Kite xin nhắc là khi nào hệ thống điểm thưởng online, thì bác nào đã đóng góp từ trước tới giờ sẽ được thưởng cao hơn so với người làm sau khi hệ thống ra mắt(cụ thể 180%). Vì thế Kite mong mọi người nên chớp cơ hội mà viết nha.
Lightning Claw - Chủng loại: Powered Weapon Là một loại Powered Weapon chuyên dụng, Lightning Claw bao gồm một găng tay sức mạnh cùng 4 lưỡi dao đang nổ tanh tách trong nguồn năng lượng phân rã vật chất. Những lưỡi dao này cũng tương đương như những Powered Weapon hạng nhỏ khi nó có thể xé rách giáp trụ và xương thịt một cách dễ dàng. Chúng được sử dụng phổ biến nhất bởi những đội Space Marine Terminator Assault; cả đội có thể trang bị chúng, nhưng bất cứ ai có quyền tiếp cận với kho vũ khí cũng có thể sở hữu vũ khí này. Lightning Claws thường được đeo thành cặp. Lightning Claws đã được sử dụng bởi quân đội của Space Marines, Deamonhunters và Chaos Space Marines. Bản vẽ chiếc Lightning Claws Raven’s Talons.Những chiếc Lightning Claws nổi tiếng. - Raven’s Talons là cặp Lightning Claw được tương truyền do chính Corax(Primarch của Chapter Raven Guard) làm bằng tay trên hành tinh Deliverance sau vụ thảm sát trên Isstvan V. - Talon of Horus là cặp Lightning Claw được hợp nhất với khẩu Storm Bolter, có những lời đồn rằng nó đã được cầm bởi chính tay Horus. Power Fist - Chủng loại: Powered Weapon Một chiếc Power Fist(hay còn gọi là Power Glove) là một găng tay kim loại lớn được bao quanh trong một trường năng lượng có khả năng làm phân rã các vật chất cứng. Nó to lớn và chậm chạp trong chiến đấu, vì vậy người mang nó phải chuẩn bị tinh thần ăn đòn trước khi có thể phản công. Một chiếc Power Fist của Imperial Guard.Lợi ích của một chiếc Power Fist chính là sức mạnh mà nó mang đến cho người dùng, khá giống với một bộ Power Armour dựa trên nguồn sức mạnh bổ xung được thêm vào bởi thiết kế điện tử nhằm cho phép nó có thể di chuyển được. Vũ khí này được gắn nhiều nhất trên bộ giáp Tactical Dreadnought của Space Marine. Các sĩ quan trong quân đội Imperial Guard cũng có thể mang vũ khí này. Commissar Yarrick là người nổi tiếng nhất khi nhắc đến vũ khí này, nhờ vào chiếc Power Claw của ông, thứ ông lấy được từ một con Ork Warboss. Những phe cũng sử dụng Power Fist trong chiến trận bao gồm Chaos Space Marines, Sisters of Battle và Eldar. Loài Ork dùng một thứ vũ khí tương tự được biết dưới cái tên Power Klaw, bao gồm một chiếc càng lớn với 3 lưỡi dao và một thiết bị khác tương tự như thứ được dùng trên Dreadnought được gọi là Power Claw với hiểu quả tương đương Power Fist. Commissar Yarrick nắm một chiếc đầu Ork bằng chiếc Power Klaw của ông.Biến thể của Power Fist là Chain Fist. Relic Blade - Chủng loại: Powered Weapon Relic Blade là một Power Weapon lớn cầm hai tay thường được làm dưới dạng kiếm, rìu hoặc đoản kiếm và được bao bọc trong cùng loại năng lượng như những Power Weapon khác. Chúng nặng nề và khó sử dụng trong chiến trận và đòi hỏi phải được cầm 2 tay. Relic Blade cũng gần như ngang bằng với một bộ Artificer Armour(Một bản nâng cấp hạng nặng và hạng khủng của Power Armour, sẽ nói sau trong phần Equipment) khi so sánh với các Power Weapon khác. Rất nhiều vũ khí dạng này đã được tạo ra trong và ngay sau sự kiện Horus Heresy, do đó chỉ những Space Marine với quãng thời gian phục vụ lớn và không có lỗi lầm mới được giao vũ khí này. Chúng tuy không cung cấp cho người sử dụng nguồn sức mạnh lớn bằng Power Fist nhưng lại cho tốc độ tốt hơn nhiều so với những chiếc Power Fist cồng kềnh. Relic Blade chỉ được sử dụng bởi Space Marine, trong đó nổi tiếng nhất là Vulkan He’stan(Forgefather-một chức vụ cao chuyên giành cho những người đi tìm những bảo vật bị thất lạc của Vulkan trong chapter Salamander) cùng với một Relic Blade được gia công và chạm khắc rất tinh xảo, ngọn giáo của Vulkan(The Spear of Vulkan). Honour Guard dùng Relic Blade nhiều nhất(trong một vài trường hợp cả đội được mang), nhờ vào binh nghiệp dài và hào hùng của họ. Chắc chắn là những Vanguard Veteran và Captain cũng được trao quyền