Lời nói đầu Tôi là một đứa trẻ lớn lên trong những năm cuối cùng của thập niên 80, thế kỷ 20. Đó là thời buổi của sự thiếu thốn đủ thứ từ vật chất cho đến thông tin, giải trí tin thần. Không như bọn trẻ ngày nay được sinh ra trong đầy đủ tiện nghi có sẵn như máy vi tính, máy thu hình (TV), đầu đĩa, internet.... Thời đó phương tiện giải trí duy nhất trong những gia đình khá khấm chỉ là một máy thu hình và một đầu video "nội địa". Có nhà còn có thêm bộ máy trò chơi điện tử Famicom của hãng Nintendou, nhưng thường thì người ta dùng chúng vào mục đích kinh doanh. Tôi vẫn còn nhớ cảm giác say mê hứng thú như thế nào mỗi khi được cầm trên tay cuốn băng video mới nhất của series phim Power Rangers của hãng Saban, và đôi khi là một vài phim lẻ thuộc kiểu đó do Nhật sản xuất. Có lẽ không riêng gì tôi mà hầu hết trẻ con thời đó, mà chắc là thời này cũng vậy thôi, đều hò hét, kích động khi nghe tiếng nhạc Go Go Power Rangers trong phim. Trong thế giới của lũ con nít có hai hình tượng khiến chúng mê mẩn: Tôn Ngộ Không và "5 anh em siêu nhân", hay còn gọi là "5 anh em rô-bô". Cụm danh từ "5 anh em siêu nhân" này dùng để chỉ chung cho bất cứ bộ phim nào có diễn viên mặc đồng phục xanh đỏ vàng trắng kín mít người, đội "mũ bảo hiểm" có thiết kế kỳ lạ và cặp "kính mát" chiếm gần nửa diện tích khuôn mặt. Cụm danh từ này đã ăn sâu vào tiềm thức của nhiều thế hệ con nít, và sau là lây sang cả người lớn. Có lẽ Power Rangers biến thành "5 anh em siêu nhân" là vì thời đó chúng tôi chẳng có mấy thông tin về nó, chẳng biết Anh ngữ, không có phương tiện tìm hiểu như Internet ngày nay... Một thời gian sau, khi xã hội mở cửa, thông thương nhiều với ngoại quốc thì tôi được biết danh chính đích thực của series phim này. Và tôi cũng biết rằng không chỉ tại Việt Nam, trẻ con Mỹ cũng rất ưa chuộng "5 anh em siêu nhân" của chúng. Có thể trong mắt của nhiều người (lớn) thì đó là thứ phim ảnh nhảm nhí, rẻ tiền dành cho bọn con nít nhưng không thể phủ nhận được một điều rằng Power Rangers là một hiện tượng văn hóa. Nó là một làn sóng. Không đứa trẻ nhỏ nào ở Mỹ không biết tới Power Ranges (PR). Nó hình thành làn sóng lớn mạnh đến độ ảnh hưởng tới cả nền kinh tế, vì lúc đó các nhà kinh doanh nhảy vào cuộc. Nắm bắt tâm lý của giới tiêu dùng nhỏ tuổi (tuy chỉ là vòi vĩnh bố mẹ mua cho thứ này thứ nọ), các hãng đồ chơi, trò chơi điện tử, họa sĩ truyện tranh... bắt đầu cho ra hàng loạt sản phẩm liên quan tới PR. Nó tác động đến cả thế giới người lớn. Tôi nghe nói có ông nghị sĩ Mỹ khi ra tranh cử cũng hò hét PR để "tranh thủ" tình cảm của các công dân nhỏ tuổi. Nhiều người sống ở Mỹ thừa nhận PR là một hiện tượng văn hóa không thể chối cãi. Một cảnh trong phim Power Rangers Trở lại Việt Nam, trong những năm gần đây, loại phim người hùng, siêu nhân, rô-bô cũng đã xuất hiện nhiều với nhiều bộ phim Nhật sản xuất. Ban đầu tôi nghĩ phim "siêu nhân" Nhật là sản phẩm vay mượn, ăn theo từ PR do Mỹ sản xuất. Nhưng sau khi tìm hiểu kỹ thì tôi mới biết là ngược lại. Chính người Nhật mới đặt nền móng đầu tiên cho thể loại phim hút hồn con nít và người lớn chê là nhảm nhí này. Thấy được tiềm năng thu hút khán giả, hãng Saban của Mỹ mua lại bản quyền từ hãng Touei của Nhật, dựng lại thành PR của họ. Họ sử dụng các cảnh người máy, quái thú trong phim Nhật và trang phục của nhân vật nhưng họ thay thế diễn viên bằng diễn viên Mỹ, nội dung cũng thay đổi. Và thể loại phim "ăn mặc lố lăng, múa may quay cuồng" (theo cách mô tả của nhiều người lớn) này có một danh từ "khoa học" để gọi chung là Tokusatsu, theo như cách gọi của người Nhật. Phim Tokusatsu không chỉ hút hồn trẻ con VN mà còn lôi cuốn cả một bộ phận thanh thiếu niên trong thời gian gần đây, mặc cho sự phản đối của nhiều bậc phụ huynh. Chỉ cần quan sát kỹ xã hội, thường đọc báo chí cũng thấy đủ kiểu phê phán loại phim này đầu độc đầu óc trẻ con, khuyến khích bạo lực. Bản thân tôi cũng qua cái thời say mê cuồng nhiệt kiểu phim này, lớn lên xem lại những bộ phim này chỉ để gợi nhớ lại kỷ niệm của một thời kỳ và chỉ để thắc mắc: tại sao ngày xưa mình lại điên cuồng với những thứ đơn giản này nhỉ? Nghĩ lại thật buồn cười, tình tiết của phim Tokusatsu phi lý, đơn giản đến độ chưa xem hết đã biết kết quả, diễn xuất làn nhàn, đề tài, mô-tuýp thì lặp đi lặp lại đến phát ngán. Tôi biết nói như vậy là động chạm tới "đức tin tôn giáo" của một số người đọc bài này, nhưng đây chỉ là những ý kiến chủ quan nên ai không thích thì đừng bận tâm làm gì. Nhưng nói như vậy không có nghĩa là tôi phủ nhận toàn bộ Tokusatsu. Có những bộ Tokusatsu mà đến giờ xem lại tôi vẫn thấy có chút hứng thú như Choujin sentai Jetman, Metalder..... Vì ngoài đa phần tác phẩm Tokusatsu là hướng về thành phần trẻ con ra còn có những tác phẩm dành cho người lớn. Uchukeiji Gyaban, cảnh sát hình sự Gavan. Một trong những series phim Tokusatsu có tiểng ở Nhật hơn chục năm trước. Không như nhiều nhà báo, nhiều người khác chỉ trích một cách vô tội vạ trong khi bản thân không tiếp xúc kỹ với nó, không tìm hiểu về nó và chưa từng xem quá vài tập phim Tokusatsu, tôi đã giành nhiều thời gian để tìm hiểu, có thể gọi là "nghiên cứu" về Tokusatsu bằng phương tiện Internet, hỏi thăm nhiều người ở Nhật về thể loại phim này. Loạt bài này tôi viết một cách khái quát về Tokusatsu, sau đó đi sâu vào từng series phim để tìm xem sức hấp dẫn đối với trẻ con của nó nằm ở đây, và vì sao người lớn không ưa nó. Toàn bộ những kiến thức lượm lặt được là tổng hợp từ 2 website chính: Wikipedia (Bách khoa toàn thư) Japanese và Wikipedia English, ngoài ra còn một số site nhỏ và nhiều điều tôi biết được từ những người bạn Nhật. Loạt bài này có sử dụng một số thuật ngữ phổ thông yêu cầu người đọc phải hiểu rõ, như SF (khoa học giả tưởng), Fantasy (thế giới tưởng tượng, thần thoại...) và một số thuật ngữ sẽ giải thích sau như Henshin, Henge, Youkai.... © 2009 - Houga658156 (Làm ơn đừng copy loạt bài viết này mà không xin phép. Làm ơn đừng copy loạt bài viết này khi đã xin phép nhưng chưa nhận được sự đồng ý. Cảm ơn) Kỳ tiếp: khái quát về Tokusatsu.
