Tại sao mình lại nhận lời cô ta chứ? Tại sao? Gã magi tự hỏi khi trông thấy quy mô khu trại. Không, một doanh trại thì đúng hơn. Trong khoảnh đất trống trải bên bờ suối là hàng chục lều trận lớn cùng nhiều lều bạt và hơn hai mươi cỗ xe chứa hàng tiếp tế. Bên kia bờ suối cạn là khu chuồng ngựa và thao trường. Tất cả đuợc bao bọc bởi lũy đất và cọc gỗ, các cánh cổng án ngữ hai đầu doanh trại được bốn tháp canh bảo vệ. "Chắc phải đến cả trăm người." Goridin chợt cảm thấy nhẹ nhõm, đoan chắc đây chỉ là một nhiệm vụ thám thính. Nhóm của gã chỉ có năm người, mà theo lí thuyết quân sự, để đánh hạ một cứ điểm thế này sẽ cần đến cả một trung đoàn. Rồi đầu óc gã magi bắt đầu nhẩm tính khoảng cánh từ cái xó khỉ ho cò gáy này đến thành phố gần nhất. Gabella chắc phải cách nơi đây hơn hai mươi dặm, giường êm, nệm ấm, thức ăn ngon và một bồn nước nóng thật đầy... "Khoảng năm trăm," Soren đính chính sau một hồi quan sát. Tay cung thủ trầm ngâm một lúc rồi nói tiếp: “Các đơn vị hoạt động độc lập cách xa biên giới thế này không thể thiếu một tay phù thủy được.” Goridin chẳng buồn tranh cãi với Soren làm gì. Quân số kẻ thù càng đông thì khả năng gã được biến khỏi đây càng cao. Gã magi quay sang phía Eameth, lòng khấp khởi hi vọng, nhưng đội trưởng của gã, đã biến mất tự bao giờ. Lưng mỏi nhừ, Goridin ném phịch bọc hành lí xuống nền đất ẩm. Đã ba ngày trôi qua từ khi họ phát hiện doanh trại bí mật của đám Gamoji ngoại đạo. Gã magi che miệng ngáp dài, chuẩn bị nằm lăn ra đất. Mặc kệ các giấc mơ quỷ quái, hắn phải ngủ một lát đã. Vừa lúc ấy, lưỡi dao găm trong tay Soren phóng vụt qua đầu Goridin, đóng đinh một con rắn vào gốc cây phủ đầy rêu. Gã magi hốt hoảng đứng dậy, dáo dác nhìn quanh và bắt đầu niệm chú nhưng Soren đã chẹn tay lên miệng gã. Tay cung thủ cẩn thận xem xét chung quanh, sau một lúc lại có tiếng dây cung bật tanh tách cùng tiếng kêu giãy chết. Soren tươi tỉnh ló đầu ra cạnh một gốc cây đổ, trên tay là hai con thỏ béo tốt. Goridin cố tránh không nhìn khi Soren lột da và moi ruột lũ thỏ xấu số. Trong thời gian đó, hai gã chiến binh Yosara đã xếp đá thành một cái bếp dã chiến và nhặt nhạnh củi khô. Goridin không nghĩ đó là một ý hay nhưng bản thân đã chán ngấy món bánh mì nhạt nhẽo. Gã chép miệng thở dài rồi lẩm nhẩm đọc một câu thần chú. "Sao đội trưởng chưa trở về?" Goridin rụt rè hỏi khi đã no bụng nhưng chẳng ai buồn trả lời. Gã magi chán nản tựa mình vào một gốc sồi, đoán là cũng chẳng ai rõ đội trưởng của họ đang ở đâu cả. Thật ra, Goridin biết thừa Eameth có thể tự lo cho cô ta, hắn chỉ không chắc mình cũng làm được như thế. Đối diện hắn, Soren đang tẩm nọc rắn lên mấy mũi tên. Hai gã người Yosaran ngồi đâu lưng vào nhau, chú tâm quan sát mọi động tĩnh xung quanh. Gã magi uể oải ngáp rồi nhắm mắt lại. Lại thêm một giấc mơ chết tiệt… vụ thảm sát tại Udine. Những thây người thối rữa chất đầy các kênh đào, lấp cả hào nước bao quanh tường thành phía tây thành phố. Từ chân thành lên đến mặt lũy là hằng hà sa số những xác trẻ con tím tái được xếp chồng lên nhau. Những hốc mắt trống rỗng, những khuôn mặt méo mó vì đau đớn nhìn trừng trừng về phía đạo quân cứu viện đến từ phương tây. Ngay cả những chiến binh dày dặn kinh nghiệm trận mạc nhất cũng không kìm được nước mắt. Mặc kệ kỉ luật quân đội, một số binh lính có họ hàng thân thích ở Udine bỏ cả hàng ngũ, lao về phía tòa thành hoang phế, miệng thét gọi tên người thân. Họ cứ gào thét và than khóc, nhưng chẳng hề có tiếng trả lời. Lũ ruồi nhặng bị đoàn người khuấy động, bay vụt lên như một đám mây màu đen rồi lại sà xuống những xác người đang phân hủy. Goridin bừng tỉnh giấc, đôi mắt sáng quắc của Soren đang nhìn chòng chọc vào mặt hắn. Gã cung thủ ra hiệu cho Goridin đừng lên tiếng rồi lặng lẽ đỡ hắn dậy. Đống lửa đã bị dập tắt và phủ đất lên, hành lí đều được xếp lên lưng ngựa. Vội vã nhổ trại lúc nửa đêm chẳng đem đến điều gì tốt lành, ngay cả Goridin cũng biết thế. Rồi hắn nhận ra Eameth đã trở lại, cô ta đang to nhỏ gì đó với hai gã Yosaran bằng thứ tiếng mà hắn không hiểu nổi. Trong lúc Goridin còn mơ màng không rõ điều gì đang diễn ra thì lưng gã lại bị ai đó vỗ mạnh. “Đây mà là anh trai của sếp sao? Nhìn cứ nhợt nhạt như người chết ấy.” một giọng ồm ồm mà gay gắt chợt vang lên. Gã magi quay ngoắc lại, sẵn sàng tung ra một lời nguyền. Nhưng khi trông thấy chàng thanh niên vừa bước tới chắn trước mặt tên thô lỗ nọ thì Goridin ngạc nhiên đến không nói nên lời. “Xin lỗi vì làm gián đoạn cuộc đoàn viên của hai anh em, nhưng ngoài kia còn cả một tiểu đoàn Gamoji đấy.” Eameth vội can thiệp, cố giữ mọi chuyện trong tầm kiểm soát. “Được thôi.” Goridin nén giận đáp, quan trọng hơn hết là gã phải có thứ gì đó để giết, càng sớm càng tốt. ……………………….. Goridin khẽ nuốt nước bọt rồi bắt đầu hát. Khó khăn lớn nhất là phải kết hợp giữa thực tại mà hắn đang trông thấy với Alius. Cảm giác giống như khi ta cố lèo lái một con thuyền trên dòng sông chảy xiết. Không thể chỉ dựa vào sức mạnh đơn thuần mà còn phải ước lượng sức nước và các xoáy ngầm. Rồi liệu dưới dòng nước ngầu bọt trắng kia có những bãi đá ngầm nham hiểm nào không? Trong trường hợp của Goridin, ngôn từ đã thay thế cho đôi mái chèo, còn bản thân hắn chính là con thuyền nọ. Con thuyền băng băng lao đi nhờ sức nước cũng như cơ thể gã magi đang hút lấy nguồn năng lượng vô tận từ Alius. Sau đó, những từ khác sẽ vang lên, hòa quyện cùng suy nghĩ của Goridin, biến đổi thứ sức mạnh hoang dã từ phía bên kia thành lửa. Ý chí của gã magi sẽ bị thử thách thêm lần nữa, làm thế nào để ngọn lửa thiêu đốt kẻ thù mà không làm hại hắn? Vậy thì phải thấu hiểu bản chất của lửa, tác động, điều khiển lửa, làm chủ nó. Và ngọn lửa đã tuân theo lệnh gã pháp sư, phủ lấy cả khu chồng ngựa, ngấu nghiến các đống cỏ khô, liếm cả những thanh rào gỗ. Lửa làm lũ ngựa hoảng loạn, đau đớn, phá rào chạy loạn lên khắp cả doanh trại. Đám Gamoji dị giáo bắt đầu túa ra từ những lều bạt, thét gọi nhau, cố làm lũ ngựa bình tĩnh, vục nước từ dòng suối để khống chế đám cháy. Nhưng ngọn lửa lại phải phục tùng ý chí của Goridin nên nó cứ cháy mãi, dần lấn lướt sang các xe chở quân nhu, lương thực. Bấy giờ thì cả người cũng hoảng loạn chẳng khác gì ngựa. Thế rồi con suối cạn đột ngột tràn bờ, một giọng nói khác đã ra lệnh cho nó phải dập tắt ngọn lửa. Lòng suối cạn khô, nước trườn khỏi dòng chảy quen thuộc, lan ra khắp khu trại. Goridin lập tức chuyển sang một bài hát mới. Thay vì mượn sức của các nguyên tố trong thế giới này, gã magi kết hợp ý chí của mình và năng lượng từ phía bên kia để tấn công kẻ thù vừa xuất hiện, trao đổi những đòn hiểm hóc mà người phàm không nhìn thấy được, không chống đỡ được. Như những nghệ sĩ đích thực, cuộc chiến giữa hai người là một chuỗi những bài ca phức tạp, cổ xưa, ẩn chứa cả nét đẹp huyền ảo lẫn cái chết tức thời. Thắng bại nhiều khi chỉ cách nhau một âm tiết. Goridin vẫn tiếp tục hát nhưng đã bắt đầu cảm thấy mệt mỏi và lo lắng. Đám binh lính trong trại sau một hồi hoảng loạn đã dần lấy lại tinh thần. Một số lo đuổi bắt lũ ngựa, số khác giương khiên che chở cho tay phù thủy, nhưng đại bộ phận thì tập hợp lại để chống đỡ đợt tấn công của kẻ thù giấu mặt. Xa xa vang lên tiếng hô xung trận ghê gớm của hai gã chiến binh Yosaran, át cả tiếng đám kỵ binh thành Gabella. Sao Eameth còn chưa ra tay? Gã magi nóng ruột nghĩ. Trước đó họ đã thống nhất với nhau rằng Goridin sẽ mở đầu đợt tấn công bằng phép thuật để thu hút tay phù thủy. Theo kế hoạch, gã chỉ cần giữ chân hắn một lúc. Ngay khi tay phù thủy để lộ sơ hở, Eameth sẽ bồi ngay một đòn kết liễu. Nhưng thời khắc đó sao mà lâu đến quá, những vành đai bảo vệ bên ngoài của Goridin đã sụp đổ. Một mũi tên thậm chí còn xuyên qua lớp bùa chú bên trong, găm chặt vào thân cây phong ngay cạnh chỗ gã đứng. Tâm trí của Goridin và tay phù thủy gần như hòa làm một. Goridin mò mẫm vào từng ngăn kí ức của tay phù thuỷ, cố tìm hiểu cái tiểu đoàn dị giáo này sao lại liều lĩnh tiến đến quá gần Gabella. Còn gã kia cũng đang moi móc từng mẩu kí ức của Goridin, thế rồi hắn nhận ra mảnh kí ức về Eameth. Tay phù thủy lập tức rút lại tất cả những từ dùng để giết, tập trung gia cố thêm lá chắn của bản thân. Tranh thủ thời cơ ấy, Goridin để mặc cho lớp bảo vệ bên trong tan rã, dồn tất cả sức lực vào một đòn tấn công cuối cùng. Quanh người tên phù thủy lóe lên những vệt sáng xanh nhạt, hắn khuỵu gối xuống, biết rằng lá chắn của mình đã vỡ. Thất kinh, hắn lại bắt đầu hát, nhưng từ cõi vô cùng, một cột sáng lóa mắt đã giáng thẳng xuống. Cả đời mình, tên phù thủy chưa từng biết đến thứ phép thuật nào mạnh mẽ và tinh khiết đến vậy. Ồ, hắn muốn khám phá bí mật của nó, hắn sẵn sàng đánh đổi mọi thứ. Đó cũng là suy nghĩ cuối cùng của tên phù thủy trước khi cơ thể hắn tan thành tro bụi. Goridin tựa mình vào vai Soren, người nhầy nhụa mồ hôi. Giờ thì gã có thể trông rõ một cột sáng rực rỡ bừng lên giữa doanh trại của bọn Gamoji. Gã magi thầm ghen tị với Eameth, nhưng tự nhủ bí mật về phép thuật nọ rồi sẽ đến cùng với các giấc mơ. Các giấc mơ chết tiệt. "Cẩn thận." Goridin nghe tiếng Soren hét lên, gã vội nhẩm thầm một lá bùa phòng vệ nhưng chẳng còn kịp nữa. Điều cuối cùng gã magi trông thấy là một quả chùy đang giáng xuống đầu mình.