cầm thứ vũ khí này. Vulkan He’stan.Thunder Hammer - Chủng loại: Powered Weapon Thunder Hammer là vũ khí có thiết kế từ cổ xưa, cũng sử dụng cùng một loại trường năng lượng với Power Sword hoặc Fist, và được sử dụng bởi Space Marine và Deamonhunter, chủ yếu là các đội hình Terminator Assault và các nhân vật có quyền tiếp cận với kho vũ khí phù hợp. Khi mà các Power Weapon khác phát ra một trường năng lượng liên tục, chiếc Thunder Hammer được thiết kế để chỉ phát ra trường năng lượng khi nó va chạm, giúp nó dự trữ năng lượng cho tới khi thật sự cần thiết, và cũng cho phép thứ vũ khí này mang đến một nhát bổ với sức phá hoại cao nhất. Khi va chạm, trường năng lượng màu xanh da trời của chiếc Thunder Hammer phát nổ cùng với những tiếng sấm, thường thì nó sẽ không phá vỡ và xuyên qua giáp trụ, mà nó sẽ để lại một cái lỗ bốc khói đang lóe lên những tia sét xanh. Sức mạnh mà nó giải phóng khi va chạm sẽ làm những chiến binh không mặc bộ giáp Terminator dễ dàng bị hất tung đi. Hạn chế chính của vũ khí này khi giao chiến chính là sự chậm chạp của nó lúc ra đòn khi so sánh với hầu hết các vũ khí cận chiến khác. Thunder Hammer thường được mang cùng với một chiếc Storm Shield, cho người dùng sức sát thương không có đối thủ và một sự bảo vệ toàn diện trong cận chiến. Trong quá khứ đã từng ghi lại rằng Thunder Hammer có khả năng giải phóng toàn bộ năng lượng của nó trong một đòn tấn công, không chỉ tự hủy vũ khí và giết chết người dùng mà còn bất kỳ đối phương nào đang vây quanh. Tuy nhiên, chức năng này đã bị loại bỏ khỏi những chiếc Thunder Hammer đang hoạt động và đây cũng không được coi là một chiến thuật có thể chấp nhận được nữa. Những chiếc Thunder Hammer độc nhất - Fist of Dorn Là một chiếc Thunder Hammer cỡ lớn được truyền lại cho các đời đội trưởng của đại đội 1 (1st Company) thuộc chapter Imperial Fists. Người đang mang nó hiện nay là đại đội trưởng đội 1 Darnath Lysander. Captain Lysander.- Foehammer Là một chiếc Thunder Hammer với một bộ dịch chuyển tức thời tích hợp, cho phép người mang nó, Arjac Rockfist, có thể ném nó đi và tự quay lại vào tay ông. Arjac Rockfist.
Ok, để mình lo phần vũ khí của IG cho. Nguồn: W40k wiki: Lasgun: Là vũ khí năng lượng, dùng để trực tiếp tiêu hao sinh lực dịch, được dùng bởi các lực lượng vũ trang của Imperium of Man, và là vũ khí bắn tia laser phổ biến và được dùng nhiều nhất trong thiên hà. Là vũ khí tiêu chuẩn cho bộ binh điều khiển từ xa Skitarii, tất cả bộ binh của Ngự lâm quân( Imperial Guard) và sĩ quan học việc của IG. Lasgun là một vũ khí đáng tin cậy, dễ bảo trì và sản xuất, và có thể được tìm thấy ở nhiều hành tinh của Impeium. Lasgun có tầm sát thương xa hơn Laspistol, nhưng không hề mạnh hơn Lascanon hay có khả năng bắn liên liên tục của multi-laser hay Hellgun. Mặc dù không lợi hại như vũ khí với đạn xuyên thấu, chi phí sản xuất thấp, việc thiếu đi cơ sở sản xuất đạn dược và tiếp tế làm cho Lasgun trở thành lựa chọn tốt nhất cho những đội quân của Imperial Guard. Lasgun sử dụng một gói năng lượng di động để tạo nên một điểm tụ của tia laser có khả năng để làm đứt một cánh tay của một con người bình thường nhưng không hiệu quả khi được sử dụng với những thân hình bền bỉ của các giống loài Alien và áo giáp cá nhân mạnh hơn. Một tia năng lượng của lasgun có thể gậy tác dụng ăn mòn bởi sức nóng tức thì của phát bắn. Lasgun sử dụng công nghệ cơ bản tương tự và được vận hành trong cùng một hàng ngũ với những vũ khí laser khác, sản sinh ra một chùm tia photon giàu năng lượng và độ chụm cao. Lượng năng lượng cao từ photon làm tan chảy lập tức bề mặt tiếp xúc.