Khái quát về Tokusatsu Tokusatsu (特撮)là danh từ tiếng Nhật, viết tắt của cụm từ Tokushu Satsuei Gijutsu (特殊撮影特殊撮影技術) nghĩa là kỹ thuật chụp ảnh/quay phim đặc thù, tức hiệu ứng đặc biệt được sử dụng trong phim ảnh như cảnh khói lửa, bay nhảy. Danh từ Tokusatsu được dùng nhiều để chỉ về các tác phẩm phim ảnh (cả phim chiếu rạp lẫn các drama, phim dài tập trên truyền hình) có sử dụng loại kỹ thuật này. Thường thì đề tài của phim Tokusatsu là các người hùng, "siêu nhân" trong những bộ trang phục thiết kế kỳ lạ, và đôi khi là cả quái thú, người máy... Nó là một trong những loại giải trí phổ biến nhất tại Nhật Bản nhiều thập niên qua, nhưng các tác phẩm loại này thường không thoát ra khỏi phạm vi một số nước châu Á được. Ngay cả tại Nhật, nó cũng không được nhiều người để tâm. Nhưng thời gian gần đây Tokusatsu đã vượt ra khỏi lãnh thổ Nhật, phạm vi châu Á để vươn ra Thế giới và chiếm được một lượng người hâm mộ trung thành, tuy không nhiều. Khái yếu Tokusatsu là một danh từ chỉ phương pháp phân loại nếu nhìn từ phương diện kỹ thuật nên nghĩ rằng nó là các tác phẩm SF hay Fantasy được dựng thành phim ảnh cũng không có gì sai. Nó còn dùng để chỉ các tác phẩm (phim ảnh) hướng đến tầng lớp thiếu niên, nhi đồng do các hãng phim như Touei (Toei), Touhou (Toho) và các Production như Tsuburaya Production (Production là các công ty chế tác phim độc lập) chế tác. Danh từ Tokusatsu không bao gồm các tác phẩm Anime có cùng nội dung, chủ đề tương tự. Có thể nói Tokusatsu là danh từ để chỉ một bộ phận nhỏ, một phạm vi nhỏ trong các bộ phim chiếu rạp, phim truyền hình được sản xuất hơn là một danh từ để chỉ thể loại (như thể loại kinh dị, lịch sử....). Các tác phẩm Anime và tác phẩm Tokusatsu dần dần được xếp vào hạng mục "Manga" cũng củng cố cho điều này. Nhưng trong những năm gần đây có quan niệm cho rằng Tokusatsu = "loại drama hành động với nhân vật ăn mặc kín mít cả người" và như vậy lại thu hẹp hơn phạm vi của Tokusatsu. Đại biểu có thể kể đến loạt phim quái thú (Kaiji eiga 怪獣映画 ) như Gojira và loạt phim người hùng khổng lồ (Kyodai Hiirou 巨大ヒーロー), loạt phim người máy khổng lồ như Super Robot Redbaron (Supaa robotto reddo baron), loạt phim người hùng biến thân như Kamen Raider (仮面ライダー rider mặt nạ), Kamen no Ninja Akakage (仮面の忍者赤影 Ninja mặt nạ Akakage) và tác phẩm Everyday Magic (エブリデイ・マジック) hướng đến khán giả nữ. Những phim "thuần Tokusatsu" như thế này, tức là sử dụng nhiều kỷ xảo quay phim, đề tài người hùng, siêu nhân, nội dung có phần đơn giản, được gọi chung là Tokusatsu mono. Có những phim khai thác đề tài chiến tranh hoặc kinh dị cũng sử dụng một phần hoặc phần lớn kỷ xảo Tokusatsu không được giới truyền thông xếp vào hạng Tokusatsu mono (tuy nhiên giới nghiền phim thế hệ cũ thường có khuynh hướng xếp loại này vào chung với Tokusatsu). Và những phim dùng kỷ xảo đặc biệt do nước khác chế tác như Star Wars, Harry Potter, Smallville, Lost in Space... cũng ít khi được xếp chung vào Tokusatsu cùng với phim quái thú, người hùng của Nhật mà người Nhật chỉ xem chúng là tác phẩm SF (như Star Wars) và tác phẩm Fantasy (như Harry Potter) mà thôi. Quái thú Gojira Lịch sử Tokusatsu, tức kỷ xảo đặc biệt, có nguồn gốc lâu đời từ trong các rạp múa kịch Kabuki truyền thống, khi người ta sử dụng khói màu, hệ thống ròng rọc trên sân khấu để thể hiện các cảnh đánh nhau, biến hóa phép thuật. Nó cũng có nguồn gốc từ các rạp múa rối bunraku với kỹ thuật điều khiển rối (xem thêm loạt bài "Khái yếu lịch sử Nhật Bản" do Nhất Như biên dịch). Nhưng Tokusatsu hiện đại chỉ hình thành từ khoảng năm 1950 với sự ra đời của Gojira, bộ phim quái thú nổi tiếng nhất của mọi thời đại. Bộ phim kể về một con quái thú khổng lồ bỗng thức dậy bởi tác động của bom nguyên tử và bắt đầu tấn công nước Nhật. Những kỹ thuật dùng trong phim như Suitmation (スーツメーション, diễn viên chui vào bộ trang phục quái thú) và kỹ thuật quay mô hình nhà cửa thu nhỏ bên cạnh quái thú kích thước bình thường để thể hiện sự tương quan kích thước đã trở thành kim chỉ nam cho kỹ thuật quay Tokusatsu sau đó, và ít nhiều vẫn còn giữ lại cho đến thời kỳ phim Tokusatsu sau này. Gojira đã khơi dậy làn sóng phim quái thú rất được ưa chuộng tại Nhật trong vài thập kỷ sau đó. Năm 1957, bộ phim Super Giant (Koutetsu no kyojin -người thép khổng lồ) ra đời đã đánh dấu bước chuyển đổi của Tokusatsu từ đề tài quái thú sang đề tài siêu người hùng (super hero). Năm 1958, phim Gekkou Kamen (mặt nạ ánh trăng) cũng đánh dấu sự ra đời của loại phim truyền hình dài tập với đề tài siêu người hùng. Các loạt phim siêu người hùng sống được ít lâu trong thập niên 60 nhưng phần lớn đều không có tiến triển gì. Nhưng đến năm 1966 thì phim Maguma Taishi (đại sứ nham thạch) và Ultraman (Urutora man) ra đời đã tạo nên một dòng Tokusatsu mới, là kyodai hero -người hùng khổng lồ) trong đó thường có tình tiết là nhân vật chính đang ở hình dạng bình thường bỗng "biến thân" (henshin) thành người hùng khổng lồ để chiến đấu với quái vật có kích thước tương đương. Đặc trưng Tác phẩm Tokusatsu đa phần thuộc các tác phẩm được chiếu trên truyền hình nên ở Nhật khi nghe tới danh từ này, người ta thường có ấn tượng đó là sản phẩm hướng tới đối tượng là trẻ nhỏ. Và thực tế là có nhiều tác phẩm SF có nội dung hướng tới người lớn được sản xuất ra cũng phải đón nhận thái độ lãnh đạo của người xem. Và các tác phẩm Tokusatsu chỉ đơn thuần hướng tới lượng khán giả nhỏ tuổi và fan trung thành của Tokusatsu cũng thường hay bị trêu đùa là đơn giản, hời hợt. Mặt khác, trong số những người đã lớn lên cùng với phim Tokusatsu trong thời kỳ thơ ấu của họ cũng có nhiều tiếng nói yêu cầu giữ nguyên "tính truyền thống của Tokusatsu", tức là không cần phải thay đổi theo hướng nội dung trưởng thành mà chỉ cần hướng về đối tượng nhi đồng là đủ. Ngay cả Tsuburaya Eiji, ông chủ của Tsuburaya Production, người từng thực hiện nhiều phim Tokusatsu có nội dung hợp với người lớn cũng muốn "giữ lại giấc mơ cho trẻ con", nghĩa là không muốn Tokusatsu thay đổi theo chiều hướng trưởng thành. Nếu xem những bộ phim không có nhân vật như Kaiki Daisakusen (trận chiến kỳ lạ) và phim SF như Star Strek là Tokusatsu thì tức là danh từ này còn chỉ ở một phạm vi hẹp hơn. Công nghệ phát triển kéo theo sự tiến bộ trong lãnh vực hình ảnh do máy tính tạo ra, nó cũng tác động không nhỏ tới Tokusatsu. Do đó nội dung phim Tokusatsu cũng dần chuyển sang hướng SF hay fantasy, điều này có thể thấy qua series phim Time Ranger trong những năm gần đây. Và nếu cho rằng việc này làm thu hẹp lại phạm vi của Tokusatsu thì điều này có ý nghĩa không tốt và là vấn đề tranh cãi có từ trước khi có tranh cãi có nên hướng nội dung của Tokusatsu tới đối tượng người lớn hay không. Một điều nữa thường thấy ở Tokusatsu: những loạt phim này là nơi tiến thân của các diễn viên trẻ tuổi. Như trường hợp của Nagano Hiroshi trong phim Ultraman Tiga (Urutoraman Teiga) năm 1996 và Odagiri Joe trong phim Kamen Rider Kuga năm 2000. Một loạt những diễn viên trẻ trở nên nổi tiếng như Tsuruno Takeshi, Kaneko Noboru, Tamayama Tetsuji,...Phim Tokusatsu thời gian gần đây sử dụng nhiều diễn viên điển trai nên lôi kéo được một lượng lớn fan nữ, và ngược lại các vai nữ chính trong Tokusatsu sau này cũng trở thành diễn viên, người mẫu (Idol) nổi tiếng như Yoshimoto Takami, Katou Natsuki, Akiyama Rina, Yamamoto Azusa. Nhìn qua những series Tokusatsu gần đây như Deka Ranger (Kinoshita Ayumi), Boukenger (Nakamura Chise, Suenaga Haruku) cũng thấy được điều này. Nhưng gần đây cũng có những trường hợp diễn viên vô danh bỗng trở nên nổi tiếng khi lần đầu xuất hiện trong phim Tokusatsu, nhưng sau đó chìm vào quên lãng vì khi có thực lực. Về cơ bản thì loại phim này không đòi hỏi diễn xuất nhiều mà chỉ cần yếu tố ngoại hình là đủ thu hút một lượng lớn thanh thiếu niên. Kinoshita Ayumi trong Deka Renjaa Trước đây phần lý lịch đã từng tham gia diễn xuất