Hì, mình đã đọc đến bài mới nhất của cậu rồi, tuy nhiên chưa nắm được cái nhìn tổng thể về thế giới này. Chỉ tạm thời cứ mỗi câu chuyện ở một bối cảnh khác nhau thì lại theo cho đến khi quen thôi. Mình cũng không biết nhận xét gì đây, fic cậu chỉ có duy nhất 1 lỗi chính tả, nữa phần trước miêu tả có vẻ hơi đơn giản, còn lại thì gần như không có khuyết điểm nào. (Hoặc có nhưng mình không có đủ trình độ để nhận ra.) Mình không biết thể loại epic fantasy ra sao, nó có phải là như vậy chăng, khó nắm bắt, không có bối cảnh cố định vì máy quay không bao giờ dừng lại một chỗ, cứ lia từ sông này đến núi nọ, giống như phóng sự thời chiến vậy. Dẫu sao thì mình cũng bắt đầu quen dần với nó. Nói gì đây nhỉ? Ừm, mình mong chờ hơn vào việc khai mở những ẩn tình và bí mật trong câu chuyện. OK, mình biết thế giới này có Gladiator, có Magi dùng phá thuật bằng cách hót, có lũ Eater bộ dạng có lẽ giống mấy cha Wizard mũi dài bận áo đen sống trong hốc cây. Nhưng mà, vẫn có cảm giác mình đã bỏ lỡ mất cái gì đó, giống như mình chưa xem phần 1 cậu đã cho mình xem phần cuối vậy. Mà mình chỉ phàn nàn là vậy thôi, chứ biết là nó vốn dĩ phải như thế, chỉ có kẻ như mình chưa đủ trình để thao lược hết tất cả. Có một nhận xét là đoạn thoại giữa Dorỉen và Green có vẻ hơi lười quá, giống như hai bên đứng duỗi hai tay sau đó gân cổ lên gào vào mặt nhau vậy. Lời lẽ của tụi nó vẫn có vẻ hơi điệu điệu, hà, không chắc nữa. Thôi, chờ những diễn biến tiếp theo vậy.
Cảm ơn cậu đã góp ý! Uhm, trong fic, thế giới được cảm nhận qua cái nhìn riêng của các nhân vật. Mỗi người chỉ hiểu rõ về vùng đất nơi mình sinh sống chứ không có được cái nhìn toàn cuộc. Khi truyện tiến triển thêm, thì tự khắc thế giới của mình sẽ lộ dần khi các nhân vật di chuyển đến vùng đất khác, hay nhân vật mới xuất hiện. Cái này cậu nào chơi game chiến thuật nhiều chắc sẽ quen thuộc hơn. Giống như đi mở bản đồ vậy. Mình luôn cố gắng để hạn chế các lỗi vụn trong fic, nhưng thi thoảng vẫn không tránh được. Sáu chương đầu hợp lại thành một câu chuyện độc lập, có mở, có kết. Có lẽ vì thế nên cậu thấy nó đơn giản. Các chương sau thì đang tiến triển giữa chừng, mạch truyện chưa kết thúc, nên khó hiểu hơn chăng? Nhưng dù thế nào thì mỗi phần vẫn có vài bí ẩn chưa giải thích. Đó là nhằm tạo dựng thêm tình tiết về sau. Khoản này mong cậu thông cảm. Gladiator? Mình không nhớ có tạo ra Gladiator nào trong fic. Nếu ý cậu là đám Archent thì mình đã có ý đồ riêng cho họ. Phần cuối của mình à... nhiều bạn sẽ rất bất ngờ đấy! Xét về tình cảnh của Aluvian và Dorian thì đoạn đó khó mà viết hành động cho nổi. Một tên vừa bệnh dậy, một tên... Fic của mình không tập trung vào một nhân vật trung tâm duy nhất mà dựa vào góc nhìn của nhiều nhân vật để hoàn thành mạch truyện. Cách viết này có thể sẽ khiến một số bạn hơi bối rối, nhưng đồng thời cũng tạo ra một nét riêng biệt. Mà mình nghĩ "riêng biệt" là điều rất quan trong trong bối cảnh có quá nhiều fic fantasy ra đời như hiện nay. Khuyết điểm lớn nhất của lối viết này có lẽ là nó cần rất nhiều thời gian.
Đa phần tác giả có ý định viết truyện dài hơi ở box này đều muốn truyện mình lên tới 100 chương cơ ^^ Bên tangthuvien còn có truyện tớ 4xx chương kìa
Ocalea cưỡi ngựa dẫn đầu tiểu đoàn khinh kỵ theo con đường mòn chạy hút vào đám sường mù lơ đãng của mùa thu. Thỉnh thoảng, vó ngựa lại giẫm trúng một chiếc sọ người hay phải rẽ tránh những cỗ xe gãy trục. Trên những cánh đồng này, hồi mùa xuân năm ngoái, năm mươi bảy ngàn chiến binh, tinh hoa của mười hai thành bang miền đông Ciudad đã tập hợp lại dưới ngọn cờ của Gabella để kháng cự một đợt xâm lăng mới từ đế quốc Gamoji. Trận đánh kéo dài suốt bảy giờ và kết thúc bằng cuộc tàn sát toàn bộ lực lượng của khối liên minh. Gabella đã bị vây hãm trong bảy tháng, suýt nữa thì thất thủ nếu không nhờ quân cứu viện từ Udine và các thành phố miền tây đại giang Komati. Trời hửng sáng, làm lộ ra gương mặt xanh xao vì những đêm mất ngủ của viên thiếu tá. Thời còn ở Udine, Ocalea vốn có thói quen đi dạo hàng giờ liền qua các con phố sầm uất cạnh bờ sông, hay la cà trong các tửu quán sang trọng, nghe bọn hát rong bịa đặt vô số truyền thuyết về các anh hùng thời cổ. Nhưng Gabella là một thành phố quá nhàm chán về ban ngày và càng thảm não hơn lúc về đêm. Tại đấy, chỉ có thể tìm được một lạc thú duy nhất. Ocalea chưa bao giờ cảm thấy điều gì lạ lùng đến thế. Anh hoàn toàn là người bị động trong khi cậu bé đứng trước mặt anh có vẻ rất chắc chắn về bản thân mình, chậm rãi trút bỏ quần áo trong ánh sáng mờ ảo, thơm mùi vỏ cam tỏa ra từ lò sưởi. Sau đó, khi hai người hoàn toàn khỏa thân, Ocalea tự nhủ trò chơi ấy không thể tiến xa thêm nữa, dù có cuộc đánh cược với Ravin hay không. Anh không ít kinh nghiệm đến mức chẳng biết chuyện gì sẽ xảy đến tiếp theo. Bản thân anh đã biết rất nhiều phụ nữ và có với họ vô số chuyện lắt léo. Những lần ấy, anh luôn xác định được mục đích của mình, luôn là con thiêu thân lao đầu vào lò lửa chinh phục, thế còn lần này? Cậu bé ngước nhìn anh, phục tùng và chờ đợi, đòi hỏi Ocalea phải có động tác nào đó với cậu, một cử chỉ từ chối hay một bàn tay làm mồi cho những vuốt ve, mơn trớn. Cậu đã ngửa hết các lá bài, trần trụi đứng trước một người đàn ông xa lạ, chẳng còn chiếc mặt nạ nào khác ngoài da thịt. Cậu khép hai chân lại, hơi xoay người để khỏi đối diện với ánh nhìn của anh. Thế rồi, rụt rè và bối rối, một nụ cười hiện ra trên khuôn mặt cậu. Ocalea đã có cơ hội kết thúc trò chơi và anh lại bỏ lỡ nó. Vẻ rụt rè, thẹn thùng của cậu đánh thức trong anh thứ gì đó rất cổ xưa và hoang dại. Anh ra hiệu cho cậu trèo lên giường rồi vòng tay ôm lấy tấm lưng trần, bất chợt cảm thấy một cơn run rẩy từ phía người tình bé nhỏ. Anh muốn nhìn thấy cậu ở mọi tư thế, dưới mọi góc độ. Cơn ghen chợt bùng lên khi anh tưởng tượng là những gã đàn ông khác cũng từng giữ chặt cậu trong vòng tay và sẽ còn nhiều gã khác sau anh. Ocalea nửa muốn xua đuổi cậu như một con chó, nửa lại muốn đi vào trong cậu, thì thầm bên tai cậu những lời tục tĩu, mong cậu sẽ kháng cự để có dịp làm cậu đau đớn. Nhưng cậu đã chọn đúng thời điềm đó mà rúc người vào lòng anh, và mọi ý nghĩ của Ocalea đều tan thành bọt biển... "Sếp đang mơ màng gì thế?" "Không gì cả, Rav ạ!" Cái giọng ồm ồm mà chói tai như tiếng chó sủa của Ravin khiến Ocalea ngẩn người. Anh bối rối nhìn lão đại úy, có cảm giác đôi mắt nhỏ, vằn lên những tia đỏ đang xuyên thấu mình, xoi mói hoài không thỏa. "Vậy chuyện đêm nọ, rốt cuộc là tôi thắng hay sếp thắng?" "Lão nợ tôi một thalet đấy." Ocalea ngán ngẩm trả lời, lần này thì anh trông thấy rõ ràng một nụ cười quỷ quyệt trên khuôn mặt chai sạm vì nắng gió của Ravin. "Trông sếp cứ như người không có máu ấy! Lại đang tơ tưởng đến chuyện kia sao?" "Dẹp đi, đưa tôi bình rượu, được không?" "Dĩ nhiên." Ravin lấy trong chiếc túi da bên yên ngựa một bình rượu bằng thiếc, đưa cho Ocalea tu một ngụm, rồi chính lão cũng uống ừng ực một hơi dài và lim dim mắt ra