Đây là loại vũ khí không ấn tượng mấy khi so sánh với những vũ khí công nghệ cao trong thiên hà, nhưng nó có thể làm tiêu tan nhiều cơ bắp và thậm chí xuyên thủng Power Armour của Space Marine( nhưng thường chỉ ở vài điểm yếu nhất trên giáp trụ ). Phần lớn Lasgun có đầu ruồi trên đỉnh của nó. Nó được cung cấp năng lượng bởi một gói năng lượng phía dưới súng, phía trước cò lảy, có thể được tiếp năng lượng bằng nhiều cách, kể cả dùng ánh sáng mặt trời. Những gói năng lượng này có thể được nạp "quá tải", một mẹo dùng bởi những quân nhân dày dạn kinh nghiệm của Imperial Guard, có thể làm nổ cái gói, biến vũ khí này trở thành một loại lựu đạn. Giải pháp này chỉ được dùng trong trường hợp bất khả kháng bởi vì sẽ phá hỏng ngay vũ khí đó. Lasgun có nhiều tùy chỉnh năng lượng cho mỗi phát bắn, và để tiết kiệm năng lượng( bắn yếu hơn). Súng có thể được phát tiết năng lượng mạnh hơn nhờ vào gói laser "Hotshot", cung cấp những phát bắn uy lực nhưng thưa hơn.Lasgun có gắn bao lê, có thể gắn lưỡi lê hoặc dao. Một loại súng bắn tỉa từ Lasgun là Long-las, là vũ khí ưu thích của các nhà thiện xạ của IG. Ống ngắm của Long-las được tăng cường để tăng độ chính xác của súng. Nòng mới có cường độ bắn 20-50 phát tùy vào tùy chỉnh nguồn năng lượng và thời gian chờ nguội. Vì vậy, Long-las được thiết kế với kiểu nòng "khóa trượt", dễ dàng khóa và mở khóa. Khuôn mẫu Lasgun tiêu chuẩn dùng bởi Imperial Guard là khuôn mẫu "M-Galaxy", mặc dù có hàng trăm nghìn khuôn mẫu khác, với khuôn mẫu Cadian sẽ khác với Tallarn Desert Raider, Tanith First and Only, hoặc Elysian Drop Trops. M-Galaxy được đưa vào sử dụng từ 2546.789.M35. Lasgun và Laspistol là vũ khí yếu nhất trong những vũ khí giết chóc trong những vũ khí thông dụng của Imperial Guard, và được gọi một cách phổ biến và khinh bỉ là "đèn pin". Tuy nhiên, nó đã được kiểm chứng là có thể giết một mục tiêu không trang bị giáp, cắt rời các cơ quan và nếu bắn vào mắt của mục tiêu, phá hủy não và chết ngay lập tức. Khuôn mẫu tiêu chuẩn của Lasgun: Lasgun hoàng gia tiêu chuẩn, được sử dụng bới hầu hết Trung đoàn của Imperial Guard, có nhiều đồ lề kèm theo( nhưng không phụ thuộc) nhiều kiểu ống ngắm, lê, đèn pin và laser dẫn đường. Biến thể từ các Trung đoàn: Nhiều Trung đoàn của Imperial Guard có nhiều biến thể về thẩm mỹ khác nhau của Lasgun, tùy vào truyền thống trang bị riêng của Trung đoàn và để sản xuất ở các hành tinh với tài nguyên hoặc khả năng sản xuất hạn chế. Lasgun của Catachan, có ít bọc hơn của Cadian, giúp nó nhẹ hơn và dễ mang theo hơn trong rừng rậm mà Catachan hoạt động. Dù vậy phần máy móc vẫn giống nhau ở mọi Trung đoàn. Việc này giúp việc hậu cần của tiếp tế liên Trung đoàn dễ dàng hơn. Những biến thể của nó gồm súng lục Laspistol, súng chống tăng Lascanon và loại uy lực lẫn đắt đỏ Hellgun. Những kiểu Lasgun khác: +M36 Kantrael: Dùng bởi các Trung đoàn của Cadian Shock Troops. +Mk. 4 Catachan Lascarbine. +M35 M-Galaxy( phổ biến nhất). +Mk. IV Accatran dùng bởi Elysian Drop Troops. +Kiểu Tallarn( không rõ tên). +Necromunda sản xuất tại hành tinh hive world Necromunda. +Number 98 Lucius Pattern Lasrifle. +Mk. III Lascarbine( trữ ở Nalwood): dùng bởi những thành viên sinh ra ở Tanith của Tanith First and Only. +Kiểu Mars: dùng bởi Jouran Dragoons. Những đặc trưng của Lasun Cadia: Được ghi nhận trong The Imperial Infantryman's Uplifting Primer, Damocles Gulf Edition: +Dịch vụ thiết kế: súng M-G lasun/lasrifle ngắn. +Khối lượng: 2.3 kg. +Chiều dài: 900 mm. +Loại đạn: 19 viên Meagthule( sạc lại được). +Kiểu bắn: phát một hoặc tự động. +Tốc độ bắn( lý thuyết): 220 phát một phút. +Cường độ bắn: từ cao tới thấp. +Đèn: tùy chỉnh được, đèn trước và sau với đèn laser/ thấu kính gắn trong. Las-Lock: Las-Lock sử dụng công nghệ rất giống với lasgun và laspistol, nhưng về tổng thể thì nó là súng trường có cò lảy. Las-lock có lẽ là sự áp dụng từ công nghệ vũ khí laser ngày nay với những cộng đồng có công nghệ thấp hơn. las-lock bắn phát một, cần nạp đạn sau mỗi phát bắn. Trong khi nó là một vấn đề về tốc độ bắn, một tia laser duy nhất nó phát ra mạnh hơn nhiều so với những vũ khí laser chính thống của Imperial. Những khẩu Las-lock thường được sử dụng bởi các đội quân chiếm đóng của Thế lực Chaos khi chúng đoạt một hành tinh từ Imperium, nhất là những đạo quân hợp pháp "Excubitors". Tuy nhiên, nhiều quân nhân Imperial guard nếu có hứng thú với đồ cổ, sẽ mang theo las-lock hoặc súng lục như một vũ khí dự phòng.