phim Tokusatsu thường không được công khai nhưng cũng có nhiều diễn viên trẻ công khai điều này. Có những phim được chế tác nhằm tới đối tượng là số đông công chúng hơn là trẻ con, như trường hợp của Zebra Man. Và như vậy, tuy định nghĩa thể loại Tokusatsu càng thu hẹp hơn nhưng trái lại cũng cho thấy sự trưởng thành của nó cùng với sự trưởng thành của lớp khán giả đã xem Tokusatsu trong thời thơ ấu. Kể từ sau đại chiến Thế giới lần 2, nước Nhật bại trận và hồi phục nhanh chóng. Phim Tokusatsu cũng tồn tại song song hai đường hướng với nội dung dành cho số đông như Gojira và nội dung chỉ dành cho thiếu niên nhi đồng như Gekkou Kamen hay series Super Giant. Trong Tokusatsu có lẽ "dài hơi" nhất phải kể tới series phim Super Sentai (スーパー戦隊, siêu chiến đội) cho tới nay vẫn còn được chiếu trên truyền hình. Loạt phim này thường có đề tài nhóm 5 thiếu niên can đảm bảo vệ Địa cầu chống lại cái ác với vũ khí tối tân và người máy khổng lồ. Có lẽ nó cũng thể hiện cái nhìn lạc quan của người Nhật sau chiến tranh, tin vào sức mạnh khoa học, kỹ thuật, kinh tế của đất nước mình. Thời kỳ bắt đầu series Super Sentai (1975) cũng chính là thời kỳ nền kinh tế Nhật có những bước nhảy thần kỳ. Do đó chuyện người ta lạc quan vào tương lai, tin vào khoa học kỹ thuật cũng không phải lạ. Các tác phẩm chủ yếu Được phân loại như sau: + Phim quái thú (Kaiju) gồm có: series Gojira, series Gamera, series Mosura, Sora no daikaju Radon (空の大怪獣ラドン, Radon đại quái thú bầu trời), Daikaiju Baran (大怪獣バラ ン-Đại quái thú Baran), Uchu Daikaiju Dogora (宇宙大怪獣ドゴラ- Đại quái thú vũ trụ Dogora), series Daimajin (大魔神- Đại ma thần), Daikyoju Gappa (大巨獣ガッパ - Quái thú khổng lồ Gappa), Furankenshutain tai chitei Kaiju (フランケンシュタイン対地底怪獣 - Frankenstein vs quái thú dưới lòng đất), Uchu daikaiju Girara (宇宙大怪獣ギララ - đại quái thú vũ trụ Girara).... + Phim quái nhân (Kaijin) gồm có: Sensou ningen (電送人間 -người điện tín), Gasu ningen dai ichigou (ガス人間第一号 - người gas số 1), Bijo to ekitai ningen (美女と液体人間 - mỹ nữ và người chất lỏng), Jujin Yuki otoko (獣人雪男- người thú tuyết), Toumei ningen (透明人間 - người vô hình), Toumei ningen to hae otoko (透明人間と蝿男 -người vô hình và người ruồi), Tamango, Kyuketsuki Gokemidoro (吸血鬼ゴケミドロ - quỷ hút máu Gokemidoro)... + Phim yêu quái (Youkai) gồm có: Youkai hyaku monogatari (妖怪百物語 - 100 truyện yêu quái), Youkai daisensou (妖怪大戦争, đại chiến tranh yêu quái), Sakuya Youkaiden (さ くや妖怪伝, chuyện yêu quái Sakuya), Gegege no kitarou (ゲゲゲの鬼太郎, quỷ Gegege)... + Phim chiến tranh gồm có: Hawai.Mare oki kaisen (ハワイ・マレー沖海戦, hải chiến Hạ Uy Duy-Mã Lai), Taiheiyou no washi (太平洋の鷲, diều hâu Thái bình dương), Taiheiyou no tsubasa (太平洋の翼, đôi cánh Thái bình dương), Aojima youkan bakugeki meirei (青島要塞爆撃命-令- mệnh lệnh đánh bom căn cứ Aojima), Nihonkai daikaisen (日本海大海戦, đại hải chiến trên biển Nhật Bản),... + Phim Tokusatsu chiếu rạp: Gamma daisan gou uchu daisakusen (ガンマー第3号 宇宙大作, đại tác chiến vũ trụ Gamma số 3), Nippon tanjou (日本誕生, Nhật Bản ra đời), Osaka jou monogatari (大坂城物語, câu chuyện thành Osaka), Sekai Daisensou (世界大戦争, đại chiến Thế giới), Kairyu daikessen (怪竜大決戦, đại quyết chiến quái long), Uchu kara no messejii (宇宙からのメッセージ, bức thông điệp từ vũ trụ), Nihon chinbotsu (日本沈没, Nhật Bản bị chìm), Sayounara Jupitaa (さよならジュピター, vĩnh biệt Mộc tinh),... Cảnh phim Nihon chinbotsu Những loạt phim Tokusatsu nổi tiếng + Loạt phim người hùng của Tsuburaya Production + Loạt phim Super Sentai + Loạt phim Kamen Rider + Loạt phim Ultraman Ultraman Tầm ảnh hưởng của Tokusatsu bên ngoài Nhật Bản Tuy Tokusatsu không chiếm được lòng yêu thích của đông đảo người xem tại Nhật nhưng nó cũng đạt được những thành công nhất định khi vượt ra khỏi lãnh thổ nước này. Ngoài các kênh truyền hình Nhật, Tokusatsu còn được chiếu trên truyền hình ở một số nước gần gũi với nền văn hóa Nhật Bản ở Nam Mỹ như Ba Tây (Brasil) và các nước Nam Âu như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha. Ở Đông Nam Á thì Thái Lan, Nam Dương là những nước chiếu Tokusatsu trên truyền hình sớm nhất và có lẽ là duy nhất. Tokusatsu còn được nhiều kênh truyền hình Đài Loan, Đại Hàn trình chiếu. Ngày nay, với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, Tokusatsu đã xâm nhập vào lượng khán giả khắp Thế giới. Tại những trang cho đăng tải phim ảnh nổi tiếng như Youtube hay Veoh, người ta dễ dàng bắt gặp một lượng lớn phim Tokusatsu do fan cuồng nhiệt ở từng nước tải lên. Các nước bản địa cũng bắt đầu hình thành nên cộng đồng, diễn đàn yêu thích Tokusatsu và cũng chính họ là người đi tiên phong trong việc làm phụ đề sang ngôn ngữ bản địa, một việc làm góp phần phổ biến Tokusatsu. Kỹ thuật Tokusatsu được sử dụng bên ngoài nước Nhật bởi sự nổi tiếng của các bộ phim quái thú Gojira. Năm 1961, Anh Cát Lợi cũng chế tác một phim Gojira của mình với tên Gorgo và cũng sử dụng kỹ thuật Suimation. Cùng năm, Saga Studios của Đan Mạch cũng cho ra đời phim quái thú khổng lồ có tên Reptilicus sử dụng các hình nhân và mô hình thu nhỏ. Năm 1967, Nam Hàn cũng chế tác phim quái thú của mình với tên Taekoesu Yonnggary. Năm 1975, Shaw Brothers (một hãng phim Hương Cảng) cũng sản xuất một phim siêu người hùng (superhero) với tên The Super Inframan dựa trên series Ultraman và Kamen Rider của Nhật. Năm 2001, Buki X-1 Productions, một công ty Pháp quốc của các fan Tokusatsu đã cho ra đời series Tokusatsu của riêng mình là Jushi Sentai France Five (gọi tắt là France Five) dựa trên series Super Sentai của hãng Touei, Nhật. Năm 2004, Peter Tatara cho ra đời series phim Johnny Robo có kinh phí thấp dựa trên series Kamen Rider và người hùng biến thân. Năm 2006, Nam Hàn cũng sản xuất series Tokusatsu dành cho trẻ em của riêng họ là Erexion. Tháng 8 năm 2006, người Thái cũng sản xuất loạt phim Tokusatsu của mình dựa trên loạt Super Sentai của Nhật. Loạt phim này có tên Sport Rangers, có ý tưởng mới lạ về đề tài thể thao nhưng số tập không kéo dài như series Sentai. Mới nhất, trong năm 2009 này Trung Quốc cũng bắt đầu sản xuất Tokusatsu của mình với tên "Dũng sĩ giáp trụ" (铠甲勇士 Bính âm: Kǎi Jiǎ Yǒng Shì). Phim Tokusatsu ''made in China" Nhưng có lẽ đáng nói nhất vẫn là loạt phim Power Rangers ban đầu do hãng Saban (Mỹ quốc) mua bản quyền loạt phim Kyoryu Sentai Jurenjaa (Chiến đội khủng long- Ranger thú) của hãng Touei (năm 1990) và thay đổi nội dung chút ít, cho diễn viên Mỹ diễn lại toàn bộ và chỉ giữ lại những cảnh người máy, máy móc trong phim của Nhật. Loạt phim này thành công đến độ người ta phải làm tiếp những phần (season) sau và hiện vẫn còn đang tiếp tục. PR sau được Walt Disney rước về. Năm 1994, người Mỹ cũng mua lại bản quyền của các series metal heroes như Choujinki Metalder, Uchukeiji để diễn lại với cái tên VR Troopers. Sự thành công của những series mua bản quyền này tại đất Mỹ khiến Saban cho ra đời series original của mình dựa trên thần thoại Á Nhĩ Lan là The Mystic Knights of Tir Na Nog. Năm 1994, DiC Entertainment cũng mua lại các cảnh phim trong Denkou Choujin Gridman của Tsuburaya Production để chế tác Superhuman Samurai Syber-Squad của mình. VR Troopers Có lẽ bấy nhiêu đó cũng đủ nói lên một điều rằng: nếu trước đây người Nhật giỏi phát triển lên từ nền tảng phát minh của người khác thì trong thể loại phim Tokusatsu, họ đã sáng tạo một nền tảng để cả Thế giới phải sử dụng. Kỳ tiếp: khái quát về series Metal Heroes.
