Có trên trang chủ của Nhã nam nè http://nhanam.vn/tin-tuc/gui-phan-hoi-va-dang-ky-tham-gia-toa-dam-chua-te-nhung-chiec-nhan
@Argon18: cảm ơn bạn đã góp ý. Lúc trước đọc bản dịch của bạn, mình cũng có để ý đến chữ Quận công. Mình biết Imrahil không phải con vua, nhưng ko hiểu sao mình vẫn thích âm điệu của từ "hoàng tử" hơn. Để lúc nào mình đủ 50 bài thì sẽ sửa lại bản dịch. Lúc bạn đưa cho forum khác xem, nếu không phiền thì nhờ bạn sửa giùm lại thành Quận công hộ :)
Bạn Argon hình như hồi trước đang dịch được nữa đoạn phần truyện của Aragorn và Arwen phải không? Mình sẽ gôm các phần bạn dịch để link ở trang đầu cho các bạn khác có thể dễ dàng theo dõi. P.S giờ tìm trong mấy chục trang này bài viết của bạn cũng khó thật, bạn biết chúng nằm ở trang nào không? - - - Updated - - - Khi nào bạn dịch xong trận Minas Tirith mình sẽ để link lên trang đầu nhé.
Thực ra mình thấy ngoài lối viết kiểu kiếm hiệp hơi bựa thì tay dịch giả cũng khá hay đấy chứ. Vụ tên tuổi thì không cần phải ném đá như thế bởi rõ ràng dịch ra mới đúng cái hay của những cái tên hobbit, Tolkien đã giải thích rõ ràng về gốc từ và nguồn gốc làng quê Anh của tên riêng trong truyện. Chẳng hạn nếu bạn là người Anh thì khi bạn đọc Proudfoot có nghĩa là "Bàn Chân Oách", còn nếu là người VN thì Proudfoot mới hiểu là...Proudfoot Đọc nghe cho nó...Tây Dịch cái bài thơ One ring to rule them all one ring to find them and in darkness bind them ấy, dịch là "một chiếc nhẫn" nghe đỡ củ chuối hơn là "Nhẫn Chúa". Hơn nữa nếu muốn nói đến một cái nhẫn cụ thể thì nó nói là The One or The Ring, One Ring là chỉ 1 chiếc nhẫn chứ k phải cái nhẫn cụ thể rồi (?). Ngoài ra có cái The Bagshot Row là Dãy Lộn Bao, dịch giả đi hơi quá rồi thì phải Bagshot là một tên riêng nguồn gốc rất phức tạp (http://www.bagshotvillage.org.uk/bagshot/name.shtml), cứ để nguyên là Dãy Bagshot cũng được vậy ! và vẫn đang đọc Quyển Một :/ Đoạn phiêu lưu từ nhà ra đi của Frodo dài dòng quá đi mất
Cái link của bạn là giải thích ý nghĩa của làng Bagshot ở nước Anh chứ không phải cái Bagshot của Tolkien đâu Nhưng ý nghĩa chữ Bagshot của Tolkien cũng rất khó dịch, mà Nhã Nam lại kẹt, đã dịch tên rồi thì phải dịch cho hết, gặp mấy cái ghép chữ khó quá lại dịch bừa chẳng khác gì google translate. Bản dịch cũng ổn, bị ném đá nhiều nhất là phần dịch tên thôi. Dịch thơ là một người khác làm, đọc dịch thơ của họ thấy thích hơn.
mình đọc mấy bản dịch thơ của Nhã Nam rất kì. Câu chữ đảo lộn và dùng hán việt lộn tùng phèo cả lên, đọc xong thì chả hiểu nó đang nói về cái gì, trống rỗng lun. Thích cách dịch suông (ví dụ như bài dịch về người lùn). Tuy vần nó ko có hay nhưng đọc lên rất có khí thế và hiểu nghĩa của nó. Bản của NN dịch, tới thơ là next lun cho nhanh.