Darnath Lysander Là đội trưởng đại đội 1 của chapter Imperial Fist và cũng là một người anh hùng huyền thoại trong những người lính Space Marine. TIỂU SỬ Lysander được tuyển ngay trên đất mẹ Holy Terra sau một cuộc hành hương kéo dài 13 năm cướp đi cả cha lẫn mẹ cậu. Sự sống sót của cậu trai trẻ qua sự kiện Waaagh! Grozdakk và Quesarch Heresy đã làm cho Lysander trở nên nổi tiếng, và kéo theo cả sự chú ý từ Shadryss,Chaplain của Imperial Fist. Khi Shadryss tìm thấy cậu bé gần Pillar of Bone, một đài tưởng niệm nổi tiếng được biết tới như những gì cuối cùng còn xót lại từ Fortress-Monastery(Nôm na thì nó là cái pháo đài nơi một chapter đặt đầu não) của Imperial Fist trên Terra, ông coi đây như một dấu hiệu của chính Rogal Dorn và thu nhận cậu bé. Cái tên Lysander lần đầu tiên được xuất hiện trong Liber Honorus Imperial Fists(Một cuộn sách ghi những chiến công anh hùng của một số cá nhân trong Fists, trong đấy có Lysander là nổi bật nhất sau trận Colonial Bridge) vào năm 567.M40 dưới vai trò một trung úy chỉ huy đơn vị trong đại đội 2, nơi ông giành được chiến thắng trước một nhóm những kẻ dị giáo ở Iduno trong trận chiến Colonial Bridge. Ngay sau đó ông được thăng lên làm chỉ huy trưởng đại đội 2 vào năm 585.M40 sau khi đổ bộ và chiếm đóng thành công một tàu Cruiser của Eldar có tên Blood of Khaine. Trong trận chiến bao vây Haddrake Tor kéo dài 3 năm, Lysander chỉ huy một cuộc tấn công bằng drop pod nhằm chiếm cao điểm. Khi khu vực đã được chiếm đóng ông thiết lập một điểm Teleport Homer(Một thiết bị của Space Marine có khả năng phát tín hiệu khóa vào các bộ giáp Terminator giúp các đơn vị này có thể vào chiến trường một cách nhanh chóng và tập trung với độ chính xác cao so với kiểu đổ bộ trông thường sẽ bị tản mác), giúp các đơn vị Terminator của đại đội 1 có thể dịch chuyển tới và tấn công các cứ điểm thấp hơn. Tuy nhiên lũ dị giáo đã kịp điểu khiển dòng warp(trong teleport homer) dẫn đến những cái chết của các đơn vị Terminator khi họ bị dịch chuyển vào trong các phiến đá hoặc các vách núi. Lysander là người tận mắt chứng kiến cái chết của đại đội trưởng đội 1 lúc này là Kleitus và được ông trao cho chiếc Fist of Dorn, một chiếc Thunder Hammer toàn năng được ông mang theo và đương đầu với lũ dị giáo. Do sự mất mát lớn đột ngột của đại đội 1, Lysander đã đươc thăng cấp lên làm First Captain, thủ lĩnh đại đội 1, Overseer của kho vũ khí và Watch Commander của tàu Phalanx(Mobile Fortress-Monastery của Imperial Fists). Ông dẫn dắt đại đội 1 trong rất nhiều năm và đã hoàn thiện được chiến thuật dịch chuyển tức thời nhiều đội Terminator vào đội hình địch. Lysander thường đi đầu trong các cuộc tấn công, dẫn tới việc nhiều người nghĩ ông quá thiếu thận trọng và liều lĩnh, nhưng cho đến nay thì may mắn vẫn luôn mỉm cười với ông. Một trong những chiến công hiển hách nhất của ông nằm trong chiến dịch đối đầu với Alpha Legion trên cụm hành tinh Jorgurd. Sau khi bám theo một tuần dương hạm của quân Legion, ông tìm thấy một căn cứ trên một tiểu hành tinh bí mật, Lysander đã có một cuộc đổ bộ nhằm tẩy sạch lũ dị giáo, trận chiến diễn ra ác liệt trong vài giờ, chủ yếu là cận chiến. Lysander và một lực lượng Imperial Fist mà ông chỉ huy trên tàu Shield of Valour đã biến mất trong một trận bão warp và sau một thời gian, ông đã được tuyên bố là đã chết từ phía còn lại của chapter Imperial Fist. Sự thật là tàu của Lysander đã bị lạc vào vùng không gian do Chaos kiểm soát… ngay giữa tầm bắn của một vài tàu chiến của Iron Warrior. Lysander và những người sống sót trận pháo kích diễn ra sau đó đã bị bắt giữ bởi Iron Warrior và đưa tới một