Bản so sánh tên riêng của chương 8 cho những ai trót lỡ mua cuốn kia của nhã nam của bạn rượu nếp trên mạng - - - Updated - - - còn bàn mấy tên khác nữa nhưng mình hok có post, ai cần hô thì post
Có danh sách đối chiếu đầy đủ đây này bác last: http://lotr2013.wordpress.com/2013/02/24/danh-muc-doi-chieu-doan-ho-nhan/ Dù sao nếu dịch giả Nhã Nam bị ép phải dịch tên riêng thì tớ cũng ko muốn bình luận gì nhiều. Họ đã làm hết sức rồi. Vì tớ ko muốn mất công chỉ trích người khác một cách vô ích, nên tớ mới phải ngồi dịch lại Nhảy ra nhảy vô với chương đầu của Fellowship và mấy chương của Minas Tirith cũng mệt.
Uhm, mai là có phần kết trận Minas Tirith đúng không cậu ? Share cái danh sách đầy đủ lên là đỡ copy và quote từng chương như trước
Cho mình hỏi là barlog lúc đến Moria thì người lùn còn sống ở đó ko ? Nếu còn sống sao to như vậy mà ko ai biết nó núp ở trỏng từ lúc nào ?
Balrog ngủ vùi ở tầng sâu nhất của Moria từ đời xửa đời xưa, ko ai thấy được, lúc đám Người Lùn đào mỏ sâu quá mới kinh động đến nó thôi.
một câu hỏi khá thú vị, để giúp trả lời câu hỏi này mình sẽ giúp đưa ra những sự kiện gì thật sự đã xảy ra, còn câu trả lời chính xác thì bạn có thể tự suy diễn vì Tolkien đã không viết cụ thể nó nó chui vào Moria bằng lối nào. Nếu bạn có thể đọc được TA thì có cả một topic thảo luận về câu hỏi trên bạn có thể tham khảo http://forum.barrowdowns.com/showthread.php?t=17193 và đây nữa http://www.forum.barrowdowns.com/showthread.php?t=15804&highlight=DUrin's+bane+moria - Ở kỷ thứ I Moria đã được thành lập và phát triển, tuy nhiên nó không dính dáng gì đến những trận chiến giữa Morgoth và Eldar + Edain. vì Căn cứ chính của Morgoth và Elf lúc đó chủ yếu tập chung ở vùng Tây Bắc của Trung Địa, trong khi Moria thì nằm cực xa, ở hướng đông ở Dãy Núi Sương Mù. - sau trận War of Wrath cả vùng Tây Bắc Trung Địa xưa bị nhấn chìm dưới đáy đại dương, tuy nhiên Moria đã là nơi an toàn. Nhiều người lùn đã di cư đến đó, trong đó có kẻ tốt kẻ xấu . - cũng thời điểm đó những con Balrogs chốn sâu dưới lồng đất, và một con đã lưu lạc đến Moria và ẩn thân sâu dưới lồng đất. - Theo Appendix A của LoTr thì khoảng giữa của kỷ thứ III dưới đời vua Durin thứ 6 thì Moria đang triển và người lùn bắt đầu đào sâu thêm để tìm kiếm kim loại quí mithril thì đã đánh động đến con Balrog hậu quả là sự diệt vong của Moria ( ban có thể đọc thêm lịch sử Người lùn mình đã post). theo ý cá nhân mình CÓ THỂ khi Balrog đến Moria ở kỷ thứ I thỉ Moria chưa phát triển rộng lớn như kích thước ở kỷ thứ III. có thể khi chạy trốn ẩn thân ở kỷ thứ I thì con Balrog đã chui xuống một đường hầm nào đó chui sâu xuống lồng đât. và lồng đất nơi nó ở thỉ nằm gần Moria, cho mãi về sau khi Moria phát triển rộng và sâu thêm thì họ mới phát hiện ra nó?
Người lùn dòng dõi Durin sống ở Moria từ rất rất lâu rồi vấn đề là Moria là 1 phần thuộc dãy núi mù sương, con Balrog nó chạy đi đường khác và nó chui sâu xuống đất theo kiểu ngủ đông, người lùn do tham lam quá nên họ đào rất sâu vào núi, càng ngày càng sâu hơn thì đụng phải nó và đánh thức nó - - - Updated - - - P/s: tiếc là người lùn Moria có vẻ hơi fail, gặp người lùn Belegost của ngày xưa có lẽ con Balrog ko làm càn như vậy được đâu
Balrog là maiar, Gandalf cũng là maiar nên cùng đẳng cấp với nhau rồi, trông ông ấy già chứ gân lắm đấy
Trận Minas Tirith (3 chương trong Tập cuối "Sự trở về của nhà vua") Chương 4 Bủa vây Gondor ... Cổng thành đã đóng. Suốt đêm, lính gác trên tường thành nghe thấy tiếng vọng của kẻ thù ở bên ngoài đang thiêu đốt cây cỏ, và chặt đầu bất cứ người nào chúng tìm thấy, còn sống hay đã chết. Trong đêm tối, không thể đoán được bao nhiêu quân địch đã vượt Sông, nhưng khi trời sáng, đúng hơn là lờ mờ đổ sáng trên đồng bằng, quân số của chúng đông chẳng kém đồn thổi trong đêm là bao. Cánh đồng đen kịt vì những đại đội đang hành quân ; khu thành bị bủa vây bởi trùng trùng điệp điệp những trại đóng quân mọc lên như nấm đến hút tầm mắt, mang màu đen hoặc đỏ sậm. Như đàn kiến bận rộn, bầy orc hối hả đào bới, đào những hào sâu tạo thành một vòng tròn khổng lồ, ngoài tầm tên bắn từ tường thành. Mỗi con hào đều thắp đầy lửa, nhưng thắp như thế nào, bằng xảo thuật hay ma thuật, thì không ai có thể thấy. Chúng cứ tất bật như thế cả ngày, trong khi lính tráng của Minas Tirith trông xuống mà không thể ngăn chặn được. Khi mỗi đoạn hào đã đào xong, họ có thể nhìn thấy những xe kéo lớn tiến đến, rồi nhiều toán địch nhanh chóng dựng nên những cỗ máy bắn đá khổng lồ sau mỗi bờ hào. Không có cỗ nào trên mặt thành đủ tầm để bắn tới đó hoặc để cản địch lại. Thoạt tiên, người trong thành cười nhạo và không thấy sợ hãi gì những thiết bị đó. Vì bức tường chính của khu thành rất cao và đặc biệt dày : chúng được xây khi quyền năng và tài nghệ của Númenor vẫn chưa suy tàn chốn tha hương ; mặt thành ngoài thì nhẵn cứng và đen giống như tháp Orthanc, bất khả xâm phạm trước thép và lửa, và không thể bị phá vỡ, trừ phi bởi một cơn động đất ở ngay cái nền mà nó xây trên. ‘Không đâu,’ họ nói, ‘kể cả nếu Kẻ thù Không tên đích thân đến, ngay cả hắn cũng không thể xông vào chừng nào chúng ta còn sống.’ Nhưng người khác đáp lại : ‘Chừng nào ta còn sống ? Đến chừng nào đây ? Hắn có một thứ vũ khí đã hạ gục nhiều thành quách kiên cố từ xưa đến giờ : Cơn đói. Đường tiếp viện đã bị chặn. Rohan sẽ không tới.’ Nhưng những cỗ máy chẳng hề phí công bắn vào bức tường kiên cố. Cuộc tấn công vào địch thủ lớn nhất của Chúa tể Mordor không phải do một tên trộm cướp hay orc tầm thường nào chỉ huy. Một thế lực dụng tâm hiểm độc đang hạ lệnh công thành. Ngay khi những cỗ máy bắn đá lớn vừa dựng xong, cùng nhiều tiếng hò la và tiếng kẽo kẹt của dây dợ với ống tời, chúng bắt đầu bắn rất cao, cao đến nỗi các tảng đá bay vượt qua lỗ châu mai và rớt huỵch xuống tầng thành thứ nhất ; bằng cách nào đó nhiều tảng bùng lửa khi rơi xuống. Chẳng mấy chốc, phía trong tường thành đã phát hỏa dữ dội, những người có mặt đều phải vật lộn để dập tắt ngọn lửa đang lan ra khắp nơi. Và rồi, trong những đợt bắn mạnh hơn, một loạt đạn mới lại được trút xuống, không tàn phá gì nhưng độc địa hơn. Chúng lăn xuống các con phố và ngõ hẻm sau Cổng thành; nhỏ, tròn và không bốc cháy. Nhưng khi người dân chạy đến xem thử chúng là gì, họ kêu thét lên hoặc bật khóc. Vì kẻ thù đã quăng vào trong thành thủ cấp của những chiến sỹ đã hy sinh ở Osgiliath, hay ở Rammas, hoặc ở trên cánh đồng. Thật thương tâm khi nhìn vào : vài cái đầu bị nghiến nát không còn hình thù gì, vài chiếc bị bổ một cách tàn bạo, nhưng nhiều chiếc vẫn còn đủ hình dạng để nhận ra rằng những con người đó đã chết trong đau đớn. Chiếc nào cũng bị đóng con dấu gớm ghiếc của Con mắt Không mi. Mặc dầu bị hành hạ và bị lăng nhục, trên những cái đầu ấy, thỉnh thoảng người ta vẫn thấy lại được một gương mặt thân quen, một con người đã từng bước đi kiêu hãnh với thanh gươm, hoặc từng cấy cày trồng trọt, từng ruổi ngựa về sau một chuyến dạo chơi ở thung lũng xanh tươi phía bên đồi. Người người giơ nắm đấm vô vọng lên với đám kẻ địch tàn bạo đang nhung nhúc trước Cổng thành. Bọn chúng chẳng bận tâm đến những lời nguyền rủa, vả lại chúng cũng không hiểu ngôn ngữ của con người phương Tây. Chúng la hét chói tai như tiếng súc vật và quạ kêu. Không lâu sau, chẳng còn mấy binh lính trong thành Minas Tirith đủ vững dạ để đương đầu với quân đoàn Mordor. Vì Chúa tể của Ngọn Tháp Tối còn một thứ vũ khí khác, lợi hại hơn cả Cơn đói : đó là khiếp đảm và tuyệt vọng. Bọn Nazgûl lại tới. Chúa tể Hắc ám của chúng đã lớn mạnh hơn và đang phô trương quyền lực, nên tiếng thét của chúng cũng ác độc và khủng khiếp hơn, như chính tâm địa của hắn. Chúng bay vòng vòng trên khu thành như những con kền kền đang chờ ăn xác người. Chúng bay ngoài tầm bắn và tầm quan sát, nhưng mọi người đều cảm thấy chúng, nghe thấy giọng chúng trong không trung. Với mỗi tiếng thét chúng càng trở nên kinh dị khôn tả. Sau một hồi, ngay cả những người gan dạ nhất cũng phải chúi mình xuống mỗi khi mối hiểm họa giấu mặt lướt qua trên đầu. Hoặc họ đứng sững ra, đánh rơi vũ khí khỏi bàn tay bất động, trong khi đầu óc họ tối dần lại ; họ không nghĩ gì đến chiến đấu nữa, mà chỉ nghĩ đến trốn chạy, chui nhủi, và chết chóc. ... Cận vệ đến trước cửa, kêu xin gặp quan Nhiếp chính. ‘Không, ta sẽ không xuống dưới thành,’ Denethor nói. ‘Ta phải ở bên con trai ta. Có thể nó sẽ còn nói được chút gì trước giờ lâm chung. Cũng sắp rồi. Hãy đi theo bất cứ kẻ nào mà các ngươi muốn, kể cả Lão ngốc Áo xám, dù mộng tưởng của lão đã tắt. Ta ở lại đây.’ Và thế là Gandalf đứng ra chỉ huy tuyến phòng ngự cuối cùng của Gondor. Ở nơi nào ông tới, sĩ khí đều hăng hái trở lại, và mối hiểm họa có cánh đều biến ra khỏi tâm trí họ. Ông sải bước không mệt mỏi từ Thành nội đến Cổng thành, từ tường bắc tới tường nam, đi cùng ông là Quận công vùng Dol Amroth trong khiên giáp sáng ngời. Chàng và các hiệp sỹ tùy tùng vẫn giữ trong mình phong thái của những vị chúa tể Númenor đích thực. Khi thấy họ, mọi người thì thào : ‘Truyền thuyết thế mà đúng, họ mang dòng máu Tiên trong người, vì thời xưa tiên xứ Nimrodel vẫn sống ở vùng đó.’ Và rồi, bất chấp không khí ảm đạm, một người sẽ cất giọng hát vài khúc trong Trường ca Nimrodel, hoặc những bài ca khác về Thung lũng Anduin từ những ngày xa khuất. Tuy thế, khi các hiệp sỹ đi khỏi, một màu đen lại phủ lên lính tráng. Trái tim họ trở nên tê lạnh, tinh thần Gondor trong họ lụi như tro tàn. Một ngày xám xịt của những nỗi sợ dần trôi qua, nhường chỗ cho bóng tối của đêm vô vọng. Lửa đang hoành hành vô đối trong tầng thành thứ nhất, và lớp phòng vệ trên thành ngoại đã hổng rất nhiều chỗ do binh lính rút lui. Nhưng những kẻ trung thành còn đứng lại cũng chẳng nhiều nhặn gì ; phần lớn đã bỏ chạy vào sau lớp cổng thứ hai. Xa phía sau trận tuyến, cầu vượt sông đã được bắc lên nhanh chóng, quân địch cùng nhiều quân trang đã đổ bộ tới tấp trong ngày. Trong đêm khuya, đây mới là lúc chúng xuất kích. Quân tiên phong vượt qua các con hào lửa bằng nhiều đường quanh co nối giữa chúng. Bọn chúng liều lĩnh tiến lên, kết thành từng bầy, bất chấp làn tên bắn khi chúng vào đến tầm ngắm của cung thủ trên thành. Nhưng còn quá ít cung thủ ở lại để cản chúng, kể cả khi ánh lửa soi rõ mục tiêu cho các xạ thủ xứ Gondor vẫn từng khoe khoang. Nhận thấy lòng dũng cảm đã