chiều hài lòng. "Mừng cho những cuộc chinh phục của hai ta, cả trong tình trường lẫn trong chiến trận." "Lão cũng lớn tuổi rồi, sao không thu xếp về hưu rồi tận hưởng cuộc sống?" Ocalea cố chuyển đề tài. "Sếp đang nói chuyện gì vậy?" Ravin trợn tròn mắt nhìn Ocalea. "Trong gia đình có đủ mọi thứ lo. Nếu vợ quá nhiều lời, làm sao mà vui vẻ đuợc? Nếu con cái đói ăn gào khóc, cứ thử tận hưởng cuộc sống xem có đuợc không? Ít ra phiêu bạt thế này còn đuợc cái thú tự do. " Ocalea nhìn đôi bàn tay đầy chai sạn và chằng chịt gân của Ravin. Đôi tay có thể sử dụng cả cày lẫn kiếm, vững vàng, nắm chặt đầy tự tin, cứ như lão chẳng hề bị chuyện giết chóc, đốt phá ám ảnh. Anh không hiểu bằng cách nào lão vẫn vui vẻ theo đuổi mấy em, rồi đập phá các quán ruợu và hăng hái lao đầu vào trận mạc khi đã bước qua tuổi năm mươi? Ocalea mới chỉ hai mươi bảy, vậy mà anh luôn có cảm giác mình là một thỏi bơ nhỏ, bị phết mỏng trên quá nhiều bánh mì. Con trai thứ sáu của hoàng thân thành Udine chỉ là một thỏi bơ mệt mỏi. "Này sếp, cô nàng đến kìa!" Ravin kéo tay áo Ocalea, hướng anh về phía cái bóng xám đang phi ngựa vượt lên đầu đoàn quân. "Giá tôi trẻ ra mười tuổi, thế nào nàng cũng phải mê tôi," lão chép miệng tiếc rẻ. Nhưng khi nữ kỵ sĩ tiến đến gần hơn, Ravin vội ngồi thẳng người lại và im bặt. Ngay cả lão cũng không muốn kết oán với người của hội Archent. Eameth khẽ gật đầu chào hai người, khuôn mặt thon thả, không có tuổi, nhưng mắt lúc nào cũng nhíu lại như bị chói nắng. Cô mặc bộ giáp nhẹ bằng da, lưng đeo thanh gươm ngắn có chuôi nạm ngọc, trông giống một món trang sức hơn là vũ khí. Bên yên ngựa, cô gái giắt thêm thanh gươm dài và mảnh theo lối Yosara, mà thoạt nhìn, Ocalea đã nhận ra là chuyên dùng để giết... "Chậc... bây giờ sếp lại muốn người ta kể sếp nghe họ đã chặt đầu bao nhiêu tên Gamoji và xén bao nhiêu bộ râu của chúng à?" Ravin hồ hởi nói, rồi nháy nháy mắt với Ocalea và giục ngựa tách ra. "Cảm ơn cô đã thông báo với chúng tôi về cái tiểu đoàn dị giáo của bọn Gamoji, một lực lượng như vậy ở sát sườn Gabella là chuyện không thể chấp nhận được." Ocalea ngập ngừng mở lời, có phần lúng túng trước đội truởng của nhóm hiệp sĩ. "Mỗi người đều làm theo mệnh lệnh được giao thôi." Eameth chậm rãi đáp, vẫn không nhìn thẳng vào mắt Ocalea. "Anh không hề lo lắng cho anh trai mình sao?” "Vâng... à không, ý tôi là..." Viên thiếu tá đành bỏ lửng câu nói, cảm thấy bối rối và ngượng ngập. Anh và Goridin vốn là anh em cùng cha khác mẹ. Vả lại, Goridin đã được đưa đến Asarie khi Ocalea mới bảy tuổi. Chẳng có gì nhiều để mà nhớ. Mà như thế có khi lại tốt hơn. Tại các thành bang hùng mạnh vùng Ciudad, việc anh em trong các gia đình đại quý tộc chém giết lẫn nhau vốn không phải chuyện gì mới mẻ. Ocalea vốn có tám anh em trai nhưng giờ chỉ còn lại ba người. Cha anh có tới mười chín cậu em, mà chỉ một người còn sống khi Ocalea chào đời. "Cô biết đấy, không phải ngẫu nhiên mà tôi lại rời bỏ Udine..." "Mỗi người nên được tự quyết định cuộc đời mình sẽ ra sao." “Cô là người đầu tiên nói thế,” Ocalea đáp, chợt có cảm tình với Eameth. Đám bạn bè cũ ở Udine, các nhà quý tộc trong triều đình của cha anh đều cười thầm khi Ocalea xin được ở lại Gabella ngay sau khi thành phố được giải vây. So với Udine, Gabella chỉ là cái xó chó mửa và luôn luôn bị đe dọa bởi họa ngoại xâm từ Gamoji. Nhưng ít ra tại thành phố này, Ocalea không phải căng mắt đề phòng chính những người anh em của mình. “Nếu cô ở vào vị trí của tôi, cô sẽ quyết định thế nào?” Eameth bất chợt nhìn thẳng vào mắt Ocalea, chậm rãi nói: "Tôi kể một câu chuyện, được chứ?" "Cô kể đi." "Cách đây rất lâu, ở Temariel có một người hùng không ai sánh nổi, ai cũng biết và mến ông ấy. Chúng ta cứ tạm gọi ông là Arez như những người mến mộ ông vẫn gọi..." Ocalea im lặng, những truyền thuyết về vị hoàng đế vĩ đại của Temariel vốn rất phổ biến ở Ciudad, nhiều người còn tôn thờ ông như thần thánh. Nhưng Arez đã chết từ bao đời rồi, khi Gabella bị vây hãm, chẳng có vị thần nào cứu giúp họ cả. Thế thì cầu nguyện và tin tưởng để làm gì? Dù vậy, nét mặt Eameth có vẻ rất nghiêm túc và buồn rầu, rồi cô lại kể tiếp: "Trong một chiến dịch chống lại liên quân các bộ lạc người Norsk ở phía bắc, Arez rất kinh ngạc khi một chiến binh bí ẩn của kẻ thù lần lượt thách đấu và giết chết nhiều nhà vô địch của đế chế. Bất chấp lời khuyên của Raviel, vào ngày thứ sáu của cuộc chạm trán, khi người chiến binh trẻ tuổi tiếp tục thách thức, đích thân Arez đã tiếp chiến với cậu ta. Hai đạo quân lo lắng dõi theo nhà vô địch của phe mình. Người chiến binh trẻ tuổi, tuấn tú và kiêu hãnh sử dụng gươm rất tài tình, nhưng Arez đã kinh qua hàng trăm trận đánh và có sự dẻo dai không ai sánh nổi. Hai con người đẹp đẽ lao vào nhau, gươm của họ bắn ra muôn vàn hoa lửa như những con rồng huyền thoại và tiếng ngân của chúng làm vỡ tan những khối băng lâu năm trên các triền núi dốc. Đó là một cuộc tỉ thí kéo dài và cam go, trên đồng tuyết trắng xóa đã lấm tấm những vệt máu của hai dũng sĩ. Bằng một cú lừa tài tình, Arez làm đối thủ mất thăng bằng, rồi nhoáng một cái, chàng chiến binh trẻ tuổi đã bị đè ngửa với thanh gươm kề sát họng. Hai đạo quân thù địch đều nín thở theo dõi chuyện gì sẽ xảy đến tiếp theo vì chính họ cũng đâm ra cảm mến nhà vô địch của đối phương. Vào thời điểm xảy ra truyền thuyết đó, trái tim con người vẫn còn trong trẻo và mọi chuyện quá đơn giản đến độ chẳng cần giải thích. Tất nhiên là Arez chẳng nỡ giết một chàng trai trẻ tuổi đầy nhiệt huyết như thế và anh chàng kia hẳn sẽ cảm mến ân tình mà thề nguyền trung thành với ông..." "Một câu chuyện kết thúc có hậu." Ocalea mỉm cười đáp nhưng chợt nhận thấy Eameth đang ngạc nhiên nhìn mình, rồi cô chậm rãi nói: "Tên cậu ta là Syhart." Lần này thì chính anh lại không muốn nhìn vào đôi mắt màu hổ phách của Eameth, càng không muốn nghe cái tên cô vừa thốt lên. Ở Udine, đó là lời cấm kị. Ông tổ của dòng họ Caligari -hoàng thân Veroni- đã chết dưới tay Syhart, con trưởng của ông cũng bị con trai Syhart làm cho mù lòa. Vậy mà họ từng có thời gọi nhau là anh em. "Lần nào nhớ đến đoạn này, tôi cũng cảm thấy mâu thuẫn và tiếc nuối. Nếu Arez kết liễu Syhart ngay lúc đó, có lẽ cuộc đại chiến sẽ không bao giờ xảy ra, biết bao mạng người đã không mất đi vô ích. Nhưng nếu ông xuống tay... câu chuyện rất đẹp ban nãy sẽ có thêm máu của một chàng trai trẻ, nước mắt, những giấc mơ bị cái chết tước đoạt. Và khi giấc mơ của cậu trai nọ giãy chết, nó còn kéo theo cả lòng kính trọng mà tôi dành cho Arez." Trong lúc Ocalea vẫn còn bối rối, Eameth tiếp tục hỏi: "Theo anh, nếu Arez có thể đoán trước tương lai thì ông sẽ làm thế nào?" "Tôi không biết." Ocalea ngập ngừng nói. “Thế nên tôi cũng chẳng biết phải nhận xét thế nào về quyết định của anh.” Eameth chợt nở một nụ cười buồn bã rồi giục ngựa phóng vượt lên một ngọn đồi. Xa xa, cái bóng tồi tàn, ám khói của Gabella đã hiện lên trên nền trời mùa thu nhợt nhạt, không màu sắc.