trong những Fortress World đáng nguyền rủa của chúng, Malodrax, và bị tra tấn. Thậm chí như vây thì Lysander, không có vũ khí và áo giáp, vẫn trốn thoát được với một số ít người khác và chiến đấu tìm đường đến sự tự do. Khi ông quay về với chapter Imperial Fist, một thiên niên kỉ đã trôi qua ở vũ trụ vật chất. Trong sáu tháng liền ông bị tra khảo bởi các Apothecary, Chaplain và các Librarian, nhưng sau khi không tìm thấy sự vẩn đục nào, Lysander được tái bổ nhiệm vào vị trí cũ của ông, đội trưởng đội 1, Lysander sau đó đã dẫn dắt lực lượng càn quét lũ Iron Warriors khỏi Malodrax và tiêu diệt chúng, do đó ông đã đạt được sự báo thù mà ông muốn. Một vài thời điểm trong đời binh nghiệp của mình, Lysander đã bắt được kẻ đột biến Sarpedon từ chapter Soul Drinker. Đội trưởng Lysander đã chỉ huy Task Force Gauntlet(Lực lượng đặc nhiệm Gauntlet) trên hành tinh Vernalis trong Segmentum Obscurus, một lực lượng hỗn hợp của đại đội 1, đại đội 5, một vài đội trinh sát (Scout Squad) của đại đội 10 chiến thắng trước một lực lượng Chaos bao gồm Legion Emperor’s Children, trung đoàn cận vệ phản bội Roaring Blades và những con quỷ được dẫn dắt bởi kẻ phản bội truyền kiếp Sybaris. TRANG BỊ Trang bị nổi tiếng nhất của Lysander là bộ giáp Terminator của ông, thanh Fist of Dorn cùng với một chiếc Storm Shield. Bộ giáp của ông cũng được trang trí với một loạt purity seals(sẽ nói trong equipment) và tích hợp một bộ teleport homer.
Cả file word gốc và ảnh đều đc lưu vào máy phòng các trường hợp rủi ro ---------- Post added at 15:37 ---------- Previous post was at 13:56 ---------- Arjac Rockfist Còn được biết dưới các tên gọi khác như The Man-Mountain(chả biết dịch thế nào cả, mọi người tự hiểu nhé), Nhà vô địch của Grimnar(Grimnar’s Champion) và chiếc đe của Fenris(Anvil of Fenris), ông là một Wolf Guard(1) của chapter Space Wolves, và cũng là một nhà vô địch riêng của chính Sói Lớn(Great Wolf hay nói cách khác chính là Chapter Master) Logan Grimnar. Ông ấy nói ít, nhưng không phải vì thế mà ông là người không hiểu biết. Ông hoàn toàn biết rõ rằng mình sẽ mãi là một chiến binh và không bao giờ là một thủ lĩnh. Ông khiêm tốn và không bao giờ tự đề cao mình với mọi người, dù vậy thì ông chả bao giờ từ chối một món quà hiếm hoi là được nghiền nát kẻ địch mạnh nhất. TIỂU SỬ Trước khi được giới thiệu vào Space Wolves, Arjac là một thợ rèn của bộ tộc Bear Claw, nổi tiếng vì thân hình khổng lồ của mình, đi kèm là một sức mạnh phi thường. Sau khi gia nhập với Bầy Sói, ông trở thành một Iron Priest(2). Ông đã luôn nhớ về quãnh đời của mình quanh chiếc lò rèn và mong một ngày nào đó có thể quay trở lại với những người anh em Iron Priest của mình. Tuy nhiên với những ai đã từng chứng kiến cơn thịnh nộ huyền thoại của Arjac, họ sẽ thấy một sự thật hiển nhiên rằng tiếng gọi thật sự giành cho ông nằm nơi chiến trường, không phải ở quanh bếp lò. Một năm thật sự đặc biệt với ông ở quần đảo Iron khi một trong những cơn thịnh nộ của Arjac đã giúp ông có một chỗ đứng bên cạnh Grimnar. Khi bãi biển phủ trong tảo biển, và các thảm thực vật quanh núi lửa thì mọc với tỉ lệ cực nhanh – dấu hiệu của một cuộc tấn công sắp xảy ra, nhưng các Iron Priest thì đang quá tập trung vào việc của mình bên lò rèn dung nham để có thể để ý tới . Vì vậy khi hàng ngàn con Kraken tràn lên từ đáy biển, những Priest mới nhận ra mình hoàn toàn bị áp đảo về quân số. Người già nhất trong số các Priest, Hengis Blackhand, không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc ra lệnh niêm phong căn hầm trước những đợt Kraken, đồng nghĩa với việc nhốt hàng trăm người lính giỏi bên ngoài dốc