tiêu tan trong khu thành, tên Chỉ huy giấu mặt đẩy mạnh cuộc tấn công. Những tòa tháp công thành được dựng lên trong Osgiliath nay chầm chậm lăn bánh về phía Minas Tirith trong đêm. ... Trống trận rền vang. Tầng tầng lớp lớp các toán quân địch đánh xô vào thành nam và thành bắc. Và rồi, trong ánh lửa đỏ chập chờn, những con vật khổng lồ như ngôi nhà di động, voi mumakil của tộc Harad lặc lè bước tới giữa những làn quân, những pháo đài và máy móc. Nhưng tên Chỉ huy không bận tâm lắm đến chúng, hoặc đến số bị giết : chúng chỉ dùng để thử độ vững của lớp thủ thành, và để phân tâm binh lính Gondor. Cổng thành chính mới là nơi hắn sẽ tung ra cú quyết định. Dù nó có rất vững đi nữa, đúc bằng sắt thép và được nhiều đồn lũy đá che chắn đi nữa, nó vẫn là điểm hở trong bức thành bất khả xâm nhập này. Tiếng trống càng dồn vang. Lửa bốc cao lên. Những cỗ máy đồ sộ lăn qua cánh đồng, giữa chúng nổi lên một mũi nhọn khổng lồ, to như cây rừng, dài cả trăm thước, treo đu đưa trên những dây xích lớn. Nó đã được đúc rất lâu trong lò rèn hắc ám vùng Mordor, và cái mũi thép của nó có hình thù gớm guốc của một con sói hung tợn. Những câu thần chú tàn phá được khắc trên nó. Chúng gọi nó là Grond, để tưởng niệm Cây chùy Địa ngục thời cổ. Những con thú khổng lồ đang kéo nó đi, lũ Orc vây quanh nó, và bọn quỷ núi bước đằng sau để vận hành nó. Nhưng ở Cổng thành, binh lính Gondor vẫn kháng cự kiên cường. Những hiệp sỹ vùng Dol Amroth và lớp phòng thủ dày dạn nhất đang có mặt. Tên mác bay như mưa, những tòa tháp công thành đổ sụp hay bốc cháy đùng đùng như ngọn đuốc. Trước mặt thành, hai bên Cổng, mặt đất ngổn ngang những gạch vụn và xác chết ; tuy vậy quân địch vẫn lao đến như những con thiêu thân. Grond vẫn tiến tới. Mái của nó không hề bén lửa, đôi lúc những con thú kéo nó phát điên và dẫm đạp hoang dại lên đám orc đông vô kể chung quanh, chẳng hề gì, xác chúng bị hất ra khỏi đường đi của nó và những orc khác chạy vào thay thế. Grond lừng lững tiến tới. Trống thúc liên hồi. Trên đống xác, một hình thù gớm ghiếc xuất hiện: một kị sĩ đen, cao lớn, mặc áo choàng và trùm kín đầu. Chậm rãi xéo qua những kẻ tử trận, hắn cưỡi ngựa tiến lên, không bận tâm mảy may đến làn tên mác. Hắn ngừng lại, rút ra một thanh kiếm dài mờ ảo. Vào lúc đó, một nỗi kinh sợ xâm chiếm cả người phòng thủ lẫn kẻ tấn công. Cánh tay của binh lính buông thõng xuống, không một cây cung nào bật dây. Trong một khoảng khắc, tất cả như bất động. Tiếng trống gầm lên. Những bàn tay khổng lồ lăng mạnh Grond về phía trước. Nó đập vào Cổng thành, và rung lên. Một tiếng bum trầm dội xuyên qua thành như tiếng sấm trong mây. Nhưng cánh cổng sắt và đám trụ thép vẫn đứng vững trước cú đập. Thế rồi, tên Thủ lĩnh Đen vươn người đứng lên trên yên ngựa, thét lên bằng một giọng đáng sợ những phù chú hắc ám trong thứ ngôn ngữ đã bị lãng quên, khiến cho cả lòng người lẫn sắt đá đều tan vỡ. Ba lần hắn thét lên như thế. Ba lần Grond dội tiếng. Và bất thình lình sau cú đập thứ ba, Cổng thành của Gondor vỡ toác. Như thể nó bị xé nát bởi ma thuật : một ánh chớp nhá lên, và cánh cổng đổ nhào xuống đất thành muôn ngàn mảnh vụn. Chúa tể Nazgul phi ngựa vào. Bóng hình hắn cao lớn in trên nền lửa cháy, vươn ra như mối đe dọa của tuyệt vọng. Chúa tể Nazgul phi ngựa vào dưới vòm thành mà chưa kẻ địch nào từng vượt qua. Tất cả tháo chạy trước hắn. Tất cả, trừ một người. Đứng chờ im lìm trong khoảng sân trước Cổng thành là Gandalf trên lưng ngựa. Shadowfax, chú ngựa duy nhất trong những giống loài tự do trên mặt đất có thể kháng cự lại nỗi khiếp nhược; chú đứng đó, bất động và vững vàng như hình khắc trên mộ phần Rath Dínen. ‘Ngươi không được tiến vào,’ Gandalf nói, và cái bóng cao lớn kia chững lại. ‘Xéo về chốn địa ngục đã chuẩn bị sẵn cho ngươi! Lùi lại! Biến về cõi hư vô đang đợi ngươi và chủ ngươi. Cút đi!’ Tên Kị sĩ Đen hất mũ trùm đầu ra, và kìa! hắn đội vương miện, trên một cái đầu vô hình. Lửa đỏ chiếu sáng giữa vành vương miện và vai áo choàng đen rộng của hắn. Từ cái miệng vô hình, vọng ra tiếng cười ghê rợn. ‘Lão già ngu ngốc!’ hắn nói. ‘Lão ngốc! Đây là thời khắc của ta. Mi không nhận ra Cái chết khi mi thấy nó ư ? Hãy chết đi và cứ việc nguyền rủa vô ích !’ Dứt lời hắn giơ thanh kiếm lên, và lửa bốc cháy phừng phừng dọc lưỡi kiếm. Gandalf không nhúc nhích. Vào đúng lúc ấy, từ một sân vườn xa xôi nào đó trong thành, một chú gà trống cất tiếng gáy. Tiếng gáy lanh lảnh và trong lành, không vướng bận những chuyện chiến tranh hay quyền phép, chỉ cốt chào đón bình minh đang vượt lên bóng đêm chết chóc để đến trên bầu trời cao vời vợi. Và như để đáp lời, từ xa vọng lại một nốt khác. Tiếng tù và, tù và, tù và. Chúng vẳng đi trong triền núi Mindolluin mờ tối. Những chiếc tù và phương Bắc đang rúc lên mạnh mẽ. Rohan đã tới. Chương 5 Cuộc hành quân của Rohirrim ... Théoden quay về phía cận vệ, và nói bằng giọng dõng dạc, khiến cả binh lính của đội éored thứ nhất cũng nghe được : ‘Thời khắc đến rồi, hỡi những kị sĩ của vùng Mark, con cháu của Eorl ! Kẻ thù và bão lửa đang ở phía trước, quê nhà đã khuất xa. Dù chúng ta chiến đấu nơi đất khách, nhưng vinh quang sắp tới sẽ mãi mãi là của các ngươi. Lời thề ngươi đã tuyên, chiến trường người hãy ráng. Trung quân, ái quốc, và vì tình đồng minh ! ’ Binh lính đập giáo vào khiên chan chát. ‘Éomer, con trai ! Con chỉ huy đội éored thứ nhất,’ Théoden nói, ‘hãy đi dưới cờ vương hiệu ở chính giữa. Elfhelm, dẫn đại đội của ngươi về bên phải khi chúng ta vượt qua lũy. Và Grimbold dẫn quân về bên trái. Hãy để những đội ở sau đi theo ba cánh quân này chừng nào có thể. Gặp giặc là đánh. Không có chiến thuật nào khác, vì chúng ta vẫn chưa biết tình hình chiến sự ra sao. Hãy tiến lên, và đập tan bóng tối !’ Cánh quân tiên phong phi ngựa thần tốc hết mức, dù trời vẫn còn tối. Merry ngồi sau ngựa với Dernhelm, tay trái bấu chặt cho khỏi ngã còn tay phải nới dần thanh gươm khỏi bao. Giờ đây cậu cay đắng nhận ra sự thật trong lời nói của vị vua già : nơi chiến trận khốc liệt, cậu sẽ làm gì hả Meriadoc ? ‘Chỉ làm vướng tay một kị sĩ,’ cậu nghĩ, ‘cùng lắm là hi vọng có thể ngồi yên trên lưng ngựa và không bị xóc nẩy đến chết vì vó ngựa đang phi nước đại.’ Còn chưa đầy một dặm nữa là tới bức lũy ngoài. Họ nhanh chóng đến nơi, quá nhanh cho Merry. Những tiếng thét man dại nổi lên, cùng tiếng vũ khí xoang xoảng, nhưng mọi thứ diễn ra chóng vánh. Không có nhiều orc ở quanh lũy, và bọn chúng trở tay không kịp ; chúng bị hạ hoặc bị xua đi hết. Đến trước tàn tích của cổng bắc Rammas, nhà vua dừng lại. Đội éored thứ nhất dàn quân sau lưng ông và phía hai bên. Dernhelm theo sát nhà vua, tuy đại đội của Elfhelm ở tít phía bên phải. Quân của Grimbold đã ngoặt sang bên và phi qua một lỗ hổng lớn ở lũy để tiến về hướng đông. Merry ngó ra từ sau lưng Dernhelm. Ở đằng xa, chừng mười dặm hoặc hơn, có một đám cháy lớn, nhưng từ chỗ các kị binh đến đó còn nhiều vành lửa khác theo một hình lưỡi liềm rộng, và điểm lửa gần nhất chỉ cách chưa đầy một dặm. Cậu không nhận biết được gì hơn trên đồng bằng mờ tối, và cũng không nhìn thấy chút tia hy vọng nào của buổi sáng, hoặc không một chút gió nào, dù là đổi chiều hay không đổi chiều. Giờ đây quân đội Rohan lặng lẽ tiến vào chiến trường của Gondor, tiến chậm rãi nhưng đều đặn, tựa như thủy triều dâng qua các vết lở của một con đê mà người ta tưởng là vững chãi. Tên Thủ lĩnh Đen đang dồn hết tâm trí vào công thành, không tin tức nào đến được tai hắn để cho thấy sơ hở trên mặt trận của hắn. Sau một hồi, vua Théoden dẫn quân chếch về phía đông, vào giữa những đám cháy đốt thành và cánh đồng ngoại vi. Họ vẫn chưa gặp phải địch, và nhà vua vẫn chưa ra tín hiệu. Rồi ông dừng lại một lần nữa. Thành phố đã ở gần hơn. Mùi cháy khét bốc lên trong không trung và cái bóng của chết chóc đang quanh quất. Những con ngựa trở nên bồn chồn. Nhưng nhà vua ngồi trên lưng chú ngựa Snowmane, bất động, nhìn dõi về phía thành Minas Tirith xơ xác, tựa hồ một cơn thương tâm hoặc sợ hãi đang ập đến với ông. Ông có vẻ còng lưng xuống và run rẩy vì tuổi tác. Merry cảm thấy như gánh nặng của sự khiếp đảm và hồ nghi đang đè lên ông. Tim cậu đập chậm lại. Thời gian dường như lơ lửng trong tình thế chông chênh. Họ đã đến quá muộn ! Quá muộn còn tệ hơn cả không đến. Có lẽ Théoden sẽ nao núng, cúi mái đầu già nua xuống, quay ngựa và bỏ chạy vào sau những rặng đồi. Rồi, bất thình lình, không thể nghi ngờ gì nữa, Merry cảm thấy một sự thay đổi. Gió đang thổi qua mặt cậu ! Ánh sáng le lói rạng lên. Ở xa, rất xa phía Nam, các đám mây đùn lên thành những hình thù mơ hồ màu xám đang dạt dần ra : buổi sáng đang ở mé đó. Cùng lúc này, bỗng nhá lên một tia chớp như dội lên từ dưới nền thành phố. Trong tích tắc nó chói sáng và tỏa ra xa tít trong màu đen trắng, như một cột tháp sáng lòa. Rồi khi bóng tối rơi trở xuống, một tiếng bum vang rền lên trên cánh đồng. Nghe thấy âm thanh đó, dáng hình lom khom của nhà vua bỗng vươn thẳng lên. Ông trở lại cao lớn và kiêu hùng, dướn người trên bàn đạp và hô lên sang sảng, hơn bất cứ người trần đoản mệnh nào từng hô : Trỗi dậy, trỗi dậy, hỡi các kị sĩ của Théoden ! Tai ương phía trước : đốt chém đê hèn Giáo hãy rung, khiên hãy vỡ, trước khi mặt trời lên Ngày ta vung gươm, một ngày nhuộm máu Tiến về Gondor ! Tiến lên ! Tiến lên! Đồng thời ông túm lấy chiếc tù và lớn của tướng cầm cờ Guthláf, và thổi một hơi mạnh đến nỗi chiếc tù và vỡ rời ra. Sau lưng ông, lá cờ mang hình ngựa trắng trên nền cỏ xanh bay phần phật trong gió, nhưng ông vượt lên cả lá cờ. Các hiệp sỹ cận vệ phi ngựa sầm sập theo ông, nhưng ông vẫn luôn ở phía trước. Éomer phi ngựa cùng họ, ngù trắng trên mũ trụ của chàng tung bay, và tiền quân của đội éored thứ nhất lao lên như bọt sóng tràn bờ, nhưng không ai có thể vượt qua Théoden. Ông như cuồng nộ, như thể cơn hăng say chiến trận của cha anh đang rần rật trong huyết quản, và ông cưỡi trên Snowmane như một vị thần trong huyền thoại, sánh ngang với Oromë Vĩ đại trong trận đánh của các Valar thưở hồng hoang. Chiếc khiên vàng của ông để trần, và kìa! nó lóe sáng như một mặt trời, và cỏ xanh bừng bừng dưới vó ngựa trắng của ông. Sáng ngày đã đến, sáng ngày và gió biển, đêm tối đã phải nhường bước, đám lâu la của Mordor run rẩy, và chúng khiếp sợ bỏ chạy, chết tươi, và đoàn kị mã giận dữ xéo qua chúng. Rồi tất cả