Eameth quỳ cạnh một đống lửa lớn, hai tay thả lỏng bên người, hơi thở của cô mỗi lúc một chậm dần, hầu như chỉ còn là một sợi tơ. Khóe môi của nữ hiệp sĩ khẽ cử động, ngọn lửa hừng hực trước mắt cô đột ngột chùn xuống. Lại thêm những lời thì thầm, ngọn lửa cứ yếu ớt dần, cuối cùng chỉ còn lại những cành thông đỏ và gỗ sồi cháy dở. Eameth khép mắt lại, làn hơi nước tỏa ra từ mũi cô kết lại thành những hạt băng li ti. Đột nhiên, cô chẳng còn ngửi thấy mùi gỗ bị đốt cháy hay tiếng vo ve của đám côn trùng tràn ngập Gabella những ngày đầu thu. Khi mở mắt ra, cô đang lang thang trong giấc mơ của một người khác, Natezar -đại thống lĩnh của các hiệp sĩ. Xin đừng là giấc mơ này! Eameth hoảng hốt nhìn quanh một lượt, kinh hoàng nhận ra mình đang đứng giữa một biển xác chết. Cách nữ hiệp sĩ không xa là một cán cờ nạm vàng ngã chỏng chơ. Ôi không! Eameth quỳ xuống, những ngón tay run rẩy chạm vào lá quân kì rách nát, trên mặt vải bê bết máu vẫn có thể nhận ra hình thêu một con rắn bạc đang nuốt đuôi của chính mình, biểu tượng của hội Archent. Nữ hiệp sĩ tự trấn an rằng đây chỉ là một giấc mơ nhưng cô đã cảm thấy sống mũi cay cay, rồi đôi chân đưa đẩy cô tiến về phía trước. Hàng chục hiệp sĩ Archent quỳ phục trên nền cát đỏ thẫm, giữa vòng người ấy, phải cố gắng lắm mới nghe thấy giọng nói của một người đang hấp hối… "Cậu có nhìn thấy mặt trời không, Raviel?" Một nụ cười hiện ra trên đôi môi giập nát của Arez. "Mặt trời sắp lặn." "Nhưng nó luôn trở lại." Khuôn mặt bê bết máu của vị hoàng đế lộ vẻ tò mò. "Nó đã đi đâu suốt những đêm dài?" "Nếu mặt trời đứng yên và chính chúng ta lại xoay vòng quanh nó thì sao?" "Lối suy nghĩ của cậu thật lạ lùng!" Arez húng hắng ho, cố nắm chặt những ngón tay dài, gầy guộc của Raviel. Bọt máu trào ra từ miệng khiến lời của ông hầu như không thể nghe thấy được. Đôi mắt xanh, đang mờ dần của vị hoàng đế chợt sáng lên lần cuối rồi chết theo vầng mặt trời đã khuất sau những dãy núi xa xôi. “Đức ông Natezar,” Eameth cố chen vào nhưng vô hiệu. Cùng với một tiếng gầm, Natezar đứng bật dậy, thanh gươm trong tay ông chặt phăng đầu Arsi -phó thống lĩnh hội Archent lúc bấy giờ- rồi tiếp tục lia qua cổ hay đâm vào lồng ngực những hiệp sĩ đang phủ phục quanh xác của hoàng đế. Không một ai tỏ ý chống cự hay tránh né, những chiến binh vĩ đại nhất đế chế cứ lần lượt gục xuống. “Đức ông Natezar.” Eameth gào lên nhưng Natezar đã bị cuốn quá sâu vào giấc mơ của Raviel, rồi thanh gươm lại chuẩn bị giáng xuống mũ trụ của Cellus - đại thống lĩnh đầu tiên của các hiệp sĩ. “Eater, bọn eater đã xâm nhập Gabella.” “Eater,” người cầm gươm lặp lại như một cái máy, rồi ông đứng ngẩng ra một lúc lâu, “Eameth?” Sa mạc Asafaran, làn khói bốc lên từ xác chết của con rồng đen, Raviel, các hiệp sĩ đang quỳ… tất cả đều biến mất. Eameth có thể ngửi được mùi sắt và mùi cỏ bị đè nát, rồi còn nghe thấy tiếng kèn báo hiệu. Qua đó, cô biết rằng một phần ý thức của mình đã kết nối với ý thức của vị đại thống lĩnh. “Eameth?” “Vâng thưa đức ông.” “Eater… ở Gabella?” “Ả ta vẫn chưa vượt qua thời kì thử thách, nhưng…” Eameth thoáng ngập ngừng, không rõ Natezar sẽ phản ứng ra sao trước những điều cô sắp nói. “Ta hiểu ý cô, nhưng chúng ta không có đủ người.” “Có hai tên thưa đức ông.” Eameth tranh thủ nói, rồi không giấu được vẻ ghê tởm, cô tiếp: ”tên thứ hai là Marazi.” “Nhóm cô…” Natezar bò lửng câu nói, nhưng Eameth dễ dàng đoán ra ông đang nghĩ gì: ‘nhóm cô tổn thất bao nhiêu người?’ Thông qua mối liên kết tâm linh tạm thời giữa hai người, Eameth cố truyền tải cho Natezar tất cả mọi điều mình thấy: cái xác cứng đờ của ả eater không có lấy một vết thương nhỏ nhưng tất cả xương cốt đều liền thành một khối, ả ta chỉ như một pho tượng được phủ lên lớp da người. Xác của Marazi thì không được may mắn như thế, trên khắp dãy phố vương vãi những mẩu thịt của tên eater xấu số. Từng chạm trán với đám eater rất nhiều lần nên rõ hơn ai hết, Eameth biết rằng cơ thể của lũ quái vật ấy rắn như gỗ sồi. Ý nghĩ về một kẻ nào đó chẳng những đã thoát được các phép thuật sát thương khủng khiếp của Marazin rồi lại còn áp sát và bứt rời cơ thể hắn thành từng mảnh thật quá vô lý. “Hóa đá sao?” Natezar khẽ lẩm nhẩm ”từ thời ta còn trẻ đã chẳng còn magi nào đi theo con đường đó. Họ thích quan sát chiến trường từ xa và giáng đủ thứ phép thuật xuống đầu kẻ thù hơn là mạo hiểm áp sát đối phương.” “Vậy thì ai lại…” “Cô có nhớ mình đã từng gặp trường hợp nào tương tự như vậy chưa, Eameth?” “Chắc chắn là chưa thưa đức ông.” “Nghĩ kĩ lại đi Eameth.” Dù không thể trông thấy khuôn mặt của vị đại thống lĩnh, Eameth vẫn nhận ra sự kích động đang dâng lên trong giọng nói của ông. Nhưng suốt ba mươi bảy năm gắn bó với hội archent, cô thực sự chưa từng nghe hay gặp bất kì trường hợp nào như vậy. “Có thể trong cuộc đụng độ đó, cả hai đối thủ đều không giết nổi nhau.” Natezar tiếp tục gợi ý, rồi không kìm được nữa, ông lại tiếp: ”đã bao giờ cô nhìn thẳng vào mắt đức ông Tanceli chưa?” “Lusanca” cái tên ấy phát ra từ miệng Eameth nghe như một tiếng rít. Tại Asarie, Udine và Prahova, đầu của Lusanca được treo giải còn cao hơn đầu của các tù trưởng người Norsk hay đám tướng lĩnh của bọn Gamoji ngoại đạo, nhưng chẳng ai dám giật giải. Ngay cả Cellus cũng đã thất tung khi đang truy đuổi gã tội đồ ấy. “Hãy nghe cho kĩ điều ta sắp nói, Eameth. Dù Lusanca có giết được Marazi nhưng…” Eameth không tài nào nghe được những lời tiếp theo của Natezar, cô chợt cảm thấy cơ thể mình như bị một bàn tay khổng lồ chộp lấy, mọi suy nghĩ, cảm giác đều biến mất, chỉ còn lại bóng tối vô cùng và những lời thì thầm, những tiếng rít, nỗi thèm khát không gì có thể thỏa mãn được... Trong vô thức, nữ hiệp sĩ nhẩm thầm những lời không còn chữ, những âm tiết mà ý nghĩa thực sự đã bị quên lãng từ lâu. Rồi cô bắt đầu cảm nhận được làn khí lạnh, ẩm ướt của trời đêm, mùi tro than và vị mằn mặn, tanh nồng của máu. Eameth mở bừng mắt, cô đang nằm sõng soài giữa đống muội than và gỗ vụn, thở hổn hển như người suýt chết đuối, cả miệng và tai đều chảy máu. Nữ hiệp sĩ cố gượng dậy nhưng đành từ bỏ nỗ lực ấy, cảm thấy mình vô dụng và bất lực như một đứa bé mới sinh. Cô cố không nghĩ về những lời thì thầm của bóng đêm và sức mạnh khủng khiếp suýt nữa đã nuốt chửng linh hồn mình. Cái gì cũng có cái giá của nó, quan trọng là thông điệp đã được truyền đi, hội Archent sẽ không hoàn toàn mờ mịt trước sự trở lại của Lusanca. Nhưng sẽ không hề có viện binh. Eameth thầm nghĩ. Vị đại thống lĩnh đời trước- đức ông Kurillio- đã mạo hiểm mang theo viên đá khi trấn thủ thành Qundalon. Trong ba mươi năm qua, hội Archent không có cách gì thu nạp thêm thành viên mới, lớp người cũ thì cứ chết dần. Thế rồi một gã magi trẻ tuổi lại tình cờ tìm thấy viên đá. Đó phải chăng là điềm báo cuộc thánh chiến lần thứ hai sẽ thành cộng? Không sao biết được. Có tiếng chân người bước đến, rồi một cô hầu gái thét váng lên khi trông thấy Eameth nằm bệt giữa sân. Chưa đầy một phút sau, Soren đã lao đến. Gã cung thủ bế thốc cô lên rồi lớn tiếng kêu người chuẩn bị xe. Eameth cứ giả vờ là mình đang ngất, biết rằng khắp cái thành phố tồi tàn này, chỉ một người duy nhất đủ tư cách chữa trị cho một hiệp sĩ Archent, và Lusanca, dù đánh bại được Marazi, nhưng hẳn là cũng bị thương không nhẹ.
