteins. Đó là cuộc tranh cãi kéo dài suốt 20 năm về bản chất của ánh sáng. Mình không đi sâu vào chi tiết vì có khả năng loạn não, chỉ đại ý thế này: Bohr và Copenhagen cho rằng ánh sáng là lưỡng tính sóng hạt, nghĩa là thí nghiệm với tính chất sóng nó sẽ thể hiện tính sóng, thí nghiệm với tính hạt nó sẽ thể hiện tính hạt, về mặt triết học ta có thể coi ánh sáng là đại lượng cảm tính, phụ thuộc vào người quan sát. Enstein không đồng ý như vậy, ông cho rằng ánh sáng là 1 dạng vật chất mà con người vẫn chưa hiểu ra, không thể gán rằng ánh sáng thể hiện sự ngẫu nhiên giữa sóng và hạt, vì theo Enstein, không có vật chất nào lại vừa sóng vừa hạt. Do đó, ý câu nói đó là, mọi thứ đều phải có phương trình trạng thái, ánh sáng cũng vậy. Về mặt triết học, nghĩa là không có sự cảm tính của người quan sát, vật chất vẫn vận động và không bị bó buộc bởi cảm tính con người. ^ Đó không phải là thuyết tương đối của Enstein, thuyết tương đối của Enstein lập nên nhằm phục vụ cho các phép tính về cơ học lượng tử cả về định tính lẫn định lượng. CÒn việc du hành thời gian là ý kiến của 1 số nhà vật lý trẻ sau này dựa vào tính tương đối của thời gian.
không, thuyết tương đối và cơ học lượng tử là 2 trường phái tách biệt, thuyết tương đối của Einstein ko xây dựng để phục vụ cơ học lượng tử. Nói cơ học lượng tử áp dụng thuyết tương đối thì đúng hơn.
Thật ra về mặt lịch sử, cơ học lượng tử dc khởi xướng trước đó bằng các tiên đề của Bohr, Plank và Einstein (1900), ngay sau đó đề giải quyết khúc mắc trong khi thí nghiệm với các hạt khi gia tốc lên với tốc độ lớn thì thuyết tương đối ra đời(1905) Đúng là 2 trường phá khác biệt, cái này bổ sung cho cái kia, nhưng thuyết tương đối hoàn thiện còn cơ học lượng tử thì đầy những câu hỏi. Cũng rất dễ hiểu vì cơ học lượng tử phục vụ cho 2 đối tượng là vũ trụ và vi mô, trong khi đó thuyết tương đối chỉ phục vụ cho các hạt tốc độ lớn hoặc khối lượng cực lớn, còn những vật có khối lượng bt thì Newton đã giải quyết quá tốt rồi.
và thuyết tương đối cực kỳ khó hiểu và sau nhiều năm thì các nhà bác học đã hiểu được nó , đồng nghĩa với việc Einstein trở thành nhà bác học số 1 thế giới , các nhà khoa học khác nghiên cứu những cái gê gớm hơn Einstein nhưng chả đi đến đâu cả , bất cứ cái gì cũng phải được chứng mình bằng toán học cả , cho dù giả thuyết là đúng đi chăng nữa nhưng chưa có toán học thì chưa được công nhận P/S : và quả là quá sức cho chúng ta khi bàn về cái này tuy nhiên 2PIC vẫn rất vui đấy :)
Nếu thế chắc cậu biết Maxwell? Vào thời đấy điện xoay chiều vẫn còn nhiều bí ẩn, nhưng thuyết điện từ của ông đã hoàn thành và chắc ít ai biết rằng nó hoàn thành nhờ 99% là các phép toán học, sau này thực nghiệm kiểm chứng tính đúng đắn của nó. Vì thế người thứ 3 sau Enstein và Newton phải là Maxwell đấy.