binh lính Rohan bật hát vang lên, họ vừa hát vừa vung gươm, vì niềm vui chiến đấu đang dâng lên trong họ, và tiếng hát trầm bổng đầy sát khí của họ vọng đến tận khu Thành. Chương 6 Trận chiến trên Cánh đồng Pelennor Nhưng không phải là một tên trộm cướp hay orc tầm thường nào chỉ huy cuộc tấn công vào Gondor. Bóng tối đã tan đi quá sớm, trước thời hạn mà Chủ nhân của hắn sắp đặt: vận may đã quay lưng lại với hắn, và thế giới đang chống lại hắn; thắng lợi đã tuột khỏi tay hắn khi hắn đang vươn tay ra để chiếm lấy nó. Nhưng tầm tay của hắn rất dài. Hắn vẫn đang điều khiển cục diện, nắm một quyền lực lớn. Vua, Ma Nhẫn, Chúa tể của các Nazgûl – hắn có rất nhiều vũ khí. Hắn rời khỏi Cổng thành và biến mất. Théoden, đức vua của vùng Mark, đã đến được con đường nối từ Cổng thành ra bờ sông, và giờ đây ông hướng quân về phía khu thành chưa đầy một dặm phía trước. Ông giảm bớt tốc độ, tìm những kẻ địch mới; các hiệp sỹ của ông cũng đến, và Dernhelm đi cùng họ. Phía trước, gần tường thành hơn, quân của Elfhelm đang phi giữa các máy móc của địch thủ, và chém giết chúng, dồn chúng vào các hố lửa. Họ tràn qua gần như toàn bộ nửa bắc của Pelennor, đốt phá lều trại của chúng, bọn orc cuống cuồng bỏ chạy về phía Dòng sông như bầy thú trước thợ săn, và đoàn Rohirrim tiến lên theo mọi hướng mà họ muốn. Nhưng họ chưa triệt tiêu được vòng vây quanh thành, cũng chưa chiếm lại được Cổng thành. Rất nhiều quân địch đang án trước họ, và ở nửa kia của cánh đồng vẫn có những binh đoàn khác chưa bị đánh lui. Phía nam, cách xa con đường, là quân chủ lực của rợ Haradrim, và kị binh của chúng tập hợp chung quanh cờ hiệu của tên đầu sỏ. Tên này đang nhìn ra, và trong ánh sáng rạng dần lên hắn thấy lá cờ của vua Théoden đang tiến lên mà ít kẻ theo kịp. Thế là hắn cảm thấy một cơn thịnh nộ dâng lên trong người, hắn hét lớn, cho phất cờ hiệu mang hình rắn đen trên nền đỏ, hắn tiến quân rất đông về phía lá cờ ngựa trắng nền xanh, và rừng đao của đám Southron lóng lánh như một trời sao. Rồi vua Théoden nhìn thấy hắn, và không đợi cho hắn đến, ông hô lên với Snowmane và nhắm thẳng vào hắn mà tấn công. Hai bên đâm bổ vào nhau. Nhưng cơn cuồng nộ trắng của đoàn quân phương Bắc thiêu đốt nóng bỏng hơn, và các hiệp sỹ của họ thành thạo hơn với giáo dài và lòng thống hận. Họ ít binh hơn, nhưng họ chẻ đôi đám đông Southron ra như tia sét giữa rừng cây. Xuyên qua cuộc hỗn chiến là Théoden, con trai của Thengel, cây giáo của ông rung lên khi ông đánh ngã tên đầu sỏ. Ông bạt gươm, thúc ngựa về phía cờ hiệu của chúng, chém gãy cột cờ và tên cầm cờ, thế là con rắn đen rớt xuống. Rồi tất cả những tên sống sốt trong đội của chúng đều quay lưng bỏ chạy. Nhưng! đột nhiên, giữa thời khắc vinh quang của nhà vua, chiếc khiên vàng của ông bỗng tối sầm lại. Buổi sáng ngày mới nhòa đi khỏi bầu trời. Bóng tối phủ lên ông. Đàn ngựa lồng lên và hý vang. Binh lính nhảy khỏi yên và nằm rạp xuống đất. ‘Xem ta đây! Xem ta đây!’ Théoden thét lên. ‘Đứng lên, hỡi Eorlingas ! Hãy đập tan bóng tối !’ Nhưng chú ngựa Snowmane trong cơn hoảng hốt đã đứng dựng lên, huơ hai chân trước trong không khí, rồi rống lên và đổ vật xuống : một mũi lao đen đã cắm phập vào chú. Đức vua ngã nằm bên dưới chú. Một cái bóng lớn hạ xuống như đám mây đen. Và nhìn xem! đó là một sinh vật có cánh : lớn hơn tất cả các loài điểu, và trần trụi không lông vũ, đầu cánh khổng lồ của nó có màng da nối giữa các móng vuốt, và nó bốc mùi hôi thối. Nó có thể là một quái vật của thế giới cổ đại, mà giống loài từng mò mẫm trong những rặng núi giá buốt bị quên lãng dưới ánh Trăng, sống dài qua năm tháng, và trong cái tổ gớm guốc đã đẻ ra lứa quái vật không hợp thời này, thích hợp cho tai vạ. Rồi Chúa tể Hắc ám đã mang nó đi, nuôi nó bằng thịt sống, cho đến khi nó lớn lên to hơn tất cả những giống biết bay, và đưa nó cho bề tôi của hắn để cưỡi. Nó đang sà dần, sà dần xuống, gập bộ móng có màng lại, và kêu lên quang quác, nó đậu xuống thân thể của Snowmane, cắm vuốt vào, và cúi cái cổ dài trần trụi của nó xuống. Cưỡi trên nó là một hình hài cao lớn và đáng sợ, khoác áo choàng đen. Hắn đội một chiếc vương miện thép, nhưng từ vành vương miện đến áo choàng chỉ là trống rỗng, trừ một tia mắt chết chóc : Chúa tể của các Nazgûl. Lúc bóng đêm bị xua tan, hắn đã quay về không trung và gọi con thú bay đến ; giờ đây hắn trở lại, mang theo sự phá hủy, biến hy vọng thành tuyệt vọng, và biến thắng lợi thành cái chết. Hắn sử dụng một cây chùy lớn màu đen. Nhưng Théoden chưa hoàn toàn bị bỏ rơi. Đội cận vệ của ông bị giết nằm quanh ông, hoặc bị đám ngựa phát điên lên chở đi rất xa. Tuy nhiên, vẫn có một người đứng đó : Dernhelm trẻ tuổi, trung thành bất chấp mọi kinh sợ, và chàng đang khóc, vì chàng yêu quí đức vương như cha đẻ. Giữa cuộc tấn công, Merry vẫn ở trên mình ngựa yên ổn sau lưng chàng, cho đến khi Bóng tối hạ cánh, và chú ngựa Windfola đã hất họ xuống trong cơn khiếp vía, giờ đây chú đang chạy lung tung trên cánh đồng. Merry bò tứ chi như một con thú loạng quạng, nỗi sợ hãi khiến cậu nôn nao và như bị mù. ‘Cận vệ của Đức vua ! Cận vệ của Đức vua !’ trái tim kêu lên với cậu. ‘Cậu phải ở lại bên Người. Người sẽ là cha đối với tôi, cậu đã từng nói.’ Nhưng ý chí của cậu không nghe lời, và cơ thể cậu run lên. Cậu không dám mở mắt ra hay ngẩng lên. Thế rồi, giữa tâm trí mờ mịt ấy, cậu nghĩ rằng đang nghe thấy tiếng của Dernhelm nói, nhưng giọng nói này rất lạ, gợi nhớ đến một người mà cậu từng biết. ‘Cút đi, tên dwimmerlaik xấu xa, chúa tể của bọn xác thối ! Hãy để người chết được yên nghỉ !’ Một giọng lạnh lẽo trả lời : ‘Chớ xen vào giữa một Nazgûl và miếng mồi của hắn. Nếu không, hắn sẽ không giết mi một cách nhanh chóng đâu. Hắn sẽ mang mi đến khu nhà của tiếng khóc, hắc ám hơn cả mọi hắc ám, ở đó xương thịt mi sẽ bị ăn sống nuốt tươi, và đầu óc queo quắt của mi sẽ bị bóc trần trước Con mắt Không mi.’ Một thanh kiếm rung lên khi được rút ra khỏi vỏ. ‘Ngươi làm gì thì làm, nhưng ta sẽ cản ngươi lại, chừng nào ta có thể.’ ‘Cản ta ? Đồ ngu xuẩn. Không một trai tráng nào có thể cản ta được !’ Thế rồi, Merry nghe thấy tiếng lạ lùng nhất trong những tiếng mà cậu nghe được nãy giờ. Dường như Dernhelm phá lên cười, và giọng nói lanh lảnh ngân lên như thép : ‘Nhưng ta không phải là trai tráng! Ngươi đang nhìn thấy một người con gái, ta là Éowyn, con gái của Éomund. Ngươi đang đứng chắn giữa ta và chúa công của ta, bác ruột của ta. Cút đi, nếu ngươi không phải là bất tử. Dù ngươi là linh hồn sống hay là hồn ma tăm tối, ta cũng sẽ chém ngươi, nếu ngươi dám động đến ông ấy.’ Con quái vật có cánh rít lên với nàng, nhưng tên Ma Nhẫn không đáp lời, hắn đang im lặng, tuồng như đột nhiên lưỡng lự. Merry sửng sốt đến quên sợ. Cậu mở mắt ra, và màn đêm không còn che phủ mắt cậu nữa. Cách cậu vài bước, con quái thú đứng đó như một khối đen, và tên Chúa tể Nazgûl ngồi thù lù ở trên nó như một cái bóng của tuyệt vọng. Ngay phía bên trái, đối diện chúng là người mà cậu vẫn gọi là Dernhelm. Nhưng chiếc mũ trụ che giấu thân phận của nàng đã rơi xuống, và mái tóc sáng ngời của nàng tuột khỏi dây buộc, ánh lên vàng nhạt trên vai nàng. Đôi mắt nàng xám như màu nước biển, nghiêm nghị và dữ dội, nhưng nước mắt đang chảy trên gò má nàng. Một thanh kiếm ở trong tay nàng, và nàng giơ khiên lên che chắn trước ánh mắt ghê rợn của kẻ thù. Đó chính là Éowyn, và cũng là Dernhelm. Merry nhớ lại trong đầu hình ảnh gương mặt nàng mà cậu thấy khi họ xuất phát từ Dunharrow : đó là vẻ mặt của một người đi tìm cái chết, không còn nuôi hy vọng gì trong lòng. Trái tim cậu tràn đầy thương cảm lẫn kinh ngạc, và bỗng nhiên lòng gan dạ tiềm ẩn của dân tộc cậu bừng tỉnh. Cậu nắm chặt tay lại. Nàng không thể chết, kiều diễm và tuyệt vọng nhường ấy. Ít nhất, nàng không thể chết đơn độc, không người cứu giúp như vậy. Kẻ địch đang quay lưng lại phía cậu, nhưng cậu vẫn không dám nhúc nhích, sợ rằng cặp mắt độc địa ấy sẽ nhìn vào cậu. Chầm chậm, chầm chậm, cậu bắt đầu trườn sang một bên, trong khi đó tên Thủ lĩnh Đen, đang hồ nghi và tính kế hiểm với nữ chiến binh trước mặt hắn, không để tâm đến cậu hơn là để tâm đến một con sâu đang bò. Con quái thú đột ngột đập đôi cánh gớm ghiếc, tạo ra một luồng gió ghê tởm. Nó lao lên không trung, rồi bổ xuống trên đầu Éowyn, rú rít và cào mổ, với mỏ và móng vuốt. Nàng vẫn không nao núng : người thiếu nữ của Rohirrim, dòng dõi vua chúa, mảnh mai nhưng cứng rắn như một lưỡi thép, đẹp đẽ nhưng khốc liệt. Nàng chém một đòn thần tốc và trí mạng. Cái cổ thú đang vươn tới bị chặt rời ra, và đầu nó rơi xuống như một tảng đá. Nàng nhảy lùi lại khi hình thù khổng lồ của con quái vật đâm sầm xuống, đôi cánh rộng xòe ra nát bươm trên mặt đất ; và với cú ngã của nó, bóng tối cũng tan biến. Một tia sáng rọi lên nàng, và mái tóc nàng lấp lánh dưới ánh mặt trời mọc. Từ đống xác của nó, tên Kị sĩ Đen đứng dậy, đầy đe dọa và cao vượt hẳn lên nàng. Với một tiếng thét của căm ghét như nọc độc chích vào tai, hắn giáng cây chùy xuống. Khiên của nàng vỡ tan thành nhiều mảnh, và tay nàng bị gãy, nàng khuỵu xuống. Hắn cúi xuống trên nàng như một đám mây đen, đôi mắt của hắn lóe lên, hắn vung cây chùy để tung đòn kết liễu. Bất thình lình, đến lượt hắn khuỵu xuống với một tiếng hét đau đớn, và cú đánh của hắn đi trượt, giáng xuống nền đất. Thanh gươm của Merry đã đâm hắn từ phía sau, xuyên qua lần áo choàng đen, đâm ngược lên dưới áo giáp, và chọc thủng bắp chân rắn chắc của hắn. ‘Éowyn ! Éowyn !’ Merry kêu lên. Lảo đảo gượng đứng dậy, thu hết sức tàn nàng đâm thanh kiếm vào khoảng giữa vương miện và áo choàng của hắn, trong khi đôi vai rộng lớn của hắn đang khuỵu xuống ngang với nàng. Thank kiếm vỡ tan bắn ra thành muôn mảnh. Chiếc vương miện lăn xuống và kêu vang. Éowyn ngã nhào lên kẻ địch. Nhưng kìa! áo choàng và giáp trụ của hắn đều rỗng không. Giờ đây chúng nằm nhăn nhúm trên mặt đất, rách nát và lộn xộn. Một tiếng thét vút lên trên không trung rúng động, và giảm dần thành một tiếng rền rĩ inh tai, tản ra theo gió, một thứ tiếng mỏng và vô hình đang chết ngóm, một thứ tiếng đã bị nuốt mất, và sẽ không bao giờ còn được nghe thấy trên thế gian này. … Chiến trận ngày càng dữ dội trên những cánh đồng của Pelennor, và tiếng binh khí trở nên đinh tai nhức óc cùng với tiếng quân lính la hét và tiếng ngựa hí. Tù và đang thổi, kèn chiến đang kêu, và