Thanh gươm Vudun dừng lại chỉ cách mũ trụ của Cellus một sợi tơ, rồi chính Raviel vĩ đại cũng quỳ xuống và khóc. Vầng mặt trời đã tắt, ánh sáng đã tàn, tất cả những gì còn lại là nỗi trống trải không bao giờ lấp đầy được. Cả người Eameth run lên trong giấc mơ, quan sát Natezar là một chuyện, nhưng thực sự trải nghiệm kí ức của đức ông Raviel lại là một kinh nghiệm hoàn toàn khác. Lần đầu tiên trong đời, Raviel tự cho phép mình buông thả theo cảm xúc. Ông cảm thấy mình như một một quả mọng đã bị vắt kiệt nước, một khách hành hương vừa đánh mất tất cả đức tin và hi vọng. Thế rồi nỗi sợ hãi của ông cứ lớn dần, không sao kiểm soát được. Một thế giới thiếu đi Arez là một thế giới không còn toàn vẹn nữa. Thời hoàng kim của Temariel đã chết cùng với hoàng đế. Các viên tổng trấn, các thống lĩnh binh đoàn, hoàng thân và quận công sẽ bắt đầu cuộc chạy đua nhằm giành lấy ngai vàng của đế chế, và chiến tranh sẽ kéo dài bất tận. Tuy Syhart đã chết, nhưng trong màn đêm, lũ eater và ông chủ đích thực của chúng vẫn kiên nhẫn chờ đợi. Một năm, mười năm, một thế kỉ… sớm hay muộn, kí ức về cuộc đại chiến sẽ phai mờ, trở thành truyền thuyết hay bị quên lãng hoàn toàn. Không khó để đoán ra điều gì sẽ xảy đến tiếp theo. Raviel bất ngờ đứng dậy, ông bước đến cạnh cái xác bốc khói của con rồng đen, lưỡi gươm Vudun dễ dàng cắt qua lớp vảy dày như khiên thép, làm lộ ra quả tim nóng hừng hực bên trong. Vị trưởng hội Magi nâng cao quả tim bằng cả hai tay, nguồn năng lượng vô tận từ Alius truyền qua cơ thể ông, đổ vào quả tim rồng, mang theo biết bao hồi ức: từ ngày đầu tiên của cuộc thánh chiến vĩ đại cho đến trận chiến cuối cùng của hoàng đế, từ vẻ lộng lẫy của Asarie đến cảnh thảm sát thành Udine. Những kí ức nọ khiến lớp cơ tim bên ngoài tan thành tro bụi, chỉ còn lại một mẩu nhỏ bên trong, đỏ rực, cuồng nộ. Các hiệp sĩ Archent lần lượt chạm vào mẩu tim hóa đá ấy và bị nguyền rủa đời đời. Trong khoảng thời gian giữa ngủ và thức, kí ức của Raviel sẽ ám ảnh mỗi hiệp sĩ từ thế hệ này sang thế hệ khác, cho đến ngày chẳng còn eater nào trên toàn cõi Alemaria. Ba trăm năm sau, trong một căn phòng nhỏ nhưng sạch sẽ, thoang thoảng mùi thuốc và hương liệu, Eameth bừng tỉnh, nước mắt lăn dài trên má. “Ổn rồi, ổn rồi, uống đi con!” Felice nói với một giọng tuy đầy quyền uy nhưng dịu dàng, một tay lau nước mắt và mồ hôi trên khuôn mặt nhợt nhạt của Eameth, tay còn lại, bà cầm một chiếc cốc bạc đang bốc khói, chỉ ngửi thôi đã thấy đắng. Eameth ngoan ngoãn nghe theo. Hai người ngồi im lặng có đển nửa giờ, cuối cùng, Felice lắc đầu, nói: “Ta đã bảo mà con không nghe.” “Họ cứ chết hoài, hết lần này tới lần khác: Ezza, Arilen, Septimus, Clemenza…” Eameth đáp lại rất khẽ, mắt vẫn không nhìn lên, nhưng thừa hiểu những lời đó có sức lay động thế nào đối với người bảo trợ cũ của mình. Với Eameth, những cái tên ấy chẳng có ý nghĩa gì nhiều, nhưng Felice đã trải qua thời thơ ấu với những người đó, học chung một thầy, cùng nhau làm đủ mọi trò điên rồ và ngu ngốc, rồi tận mắt nhìn thấy từng người một ngã xuống trong cuộc đại chiến. “Nhưng tất cả những kí ức ấy đều bị áp đảo bởi cái chết của Người.” “Đừng nói nữa con!” Giọng Felice nghe nghèn nghẹn, bà ngả người vào chiếc ghế bập bênh đặt cạnh giường, đưa một tay lên che mắt, những ngón tay thoáng run rẩy. Eameth lặng lẽ nắm lấy bàn tay còn lại của Felice, tiếp tục nói rất khẽ, hệt như cô vẫn làm khi còn bé:” tại sao Người có thể bình tĩnh như thế được, sao Người…” “Đủ rồi con!” Felice giật tay lại, ngơ ngác nhìn cô học trò cũ của bà rồi giận dữ nói:” Nếu Kurillio còn sống, ta sẽ cho hắn một trận. Hắn biết con quan trọng với ta thế nào vậy mà vẫn dụ dỗ con gia nhập cái hội đáng nguyền rủa đó.” “Gia nhập hội Archent là quyết định của con, không liên quan gì đến đức ông Kurillio cả.” “Lẽ ra hắn phải cho con biết trước về các giấc mơ.” “Sao cô biết là ông ấy chưa từng đề cập đến chúng?” “Vậy ra con không hề hối hận.” Felice giơ tay vuốt mớ tóc lòa xòa trên trán, rồi nét mặt bà chợt đanh lại: “ta đoán cuộc nói chuyện nãy giờ đơn thuần chỉ vì công việc, phải không?” Eameth cảm thấy mặt mình nóng bừng, cô vốn nghĩ có thể dựa vào mối quan hệ cũ của hai người để khích động Felice nói ra bất kì thông tin nào khả dĩ có mối liên quan đến Lusanca, nhưng không ngờ lại bị bà nắm thóp được. Đã đến nước này, cô đành lật ngửa tất cả các lá bài. “Trong ba ngày qua, Lusanca có tìm đến chỗ cô không?” “Câu ấy mà cũng cần phải hỏi à?” Felice bực tức đáp lại. “Rốt cuộc là có hay không?” Eameth bắt đầu to tiếng. “Nếu có thì đã sao?” “Cô biết chuyện này nghiêm trọng thế nào mà.” Lúc này, ánh mắt hai người đã khóa chặt vào nhau, cả hai thầm đánh giá đối phương, nghiền ngẫm xem nếu phải tấn công thì nên sử dụng bùa phép thế nào. Hầu hết các phép thuật Eameth biết đều do Felice truyền thụ, nhưng bà đã nhiều năm không dùng đến bất kì lời nguyền nào, còn cô thì được tôi rèn liên tục trong chiến trận. Sau một lúc, Felice đành khuất phục, bà quay đầu sang hướng khác rồi chậm rãi nói: “Ngay sau cái hôm xảy ra vụ hỏa hoạn ở khu phía đông, có một con bé ăn mày đến xin ta điều trị cho một thằng nhóc đang ốm.” “Và cô nhận lời?” “Sao lại không?” “Con bé đó có điểm gì đặc biệt?” “Dĩ nhiên nó không phải là Lusanca cải trang đâu.” Giọng Felice vẫn còn chút hậm hực. Rồi bà lại nhìn thẳng vào mắt Eameth và gật đầu ra vẻ tán thưởng: “con tinh ý lắm.” “Sau đó viên tổng trấn cho người đến mời ta để hỏi về việc xử lí hai cái xác của bọn eater.” “Nhưng cô thậm chí không thèm đến.” “Vì lúc đó mọi chuyện trở nên thật rõ ràng, Eameth.” “Vậy là cô từ chối lời mời của quan tổng trấn để lao đến chỗ con nhóc ăn xin nọ?” “Ta đến vừa kịp lúc để ngăn Lusanca.” “Nhưng lại quá quan tâm đến sự an toàn của con bé đó và để hắn xổng mất?” “Con đoán ra đoạn kết rồi đấy.” Eameth nhẹ nhõm thở ra một hơi, cứ như vừa cất được gánh nặng trong lòng. Vừa lúc ấy, một cô bé chỉ độ mười, mười hai tuổi dợm bước vào phòng. Trông thấy người lạ, cô bé thoáng khựng lại rồi chạy đến đứng cạnh bên Felice, ánh mắt vẫn hướng về phía nữ hiệp sĩ, đầy vẻ tò mò. Eameth nhắm mắt lại, ngạc nhiên trước nguồn năng lượng tràn trề tỏa ra từ cơ thể bé nhỏ nọ. Cô chợt cảm thấy hơi khó chịu dù không rõ nguyên nhân nên đành gượng chào hai người và vội rời đi. Chỉ đến khi bước khỏi ngôi nhà đã gắn bó với cô suốt thời thơ ấu, Eameth mới nhận ra lúc nãy mình ghen tỵ với cô bé ấy biết bao nhiêu. Nhưng vụ tẩu thoát của Lusanca, hoạt động bất thường của cả một tiểu đoàn Gamoji ngay sát sườn Gabella và nhiều vấn đề khác nữa ngay lập tức chiếm lấy tâm trí cô, rồi bóng cô nhòa dần vào bóng bao người khác đang qua lại trên đường. Đứng bên ô cửa kính ở tầng một, Felice lặng lẽ dõi theo bóng cô học trò nhỏ ngày nào đang khuất dần giữa dòng người qua lại, rồi bà đưa tay vuốt mớ tóc vàng hoe đã được gội sạch và cắt tỉa gọn gàng của Dolly. Lần này, Felice sẽ không để ai cướp con bé đi nữa, không như lần với Eameth, không như lần với… con trai bà. Có tiếng gõ cửa nhè nhẹ, ngập ngừng dưới lầu và Dolly liền nhanh nhẹn chạy xuống cầu thang, khuôn mặt con bé chợt nở một nụ cười. Nhìn theo mái đầu hoe vàng của Dolly, trong lòng Felice thoáng dâng lên cảm giác tội lỗi. Bà không chỉ để Lusanca thoát đi, mà còn cho phép gã xóa sạch kí ức của hai đứa trẻ về thằng nhóc còn lại. Felice làm thế không phải vì tình nghĩa cũ với Lusanca, gã đó vốn không thể tin được. Nhưng trên toàn cõi Alemaria, chẳng ai lại dám nghi ngờ một lời nào của Cellus- đại thống lĩnh đầu tiên của hội Archent, học trò duy nhất của hoàng đế.
Toàn thân Arez đã hóa thành một mặt trời màu bạc, ông lừng lững bước đi trên con đường dệt bằng phép thuật bắc ngang nền trời u uẩn của Prahova. Xa tít bên dưới, các binh đoàn Temariel đang ồ ạt tràn vào thành phố, cứ như một cơn lũ mang theo cái chết. Bất cứ nơi nào quân giữ thành tổ chức thành công một điểm phòng thủ, Arez lại trút xuống đầu họ những cột sáng trắng lóa làm các tòa tháp, hào lũy tan hoang, đá phiến cùng vũ khí đỏ rực rồi chảy ra như sáp lỏng. Bài ca của ông vang vọng khắp thành phố, khiến những lời nguyền, bùa chú của các magi bỗng trở nên nực cười như trò trẻ. Những bước chân vẫn đều đặn không dứt, các tháp canh, hào lũy tiếp tục đổ sụp dưới chân Arez. Nhưng càng tiến sâu vào lòng Prahova, lá chắn phép thuật bảo vệ thành phố càng trở nên linh động, cứ như một con bạch tuột khổng lồ, vươn hàng ngàn xúc tua bám riết lấy cơ thể ông, kéo ông trở về mặt đất. Trong một nỗ lực cuối cùng trước khi bùa chú của mình hoàn toàn bị vô hiệu hóa, Arez khẽ chạm tay vào cánh cổng bọc thép bảo vệ tòa cung điện cổ kính nằm ở trung tâm thành phố. Trên mặt kim loại lạnh tanh chợt xuất hiện những đường vân lan ra như sóng trên mặt hồ, rồi cả cánh cổng khổng lồ đổ ầm vào khoảnh sân lát đá bên trong. Lúc ấy, chỉ cần một mũi tên bắn lén là đủ kết liễu tính mạng Arez. Nhưng quân trấn thủ đã tận mắt trông thấy thảm họa ập xuống đầu đồng đội của họ ở các lớp tường thành bên ngoài, nên khi vừa trông thấy Arez, hơn một trăm chiến binh liền quay đầu bỏ chạy, chỉ trừ có hai người. Arez thoáng liếc qua người đàn ông trung niên đang giương cao lưỡi gươm và lao thẳng về phía mình. Y có khuôn mặt vuông vắn, cương nghị, còn đôi mắt thì cháy bừng ngọn lửa cuồng tín của một bề tôi trung thành với chủ nhân. Arez biết y là một người tốt, một hiệp sĩ chân chính, nhưng lí lẽ duy nhất mà y chấp nhận lúc này là nhìn thấy máu đổ, của y hoặc của ông. Mọi chuyện sau đó diễn ra chỉ trong chớp mắt. Người hiệp sĩ nọ còn chưa kịp cảm thấy đau đớn thì đầu y đã đứt lìa khỏi cổ, rồi lăn trọn một vòng trên mặt sân trước khi phần còn lại của cơ thể đổ vật xuống, và máu phun ra thành vòi. Vậy là chỉ còn lại cậu thiếu niên đang ngồi bệt giữa sân. Đôi mắt màu xám của cậu hướng thẳng về phía Arez, nhưng cậu chỉ trông thấy gương mặt của kẻ thù, người đã làm sụp đổ cả thế giới của cậu, chinh phục thành phố của cậu, giết chết người cha mà cậu thương yêu nhất. Còn Arez, ngay khi bước qua cánh cổng đổ đã chú tâm theo dõi từng nét biểu cảm trên khuôn mặt cậu trai nọ, cố tìm cách cứu vớt linh hồn tan vỡ ấy, giảm thiểu những đau đớn mà ông buộc phải gây ra nhằm chấm dứt những điều ác còn khủng khiếp hơn gấp ngàn lần, rồi ông nói bằng giọng ra lệnh: “Hãy đứng dậy, Cellus, đừng tự làm mình xấu hổ như thế!” “Xấu hổ? Nhưng…” Đột nhiên, thay vào chỗ cậu thiếu niên có đôi mắt xám u buồn là một đứa bé khác với mái tóc đen, dày, lâu ngày không cắt tỉa, khuôn mặt hốc hác và đôi mắt xanh thăm thẳm. Prahova, các binh đoàn Temariel, tòa cung điện cổ với mái bọc chì… tất thảy đều biến mất. Trước mắt Arez chỉ còn lại đứa bé nọ và những bóng ma lượn lờ trong khoảng không gian đen ngòm, trống rỗng. Vị hoàng đế cố cử động nhưng vô hiệu. Từng khớp xương, thớ thịt của ông đều nhức buốt như bị hàng chục chiếc đinh thép găm vào, hoặc rát bỏng như bị lửa đốt. Arez có cảm giác cơ thể ông đã bị ai đó xé thành trăm mảnh rồi ghép lại theo cách vụng về nhất, rồi ông nhớ ra điều gì đã xảy đến với mình và biết rằng như thế thì còn tệ hơn là chết. Trong cơn điên giận, Arez bắt đầu hát. Ngay lập tức, các bóng ma bổ nhào về phía ông, miệng lẩm nhẩm những bùa phép đầy quyền lực. Arez cố kháng cự lại nhưng trong tình trạng hiện thời, ông hầu như chẳng có chút cơ hội nào. Vị hoàng đế chỉ kịp thực hiện một phép thuật cuối cùng trước khi chìm đắm vào cơn mê lần nữa. ................................... Dorian nhắm mắt lại và cố bịt chặt tai, để khỏi nghe, khỏi trông thấy bất cứ thứ gì. Nó không biết mình đã cuộn người nằm im như thế trong bao lâu nhưng cuối cùng cũng trở mình ngồi dậy, dáo dác nhìn quanh trong vô vọng. Dorian vốn tự hào mình có đôi mắt sáng nhất trong ba đứa, nhưng giờ đây, nó còn không trông thấy nổi tay cuả chính mình. Quanh thằng nhóc chỉ có bóng tối dày đặc, thê lương và nỗi cô đơn chồng chất như lớp bùn bồi tụ bên dưới những con kênh tù đọng. Thằng nhóc dợm cất bước, ban đầu còn ngập ngừng, dò dẫm nhưng sau đó thì phóng đi như một con thỏ. Dorian không biết mình đã chạy như thế trong bao lâu hay vì mục đích gì, nhưng nó chẳng hề cảm thấy mệt mỏi, hay đói khát. Thế rồi một tia sáng mong manh chợt lóe lên giữa đêm đen vô tận. Dorian thoáng ngập ngừng, nhưng trong đêm dài thăm thẳm, ánh sáng lại có sức thu hút lạ kì, cũng như nước trên sa mạc hay ngọn lửa giữa mịt mù tuyết trắng. Thế là thằng nhóc cứ nhắm hướng đốm sáng nọ mà lao tới. Dorian chẳng biết dùng từ "ma" có đúng hay không. Nhưng dứt khoát điều nó đang thấy không thuộc về cõi trần. Đó là một người đàn ông trạc tam tuần, so với ông ta, nó cảm thấy mình chỉ như đứa bé vừa chập chững biết đi đang ngước nhìn một người trưởng thành. Ông ngồi trên một chiếc ngai vô hình, tư thế rất thẳng, mắt khép hờ như đang đắm mình vào một giấc mơ, và cả người phát ra những tia sáng nhàn nhạt, êm dịu như bạc dưới ánh trăng. Dorian nín thở bước tới, nhưng vị vua vô danh vẫn bất động, dường như chưa nhận thấy sự có mặt của kẻ quấy rầy bé nhỏ. Thằng nhóc không hiểu nổi sao mình lại lạc vào chốn này, hay người đàn ông đó là ai? Do đâu mà trong khoảng tối mênh mông này chỉ có mỗi hai người? Nhưng trong lòng Dorian chợt cảm thấy một tình cảm lạ lùng dâng lên, rồi với sự bạo dạn bất ngờ, nó chạm vào ông ta. Dorian há hốc mồm, cứ như có ai đó vừa vặn xoắn, vừa kéo giãn cơ thể nó ra cùng một lúc. Rồi thằng nhóc nhận ra mình đang bước đi giữa không trung. Thật đáng ngạc nhiên là nó không hề cảm thấy hoảng hốt hay sợ hãi, mà được bao bọc bởi sự tự tin tuyệt đối. Mỗi hành động, cử chỉ, mỗi lời thốt ra đều có mục đích rõ ràng. Với một cử động đơn giản của bàn tay, một tiếng thì thầm, thằng nhóc xô đổ cả một cánh cổng khổng lồ. Bằng một động tác lách người, nó đã tước vũ khí và hạ sát một người đàn ông trưởng thành dễ dàng như một vũ sư đối đầu với tên bợm nhậu. Và khi Dorian quan sát nét mặt cậu thiếu niên lớn hơn nó vài tuổi, đang ngồi bệt trên mặt sân lát đá, nó nhận ra… Vị vua nọ tỉnh giấc, chăm chú xem xét thằng nhóc gầy gò trước mặt. Mắt ông tiệp một màu lam thẫm như gã tóc đen quái dị đã ném Dorian xuống kênh nhưng mạnh mẽ, tự tin gấp nhiều lần và đòi hỏi sự tuân phục tuyệt đối. Dorian không thể chịu nổi cái nhìn đó lâu hơn nữa, hai mắt nó díu lại, cả người như chẳng còn chút sức lực nào, rồi thằng nhóc lại thiếp đi. Lần tiếp theo Dorian mở mắt, nó đang nằm trên giường. Một chiếc giường hẳn hoi chứ không phải những đống rơm thông thuờng đâu! Trên chiếc bàn kê sát giường là hai quả táo và một cốc sữa đầy. Lần này, Dorian biết rằng mình không mơ vì nó cảm thấy đói, khát và mệt mỏi. Chẳng cần ai bảo, nó với lấy hai quả táo, chén sạch cả phần lõi, liếm láp các ngón tay như một gã mèo hoang rồi nốc ừng ực cốc sữa. Xong đâu đấy, thằng nhóc mới bắt đầu để tâm quan sát chung quanh. Sau ba năm trời lang thang trên phố, giờ nó lại thức giấc trong một ngôi nhà đúng nghĩa, có một căn phòng của riêng mình với cánh cửa sổ để mở trông ra mảnh sân đầy nắng, thơm mùi cỏ mới cắt. Trong lòng Dorian bừng lên một niềm hi vọng mới mẻ. Aluvian vẫn thường kể nó từng đuợc cha mẹ cưng chiều ra sao: những món đồ chơi bằng gỗ, bánh trái cây vào ngày chủ nhật, một thalet tiền quà vặt mỗi tuần... Những lúc ấy, Dorian cảm thấy ghét thằng oắt ghê gớm và cố tìm mọi cách để nó im mồm. Dù chính bản thân Dorian cũng khao khát có một gia đình… một người cha. Cũng như mọi đứa trẻ sinh ra mà không có cha, thằng nhóc từng mơ mộng cha mình là một nhà quý tộc quyền uy nào đó, vì hoàn cảnh mà đành rời bỏ hai mẹ con. Hay ông có thể là một vị tướng oai hùng đã hi sinh trên chiến trường... Mãi rồi những giấc mơ cũng thưa dần, thậm chí có lúc nó từng nghĩ cha hẳn là một tên cướp và đã bị treo cổ. Còn đang miên man suy nghĩ, Dorian không nhận ra một người đàn ông tóc đã hoa râm vừa đẩy cửa bước vào phòng. Trông ông có vẻ vô cùng tiều tụy, nhưng đôi mắt màu xám vẫn ánh lên nét tinh anh. “Cha đã tìm con rất lâu rồi, Amavet.” Giọng ông ta run lên vì xúc động. Hơi thoáng giật mình, Dorian ngước nhìn người vừa tự xưng là cha nó. Bằng cách nào đó, thằng nhóc không chỉ trông thấy khuôn mặt và nét biểu cảm bên ngoài mà còn nhận thấy sự vận động của bốn mươi bốn bó cơ bên dưới, những cảm xúc bị ẩn dấu bởi lần mặt nạ da người. Niềm vui trong giọng nói của ông ta là thật, cả tình thương cũng là thật, và ông thực sự đã tìm nó từ rất lâu, rất lâu. Nhưng có điểm gì đó không đúng, vì chẳng có mấy người cha lại sùng bái con trai của chính mình.