Mình đọc bản tiếng Anh đến đoạn có thơ cũng next hết luôn ý chứ Đọc tiểu thuyết ngán nhất là mấy đoạn thơ
giống mình này, đọc tiểu thuyết hầu hết là bỏ qua phần thơ, trừ khi nó quan trọng đối với cốt truyện chứ không thì next luôn
Chuẩn bị dịch cho mọi người "Sự Sụp Đổ của Gondolin" từ trong quyển số II của "The Book of Lost Tales". Tuy rất khó dịch nhưng nó miêu tả rất cụ thể diễn biến và các trận đánh nên mình sẽ cố gắng dịch. Các bạn đọc qua Sự Sụp Đổ của Gondolin từ Silmarillion cũng hiểu sơ qua Gondolin. Tuy nhiên trước khi vào truyện mình xin nói sơ lược lịch sử hình thành, cấu trúc và sự phận chia của Gondolin. Vào năm 55 của kỷ thứ nhất, vị thần nước Ulmo đã đến mách bảo Turgon trong giấc chiêm bao rằng hãy tìm đến thung lũng Tumladen và xây dựng nơi ấy một thành phố bí mật. Thành phố Gondolin được xây dựng vào năm 116 Kỷ thứ I. Thần dân dưới sự cai trị của Turgon đã di dân đến đó một cách bí mật từ Nevrast. Thung lũng hình tròn Tumladen bao vây là những dãy núi cao vững chắc gọi chung là Encircling Mountains (hay còn gọi là Echoriath), xưa kia vốn là một cái hồ khổng lồ. Nằm ở giữa là một ngọn đồi ngày xưa là một hòn đảo có tên gọi Amon Gwareth . Turgon đã quyết định xây dựng thành phố Gondolin để tưởng nhớ đến thành phố cổ hùng vĩ Tirion, quê hương xa vời bên kia bờ biển Tây. Nó cần đến 52 năm để xây dựng xong toà nhà đầu tiên. Sau thời gian đó Turgon cùng một số lượng rất đông Noldor và Sindar đã bí mật đi vào thung lũng Tumladen. Turgon đặt tên cho nó là Ondolindë tiếng Quenya có nghĩa là Núi Đá của Nhạc Nước, nhưng theo ngôn ngữ Sindarin thì nó có tên là Gondolin nghĩa là Hòn Đá Bí Mật. Sau khi đến đó định cư, Gondolin tiếp tục được xây dựng vàp phát triển cực thịnh và xinh đẹp như thành phố Tirion chốn thiên đường. Những bức tường trắng của nó cao sừng sững, cao nhất là Lâu Đài Trắng của Đức Vua và xung quanh là những Đài Nước khổng lồ. Cũng nơi đó đích thân đức vua Turgon đã làm nên hai cây Glingal và Belthil, Cây Vàng và Cây Bạc để tưởng nhớ đến Hai Cây của Valinor. Echoriath hay Dãy Núi Bao Quanh (Encircling Mountains) tạo thành một cấu trúc trông như một miệng núi lửa khổng lồ. Lối vào duy nhất gọi là Lối Đi Bí Mật (The Hidden Way) bao gồm đường hầm của một con sông khô cạn và khe núi. Lối vào bị chắn lại bởi một hệ thống gồm 7 chiếc cửa kiên cố và lúc nào cũng được canh phòng cẩn mật. Chúng được làm từ gỗ, đá, đồng, sắt, bạc, vàng và thép. Cánh Cổng Đen (Cổng ngoài cùng ) nằm bên trong đường hầm, trong khi các cánh cổng còn lại nằm trong khe núi và chúng được gọi là Orfalch Echor. Một khi tiến vào thung lũng, lối đi duy nhất để đến được thành phố là leo lên nhiều bật thang cao ngất để đến được Cổng Chính bởi những sườn đồi nơi ấy rất dốc, đặc biệt là đỉnh Caragdûr nằm ở hướng bắc. Theo bản vẽ của Tolkien thì Amon Gwareth có chiều cao 400 feet và đỉnh của nó khá bằng phẳng. Lâu Đài của Đức Vua có chiều cao tương đương, cao gần 800 feet so với đáy thung lũng. Gondolin phân chia thành 11 “Nhà” hay còn gọi là “Thlim”. Sau này khi Tuor đến Gondolin sinh sống thì chàng là thủ lĩnh của một Nhà mới là Nhà Cánh Trắng, nâng tổng số lên 12.
Vương quốc Gondolin hoành tráng quá nhỉ, thảo nào thời sau cứ nhắc đến với vẻ kính cẩn ra mặt. Hóa ra bác Glorfinden làm thủ lĩnh một nhà. Mình thích nhân vật này trong LOTR, tiếc là ko có cơ hội thấy trong phim.