những con voi mumakil rống lên vì bị thúc ra trận tiền. Dưới tường Thành nam, bộ binh của Gondor kháng cự lại các quân đoàn của Morgul vẫn đang tập hợp đông đảo ở đó. Nhưng kị binh thì phi sang hướng đông để cứu viện Éomer: Hurin vị Tổng đốc cao lớn giữ Khóa, Lãnh chúa vùng Lossarnach, và Hirluin của Rặng đồi Xanh, và Quận công Imrahil tráng kiện với các hiệp sỹ xung quanh. Họ tới vừa đúng lúc để trợ chiến đoàn Rohirrim, vì vận may đã trở mặt với Éomer. Cuộc tấn công giận dữ của chàng đã phá vỡ tiền quân của kẻ địch, và các mũi nhọn quân binh của chàng đã xuyên vào giữa hàng ngũ của đám Southrons, đánh bại kị binh của chúng và giày xéo lên bộ binh của chúng. Nhưng voi mumakil đi đến đâu thì ngựa dạt ra đến đấy, chúng chùn lại và phi chệch đi; nên đám voi khổng lồ vẫn còn nguyên vẹn, chúng sừng sững như những tòa tháp phòng thủ, và rợ Haradrim dàn quân quanh chúng. Và nếu như trong cuộc tấn công, quân số Rohirrim chỉ bằng một phần ba đám Haradrim, thì giờ đây tình thế của họ càng nguy ngập hơn: quân lực mới của kẻ địch đang tràn vào cánh đồng từ phía Osgiliath. Chúng đã tập hợp ở đó để phá Thành, chiếm đoạt Gondor và đợi lệnh của tên Thủ lĩnh. Tên này vừa bị diệt, nhưng Gothmog tên tướng của Morgul đã xua chúng vào trận địa; tộc Easterlings mang rìu, và Variags của Khand. Tộc Southron vận đồ đỏ, và những tộc đen đúa nửa người nửa quỷ với cặp mắt trắng dã và lưỡi đỏ, đến từ phía Viễn Harad. Một số thì tiếp chiến đoàn Rohirrim, số còn lại thì hướng về phía tây để chặn quân của Gondor không cho hội binh với Rohan. Khi mà ánh sáng ban ngày cũng không giúp gì được Gondor nữa, và niềm hy vọng của họ dao động, thì một tiếng kêu mới vọng lên trong Thành phố. Đang là giữa buổi sáng, một làn gió mạnh thổi tới, và mưa dạt về hướng bắc, và mặt trời tỏa rạng. Trong khung cảnh quang đãng, lính canh trên thành nhìn thấy từ xa một mối họa mới, và tia hi vọng cuối cùng tắt ngúm trong họ. Dòng Anduin uốn mình tại cảng Harlond, từ đó người ta có thể dõi theo vài dặm dọc dòng sông, và những kẻ tinh mắt có thể thấy bất cứ con thuyền nào đang tới. Nhìn về hướng đó, họ kêu lên khiếp nhược, vì một hạm đội đang đè gió lướt tới, đen kịt trên nền sông lấp lánh: tàu chiến, và những con thuyền lớn rẽ nước với nhiều mái chèo, với những cánh buồm đen căng phồng trong gió. ‘Cướp biển của Umbar!’ quân lính kêu lên. ‘Hải tặc của Umbar! Nhìn kìa! Bọn hải tặc đang tới. Thế có nghĩa là Belfalas đã thất thủ, và Ethir và Lebennin đã mất. Bọn hải tặc đang đến đánh chúng ta. Đúng là cú kết liễu của số phận!’ Và một vài người không ở trong hàng ngũ, vì không ai chỉ huy họ ở trong Thành, họ chạy đến rung chuông báo động, vài người thì thổi kèn hiệu thu quân. ‘Rút về thành!’ họ kêu to. ‘Rút về thành, trước khi quá muộn!’ Nhưng cơn gió từng nâng nhịp đoàn thuyền nay thổi bạt tiếng họ đi. Đoàn Rohirrim thực chất không cần ai báo động. Họ nhìn thấy quá rõ những cánh buồm đen. Éomer đang ở cách cảng Harlond tầm một dặm, và một đám quân địch lớn đang chặn giữa chàng và bến cảng, trong khi những kẻ địch mới cuồn cuộn đổ vào từ phía sau và chia cắt chàng khỏi Quận công Imrahil. Giờ đây chàng nhìn về Dòng sông, và thấy tim mình chết lịm; ngọn gió từng khiến chàng hân hoan nay trở thành đáng nguyền rủa. Đạo binh của Mordor thì phấn chấn lên và cảm thấy một cơn say máu mới khiến chúng hò la đòi tấn công. Tâm trạng Éomer trầm xuống, và trí óc chàng minh mẫn trở lại. Chàng cho thổi tù và gom quân lại phía cờ hiệu để tiến về phía đó, chàng nghĩ sẽ lập một lớp phòng ngự vững chắc, và trụ ở đó, và chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng, và lập nên những chiến công lưu lại mãi trong các bài ca trên cánh đồng Pelennor, dù rằng sẽ chẳng còn ai sống sót ở miền Tây để nhớ về vị Vua cuối cùng của vùng Mark. Chàng phi ngựa lên một cái gò xanh tươi và giương cờ ở đó, và hình chú Bạch mã bay phần phật trong gió. Lòng hăng say chiến trận trở lại với chàng, và chàng vẫn chưa bị thương, vẫn còn trẻ, và chàng là vua: người dẫn đầu của một dân tộc bất khuất. Và kìa! chàng cười phá lên vào mặt nỗi tuyệt vọng và nhìn về hạm đội đen, giương thanh kiếm lên để thách thức chúng. Nhưng rồi chàng kinh ngạc, và cảm thấy một niềm phấn khởi lớn; và chàng tung thanh kiếm lên trong nắng rồi bắt nó lại và hát lên. Mọi con mắt đều dõi theo ánh mắt chàng, và nhìn xem! trên con tàu dẫn đầu một lá cờ lớn tung ra, và gió trải nó ra khi con tàu ngoặt hướng tiến về cảng Harlond. Cờ được thêu hình Cây Trắng, biểu tượng của Gondor, nhưng còn có Bảy Ngôi sao ở trên, và một hình vương miện uy nghi ở trên cùng: dấu hiệu của Elendil mà không vị chúa tể nào từng giương lên trong nhiều năm trường. Và những ngôi sao ánh lên trong nắng chiếu, vì chúng được chạm trổ bằng đá quý bởi chính bàn tay của Arwen, con gái của Elrond, và chiếc vương miện lấp lánh trong sáng ngày, vì nó được nạm bằng mithril và vàng. Rồi tiến đến, Aragorn con trai của Arathorn, Elessar, dòng dõi của Isildur, tới từ Lối Người chết, được đẩy thuyền bằng gió Biển tới vương quốc Gondor. Đoàn Rohirrim vui mừng cười vang và khoát kiếm, còn Thành phố thì hân hoan với tiếng kèn và chuông rung inh ỏi. Nhưng đám