Tanceli lấy tay áo lau vội mấy giọt mồ hôi trên trán rồi lập tức trở về tư thế đứng nghiêm, không quên liếc sang gã đồng môn vận áo chùng đen bên cạnh. Cậu nhất thời giật mình khi chỉ trông thấy đôi mắt xanh biếc bên dưới chiếc mũ trùm, rồi nhận ra tên đáng ghét ấy đã tự hóa cơ thể mình thành đá. Quân gian lận! Tanceli thầm rủa, sao hắn lại dùng thứ phép thuật hạ tiện ấy trong một dịp trọng đại thế này? “Lại nhũn ra như bơ rồi sao, bạn hiền?” Lusanca quay sang ghẹo. “Sao, cái gì?” Tanceli sừng cồ hỏi lại, có cảm giác mình là người duy nhất không hiểu câu nói đùa ấy. Sau lưng hai người, Kurillio và Ezza đang khúc khích cười, Luicher thì mãi tán tỉnh Felice đến độ chẳng hiểu việc gì đang xảy ra. Septimus bèn ghé sát tai Tanceli, lẩm nhẩm vài tiếng. Ngay lập tức, gương mặt gã magi đỏ bừng lên như gấc. “Phản bội nhé!” Lusanca lườm Septimus trong khi Tanceli cố ra vẻ mình chẳng hề quan tâm đến câu đùa ác, lẳng lặng bước đến bờ thành. Tay magi đứng sững lại, nín thở. Chưa bao giờ cậu trông thấy chừng ấy con người tập trung vào cùng một chỗ. Thậm chí còn đông hơn cả buổi lễ mừng thành Udine được giải phóng chín năm về trước. Trước mắt Tanceli, quảng trường Cenerian rực lên màu lam sáng, xen lẫn với ánh kim loại lấp lóa của những bộ quân phục Temariel. Cậu đếm được cả thảy hai mươi mốt lá quân kì khảm vàng. Hai mươi mốt binh đoàn Temariel, một trăm lẻ lăm ngàn chiến binh. Rồi xa hơn nữa là những lá cờ bằng gấm và da thú của chín binh đoàn phương bắc, cờ màu lục với bảy ngôi sao bạc của quân thành Udine, rồi còn nhiều… nhiều nữa. Các tòa nhà chung quanh quảng trường, các tháp canh hình lục giác, những tháp chuông xa xa đều đen kịt bóng người. Sau lưng Tanceli, trên tường thành của cung điện Ufizi là năm trăm ba mươi hai magi. Mà chính hoàng đế đã tuyên bố rằng trên chiến trường, mỗi magi đáng giá bằng một trăm chiến binh. Chưa bao giờ trong lịch sử Alemaria, một đạo quân đông đảo và hùng mạnh như thế được tập hợp. Mười hai giờ trưa, trời nắng như đổ lửa, nhưng cả Tanceli lẫn hàng trăm ngàn người dưới kia đều không hề than vãn nửa lời. Những chiếc tù và trên các tháp canh của cung điện hoàng gia chợt cất tiếng. Lập tức, các magi cùng biết bao con người dưới quảng trường đều quỳ xuống, trán áp lên mặt đá nóng rực giữa trưa hè, miệng lầm rầm cầu nguyện. Ngay cả Lusanca cũng đã dẹp bỏ lá bùa hóa đá, mắt hắn ánh lên niềm tự nào khôn kể xiết. Hoàng đế và ba cố vấn thân cận nhất bước qua chỗ các magi, đến vọng lâu trông xuống cổng chính của cung điện Ufizi. “Người đến từ cực bắc, nơi mặt đất và thiên đàng hòa làm một.” Cha của Tanceli từng nói như thế. Arez không chỉ là hoàng đế của Temariel, người còn là biểu tượng duy nhất của hi vọng và lẽ phải mà vùng đất này biết đến trong bốn trăm năm qua. Trên mái tóc vàng rực, được uốn lại thành búp, người đội một chiếc vương miện bạc, tạo hình một con rắn đang nuốt đuôi của chính mình. Sống, chết và tái sinh, biểu tượng của sự vĩnh cửu. Vĩnh cửu! Tanceli thầm nghĩ, trong lòng không hề mảy may nghi ngờ bản chất thần linh của hoàng đế. Làm sao một người bình thường, với chỉ ba trăm môn đệ lại có thể chinh phục Qundalon chỉ trong hai tháng? Làm sao một người bình thường với binh lực của một thành phố có thể chinh phục tất cả đất đai phía tây Alemaria chỉ trong mười một năm? Làm sao một người bình thường có thể khiến cha cậu quỳ xuống và tuyên thệ trung thành? Từ thiên đàng, người đã nghe thấy tiếng Alemaria kêu gọi sự cứu rỗi, và đã đến. Suy nghĩ của Tanceli chợt bị gián đoạn bởi một giọng nói vang rền như tiếng sấm, áp đảo cả tiếng những người dưới quảng trường. Trong phút chốc, cả quảng trường Cenerian chợt im lặng như tờ. Không ai, không một người phàm nào muốn bỏ lỡ một lời của Arez. “Trong suốt chín năm, hàng trăm ngàn tín đồ đã cầu nguyện trước cổng điện Ufizi, chờ mong ngày những người anh em của họ ở bờ đông sông Komati được cứu rỗi. Trong suốt chín năm, đám Meister và lũ rồng cho rằng chúng được an toàn sau các pháo đài, dinh lũy phía đông dòng sông. Trong chín năm ròng, những người anh em sa ngã của chúng ta đã mua lụa, hương liệu và gia vị từ phương đông, từ những bàn tay nhơ nhớp của kẻ thù…” Tanceli cảm thấy cổ họng mình đắng chát và trán cậu càng áp chặt lên nền đá nóng rực. Những cốc rượu gia vị trong bao đêm hội hè, những bộ áo sặc sỡ bằng lụa và gấm… sao cậu chưa bao giờ tự hỏi chúng đến từ đâu? Sao những lời, nếu do một người bình thường nói, sẽ chỉ gây ra sự phản kháng hoặc lẩn tránh lại có thể khiến cậu cảm thấy xấu hổ và muốn sửa sai khi phát ra từ miệng Arez? Tại sao? “Chúng ta đã nhân nhượng đủ rồi, chờ đợi đủ rồi. Từ ngày hôm nay, chúng ta sẽ chiến đấu, cho tới khi nơi duy nhất mà kẻ thù còn tồn tại là dưới địa ngục.” Arez rút thanh gươm Vudun đeo ở thắt lưng và giơ lên quá đầu mình. Dưới quảng trường, hành động ấy được hàng trăm ngàn người lặp lại. Rồi hoàng đế đưa tay trái nắm lấy lưỡi gươm, một vệt đỏ lập tức loang xuống ống tay áo trắng xóa. “Không lùi bước, không hối hận, không có tù binh.” “Không bao giờ lùi bước, không bao giờ hối hận, không có tù binh.” Tanceli nghe giọng mình gào lên, cả Lusanca cũng gào lên. Mọi thứ… thật điên rồ. Cứ như một cơn sốt, cứ như không gươm giáo nào có thể giết nổi cậu, cứ như bản thân cậu là một vị thánh. ……………………. Buổi lễ duyệt binh tại Asarie đánh dấu ngày hoàng đế phát động cuộc thánh chiến vĩ đại nhằm quét sạch các Meister và lũ rồng khỏi miền đông Alemaria. Hai trăm bốn mươi ngàn chiến binh, đủ mọi tầng lớp, màu da: các binh đoàn Temariel nổi tiếng về tính kỉ luật, các đạo kỵ binh, bộ binh xung kích đến từ phương bắc, những đạo quân bắn nỏ, quân đánh giáo của Udine và mười bốn thành bang bờ tây đại giang Komati, các hiệp sĩ Reveran trong những bộ giáp xích, rồi còn hội magi, các thầy phù thủy từ Ulmtan, các chiến binh Yosaran câm lặng với những thanh gươm lưỡi cong… Nhưng chỉ những kẻ ưa mơ mộng và lũ trẻ con, vốn thường lẫn lộn giữa chiến tranh với các trận đánh ngắn ngủi mới tưởng rằng cuộc thánh chiến sẽ kết thúc chóng vánh. Ngay cả các hiệp sĩ tài ba nhất, những chiến binh dũng mãnh nhất cũng cần phải ăn. Lũ ngựa họ cưỡi cần cỏ và lúa mạch. Lũ cừu, bò, dê cung cấp chất thịt quí giá cho những người lính cần phải được chăn dắt. Ấy là chưa kể những phu vận lương, các đoàn xe tiếp tế, đầu bếp, thợ rèn, thợ mộc, y sĩ, kĩ sư quân sự, các kế toán, liên lạc viên, hướng đạo… Chính gánh nặng ấy đã khiến các Meister không sao tập trung được một đạo quân đủ lớn để áp đảo hoàn toàn cuộc nổi dậy của Qundalon hai mươi năm trước. Quân số luôn là con dao hai lưỡi. Trong chín năm, đế chế Temariel gồng mình chuẩn bị cho cuộc thánh chiến. Một con kênh đào dài hơn ba trăm dặm đã nối liền Asarie ở phương tây với Udine bên bờ đại giang Komati. Tại hai thành phố ấy, các xưởng đóng tàu, xưởng rèn binh khí hoạt động ngày đêm. Những kho lương thực khổng lồ, những bãi chăn gia súc mọc lên như nấm dọc theo con kênh đào. Nhưng mọi sự chuẩn bị đều là vô ích nếu các pháo đài của lũ Meister ở bờ đông đại giang Komati vẫn còn đứng vững. “Chúng ta sẽ mở toang đại giang Komati từ phương bắc.” Arez đã quyết định như thế. Một đạo kỵ binh bốn mươi lăm ngàn người do đích thân hoàng đế và nguyên soái Syhart chỉ huy sẽ vượt qua dãy Gamoran, tiến sâu vào vùng thảo nguyên đông bắc rồi vòng xuống tập kích các pháo đài bên bờ sông Komati. Chướng ngại lớn nhất họ gặp phải là Prahova, thành phố cô độc, chưa từng thất thủ trong suốt hai ngàn năm.