Mấy bài ngoài lề sẽ bị del hết,sau khi chủ topic hoàn tất bài viết của mình,bài này sẽ được cho vào box Lưu Trữ thay mặt ban điều hành box A-M rất cảm ơn bạn vì đã đóng góp thêm kiến thức cho box A-M
Sao không tìm thấy chỗ nào để edit bài nhỉ. Nhờ mod edit hộ cái lỗi chính tả ở trên giúp nhé. Cám ơn. ---------------------------------------------------------------------------- Series phim Metal Heroes Metal Heroes series (メタルヒーローシリーズ metaru hiirou shiriizu) là tên gọi chung của loạt phim Tokusatsu do hãng Touei chế tác được trình chiếu trên kênh truyền hình Asahi từ tháng 3 năm 1982 cho tới tháng 1 năm 1999. Đề tài của series này thường là cảnh sát vũ trụ, chiến sĩ không gian và các nhân vật chính khi biến thân (henshin) thường mặc giáp kim loại bao bọc kín người. Về sau series này còn có nhân vật chính không phải người mà là một cỗ máy như Juspion. Metal Heroes được sản xuất song song với các sản phẩm Tokusatsu khác của Touei như Kamen Rider và Super Sentai. Một vài bộ Metal Heroes không chỉ nổi tiếng ở Nhật mà còn được chiếu ở Pháp, Ba Tây, Phi Luật Tân, Mã Lai và Nam Dương. Năm 1990, hãng Saban của Mỹ cũng mua lại vài bộ trong series này để đưa vào series Power Rangers của họ. Các mẫu người hùng trong series Metal Heroes Khái yếu Vì tất cả các bộ trong series này đều có nhân vật chính mặc giáp kim loại che kín thân nên lực lượng fan mới gọi bằng danh từ Metal Heroes, và từ đó nhà sản xuất cũng gọi tên series phim của mình như vậy. Các bộ ban đầu trong series chỉ có một nhân vật chính duy nhất, nhưng kể từ bộ Tokkei Winsupekutaa (特警ウインスペクター, đặc cảnh Winspector) trở đi thì nhân vật chính gồm một nhóm đông và từ bộ Bi Robo Kabutakku (ビーロボカブタック, Robo bọ Kabutack) trở đi thì càng coi trọng yếu tố dí dỏm hài hước hơn. Loạt phim Metal Heroes này chính thức bắt đầu với bộ Uchu Keiji Gyaban (宇宙刑事ギャバン, cảnh sát hình sự vũ trụ Gavan) (năm 1982) và kết thúc ở bộ Tetsuwan Tantei Robotakku (テツワン探偵ロボタック, Robotack- trinh thám Tetsuwan) (1998), bao gồm 17 bộ. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng kể từ bộ Bi faitaa Kabuto (ビーファイターカブト, Chiến binh bọ Kabuto) cho tới Tetsuwan Tantei Robotakku thì 3 bộ cuối này mang hương hướng khác hẳn 14 bộ trước nên không nên xếp chung vào series Metal Heroes. Một vài bộ trong series có nhân vật chính khó nói là mặc giáp kim loại trên thân, như trường hợp của Ninja Jiraiya, không xuất hiện trong video do Bandai bán ra nên một thời gian nó cũng không được xếp vào hàng Metal Heroes. Mấy năm đầu phát sóng của series trùng với thời gian ngừng chiếu của các series nổi tiếng khác như Ultraman (của Tsuburaya Production) và Kamen Rider (của Touei). Series Metal Heroes này cũng xây dựng hình tượng nhân vật chính rất khác biệt so với hình tượng người hùng trong các series nổi tiếng khác như Kamen Rider, Ultraman và Super Sentai nên trong một thời gian đã chiếm được lượng người hâm mộ rất lớn, và Metal Heroes trở thành một trong những series phim Tokusatsu truyền hình nổi tiếng nhất Nhật Bản. Thế giới quan Trong suốt series Metal Heroes từ đầu chí cuối không có sự liên hệ rành mạch nào về thế giới quan. Tuy nhiên cũng có vài bộ trong series là có sự ăn thông với nhau ở mặt này. Đó là trường hợp của bộ 3 cảnh sát hình sự vũ trụ (Uchukeiji) là Gavan, Sharivan và Shaider, trường hợp của Resukyu Porisu (レスキューポリスシリーズ, Resuce Police) và trường hợp của Bi Faitaa Kabuto với Jukou Bi faitaa (重甲ビーファイター). Và cũng có trường hợp là tuy series không nói rõ có sự liên hệ giữa các thế giới trong các bộ khác nhau nhưng nhân vật của các bộ khác nhau lại cùng nhau xuất hiện. Các bộ trong series 1. Uchukeiji Gyaban (宇宙刑事ギャバン, cảnh sát hình sự vũ trụ Gavan, trọn 44 tập, từ 5-3-1982 cho tới 25-2-1983). Bộ này được phát sóng với cái tên X-Or ở Pháp và Sky Ranger Gavin ở Phi Luật Tân, Space Cop Gaban ở Mã Lai, Nam Dương. Đây là bộ mở đầu cho loạt 3 bộ cảnh sát hình sự, nhân vật chính là Ichijouji Retsu, con của một phụ nữ Địa cầu và người đàn ông từ vũ trụ, phải bảo vệ hành tinh chống lại kẻ xâm lược từ vũ trụ. Cảnh sát hình sự Gyaban (Gavan) trong game Supaa Tokusatsu Daisen 2001 2. Uchukeiji Shariban (宇宙刑事シャリバン, cảnh sát hình sự vũ trụ Sharivan, trọn 51 tập, bắt đầu từ 4-3-1983 cho tới 24-2-1984). Đây là bộ thứ hai trong series và là bộ tiếp theo trong loạt bộ 3 cảnh sát hình sự. Nội dung tiến triển tiếp sau khi Gavan được thăng chức, giao chức cảnh sát hình sự vũ trụ lại cho một nhân viên kiểm lâm là Iga Den. Cảnh sát hình sự Shariban (Sharivan) trong game Supaa Tokusatsu Daisen 2001 3. Uchikeiji Shaidaa (宇宙刑事シャイダー, cảnh sát hình sự vũ trụ Shaider, trọn 49 tập và 1 tập đặc biệt, bắt đầu từ 2-3-1984 cho tới 8-3-1985) Đây là bộ thứ 3 trong series và là bộ cuối cùng của loạt bộ 3 cảnh sát hình sự. Hãng Saban Entertaiment sử dụng các cảnh phim của bộ này trong phần (season) 2 của series phim VR Troopers của họ. Bộ này còn có một phần mở rộng ở Phi Luật Tân là Zaido. Cảnh sát hình sự Shaidaa (Shaider) 4. Kyoju Tokusou Jasupion (巨獣特捜ジャスピオン, đặc tra quái thú khổng lồ Juspion, trọn 46 tập, từ 15-3-1985 cho tới 24-3-1986). Khác với bộ 3 cảnh sát hình sự vũ trụ trước, nhân vật chính giờ đây đã có robot khổng lồ là Daileon để chiến đấu. Jasupion (Juspion) 5. Jiku senshi Supiruban (時空戦士スピルバン, chiến sĩ không thời gian Spielvan, trọn 44 tập, từ 7-4-1986 cho tới 9-3-1987). Đây là câu chuyện về hai đứa trẻ từ một hành tinh đã bị tiêu diệt lưu lạc đến Địa cầu, giúp nơi này bảo vệ nguồn nước khỏi một tổ chức độc ác. Các cảnh hành động trong bộ này được dùng trong VR Troopers. Supiruban (Spielvan) 6. Choujinki Metarudaa (超人機メタルダー ,siêu "người máy" Metalder, trọn 39 tập, từ 16-3-1987 cho tới 17-1-1988). Bộ này chịu nhiều ảnh hưởng từ một tác phẩm Tokusatsu khác là người máy Kikaider, nói lên tâm trạng băn khoăn đầy tính nhân văn của một con người bị biến thành cỗ máy. Nội dung bộ này có nhiều tình tiết cảm động hướng về lượng khán giả lớn tuổi hơn nhỏ tuổi. Các cảnh phim của Metalder cũng được Saban sử dụng trong VR Troopers. Metarudaa (Metalder) 7. Sekai Ninja sen Jiraiya (世界忍者戦ジライヤ, chiến tranh Ninja thế giới, Jiraiya, trọn 50 tập, từ 24-1-1988 cho tới 22-1-1989) nói về cuộc đấu tranh của Ninja chống lại thế lực Samurai tà ác. Jiraiya khác biệt so với các bộ khác trong series ở chỗ nhân vật chính không phải người máy, không phải nửa người nửa máy và cũng không mặc giáp kim loại. 8. Kidou Keiji Jiban (機動刑事ジバン, cảnh sát hình sự cơ động Jiban, trọn 52 tập, từ 29-1-1989 cho tới 28-1-1990). Bộ này có cùng tiền đề với phim Robôtcp thập niên 90 ở Mỹ. Jiban là nhân vật đầu tiên trong series mang biểu tượng