núi lửa. Arjac không đồng ý với quyết định này, nhưng cũng không phí thời gian để tranh cãi với thượng cấp của mình. Ông phá một đường ra khỏi hầm với chiếc búa của mình, mở ra một đường thoát cho những ai kẹt ở ngoài. Gần như tất cả đều chạy thoát vào trong, chỉ có hơn chục người đứng lại và đứng cạnh Arjac khi những đợt Kraken đầu tiền đánh vào. Khoảng 2 giờ sau, cứu viện tới từ The Fang(Fortress-Monastery của Space Wolves) trên hàng trăm tàu chiến Thunderhawk – và nhìn thấy , trên mặt đất, một hình tượng đang kiên cường trụ vững bị bao quanh bởi lũ Kraken và cả những tia sét xanh ánh lên từ những cú vung hết lực của chiếc Thunder hammer. Khi Logan Grimnar và người của ông tới được cửa hầm, thân thể của Arjac vẫn đang chìm trong một núi các bộ phận của Kraken. Sau khi được đào ra, Arjac ngay lập tức được trao cho những Wolf Priest, những người vừa cứu ông từ miệng Morkai về(Morkai là quái vật trong truyền thuyết của người dân Fenris, con chó 2 đầu của Russ – người canh giữ địa nguc). Cực kỳ ấn tượng, Sói Lớn phong ông làm Nhà Vô Địch tại chỗ. Kể từ ngày đó, ông đã đạt được danh hiệu này cả chục lần nữa. TRANG BỊ Arjac được trang bị chiếc Foehammer, một chiếc Thunder hammer đã được tinh chỉnh với một thiết bị teleport cho phép Arjac ném nó đi và lại quay lại tay nhanh chóng. Bên tay kia, ông cầm một chiếc Anvil Shield, một chiếc Storm Shield cũng được tinh chỉnh khiến nó trở thành một vũ khí lợi hại không kém gì Foehammer. TRÍCH DẪN “Khi ngọn núi cũng là Arjac, với đỉnh phủ tuyết trắng Cơn giận dữ che phủ lên những vết thương Và Rockfist vẫn đứng khi tất cả dường như đã mất” +++từ Trường ca của Arjac Rockfist+++ TRIVIA Chiếc búa của Arjac có vẻ như được truyền cảm hứng từ chiếc Mjoinir, chiếc búa của vị thần Bắc Âu Thor, khi mà nó luôn quay về tay chủ khi được ném đi. CHÚ THÍCH (1) Wolf Guard là những chiến binh vĩ đại nhất trong một đại đội lớn của chapter Space Wolves. Nhiệm vụ của họ là dẫn bầy vào trong trận chiến hoặc làm cận vệ cho những thành viên quan trong trong Chapter trên chiến trường, đặc biệt là cho Sói Chúa(Wolf Lord, ngang với chức Captain của chapter khác). Họ cũng thường làm chỉ huy cho các đội, truyền đạt kiến thức và kinh nghiệm của họ cho những lính trẻ hơn dưới quyền. Không như các Chapter khác, tuổi tác không phải là nhân tố chính để thành Wolf Guard. Phần lớn phụ thuộc vào lòng can đảm và sự anh hùng mà họ có. Để có thể đáp ứng được chức năng mà họ được giao, họ được sử dụng những trang bị tốt nhất mà đại đội có thể đáp ứng, bao gồm cả bộ giáp Terminator (2) Iron Priest là một phần của Space Wolves và có nhiệm vụ như một Techmarine nhưng đi kèm thêm một vài chức năng khác. Được yêu cầu phải luôn giữ khí tài của đại đội hoạt động, duy trì machine spirits(nói đơn giản đi thì đây chính là hệ thống tự động) của các phượng tiện và kèm theo tất cả các nhiệm vụ mà một Techmarine phải làm. Họ cũng được giao trông nom các Dreadnaught đang ngủ sâu trong The Fang, và đánh thức họ khỏi giấc ngủ khi chiến trường cần họ. Họ được trợ giúp bởi các Servitor, những kẻ giúp việc mất trí.
Mình đề nghị nên lập hẳn 1 nhóm dịch đi, ko lại mạnh ai nấy làm rồi loạn hết cả lên, mình nhận phần Imperium of Man gồm Imperium, Imperium Army và các thứ râu ria trừ những cái dính dáng đến SM.
Thực ra mình cứ dịch ở đây rồi khi nào có 1 phần đầy đủ thì kite sẽ giúp mình tổng hợp về 1 thread riêng
Bất những thứ gì liên quan đến dịch thuật từ bây giờ trở đi qua bên chat mà bàn. Ở đây chỉ để post bài dịch, hoặc thảo luận lịch sử. Cái kế tiếp là không cần phải lo vì Kite biết vụ này từ trước khi ba huy post bài dịch đầu tiên rồi.
