Grey Knight ăn rồi, mấy ảnh bá đạo lắm, mai dịch xong Isstvan III thì sẽ dịch nốt mấy anh Grey Knight
SALAMANDER(tiếp theo) Các chiến dịch. The Compliance of Caldera( Unknown Date.M31): 1 chiến dịch bất thường trong Great Crusade trên thế giới 154-4, còn gọi là Ibsen theo những người bản xứ. Salamander dưới sự lãnh đạo của Vulkan cùng với Death Guard và Iron Hands dưới sự chỉ huy của Primarch của họ. Đây là 1 thế giới khắc nghiệt cho con người sống nhưng có chứa nhiều tài nguyên có giá trị. Tuy nhiên lực lượng của Imperium gặp phải sự kháng cự của Eldar, Eldar đã để 1 đơn vị đồn trú trên Ibsen. Lực lượng Eldar bao gồm Seers, Warlocks và các psyker không thể đối đầu với 1 legion Astartes. Điều bí ẩn tăng thêm khi các bộ lạc loài người trên hành tinh lại đồng cảm với Eldar hay ít nhất là họ không có thiện cảm với lực lượng đến giải phóng cho họ. Salamander và những lực lượng Imperium dễ dàng đánh bại Eldar. Sau cuộc chinh phạt, Salamander phát hiện ra Eldar được bảo vệ bằng 1 hệ thông menhirs, với các psychic nodes ( biết dịch là cái gi) và bên trong 1 kiến trúc khổng lồ. Nơi xảy ra cuộc đụng độ cuối cùng và tàn bạo nhất. Kiến trúc được xác định nhờ vào 1 Remembrancer bí ẩn(Remembrancer là những nghệ sĩ, nhà sử học, nhà báo được Emperor cử đi chung với các đội quân trong Great Crusade có nhiệm vụ ca ngợi những chiến thắng vinh quang của Imperium và gi lại cách mà Imperium thống nhất nhân loại) đi chung với Salamander, người này đã có 1 cuộc nói chuyện với Vulkan trước cuộc chiến. Sau khi kết thúc cuộc chiến Vulkan thấy Remembrancer đó lảng vảng bên trong kiến trúc và bất thình lình biến mất. Đi theo hắn, Vulkan và các Pyre Guard của mình đi xuống những căn phòng bên dưới và đi qua 1 cánh cổng, cuối cùng họ phát hiện ra 1 buổi lễ được tổ chức bởi các thầy tu của những bộ lạc loài người, Họ chuẩn bị hiến tế 1 phù thủy Dark Eldar. Cuối cùng Vulkan nhận ra Cái kiến trúc thục ra là 1 webway( vào thời điểm đó không có ai trong Imperial biết về nó kể cả Vulkan ) Vulkan đã nhìn thấy nó trước đó. Khi ở Nocturne Dark Eldar đả nhiều lần sử dụng những cái cổng này để tấn công hành tinh. Eldar đã lấy lại quyền kiểm soát cánh cổng bằng việc đánh bại những người họ hàng đen tối của mình. Vô tình họ đã giải phóng cho những cư dân bản địa khỏi sự kinh hoàng từ các cuộc tấn công của Dark Eldar. Những người ở đây xem Eldar như là những người giải phóng của mình. Kinh hoàng khi thấy những người giải phóng của họ bị đánh bại bởi Imperium những cư dân ở đây tìm cách hiến tế 1 Dark Eldar mà họ bắt được nhằm ngăn cản sự trở lại của đồng loại cô ta, Remembrancer bí ẩn đó thực tế là Emperor cải trang ngài có 1 sự quan tâm đặc biệt đến nhiệm vụ này từ khi đưa ra mệnh lệnh. Vulkan tiếp quản lbsen và 1 cuộc tàn sát toàn bộ dân cư là không thể tránh khỏi. Thế giới này giờ đây sẵng sàng trở thành 1 thuộc địa mới của nhân loại và phục vụ cho lợi ích của Imperium. The Fires of Phaistos Osiris (533.M39): Trong hành động này, Salamander phòng thủ Cadrinal World Phaistos Osiris, nằm ở phía bắc Segmentum Ultima chống lại 1 cuộc tấn công lớn của Ork. 533.M39, WAAAGH! Ruckrippa đe dọa nhấn chìm toàn bộ thế giới