của lực lượng cảnh sát Nhật. 9. Tokkei Winsupekutaa (特警ウインスペクター, đặc cảnh Winspector, trọn 49 tập, từ 4-2-1990 cho tới 13-1-1991). Đây là bộ đầu tiên trong loạt phim Rescue Police (レスキューポリスシリーズ) kể về 2 nhân vật cảnh sát robot cùng các đồng sự của mình chuyên giải quyết các vụ phạm tội trong xã hội, giải thoát con tin. 10. Tokkyuu Shirei Soruburein (特救指令ソルブレイン, Đặc cứu tư lệnh Solbrain, trọn 53 tập, từ 20-1-1991 cho tới 26-1-1992). Đây là bộ tiếp theo trong loạt phim Rescue Police. Câu chuyện tiếp nối phần trước khi đặc cảnh Winspector mở một chi nhánh cảnh sát riêng cùng với hai đồng sự nam nữ, tiếp tục chống lại bọn tội phạm. Giới gamer VN chắc cũng không xa lạ với một game Solbrain trên hệ máy Famicom (NES) trong giai đoạn này. Solbrain trong game NES 11. Tokusou Ekushiidorafuto (特捜エクシードラフト, đặc tra Exceedraft, trọn 49 tập, bắt đầu từ 2-2-1992 cho tới 24-1-1993). Đây là bộ cuối cùng trong loạt bộ 3 Rescue Police. Bộ này tiếp tục về 3 nhân vật trong bộ giáp robot cảnh sát tiếp tục công việc của tiền nhân nhưng không nhờ sự giúp đỡ của các loại robot khác. Bộ này cũng đánh dấu bước trở lại với đề tài SF truyền thống của Tokusatsu chứ không còn đối mặt với các tổ chức tội phạm thực tế nữa. 12. Tokusou Robo Janpaason (特捜ロボ ジャンパーソン, người máy đặc tra Janperson, trọn 50 tập, từ 31-1-1993 kéo dài tới 23-1-1994). Bộ này có cùng ý tưởng với bộ 3 Rescue Police, chỉ khác là nhân vật chính không phải con người mà là một cỗ máy thực sự. Cỗ máy cảnh sát có tên Janperson này tuần tra trên các đường phố ở Tokyo, chống lại các tổ chức tội phạm và android (nửa người nửa máy). Janperson 13. Buru suwatto (ブルースワット, Blue Swat, trọn 51 tập, từ 30-1-1994 cho tới 29-1-1995). Một nhóm cảnh sát phải chiến đấu chống lại các sinh vật vũ trụ. Đây là bộ "thực" nhất trong series Metal Heroes chứ không có nhiều hơi hướng SF như các bộ khác. 14. Jukou Bii Faitaa (重甲ビーファイター ,chiến binh giáp B, trọn 51 tập, 2 tập đặc biệt, từ 5-2-1995 cho tới 25-2-1996). Chữ Bi (B) ở đây viết tắt cho từ Beetle, nghĩa là con bọ, trong tiếng Anh, và cũng là Bee, con ong. Đó cũng là đề tài chính của phim. Một nhóm người hùng với sự hỗ trợ của máy móc (mecha), trang bị cho mình những bộ giáp côn trùng để chống lại sinh vật vũ trụ. Mẫu đồ chơi B-Fighter 15. Bii Faitaa Kabuto (ビーファイターカブト , chiến binh bọ Kabuto B, trọn 50 tập, từ 3-3-1996 cho tới 16-2-1997). Đây là phần tiếp theo của Jukou Bii Faitaa với 7 nhân vật mới mang nhiệm vụ bảo vệ Địa cầu khỏi sự xâm lăng của các sinh vật vũ trụ. Các cảnh hành động trong bộ này được đưa vào trong Beetleborgs Metallix. 16. Bii Robo Kabuttaku (ビーロボカブタック, người máy bọ Kabutack, trọn 52 tập, từ 23-2-1997 cho tới 1-3-1998) Đây là bộ đầu tiên trong series Metal Heroes thể hiện rõ nhất ý định: nhắm tới đối tượng nhỏ tuổi. Một vài nhân vật trong Jukou Bii Faitaa cũng xuất hiện trong bộ này. 17. Tetsuwan Tantei Robotakku (テツワン探偵ロボタック, Robotack- trinh thám Tetsuwan, trọn 45 tập, bắt đầu từ 8-3-1998 cho tới 24-1-1999). Đây là bộ cuối cùng trong series Metal Heroes với một chú chó máy trong vai trò cảnh sát. Như vậy, series Metal Heroes bao gồm 17 bộ này và ngày nay người ta quan niệm rằng series này không còn "sống" nữa như trường hợp của Super Sentai và Kamen Raider. Bản thân Kamen Rider cũng có nhiều đặc điểm tương tự Metal Heroes. Đương thời cũng có một số bộ Tokusatsu có nhân vật tương tự nhưng không được xếp vào series Metal Heroes vì một vài lý do. Sau này cũng vậy, và bây giờ người ta xếp các kiểu người hùng này vào nhóm Henshin (biến thân). Trong bộ phim Tokusou Sentai Dekaranjaa năm 2004 cũng thấy cảnh sát hình sự Gavan xuất hiện. Năm 2009, Touei channel cũng phát lại các bộ Juspion, Kabutack và Exceedraft. Tầm ảnh hưởng Quốc tế Năm 1990, hãng Saban mua lại một số cảnh trong series Metal Heroes này để chiếu cho khán giả Mỹ. cảnh phim trong 3 bộ Spielvan, Shaider và Metalder được đưa vào VR Troopers của Saban. Cảnh phim trong Jukou Bii Faitaa cũng được dùng trong Big Bad Beetleborgs. Cả 2 series VR Troopers và Big Bad Beetleborgs đều kết thúc khi Saban sử dụng hết các cảnh họ mua lại từ phía Nhật. Cảnh trong phim VR Troopers Ở Phi Luật Tân, một vài bộ Metal Heroes được lồng tiếng và phát trên truyền hình. Touei cũng cho phép nước này chế tác Zaido: Pulis Pangkalawakan với tư cách là phần tiếp theo của Uchukeiji Shaidaa với các nhân vật tự xưng là con cháu của Shaider. Nhưng sau này Touei từ chối phát sóng tác phẩm này. Chuyện bên lề Tác phẩm đầu tiên trong series là cảnh sát hình sự vũ trụ Gavan, trong đó nhân vật chính mỗi khi biến thân sang người hùng mặc giáp kim loại đều hô "Jouchaku" (蒸着). Jouchaku là một thuật ngữ kỹ thuật chỉ phương pháp gia công làm kim loại và phi kim bốc hơi, cho bám lên bề mặt vật thể. Trong thực tế, bộ giáp của Gavan cũng được gia công bằng phương pháp này, cho kim loại bám lên bề mặt plastic. Vì vậy tên của phương pháp gia công này được giữ nguyên khi nhân vật hô biến thân. Tiếp tục, tiếng hô khi biến thân của cảnh sát hình sự vũ trụ Sharivan và Shaider là "Sekisha" (赤射) và "Kesshou" (焼結) cũng tương tự như vậy. Cảnh Gavan Jouchaku trong game Supaa Tokusatsu Daisen 2001 Một đặc điểm trong series Metal Heroes này là nhân vật chính thường sử dụng kiếm laser (レーザーブレード) và để quay được cảnh thanh kiếm phát sáng, người ta dùng nhiều phương pháp khác nhau. Trong đó có phương pháp sử dụng đèn huỳnh quang chiếu sáng làm thanh kiếm, nhưng chỉ cần va chạm nhẹ là nó vỡ ngay chứ đừng nói là đánh nhau thật. Vì vậy diễn viên chính và "địch thủ" phải phối hợp với nhau rất cao độ. Các diễn viên đóng thế cảnh đánh nhau trong phần lớn phim hành động ở Nhật đều thuộc JAC (Japan Action Club, một tổ chức do diễn viên Sonny Chiba lập ra) và người ta nói rằng chỉ có JAC mới có thể diễn được như vậy, vì người khác chỉ cần bắt chước huơ kiếm là bóng đèn sẽ vỡ ngay. Laser blade của Sharivan Laser blade của Shaider trong game Supaa Tokusatsu Daisen 2001 Các sản phẩm liên quan Ngoài thị trường đồ chơi thì còn có nhiều thứ "ăn theo" Metal Heroes khác. + Nhà đài cũng có phát bộ đặc biệt trên truyền hình gồm 3 nhân vật chính trong bộ 3 cảnh sát hình sự vũ trụ là Gavan, Sharivan và Shaider cùng nhau xuất hiện (宇宙刑事スペシャル 3人の宇宙刑事 ギャバン シャリバン シャイダー大集合!!). Ở tập 52 và 53 của Jukou Bii Faitaa cũng thấy Blue Swat, Janperson cùng xuất hiện. Bộ 3 hình sự vũ trụ tập hợp + Về phim chiếu rạp (trong lễ hội Manga của Touei) thì thấy có mấy bộ movie của Uchukeiji Shaidaa (Shaider), Choujiki Metarudaa (Metalder) và Kidou Keiji Jiban. + Về Manga thì thấy có tác phẩm bộ 3 cảnh sát hình sự vũ trụ và Juspion của họa sĩ Nonaka Minoru. Ngoài ra còn thấy Jukou Bii Faitaa, Bii Faitaa Kabuto của Moo. Uchukeiji Shaidaa cũng xuất hiện trong tiểu thuyết. + Về game thì thấy các sản phẩm chủ yếu như: Tokusou Shirei Soruburein trên Nes năm 1991, Supaa Hiirou sakusen (tác chiến Super Hero) trên PlaySation năm 1999 với Gavan, Sharivan, Shaider và Metalder, Supaa Tokusatsu Daisen 2001 (Đại chiến Super Tokusatsu 2001), một game chiến thuật chơi theo lượt trên PlayStation với sự xuất hiện của rất nhiều người hùng từ các series Tokusatsu khác nhau, trong đó có Metal Heroes, Uchukeiji tamashii (宇宙刑事魂, linh hồn của hình sự vũ trụ) gồm nhân vật chính là Gavan, Sharivan và Shaider,.... Một cảnh khác trong game Supaa Tokusatsu Daisen 2001 Những sản phẩm ăn theo kiểu này thì có rất nhiều, ở đây chỉ lượt qua một vài thứ đáng chú ý. Kỳ tiếp: khái quát về Uchukeiji Gyaban (Gavan). © 2009 - Houga658156