Vị sứ giả đến một mình vào lúc bình minh, yêu cầu được gặp Kaeloar Komones, đức vua của Prahova. Trong ba tháng qua, lính giữ thành đã đuổi cổ tất cả sứ giả và thuyết khách, đã chặt đầu hàng tá gián điệp, xác của chúng bị bỏ xó cho chim chóc và giòi bọ. Nhưng cùng với thời gian, nỗi tuyệt vọng của họ cứ lớn dần. Trong bốn cuộc đụng độ giữa các kỵ sĩ Prahova và kẻ thù từ phương tây, họ chưa hề giành được thắng lợi nào. Ba ngày trước, các kỵ sĩ đã thiêu rụi đồng cỏ và rút vào cố thủ trong thành phố, cho rằng nếu kẻ thù không chết thiêu trong biển lửa thì cũng tổn hại nặng đến mức phải từ bỏ mọi kế hoạch vây hãm. Họ đã lầm. Trằn trọc suốt đêm vì nghĩ đến cơ hội được ra trận lần đầu tiên, Cellus đã thay xong quần áo khi viên đội trưởng toán cận vệ đến loan báo tin tức về sứ giả của kẻ thù. Cậu hoàng trẻ tuổi vội vã hướng về phía sảnh thiết triều ở phía nam cung điện. Từ lúc bảy tuổi, Cellus đã được cha cho tham dự tất cả các buổi triều kiến. Đã bao lần cậu uể oải ngáp dài khi nghe các lãnh chúa tố cáo, bôi nhọ lẫn nhau, rồi lại còn đám sứ giả hống hách của các Meister. Duy chỉ có những buổi họp của hội đồng tướng lĩnh, bàn về các chiến dịch chống lại người Norsk và bọn Quyar man rợ là còn thú vị. Trong ba tháng trở lại đây, hội đồng đã họp mười bảy lần. Lần sau bao giờ cũng kéo dài hơn, thê lương hơn, ít người tham dự hơn lần trước. Và giờ đây, Cellus ngồi trên băng ghế đá bên cạnh chiếc ngai bằng ngà và hổ phách của cha mình, lần đầu tiên trông thấy kẻ thù nguy hiểm nhất mà Prahova từng đối mặt, Syhart, thống soái tài ba nhất của Temariel. “Đám tù binh ta bắt được trong cuộc giao tranh vừa qua đã tiết lộ những gì các ông nghĩ về Người. Sai lầm, hết sức sai lầm!” Người, hoàng đế của Temariel Cellus cảm thấy một cơn ớn lạnh xuyên suốt sống lưng, rồi cậu thầm rủa kẻ vừa được nhắc đến. Các tu sĩ đã bảo rằng... “À, những lời báng bổ nho nhỏ ấy.” Dù khuôn mặt đức vua Kaeloar bị chiếc ngai che khuất, Cellus vẫn dễ dàng hình dung vẻ mặt kiêu hãnh và tự tin của cha mình khi ông đáp lời viên thống soái. “Báng bổ?” Vẻ mặt Syhart để lộ vẻ ngạc nhiên, rồi y chầm chậm lắc đầu, “chúa thượng của ta không nghĩ như vậy.” “Tức là hắn cần những từ nặng nề hơn?” “Người bảo rằng ông đang sợ hãi, Kaeloar. Sợ mất đi quyền lực, sợ sự đổi thay. Và nhất là… ông sợ hãi chính sự thật.” Cellus nghe cha mình cười vang, giọng cười sang sảng, vang động khắp sảnh thiết triều. Trái tim non trẻ của cậu nóng bừng lên niềm tự hào, giá mà cậu cũng có được giọng cười như thế, sự dũng cảm và tự tin như thế. “Các tu sĩ của bọn ta bảo rằng hắn là ác quỷ đến từ bên kia thế giới.” Kaeloar dõng dạc đáp lại. “Lũ giòi bọ ấy sẵn sàng nói mọi điều để bảo toàn quyền lực của chúng, dù có phải phỉ báng đức chúa.” Đức Chúa? Cellus ngạc nhiên nhìn thẳng vào viên thống soái. Tóc ông ta đen bóng, tết thành nhiều bím dài ngang lưng, từng nhiều lần trông thấy các tù trưởng của dân Norsk bị quân Prahova đánh bại, Cellus biết rằng mỗi bím tóc tượng trưng cho một thắng lợi trên chiến trường. Nhưng chưa bao giờ cậu trông thấy một người lại thắt nhiều bím tóc đến vậy. Syhart cao hơn cha cậu cả một cái đầu, đôi mắt màu lam đậm, vô cùng linh hoạt. Mặc cho chiếc mũi hơi khoằm, khuôn mặt ông vẫn có sức lôi cuốn kì diệu, rồi còn giọng nói, cử chỉ… tất cả đều chứng tỏ địa vị ông ta chẳng kém gì cha cậu, một người sinh ra để chỉ huy, để chiến thắng và cai trị. Vậy mà khi nhắc đến kẻ kia, viên thống soái lại cúi đầu và tôn vinh hắn là đức chúa? Trong suốt mười lăm năm qua, tại Prahova, với hầu hết mọi người, hoàng đế và những cuộc chinh phạt của y ở phía tây đại giang Komati chỉ là những câu chuyện phiếm được nhắc đến mỗi khi rỗi việc. Nhưng trong những buổi tối xa xưa, khi cậu bé Cellus vờ say ngủ, đức vua Kaeloar và hoàng hậu quá cố thỉnh thoảng vẫn đến bên giường con mình, họ nhắc đến gã hoàng đế nọ với nỗi lo thực sự. Rồi mẹ áp mặt lên trán cậu, khuôn mặt bà bao giờ cũng nóng hổi nước mắt. “Prahova đã tồn tại suốt hai ngàn năm, chưa bao giờ thất thủ, bọn ta là hậu duệ của các thiên thần. Ngay cả gã hoàng đế của ông rồi cũng phải cam chịu thất bại.” “Ông thực sự nghĩ thế sao, Kaeloar?” Giọng viên thống soái vẫn điềm đạm và tự tin tuyệt đối. “Những trận đánh thất bại trong ba tháng qua không giúp ông giúp ông ngộ ra điều gì sao? Chín binh đoàn đang sẵn sàng nhận lệnh để phá hủy tường thành của ông, tàn sát binh lính của ông. Ba trăm magi đã được tập hợp, ba trăm… Rồi người dân của ông, con trai của ông sẽ ra sao, Kaeloar? Khi ông đến viếng mộ vợ mình lần tới, lẽ nào ông lại nói với bà ấy rằng: ”con chúng ta đã chết?” Im lặng. Viên thống soái bất chợt quỳ một gối xuống, bàn tay phải ngửa ra, hướng về phía vị vua trên ngai báu. “Ta cầu xin ông, Kaeloar, bọn Meister và lũ rồng mới là kẻ thù thực sự của chúng ta. Hãy nắm lấy tay ta, người anh em.” Cellus nhổm người nhòm về phía ngai báu. Sao cha cậu không đuổi cổ tên sứ giả hống hách này khỏi cung điện, cha đang nghĩ gì? “Hãy đến với ta, người anh em, chúng ta đã thấy quá đủ máu chảy rồi.” Cellus thoáng vững tâm khi thấy cha đứng dậy. Cậu chờ đợi một tràng cười thật mạnh mẽ, vô lo, nhưng chẳng có âm thanh nào phát ra cả. Cha cậu chỉ mới bốn mươi mốt tuổi nhưng đột nhiên ông có vẻ già nua và yếu đuối lạ lùng. Một dãy tóc bạc bên trán, khuôn mặt uể oải, chiếc vương miện bằng vàng và hồng ngọc nặng nề khiến cổ ông cong lại. Rồi đức vua Kaeloar bước một bước về phía viên sứ giả. Không, không, không! Cellus đứng bật dậy, lao về phía Syhart rồi nhổ vào lòng bàn tay y. “Prahova sẽ không bao giờ đầu hàng.” “Hãy cút về phương tây hoặc bỏ xác tại đây.” Kaeloar như chợt tỉnh ra. Nhưng trong lòng Cellus, có điều gì đó đã không còn như cũ nữa. Cha vốn luôn là người mạnh mẽ, giỏi giang và thông minh nhất, người vĩ đại nhất mà cậu từng biết… đã từng. “Ngày mai, lúc bình minh.” Syhart chỉ nói bấy nhiêu, nhưng trước khi quay lưng đi, y nhìn thẳng vào mắt Cellus một lúc lâu. Cứ như muốn nói: ta đã trông thấy khung cảnh này bao lần rồi, biết bao thành phố, biết bao vương quốc, biết bao ông hoàng kiêu hãnh phải cúi đầu khuất phục. Với một cơn giận dữ của trẻ con, Cellus phóng vội khỏi sảnh thiết triều ngay lúc viên sứ giả vừa khuất dạng, mặc kệ tiếng cha mình gọi với theo. Cậu lang thang khắp thành phố suốt ngày hôm ấy, và đâu đâu cũng bắt gặp một bầu không khí khẩn trương. Biết bao người chồng, người cha và con trai lặng lẽ mài những lưỡi gươm dài, rộng bản. Các hiệp sĩ nặng nề bước đi trong những bộ giáp xích, chỉ huy binh lính đặt thêm nhiều chướng ngại vật trên đường. Đám đồ tể ướp muối từng tảng thịt lớn, chuẩn bị cho một cuộc vây hãm lâu dài. Nhiều phụ nữ dắt theo đàn trẻ nheo nhóc hướng về phía cung điện, mong tìm chỗ trú an toàn. Đến nửa đêm, khi lửa giận trong lòng cậu hoàng trẻ đã tan, cậu lặng lẽ trở về cung điện qua lối cổng phụ, lòng thoáng lo sẽ bị cha trừng phạt vì hành vi vô lễ ban sáng. Nhưng chẳng có lời trách phạt nào cả, trong phòng cậu, chỉ có một bộ giáp được đặt ngay ngắn trên bàn.