Glorfinden và Ecthelion là 2 Lords của Gondolin và là 2 dũng tướng của vua Turgon, 2 người này là 2 người bảo vệ bên sườn của Turgon khi quân Gondolin rút lui sau thất bại tại trận đánh Nirnaeth Arnoediad. Trong trận chiến tại Gondolin, Ecthelion là người giết được 3 Balrogs và chặn đường quân Morgoth, giết chết Gothmog, Lords của Balrogs, công lao và tài năng ngang ngửa, mình nghĩ chắc còn lớn hơn của Glorfinden, chả hiểu sao cho Glorfinden hồi sinh mà ko cho Ecthelion hồi sinh luôn, 2 người này thường được xem như cặp bài trùng mà nhỉ
Các elf chỉ chết "tạm thời", hồn bay về Cung điện của Mandos để chờ ngày tận thế. Vài anh được gửi ngược trở lại Middle-earth để lo công chuyện, như Glorfinden, giống trường hợp của Gandalf. Chỉ hai anh này là đủ diệt Sauron rồi, nên chắc họ ko cần gửi thêm Ecthelion nữa. "Hồi sinh" với elf chưa chắc đã phải là phần thưởng.
mình đang dịch Gondolin của the Lost Tales. nó có nhiều chi tiết không giống như trong Silmarilion vì khi edit Silmarillion Christopher Tolkien đã chỉnh sửa lại để nó tương đồng với mạch cốt truyện. version này là bản gốc, nó khá dài nên mình sẽ dịch từ từ, dịch đến đâu up đến đó.
Sự Sụp Đổ Của Gondolin (The Book Of Lost Tales) Chuyện kể rằng Tuor sống lang thang trong những khu rừng và chưa từng biết chưa từng nghe thấy đại dương hay hát những bài hát về chúng. Chàng sống quanh một bờ hồ tên gọi Mithrim, chàng săn bắn trong rừng, gãi lên những điệu nhạc ngọt ngào từ chiếc đàn gỗ đơn sơ. Giờ đây nhiều người đã nghe đến biệt danh và tài nghệ của chàng, kẻ gần người xa mong muốn tìm đến để nghe được tiếng đàn Tuor, nhưng Tuor đã ra đi và đến sống những nơi quạnh quẽ. Ở nơi đấy chàng gặp những người Noldoli (người Noldor còn được gọi là Noldoli hoặc Gnome), họ dạy chàng ngôn ngữ và phong tục của họ, nhưng định mệnh của chàng không phải gắn chặt với những khu rừng êm đềm này. Có lẽ vì phép thần hay định mệnh đẩy đưa đã khiến cho một ngày kia chàng tìm thấy một hang động, nơi đó có một con sông bí mật chảy từ hồ Mithrim. Tuor đi vào hang, tìm hiểu hết bí mật của nó, nhưng dòng nước Mithrim đã dẫn lối chàng tiến về phía trước, vào sâu trong tận cùng trái tim lồng núi và chàng không thể nào quay trở về để tìm lại ánh sáng. Tìm kiếm lối đi trong bóng tối, len lõi từng ngõ ngách của vách núi cho đến khi chàng tìm thấy ánh sáng một lần nữa. Chàng trông thấy một con sông chảy cuồn cuộn qua khe núi, nó khá sâu và hai bên sườn không có lối đi. Giờ đây Tuor không còn mong muốn quay về và theo chiều con sông phiêu lưu mãi về hướng Tây. Mặt trời mộc sau lưng và lặn trước mặt chàng, và nơi đó có những con thác nước bắn tung tóe, và nhiều lúc cồng vồng xuất hiện ngang qua khe núi và vì lý do đó Tuor goi nó là Golden Cleft (Khe Núi Vàng) hay Rainbow Roof (Nốc Cầu Vồng), theo ngôn ngữ của Noldor nó còn được Cris Ilbranteloth. Sau ba ngày hành trình, chàng uống nước từ con sông kỳ bí, bắt những con cá vàng, xanh, bạc với nhiều hình thù kỳ lạ. Cho đến khi chàng đến được một nơi, nơi ấy khe núi chợt rộng ra, hai bên sườn núi chũng xuống và gập ghềnh. Rất lâu Tuor nhìn ngấm và lắng nghe tiếng nước chảy, chàng băng qua những tảng đá và cất vang tiếng hát. Những vì sao từ xa chen chút qua vách đá chiếu gọi như đáp trả lại những điệu nhạc từ chiếc đàn thô sơ của chàng. Một buổi chiều kia, Tuor nghe thấy một tiếng kêu kỳ lạ, chàng không biết nó xuất phát từ đâu hay đấy là tiếng kêu của loài vật nào. Nó có thể là những