Uchukeiji Gyaban 宇宙刑事ギャバン, Cảnh sát hình sự vũ trụ Gyaban, là tên gọi của chương trình phim Tokusatsu mở đầu cho series Metal Heroes do hãng Touei chế tác, chiếu trên đài truyền hình Asahi từ ngày 3-5-1982 cho tới ngày 25-2-1983. Uchukeiji Gyaban kéo dài 44 tập phim và cũng là tên gọi của nhân vật chính trong phim. Đây cũng là bộ mở đầu cho bộ 3 phim cảnh sát hình sự vũ trụ. Tên gọi và nguồn gốc Tiếng Nhật là ngôn ngữ có phụ âm đứng trước 5 nguyên âm chính là a, i, u, e và o nên để ghi lại tên riêng của người Tây phương hay các nước khác thì nó luôn không đủ dẫn tới hiện tượng biểu ký không chính xác lắm. Cùng một tên gọi có thể biểu ký theo nhiều kiểu khác nhau và cùng một kiểu biểu ký có thể "diễn" ra nhiều tên gốc khác nhau. Tiếng Nhật cũng không có phụ âm "v" nên thay nó bằng "b". Vì vậy ギャバン, Gyaban, cũng có thể hiểu là Gyavan, Gavan, Gaban, Gavin, Gabin..... Và thực tế bộ phim này cũng được gọi bằng nhiều tên như vậy. Nhưng chính thức thì cái tên Gyaban được nhà sản xuất gán cho nhân vật trong phim theo tên của Jean Gabin (ジャン・ギャバン), diễn viên, ca sĩ Pháp quốc sinh năm 1904. Bộ phim trong giai đoạn phát triển dự định mang tên là Uchukeiji Ginjirou (宇宙刑事ギンジロウ). Uchukeiji Ginburiddo (宇宙刑事ギンブリッド) nhưng sau đổi thành Gyaban. Bộ này được dịch sang tiếng Anh là Space Sheriff Gavan. Vì sự phổ biến của cộng đồng Anh ngữ nên trong bài này, từ chỗ này trở về sau cũng gọi Gyaban là Gavan khi bàn về nhân vật trong phim (vẫn giữ lại cách gọi Gyaban khi nói về tên phim), dù gọi là Gabin thì chính xác hơn.Hai bộ cảnh sát hình sự tiếp theo là Uchukeiji Shariban và Uchukeiji Shaidaa cũng tiếp tục truyền thống đặt tên theo các nhân vật nổi tiếng ngoài đời. Uchukeiji Gavan Nội dung Bộ phim bắt đầu khi tổ chức tội phạm vũ trụ Maku (宇宙犯罪組織マクー, Uchu hanzai soshiki Maku) do tên Don Horror (ドン・ホラー, Don Horaa) cầm đầu đã tiêu diệt một trạm không gian gần Địa cầu và muốn xâm chiếm luôn hành tinh này. Hắn muốn cai trị toàn bộ vũ trụ và Địa cầu là một chướng ngại hắn phải vượt qua nhưng không cần thiết phải hủy diệt nó. Thế là Don Horror gửi binh đoàn của mình tới Địa cầu để gây hoản loạn cho loài người. Trước tình hình đó, cảnh sát hình sự vũ trụ Gavan được liên bang cảnh sát ngân hà (銀河連邦警察- Ginga Rempou keisatsu) có bản địa ở hành tinh Bird (バード星) phái đến Địa cầu để giữ gìn trị an, chống lại bọn Maku. Tình cờ đây cũng là quê hương của mẹ Gavan. Gavan là con trai của Voicer (ボイサー), cảnh sát hình sự vũ trụ tiền nhiệm và là một người trên hành tinh Bird, có mẹ là một phụ nữ Trái đất tên là Ichijouji Tamiko. Vì lẽ đó mà khi đến Địa cầu, Gavan lấy họ mẹ là Ichijouji, lấy tên là Retsu và hoạt động ở câu lạc bộ cưỡi ngựa Abaron (Avalon). Tại đây Gavan gần gũi với bọn trẻ con trong câu lạc bộ, vừa bảo vệ Địa cầu khỏi tay bọn Maku trong khi truy tìm tung tích người cha Voicer đã mất tích trước đó. Hoàn cảnh ra đời Năm 1981, các series Tokusatsu ăn khách như Ultraman và Kamen Rider đã lần lượt chiếu hết và lúc đó chỉ còn lại mỗi chương trình Tokusatsu là Super Sentai. Năm 1982, người ta muốn bắt đầu một chương trình Tokusatsu mới với hình tượng nhân vật mới, khác với trước đây, và từ đó dẫn tới sự ra đời của Uchukeiji Gyaban. Đây cũng là bộ đầu tiên trong bộ 3 Uchukeiji, mở đầu cho cả series Metal Heroes kéo dài đến tận năm 1999. Uchukeiji Gyaban được bắt đầu từ một tấm hình minh họa của Murakami Katsushi, một nhân viên thiết kế của hãng Bandai, người đã để lại tên tuổi mình trong lịch sử ngành đồ chơi với nhiều sản phẩm độc đáo. Theo Yoshimoto Susumu của hãng Touei thì đây là một sáng tạo về người hùng đơn độc vượt qua cả Kamen Rider. (người hùng trong series Super Sentai thường là một nhóm) Diễn viên chính là Ôba Kenji, một thành viên của JAC (Japan Action Club) và là người từng tham gia diễn các series Super Sentai trước đó như Battle Fever J và Denshi Sentai Denjiman. Theo Kenji thì đây là tác phẩm mà cả nhà sản xuất Touei lẫn phía đài Asahi đều đánh cược bằng cả "mạng sống" của mình. Theo ông Suzuki Takeyuki, nhà sản xuất phim truyền hình của hãng Touei cho biết thì Uchukeiji Gyaban là bộ phim được đầu tư kinh phí lớn nhất cho tới thời điểm đó, nếu có rủi ro thì sẽ không bao giờ đánh cược vào những người hùng kiểu mới này nữa. Lúc này các nhân viên bên cục truyền hình cũng buộc chặt với điều kiện là nếu tỉ lệ xem đài không tăng lên được thì coi như mất việc. Nhưng chương trình Tokusatsu này đã thành công rực rỡ, đạt tỉ lệ xem là 14.9%, cao hơn cả chương trình thành công trước đó là Halo! Sundy Bell. Trong đó tập 24 chiếm tỉ lệ xem cao nhất là 18.6%. Thành công của Uchukeiji Gyaban không chỉ giới hạn trong nước Nhật. Ở Mã Lai, nó được nhà đài phát sóng lại và thành công tới mức danh từ riêng Gaban trở thành danh từ chung chỉ tính chất, mang nghĩa cực kỳ to lớn, hoành tráng trong tiếng lóng Mã Lai. Kiểu như Sở Khanh từ tên riêng biến thành danh từ chung trong tiếng Việt. Chẳng hạn trong tiếng Mã Lai, nếu nói "Besar gaban rumah itu!" thì có nghĩa là "ngôi nhà đó thiệt là to, thiệt là bự bà cố,..." (Wikipedia English) Diễn viên Ôba Kenji trong vai Ichijouji Retsu (Còn nữa)
Các nhân vật chính + Ichijouji Retsu (一条寺 烈): cảnh sát hình sự vũ trụ Gavan, đảm nhận khu vực Địa cầu trong khi truy tìm tung tích người cha mất tích. Ở Địa cầu Gavan lấy họ mẹ là Ichijouji, lấy tên là Retsu và hoạt động ở câu lạc bộ cưỡi ngựa Abaron, khi bọn Maku xuất hiện thì lập tức bỏ việc để đi điều tra, vì thế nên lương tháng không bao giờ tăng. Và vì thời gian ở Địa cầu chưa lâu nên không có thói quen mang tiền theo trong người, thỉnh thoảng phải mượn tiền đám hậu bối khi cần tới. Retsu ưa thể thao, tính cách hào khoáng nên đưa bọn trẻ con ưa thích, khi rãnh rỗi thường chơi túc cầu với chúng. Trong tập phim đặc biệt 3 cảnh sát vũ trụ tập hợp, Retsu báo với Sharivan và Shaider rằng mình đã cầu hôn với Mimi. Retsu đến Địa cầu bằng tàu vũ trụ Dolgiran. + Chỉ huy Qom (コム長官): người chịu trách nhiệm tối cao trong cục liên bang cảnh sát ngân hà và cũng là người bổ nhiệm Gavan vào khu vực Địa cầu. Bản thân ông ta cũng là một cảnh sát vũ trụ lừng danh, từng tiêu diệt không ít tổ chức tội phạm vũ trụ. Qom còn là bạn thân của Voicer, cha của Gavan và thay mặt bạn mình nuôi lớn con trai của bạn. Qom liên lạc với Gavan trên tàu Dolgiran bằng một màn hình lớn. + Mimi (ミミー): con gái của chỉ huy Qom, có nhiều tình cảm với Gavan và là trợ thủ đắc lực của anh. Mimi sử dụng mặt dây chuyền đặc biệt để biến mình thành con chim vẹt khi