lâu la Mordor thì hoang mang tột độ, chúng không hiểu bằng ma thuật nào mà đoàn thuyền của chúng lại chứa đầy kẻ thù, và một cơn sợ tăm tối chiếm lấy chúng. Chúng biết rằng cơn triều của định mệnh đang chống lại chúng, và ngày tàn của chúng đã tới. Từ phía đông, đoàn hiệp sỹ của Dol Amroth phi tới, xua tan quân thù trước mặt: đám nửa người nửa quỷ và các Variags và đám orc ghét ánh mặt trời. Từ phía nam Éomer sải tới, kẻ địch bỏ chạy trước chàng, chúng bị ép trên đe dưới búa. Quân binh đang nhảy từ thuyền xuống dưới ke của Harlond, và tràn về phía bắc như một cơn bão. Rồi Legolas, cùng Gimli đang vung rìu, với Halbarad cầm cờ, và Elladan cùng Elrohir dát sao trên trán, và những tay Dunedain thiện chiến, Lữ khách của phương Bắc, dẫn tới một toán quân can trường của vùng Lebennin và Lamedon cùng các thái ấp miền Nam. Nhưng dẫn đầu tất cả là Aragorn với thanh kiếm Ngọn lửa miền Tây, thanh Anduril như một ánh lửa rực cháy, cây kiếm Narsil nay được rèn lại và vẫn dũng mãnh như thuở nào, trên trán chàng Ngôi sao của Elendil đang tỏa rọi. Thế là Éomer và Aragorn hội ngộ trên chiến trường, họ tì lên thanh kiếm và nhìn nhau phấn khích. ‘Chúng ta gặp lại nhau đây, dù cả đám quan quân Mordor chắn giữa hai ta,’ Aragorn nói. ‘Tôi chẳng từng nói như vậy tại Hornburg sao?’ ‘Anh đã nói thế,’ Éomer đáp, ‘nhưng hy vọng vẫn hay lường gạt, và lúc đó tôi không hề biết anh đoán định trước được tương lai. Dù thế nào đi nữa, cứu viện lúc không ngờ lại càng đáng quý gấp bội, và không có cuộc hội ngộ nào lại mừng vui hơn thế.’ Và họ siết chặt tay nhau. ‘Hoặc cần kíp hơn thế,’ Éomer nói tiếp. ‘Giá anh đến được sớm hơn. Chúng tôi đã chịu nhiều tổn thất và tang tóc.’ ‘Vậy ta hãy báo thù, trước khi bàn chuyện!’ Aragorn nói, và họ quay lại trận tiền cùng nhau. Họ vẫn còn phải chiến đấu gian khổ và khó nhọc, vì đám Southron là những binh lính can đảm và dữ tợn, rất quyết liệt khi chúng tuyệt vọng; còn rợ Easterlings thì rất khỏe và được tôi luyện trong chiến tranh, và chúng không cầu tha mạng. Và thế là trên khắp mọi nẻo, bên những ấp trại bốc cháy hay trên cánh đồng, trên gò đồi hay dưới tường thành, họ củng cố lại quân binh và chiến đấu cho tới khi xế ngày. Mặt trời rốt cục đã lặn xuống sau núi Mindolluin, bầu trời đỏ ối như một đám cháy, rặng đồi và dãy núi rực lên như nhuộm máu; lửa rọi trên Sông, và cỏ của đồng Pelennor đỏ lên trong hoàng hôn. Vào lúc này Trận đánh vĩ đại trên cánh đồng của Gondor đã ngã ngũ, và không một kẻ địch nào sống sót trong vòng thành Rammas. Tất cả chúng đã bị giết, trừ những kẻ bỏ chạy tới chết, hoặc bị dìm xuống Dòng sông ngầu bọt máu. Không mấy kẻ trở về được Morgul hoặc Mordor ở hướng đông, và trên vùng đất của các Haradrim chỉ một câu chuyện được nghe phong thanh: đồn thổi về cơn thịnh nộ khủng khiếp của Gondor. Aragorn, Éomer và Imrahil cùng phi ngựa quay về Cổng thành, và giờ đây họ mệt mỏi đến quên cả vui buồn. Ba người không bị thương gì, nhờ vận may và sức mạnh của họ, và không kẻ nào dám chống lại họ hoặc nhìn thẳng vào mặt khi họ đang giận dữ. Nhưng nhiều người đã bị thương hoặc tử trận trên cánh đồng. Forlong bị rìu chặt đứt đầu khi ông đang chiến đấu đơn độc và không ngựa, hai anh em của Duilin vùng Morthond đều bị dẫm chết khi họ đang tấn công mumakil, chỉ huy các cung thủ đến gần để bắn vào mắt bầy voi. Chàng Hirluin đẹp đẽ cũng sẽ không trở về Pinnath Gelin, cũng như Grimbold không về Grimslade, Halbarad không về đất Bắc với những Lữ khách thiện chiến. Không ít người đã ngã xuống, vẻ vang hoặc vô danh, tướng lĩnh hay sĩ tốt, vì đó là một trận chiến kinh hoàng mà không câu chuyện nào kể xiết. Người dịch: proudfoot @gamevn Ảnh minh họa: Sưu tầm =============== Chú thích: éored : một đơn vị quân đội của Rohan, gồm khoảng 120 lính Éomer ko phải là con của Théoden, chỉ là cháu trai, nhưng sau khi con trai của ông chết, ông thương yêu Éomer như con đẻ và sẽ nhường ngôi cho chàng. Dernhelm: một kị binh bí ẩn trong quân của Théoden, người cho Merry cưỡi ngựa cùng, nhưng không bao giờ nói chuyện. Link file pdf của bản dịch Quyển Ba, Tập Hai luôn để ở đầu Trang 1 của topic, trong bài post của bác gdqt.
mình có đọc qua nhưng quên r, ý là nhắc sơ thì mình nhớ chứ không phải chưa đọc , tìm lại thì hơi mệt, máy cùi load lâu hic
bộ Silmarillion này sao không làm điện ảnh nhỉ, chắc chắn siêu kinh điển, mà có làm thì cũng dài lắm đấy. trận chiến lớn nhất lịch sử trung địa là Trận Chiến Thứ 5 hay trận War of Wrath vậy?
Bạn ơi kể cho mình về về witch king of angmar hay anur gì đó đi , mình coi Hobbit sao thấy là ai mà lúc gandaf đưa cây kiếm ra thấy ai cũng có vẻ sợ vậy , bộ ổng mạnh lắm à
Có đọc sách không thế, Tolkien đã ghi rõ các địa danh của Chúa Nhẫn đều bắt nguồn hoặc lấy thẳng từ tên các địa danh thật ở Anh, Bagshot này với Bagshot "thật" khác nhau lắm à ? Đọc kỹ lại cái link đi nhé, nó giải thích nguồn gốc cái tên làng "Bagshot" cái từ Bagshot ấy chứ không phải "ý nghĩa của làng Bagshot" đâu ạ: The origin of the name 'Bagshot' chứ k phải là The Origin of Bagshot Village. facepalm Ổn cái gì mà ổn, hành văn sặc mùi kiếm hiệp Tàu...nhiều đoạn rất dài dòng và mệt mỏi...đặc biệt là ở Quyển Một