Một chiến binh chiến đấu vì danh dự không thể thất bại. Nhiêm vụ của chiến binh đó là một danh dự. Anh ấy chết vì bổn phận của anh ấy, và nếu nó là 1 vẻ vang, thì là 1 phần thưởng chứ không thể là 1 thất bại, và nó đã vượt qua ranh giới của một nhiệm vụ. Tìm kiếm danh dự bằng chiến đấu, do đó, các người sẽ không biết sợ nữa. Roboute Guilliman. RG là Primacrh của Ultramarines. Ông là người đã định hình lại Imperium of Man sao sự kiện Horus Heresy. Ông là cũng là tác giả của bộ luật Astartes. Sau sự kiện Horus Heresy, ông cùng SP của mình đã gặp Emperor’s Children legion và Fulgrim và ông đã bị Fulgrim dùng một con dao có độc cắt ngang cổ. Trước khi chết cơ thể của ông được đặt lên ngai vàng ở Temple of Correction. Nhiều khách hành hương đã đến đây để coi cơ thể của ông. Một số còn cho rằng các vết thương của ông đang từ từ lành lại. Một số còn tin rằng ông sẽ được hồi sinh khi Imperium of Man bị đe dọa. Thời niên thiếu. Sau nhiều năm trôi dạt đã đưa ông đến hành tinh Macragge. Ông được tìm thấy trên hành tinh này bởi một nhóm các nhà quý tộc đang đi săn trong rừng. Sau đó ông được dâng lên cho Konor Gulliman và ông đã nhận đứa trẻ này làm con với tên là Roboute Guilliman. Roboute lớn lên nhanh chống. Đến sinh nhật thứ 10 ông đã học qua và làm chủ tất cả các kiến thức mà tất cả các nhà thông thái nhất Maccragge dạy ông. Lớn lên ông dẫn quân đi đánh các chiến binh Illyrian và giành được thắng lợi và cả sự tôn trọng của các chiến binh này. Trở về nhà, ông thấy thủ đô của Maccrage trông tình trạng hỗn loạn. Trong lúc ông đi chinh phạt thì ở nhà Gallan đã đảo chính chống lai Konor. Roboute và quân đội của mình tiếp cận thành phố. Ông đã mở đường để đến Senate House. Sau đó ông tìm thấy cha mình đang chết dần. Đến hơi thở cuối cùng Konor đã nói cho con trai mình vì sự phản bội của Gallan. Ông nhanh chống đánh bại quân đội quý tộc và sao đó ông trở thành nhà lãnh đạo cua Maccrage. Sau đó ông đã ra sức xây dựng lại Maccrage và Maccrage đã phát triển hơn bao giờ hết. Chuyến viếng thăm của hoàng đế. Sau khi nghe tin về việc Roboute đánh bại bọn cướp vùng Illyrian thì The Emperor biết ông đã tìm được con trai của mình. Khi đến Emperor đến Maccrage thì Roboute mới biết cha thật của mình là ai. Roboute được giao cho Legion XIII, The Ultramarine. Không phụ lòng Emperor, ông đã giải phóng thiên hà nhiều hơn tất cả các Primarch khác. Khi ông giải phóng một hành tinh khỏi Xenos. Việc đâu tiên ông làm là xây dựng hệ thống phòng thủ. Khi một thế giới được an toàn, ông rời đi và để lại một sô cố vấn của mình ở thế giới đó.
INQUISITOR Inquisitor là một thành viên bí mật và tối cao của Toà an Dị giáo được điều khiển theo lệnh của Thánh Đế để đảm bảo an toàn cho Imperium từ sự đe dọa của Chaos, Orks, Eldar…Inquisitor được chia thành 3 phần: Ordo Xenos ( Alien Hunter) Ordo Malleus (Deamon Hunter) Ordo Hereticus (Witch Hunters) Inquisitors có hai class chính là Acolytes và Throne Agents. Acolytes: là những người mới bước vào Toàn án Dị Giaos và sau này sẽ trở thành Inquisitor nếu phục vự tốt cho chủ của họ. Throne Agent: Là một Acolytes đã phục vụ cho TAGD trong nhiều thập kỉ. Tuyển chọn Inquisitor được rút ra từ Progena of the Schola Progenium, những người cho thấy được khả năng trí tuệ và tâm linh của họ. Có một số người thích hợp để làm Inquisitor được tìm thấy thì họ sẽ trở thành một Acolytes của Inquisitor đó sau đó họ sẽ tìm hiểu những kiến thức từ Inquisitor mà họ phục vụ và nghĩa vụ của mình. Acolytes sẽ được trở thành một Inquisitor khi có được sự đồng ý của 3 Inquisitor khác hoặc của 1 Inquisitor Lord. Một số trường hơp như môt Inquisitor đang thi hành nhiệm vụ bị chết thì lập tức Acolytes sẽ được thay thế vào vị trí của chủ nhân mình. Acolytes làm nhiều việc khác nhau mà cấp trên giao cho, như làm một chiến binh, ghi chép và thẩm vấn. Sau khi Acolytes được thăng cấp lên Inquisitor thì giữa họ và Inquisitor mà họ đã theo phục vụ sẽ không còn rang buộc gì và sẽ giúp đỡ nhau trong tương lai. Quyền lực Inquisitor là một cánh tay đắc lực nhất của chính phủ Imperium, quyền lực của một Inquisitor có thể thay thế tất cả những người khác, theo lí thuyến có thể là High lord of Terra thậm chí là một Chapter Master. Inquisitor tìm sự hổ trợ từ lực lượng SP hoặc các kiến thức và nguồn lực từ Arch Mangos của Adeptus Mechanicus. Khi tìm được một thế giới bị tha hóa, một Inquisitor có thể kết án hành tinh đó bằng hình phạt tối cao nhất Exterminatus. Kết án dị giáo Một số Inquisitor khi tiếp xúc quá nhiều với Warp hoặc tìm hiểu bản chất hoặc cách mà Warp hoạt động, một số khác nếu bị tha hóa bởi Chaos thì họ sẽ bị các Inquisitor khác kết án là Kẻ phản bội, sẽ bị săn đuổi và tiêu diệt như một kẻ thù của Thánh đế.