trinh sát, bám theo đuôi đối phương và thoát hiểm khẩn cấp. Mimi còn có thể bay trong không gian vũ trụ với vận tốc ánh sáng. Khi biến thân, Mimi luôn hô "Leizaa Biizon" (Laser vision), dùng hai tay nắm mặt dây chuyền, tay trái đưa thẳng ra trước, tay phải đặt lên ngực rồi bắt đầu biến mình thành chim vẹt. Mimi còn có khả năng tiên tri, thấu thị đặc trưng của người hành tinh Bird, nhiều lần cứu Gavan thoát hiểm. Ở các tập giữa, Mimi phải trở về hành tinh Bird để coi sóc bệnh tình cho mẹ mình nhưng ở phần cuối, Mimi quay lại Dolgiran để hỗ trợ cho Gavan. + Marin (マリーン): bí thư của chỉ huy Qom, thay mặt Mimi đã trở về hành tinh Bird để giúp đỡ Gavan trên phi thuyền Dolgiran. + Voicer (ボイサー): cha của Gavan, cảnh sát vũ trụ trông coi khu vực Địa cầu, bị bọn Maku bắt cóc và từ đó không rõ tung tích. Trong khi tuần tra, Voicer phát hiện ra bí mật của hệ thống khuếch trương laser nên bị bọn Maku liên tục tra tấn để moi bí mật. Nhưng bản thiết kế của hệ thống này được vẽ lên lòng bàn tay của Voicer bằng một loại mực đặc biệt mà chỉ khi nào nhiệt độ cơ thể xuống thấp mới hiện lên, vì vậy Voicer đã giữ vững bí mật này cho tới phút cuối. Voicer được Gavan cứu thoát ở tập 43 rồi chết trong phi thuyền Dolgiran. + Alan (アラン): cảnh sát vũ trụ đảm nhận khu vực hành tinh Bease (アラン), tới Địa cầu để giải cứu nữ vương của hành tinh này. Alan là mẫu người trung thành tận tụy, dù bị thương ở chân nhưng vẫn không ngại hy sinh, đơn độc xông vào trận địa địch để giải cứu nữ vương. Alan cũng cứu Gavan thoát chết khỏi bàn tay của San Doruba và không có combat suit như Gavan. + Hoshino Tsukiko (星野月子): con gái của tiến sĩ Hoshino, người phát minh ra hệ thống Hoshino khuếch trương năng lượng Plasma, bạn thân của Voicer. Tsukiko hoạt động ở câu lạc bộ Abaron và cũng giúp đỡ việc điều tra của Gavan ở Địa cầu. + Iga Den (伊賀電): một thành viên của đội kiểm lâm Nhật Bản ở núi Tsurugi. Iga Den xuất hiện ở tập 42, tấn công Gavan vì hiểu lầm rằng đó là thủ phạm của những vụ phá rừng liên tiếp gần đây, nhưng sau hiểu ra sự thật và hòa giải với Gavan. Den sau đó bị bọn Maku tấn công và được đưa đến hành tinh Bird để điều trị. Đây cũng là nhân vật chính trong bộ cảnh sát hình sự tiếp theo. Tổ chức tội phạm vũ trụ Maku Đây là tổ chức tội phạm có tên tuổi gây chấn động toàn vũ trụ, thống trị rất nhiều hành tinh dưới danh nghĩa của đế quốc Thú tinh. Ở tập 15, chúng lập kế hoạch tổ chức tiệc mừng ngày thành lập được 2 vạn 6 nghìn năm, tức là có lịch sử còn lâu đời hơn cả liên bang cảnh sát vũ trị. Từ Maku nếu viết bằng chữ Hán sẽ là "ma không" (魔空), căn cứ địa của chúng là lâu đài Maku nằm trong vùng hư vô của không gian thứ nguyên quái dị. Tổ chức này còn sở hữu sức mạnh khoa học tiên tiến như khả năng thao túng trục Địa cầu để tạo ra không gian Maku (Maku kukan, không gian ma quái). Không gian Maku là một vùng á không gian do tổ chức này tạo ra để lôi kéo đối phương vào. Các quái nhân của Maku khi ở trong không gian này được tăng sức mạnh lên 3 lần nên dễ chiếm thế thượng phong hơn đối phương. Gavan thâm nhập vào không gian này bằng cách cuỡi xe Cyberian hoặc "điện tử tinh thú" Dol, đánh nhau với quái nhân của Maku trong đó để giảm thiểu thiệt hại cho Địa cầu. Vùng không gian Maku này được nhà sản xuất dựng lên như là đối sách với việc khó quay phim khi Gavan đã biến thân. Vì bộ giáp của Gavan có ánh kim, phản chiếu ánh sáng dưới mặt trời hay đèn chiếu sáng nên rất khó quay. Nhưng người ta cũng chỉ ra mâu thuẫn rằng ở trong vùng không gian này, các quái nhân được mạnh lên 3 lần mà tại sao Gavan vào đây đánh trận nào thắng trận đó. Từ đó có thêm nguồn giải thích không chính thức là khi nhân vật chính vào đây cũng được tăng sức mạnh lên 4 lần... + Don Horror (ドン・ホラー): thủ lãnh của tổ chức tội phạm vũ trụ Maku, rắp tâm chinh phục toàn ngân hà. Hắn có 6 cánh tay có thể vươn dài, thu ngắn tùy ý và cặp mắt phóng điện. Khi bị chặt đầu thì cái đầu bay ra tiếp tục tấn công. Don Horror cũng có những tính cách giống như con người, khó chịu khi thấy con trai mình là San Doruba ăn chơi lêu lỏng trong khi địch thủ là Gavan luôn cố gắng phấn đấu. Don Horror đụng độ Gavan ở tập cuối và chiếm thế thượng phong áp đảo, nhưng chỉ sơ hở trong tích tắc mà bị Laser Blade của Gavan đâm vào trán rồi dính tiếp tuyệt chiêu Gavan Dynamic. + San Doruba (サン・ドルバ): con trai của Don Horror, là kẻ hữu dũng nhưng ham mê tửu sắc, tính cách tự phụ nhưng có phần quá dựa dẫm vào cha mình. San Doruba cãi nhau với Don Horror ở tập 35, cuối cùng mưu phản cha để đoạt quyền kiểm soát tổ chức nhưng thất bại, van xin tha tội với điều kiện tiêu diệt Gavan nhưng rồi cũng chết dưới tay Gavan. + Ma nữ Kiba (魔女キバ): mẹ của San Doruba, là ma nữ sử dụng yêu thuật xuất hiện từ cái đầu lâu ở đầu gậy của San Doruba. San Doruba không bao giờ gọi Kiba là mẹ. Ma nữ Kiba xuất hiện từ tập 30 và bị Gavan đánh bại trong trận chiến cuối cùng. + Hunter Killer (ハンターキラー): nguyên là cảnh sát hình sự vũ trụ, nhưng sau đó bán đứng bạn mình, cung cấp bí mật hệ thống Hoshino cho Maku, giết chết người phát minh ra nó là tiến sĩ Hoshino và bắt cóc Voicer. Nhờ những công lao này mà Hunter Killer trở thành thành viên cao cấp của Maku. Nhưng khi ma nữ Kiba và San Doruba trở lại lâu đài Maku thì Hunter Killer lo sợ Địa cầu bị xâm chiếm nên đã ngầm cảnh báo cho Gavan biết yêu thuật của Kiba. Chuyện này bị Don Horror biết được và bị đày vào ngân hà hắc ám. Ở tập 42, Hunter Killer được đội tuần tra của cảnh sát ngân hà bảo hộ, cuối cùng tiết lộ tung tích của Voicer và kế hoạch X cho chỉ huy Qom rồi tắt thở. Các diễn viên + Ichijouji Retsu: Ôba Kenji + Gavan (người đóng khi mặc giáp): Murakami Jun + Qom: Nishizawa Toshiaki + Voicer: Sonny Chiba (Chiba Shin Ichi) + Iga Den: Watari Hiroshi + Người dẫn truyện: Masamune Issei Và một số diễn viên khác. Nguyên tác: Yatsude Saburou. Chủ đề ca + OP: Uchukeiji Gyaban. Viết lời: Yamakawa Keisuke, soạn nhạc: Watanabe Michiaki, hiệu đính: Makaino Kouji, trình bày: Kushida Akira. + ED: oshizora no Messeiji (bức thông điệp của bầu trời sao). Viết lời: >Yamakawa Keisuke, soạn nhạc: Watanabe Michiaki, hiệu đính: Makaino Kouji, trình bày: Kushida Akira. Ngoài bài ca mở đầu và kết thúc, còn có nhiều bài ca khác được giữa tập phim khi xảy ra các sự kiện đặc biệt. Chuyện bên lề + Uchukeiji Gyaban là chương trình Tokusatsu nhận được rất nhiều sự quan tâm ngay từ giai đoạn đầu. Nhất là ở tập 43, rất nhiều ý kiến cho rằng chưa từng thấy chương trình dành cho trẻ con nào mà lại có nhiều nội dung sâu sắc, cảm động đến như vậy. + Uchukeiji Gyaban được phát sóng ở Pháp quốc với cái tên "X-OR" và cũng được ưa chuộng. Sau này, khi diễn viên Ôba Kenji đến Pháp, được một gia đình Nhật chú ý (trong nhà hàng) mặc dù lúc đó Ôba không biết là ở Pháp có phát sóng bộ này. + Đây là tác phẩm được nhiều người ưa chuộng nên có những tác phẩm nhại theo như Keroro Gunsou (Manga) và hài kịch Depan Bisa Belakang Bisa của Mã Lai năm 1987. Nhân vật Kogoro (trinh thám vũ trụ 