con thú sống quanh những tảng đá hoặc dường như đó là tiếng kêu của một loài chim xa lạ, tiếng kêu chàng chưa từng nghe thấy cho nên âm thanh kia dù nghe có não nề chàng vẫn mừng thầm trong dạ. Buổi sáng hôm sau chàng lại nghe thấy tiếng kêu ấy, nhìn lên trên chàng trông thấy ba con chim trắng to đang đập những đôi cánh mạnh mẽ bay ngược chiều gió. Chúng là những con chim Mòng Biển, những con chim của Ossë. Quanh con sông này có một bờ đá to, nơi đó có bãi cát trắng và Tuor tìm đến đó trú chân.Chàng không hay biết rằng mình đang tiến gần ranh giới của Đại Dương (The Great Sea). Chàng đi dọc theo dòng nước chảy qua những khe núi cho đến khi đến được một vùng đất có nhiều cây xanh tươi, chúng rung mình theo những cơn gió đến từ rất xa, chàng tiếp tục lang thang cho đến khi tìm thấy một vực đá đen nằm gần bờ biển và đó là lần đầu tiên chàng trông thấy đại dương và nghe thấy những đợt sóng biển dạt dào. Chàng đứng trên dốc đá mở rộng đôi tay, trái tim chàng cảm thấy lâng lâng khó tả, như có một tình yêu kỳ lạ chàng dành cho đại dương. Nhiều người cho rằng chàng là con người đầu tiên đặt chân đến biển, và khi nhìn đến nó chàng hiểu được ý muốn của nó. Vào một buổi chiều tối khi mặt trời nấp mình sau vách đá, niềm khao khát phiêu lưu một lần nữa đốt cháy trong lòng chàng. Sáng hôm sau chàng nhìn ra biển và đó là một ngày cuối cùng của mùa hè. Tuor trông thấy ba con thiên nga trắng đang bay đến từ phương bắc. Loài chim này Tuor lần đầu trông thấy và chàng xem đó là một dấu hiệu lạ. Chàng nhũ thầm: “ Đã lâu trái tim đã mách bảo ta rời bỏ chốn này. Thôi thì ta hãy theo dấu ba con chim kia”. Những con chim thiên nga đáp chân mặt hồ và chúng đang chuẩn bị xãy cánh bay xa về hướng nam dọc theo bờ biển, Tuor vội lấy đàn và ngọn giáo chạy theo sau chúng. Chàng theo chúng đến một vùng đất một lần nữa có rất nhiều cây xanh, tuy nhiên nơi ấy trông vô cùng xa lạ so với những nơi chàng đã từng đi qua. Chàng trèo lên dốc đá cao nhìn thấy xung quanh là những cây tùng, cây sồi già nua. Từ dưới chân những ngọn đồi chàng ngữi thấy trong gió có mùi hương biển mặn mà cùng những cơn gió của đại dương. Những con thiên nga đã bay xa trước mặt chàng, chúng lượn quanh bất ngờ và chậm chạp bay đi nhưng không bao giờ đáp xuống mặt đất, chúng đập những đôi cánh mạnh mẽ như có vẽ hối thúc chàng. Giờ đây vùng đất này nằm xa hướng bắc, đó là một vùng đất trù phú với những đồng cỏ xanh mượt và những cây cao chót vót. Tiếng chim hót lếu lo trong gió, và cũng nơi đây Tuor đã mất dấu những cánh chim trắng của loài chim thiên nga và không còn gặp lại chúng. Chàng ở lại nơi đó khá lâu, có lẽ cảm thấy mệt mõi với đại dương hoặc theo mong muốn của vị thần Ulmo, vào một buổi tối có một nhóm người Noldor đến và đánh thức chàng trong giấc ngủ. Họ mang đến những chiếc lồng đèn phát ra một màu xanh kỳ lạ và dẫn lối chàng trong bóng tối, đại dương và sóng biển chàng bỏ lại phía sau. Và không lâu chàng đến được một vùng đất tên gọi Arlisgion. Nơi ấy có một con sông vô cùng nỗi tiếng trong lịch sử của Eldar và Noldor, và trong tất cả ngôn ngữ nó có tên gọi Sirion. Chàng tiếp tục phiêu lưu từ xuân sang hạ đến một vùng đất xinh đẹp hơn. Nơi ấy có những con chim bé nhỏ với tiếng hót êm tai. Không có loài chim nào có những tiếng hót hay như thế bởi chúng là loài chim của Vùng Đất Dương Liễu (Land of Willows) hay còn được gọi là Nan-tathren. Nơi ấy cỏ xanh rờn, với vô số cây dương liễu với tuổi thọ không sao đoán được. Chàng vui sướng khi lần đầu trông thấy những cánh bướm xinh đẹp, truyền thuyết cho rằng tổ tiên của tất cả loài bướm đều có nguồn gốc từ thung lũng Dương Liễu. Mùa hè lại đến, Tuor bất ngờ khi nghe thấy những tiếng kêu vo ve của các loài côn trùng, những con ông hút mật trên cành, chàng đặt tên cho chúng và đưa chúng vào những bài hát mà chàng nghĩ ra. Giờ đây vị thần Ulmo e sợ Tuor sẽ sống mãi nơi xinh đẹp ấy. Ngài không an tâm khi trao trọng trách cho những người Noldor mà ngài bí mật liên lạc để đến hướng dẫn Tuor. Giờ đây ngài lên một cỗ xe với hình thù kỳ quái từ phía trước lâu đài của ngài nằm xa Outer Sea (Outer Sea còn có tên gọi Ekkaia hay Encircling Sea, Đại Dương Bao Quanh. Nó là một đại dương bao bộc quanh tất cả các vùng đất của Arda, Trung Địa và Aman). Cỗ xe có hình thù như một con cá voi khổng lồ, với tiếng tiếng còi từ vỏ ốc ngài tăng tốc lên đường. Ngài đi với tốc độ kinh hoàng và không lâu đã đến cửa khẩu con sông. Ngồi trên cỗ xe, ngài lo sợ sẽ làm tổn thương đến những con nước và bờ cát xinh đẹp của nó vì Ulmo yêu thương tất cả các con sông và đặc biệt là chính con sông này. Ngài đi chân không, vận một áo giáp với những lớp như những vãi cá to xanh và bạc. Tóc của ngài ánh một màu xanh bạc và râu ngài dài đến chân với cùng màu sắc, ngài không hề đội mũ hay vương miện. Bên dưới chiếc áo giáp là chiếc áo với màu xanh lá cây, chúng làm từ vật liệu gì thì không ai biết, nhưng bất kỳ ai nhìn vào màu áo ấy như được trông thấy những động tĩnh từ những nơi sâu xa nhất dưới lồng đại dương nơi nhưng loài cá phát quang ra những màu xanh kỳ lạ, lưng ngài đeo một sợi dây trên đó đính một viên ngọc rất to. Ngài cũng mang theo một nhạc cụ kỳ lạ bởi nó được làm từ những vỏ ốc rất dài, vặn vẹo và được xuyên thủng nhiều lổ nhỏ. Ngài thổi lên những điêu nhạc kỳ bí với những ngón tay dài ngoằng, điệu nhạc ấy hay hơn tất cả các làn điều mà các nhạc công tài ba nhất từng chơi trên đàn hạc, sáo, hay tiêu. Đó là buổi tối khi Tuor nghe thấy những âm thanh kỳ lạ. Quỳ dưới những bãi cỏ dài, chàng không còn nghe thấy những tiếng kêu của côn trùng, những tiếng ai oán bên kia bờ sông, những mùi hương cỏ dại không còn xông vào mũi chàng. Đoạn Ulmo xuất hiện và đến nói chuyện cùng chàng. Giọng nói ngài sâu thẵm và cặp mắt ngài chất chứa những gì đó sâu thẵm của tất cả vạn vật. Ngài bảo rằng “O Tuor trái tim cô đơn. Ta sẽ không để con sống mãi nơi này, dù nơi đây xinh đẹp có hoa thơm cỏ lạ, có muôn chim với những tiếng hót ngọt ngào. Nhưng số phận con không thuộc chốn này, giờ con phải lên đường vượt qua những vùng đất lạ tìm kiếm một thành phố có tên gọi Gondolin, và người Noldor sẽ đến hộ tống con trong bí mật để tránh tai mắt của Melko. Những lời nói ta đã đặt trên miệng con, và nơi ấy con sẽ sống lại rất lâu. Vâng có thể một lần nữa định mệnh sẽ khiến xui con đến đại dương thêm một lần nữa, và chắc rằng một đứa trẻ sẽ khám phá ra lối đi từ đại dương đến chốn thiên đường mà không một ai tìm thấy.” Đoạn Ulmo nói với Tuor những gì ngài mong ước và kế hoạch của mình, nhưng lúc ấy Tuor bối rối vì sợ hãi nên hiểu rất ít những gì Ulmo dạy bảo. Còn Tiếp
Cho mình hỏi 1 chút, nhìn bản đồ phía trên thì mình không hiểu được hành trình của Tour lắm ! Bắt đầu từ hồ Mithrim nằm ở giữa phía bắc, đi theo con sông ngầm về phía tây là tới Nevrast hoặc Falas rồi gặp những người Noldor đánh 1 cái cung vòng xuống sông Sirion ở ngay giữa bản đồ phải không ?