CHAPLAIN Chaplain là lãnh đạo tinh thần của của các SP chapters. Họ là những chiến binh, sống và chiến đấu bên cạnh anh em của mình. Trong chiến trận, họ sẽ dẫn đầu chapter và thường được thấy nới mà giao tranh xảy ra ác liệt nhất, hô vang những khẩu hiểu của chapter và truyền sức mạnh cho các SP khác. Mỗi Chaplain sẽ được giao quản lí company. Chức vụ của Chaplain trong chapter chỉ dưới Chapter master. Chaplain cực kì trung thành với Thánh Đế và chapter của mình. Chaplain là người rất thông thạo các kiến thức về tôn giáo của chapter. Chaplain chịu trách nhiệm về tính kỉ luật, sức khỏe và đức tin của các SP trong chapter. Reclusiam là nơi mà các Chaplain giảng về lòng trung thành với Thánh Đế. Một số vai trò Trong mỗi chapter thì Chaplain có một vai trò khác nhau. Ví dụ: Blood Angel thì Chaplain có nhiệm vụ tìm ra dấu hiệu Black Rage và dẫn dăt Death Companies vào trận chiến. Dark Angel được giao nhiệm vụ bắt và thẩm vấn bọn Fallen Angel và buộc bọn chúng phải ăn năn vì đã phản bội Thánh Đế trước khi giết chúng. Iron hand thì Chaplain còn được gọi là Iron Father, kết hợp nhiệm vụ của Chaplain với Apothecary và Teachmarine. Space Wolves vừa có chức năng của 1 Chaplain vừa là 1 Apothecaries và được gọi là Wolf Priest. Word Bearers là Legion phản bội duy nhất còn sử dụng Chaplain và được biết đến dưới tên gọi Dark Apostles, có nhiệm vụ là một người diễn thuyết cho Force of Chaos và là chỉ huy cuối cùng của Word Bearers kể từ sự kết thúc của Horus Heresy. Dark Apostles sử dụng Accursed Apostle. Trở thành Chaplain Chaplain được rút ra từ các chapters, những SP đã nhận được huy chương Merit và Devout sẽ được xem xét vào vị trí Chaplaincy. Đầu tiên SP sẽ phục vụ Chaplain của company anh ta như một Intiate. Sau đó một người giỏi nhất trong các Intiate sẽ được gửi đến Solitarium. Tại đây anh ta bắt đầu thiền định và ăn chay, anh ấy có thể ở đây khoảng trên 1 tuần, trong khi đó thì lễ thăng cấp được Reclusiarch và Chief Chaplain chuẩn bị. Sau đó, trước toàn thể chapter anh ta được trao cho dấu hiệu của một Chaplain. Vào thời điểm này Chaplain mới lấy tên gọi của người tiền nhiệm. Khi một Chaplain bị giết trong chiến trận. Một Initiate cao cấp sẽ đeo mũ và tấm lót trên vai của Chaplain đã chết và trở thành một Thủ lĩnh tinh thần. Thủ lĩnh tinh thần đó sẽ được chính thức phong cấp làm Chaplain khi đã chiến thắng và Chaplain đã chết được tha tội. Wargear Mark VI, VII, VIII Power Amour: giáp của Chaplain thường được sơn màu đen. Rosarius: một loại giáp che cổ hoặc một chiếc bùa được đeo ở cổ. Rosarius được coi là áo giáp tâm linh của các Chaplain. Skull-shaped helmet Bolt Pistol Frag Grenades Bolter Plasma Pistol Power Sword Conversion Field Chainswords (đã được đề cập ở các bài trên). Crozius (đã được đề cập ở các bài trên): Khi Chaplain mang Crozius vào chiến trường thì đó là một dấu hiệu rằng trận chiến đó là nghi lễ tối cao trong lịch đạo đức của Chapter (chắc đó là một trân chiến quan trọng hoặc có qui mô rât lớn). Một số Chaplain nổi tiếng Xavier Grimaldus
mình và huybeo đồng ý là mình dịch các loại troop của SM, nếu ghotimus dịch phần chức vụ thì mình né mục đó