556) trong Keroro Gunsou biến thân trong vòng 0.003 giây nhưng chỉ có phần giáp đầu với vũ khí là thanh kiếm tre laser. + Đây là bộ Tokusatsu sử dụng Laser Blade bằng chất tổng hợp quang hợp nhiều (cảnh) nhất trong bộ 3 cảnh sát hình sự vũ trụ. Ngược lại, Uchukeiji Shaidaa là bộ sử dụng nhiều Laser blade bằng ống đèn huỳnh quang nhất. + Trong bộ Ninpu Sentai Harikenjaa, khi Ôba Kenji tham gia với tư cách diễn viên khác mời thì nhân vật Shurikenjaa (Shurikenger) khi biến thân cũng bắt chước thực hiện động tác Jouchaku của Gavan khi biến thân. Diễn viên Ôba Kenji từng đóng Denshi Sentai Denjiman và Battle Feaver J, nhưng kể từ khi diễn trong Uchukeiji Gyaban thì đã hình thành một ấn tượng lớn ở người xem là Ôba=Gavan. Gavan trong game Super Tokusatsu Taisen 2001 + Các tác phẩm của hãng Touei lúc bấy giờ chịu nhiều ảnh hưởng của bộ phim Star Wars, và trong bộ Uchukeiji Gyaban này thấy rõ điều đó nhất. Điển hình là thanh Laser Blade của Gavan là ảnh hưởng từ Light Saber trong Star Wars. + Mỗi khi Gavan sử dụng đến vũ khí Laser Blade là tiếng nhạc chủ đề của Laser Blade nổi lên. Bản nhạc này vốn ban đầu được gán cho chủ đề khi Maku tấn công, nhưng sau cũng dùng mỗi khi Gavan sử dụng Laser Blade. Truyền thống này tiếp tục cho tới 2 bộ sau là Uchukeiji Shariban và Uchukeiji Shaidaa. Mecha trong phim + Combat Suit (コンバットスーツ): giáp chiến đấu của Gavan. Khi Ichijouji Retsu gặp nguy hiểm liền thét lên "Jouchaku" (蒸着, tham khảo thêm phần chuyện bên lề của bài khái quát về series Metal Heroes), phi thuyền cao tốc siêu thứ nguyên Dolgiran liền phát ra một loại vật chất đặc biệt là Granium ở dạng hạt phân tử bao phủ khắp người Retsu và hình thành bộ giáp chiến đấu màu bạc này. Toàn bộ quá trình này hoàn tất trong vòng 0.05 giây và gọi là "Jouchaku". Sau khi Jouchaku thì năng lực toàn thân của Gavan được nâng cao, thiết bị Dimension Controller ở trên ngực giúp cho Gavan có thể hoạt động trong không gian vũ trụ và không gian thứ nguyên lạ. Thiết bị trên đầu Gavan cũng có khả năng phát hiện ra quái nhân giả dạng người Địa cầu. - Chiều cao toàn thân sau khi Jouchaku: 200cm. - Thể trọng: 90kg. - Lực nhảy: 150m (nếu có booster thì lên tới 300m). Khi Ichijouji Retsu biến thân, người dẫn truyện nói "nào, chúng ta cùng xem lại quá trình này" và sau đó là một loạt cảnh Retsu tạo tư thế, từ trên phi thuyền Dolgiran có tiếng nói "truyền tải Combat suit" và chất Granium được phóng xuống người Retsu. Sau khi biến thân, nhân vật chính luôn đứng từ trên cao để xưng tên: Uchukeiji Gyaban! Một loạt cảnh trong quá trình Jouchaku chính là điểm cao trào của tập phim và khiến trẻ con mê mẩn dán mắt vào màn hình. Quá trình Jouchaku hoàn tất trong 0.05 giây nên sau này còn thấy nhiều cảnh biến thân khác như Jouchaku rồi giơ tay chặn đứng viên đạn đang bay lại. + Các thiết bị, cơ năng của Combat Suit: - Electro sonaa (sonar): được cất giấu trong tai và dùng để thông tin liên lạc, điều khiển máy móc. Nếu kéo dài antenna thì có thể nghe thấy những âm thanh rất nhỏ từ xa 10km. Nếu kéo 2 tai trái phải ra ngoài thì nó biến thành thiết bị thu phát sóng, nhưng Gavan chưa dùng tới chức năng này. - Gasu sensaa (ガスセンサー, Gas sensor): thiết bị phát hiện ga. - Reizaa Sukoopu (レーザースコープ, Laser scope): thiết bị được làm từ loại kính đặc biệt, gắn nơi mắt kính, có khả năng thu các tia tử ngoại, hồng ngoại, phân tích chúng và phát hiện quái vật ẩn trốn trong không gian Maku. - Reizaa Buleido (レーザーブレード, Laser Blade): vũ khí chủ yếu của Gavan, thanh kiếm này được cầm một tay. Khi Gavan truyền năng lượng Birdnium từ lòng bàn tay vào thanh kiếm thì nó phát sáng và uy lực hơn. Tuyệt kỹ là Gavan Dynamic. + Phi thuyền cao tốc siêu thứ nguyên Dolgiran (ドルギラン): tàu vũ trụ này là cứ điểm hoạt động của Gavan. Phi thuyền này gồm phần trên là đĩa tròn Giran và phần dưới là điện tử siêu tinh thú Dol hợp thành. Phần dưới của đĩa tròn có thể chứa được siêu tinh thú Dol sau khi thu gọn lại. Phi thuyền này được trang bị 3 khẩu pháo laser, phía dưới bụng phát tia sáng có thể hút người vào. Đường kính: 220m. Chiều cao: 90m. Trọng lượng: 2000 tấn. Phi thuyền Dolgiran + Điện tử siêu tinh thú Dol (電子星獣ドル): con thú (rồng xanh) máy có ý thức được tách ra từ phi thuyền Dolgiran. Vũ khí là Dol Fire phóng ra từ miệng rồng, laser phát ra từ mắt và chân trước. Đuôi rồng còn có thể quất vào đối phương. Chiều dài: 300m. Trọng lượng: 2000 tấn. Tinh thú Dol + Cyberian (サイバリアン): cỗ máy này là vật cưỡi chính của Gavan, được cất giấu bên trong Dolgiran. Hình dáng bề ngoài là chiếc xe màu đỏ hiệu Suzuki, được trang bị Cyberian Laser và Cyberian Rocket. Xe này có thể chạy, bay một mình và chở Gavan bay vào không gian Maku. Chiều dài: 2.3m. Trọng lượng: 400kg. Tốc độ: 500km/h. + Gabion (ギャビオン): chiến xa chuyên dụng của Gavan, được cất giấu trong phi thuyền mẹ Dolgiran, có thể phân ly thành 2 phần trên dưới. Phần trên bay được trên không, phần dưới gồm có loại chạy trên mặt đất và loại chạy trong lòng đất. Chiều dài: 20m. Trọng lượng: 380 tấn. Tốc độ: 500km/h (chạy), Mach 5 (bay). + Scooper (スクーパー): máy khoan nhỏ được cất giấu bên trong Gabion. Cỗ máy này có 2 mũi khoan để di chuyển trong lòng đất, đùng để tấn công vào căn cứ địch, giải thoát con tin. Chiều dài: 13m. Trọng lượng: 400 tấn. Mã lực: 5 vạn. Tuyệt chiêu của Gavan + Electro Splash (エレクトロスプラッシュ): tuyệt kỹ dùng ánh sáng phá tan vật cản tầm nhìn. + Gavan Beam (ギャバンビーム) + Gavan Puch (ギャバンパンチ): cú đấm xuyên thủng thép dày 10cm. Có dị bản là Gavan Upper Punch ở tập 19. + Gavan Kick (ギャバンキック) + Gavan Shock (ギャバンショック): tuyệt kỹ phóng điện toàn thân hoặc bằng đầu ngón tay. + Gavan Dynamic (ギャバン・ダイナミック): tuyệt kỹ mạnh nhất của Gavan, dùng Laser Blade bổ thẳng xuống người đối phương. + Gavan Barrier (ギャバンバリヤー): bức tường phòng ngự do ánh sáng tạo thành. + Gavan Full Power (ギャバン・フルパワー) + Galatical Clash (ギャラクティカクラッシュ): đòn đánh chõ vào số đông. + Silver Beam (シルバービーム): đòn tấn công này không cần tích trữ năng lượng, tốc độ vượt trội nhưng uy lực kém. + Static Shock (スタッチックショック): kỹ thuật dùng tĩnh điện làm cho người bị quái thú điều khiển tỉnh lại. + Spiral Kick (スパイラルキック) + Dimension Bomber (ディメンションボンバー): đòn tấn công bằng tay khi thả người từ trên không xuống. + Beam đóng băng (冷凍ビーム): tia phát xạ từ mắt làm đóng băng vật thể. + Laser Z Beam (レーザーZビーム): đòn tấn công bằng năng lượng Birdnium phát ra từ ngón tay hoặc quyền. Tốc độ chậm nhưng lực phá hoại lớn. Kỳ tới: khái quát về Uchukeiji Shariban (Sharivan)
Xác nhận lại: tôi là người viết loạt bài Tokusatsu và mọi thứ liên quan này, và cũng chính là người đăng nội dung này lên Wikipedia Tiếng Việt đã bị xóa (Metal Heroes). Mod thông cảm, đây không phải là spam mà do bên Wikipedia yêu cầu tôi vào đây xác nhận. . ___________Auto Merge________________ . Xin lỗi, Asm 65816 và Houga658156 là 2 người khác nhau nhưng dùng chung máy tính nên xảy ra nhầm lẫn vừa rồi. Đính chính lại: Houga658156 là tác giả của lọat bài viết này, Asm65816 không liên quan gì.