này vào bóng tối. Nhận được mối đe dọa từ Ork, Salamander đã dẫn đầu 1 đội quân có kỉ luật các học viên của Schola và hàng trăm ngàn người tình nguyện. Salamander đã nghĩ ra 1 hệ thống phòng thủ phức tạp và có chiều sâu để chống lại cuộc tấn công của Ork. Salamander đã tận dụng những cơn thịnh nộ và sự vô kỉ luật của ork để chống lại chúng, dụ chúng vào những cái bẫy đã được chọn trước để tiêu diệt. Trên quỹ đạo, chiến hạm của Salamander dưới sự hỗ trợ của chiến hạm Ultima nổ súng tấn công Deff-Hulks của Ruckrippa. Dưới sự yểm trợ của các cuộc oanh kích các Terminator thuộc Firedrake(tên gọi 1st company của Salamander) dịch chuyển tức thời vào con tàu của Ork. Sau những cuộc tấn công dữ dội Deff-Hulks bị xé nát sau 1 vụ nổ. Trên bề mặt Phaistos Osiris, Ork tổ chức cuộc tấn công cuối cùng vào temple-city chính của thế giới. Salmander cũng phát động 1 cuộc phản công. Đòn tấn công quyết định được tung ra khi Firedrake xuất hiện tiêu diệt những đàn Ork còn lại, đâp tan WAAAGH! thành hàng ngàn mảnh. The Purging of the Moons of Ymgarl (754-756.M41): Theo lệnh của High Lords of Terra ngăn chặn sự lây lan của Genestealer đang gia tăng. Là 1 phần của chiến dịch xenocidal. Salamander được giao nhiệm vụ nặng nề là tiêu diệt những con Genestealer từ mặt trăng của Ymgarl nơi có cuộc giao tranh đầu tiên. Đây là nơi những sinh vật hôi hám đã có 1 chỗ đứng vững chắc. Space marine đã bị những thiệt hại khủng khiếp, nhưng những cuộc tấn công của những con Ymgarl Genestealer nhanh chóng được giải quyết bằng bão lửa hay những cú đánh từ Thunder Hammers. Salamander đã không chùng bước. Chiến dịch kéo dài gần 2 năm cho tới khi các Magos Biologis thuộc Adeptus Mechanicus tuyên bố mối đe dọa cổ xưa trên Ymgarl đã kết thúc. YmgarlGenestealers Badab War (906-912.M41): Salamander là 1 trong những Chapter tham gia Badab War chống lại Astral Claws và đồng minh của họ. Ban đầu Salamander miễn cưỡng tham gia vào cuộc xung đột, họ đã chiến đấu bên cạnh Astral Claws và Fire Hawks trong chiến dịch Lycanthos Drift Campaign vào năm 810s.M41. Khi Inquisitor cung cấp những bằng chứng chứng minh Astral Claws đã phản bội Emperor và Imperium, Salamander buộc phải thực hiện nghĩa vụ của mình. Chapter chỉ gửi 1 lực lượng nhỏ bao gồm 1 company( 2nd company) dưới sự chỉ huy của Captain Pellas Mir'san vì phần còn lại của Chapter đã được gửi đi nơi khác. Mặc dù chỉ có 1 số lượng nhỏ nhưng Salamander tham gia rất nhiều cuộc chiến trong cuộc xung đột, đóng vai trò quan trọng trong 1 số sự kiện của cuộc xung đột. Lufgt Huron Second War for Armageddon (941-961.M41): trong cuộc chiến Second War for Armageddon, Salamander được lãnh đạo bởi Tu'Shan, vừa mới trở thành chapter master 3 năm trước cuộc chiến. 1 số các chiến công của Salamander trên Armageddon là việc 1 company Salamander đã bảo vệ 1 cây cầu trên sông Stygies trước hàng ngàn Ork Speed Freeks ngăn không cho Ork phá hủy 1 nhà máy bơm nước do đó đã cứu Hive Tempestora không lăm vào tình trạng thiếu nước. Mặc dù thành phố cuối cùng cũng rơi vào tay ork nhưng những nỗ lực của Salamander đã cho phép người dân có thể sơ tán trước khi quân Ork đến nên đã cứu được rất nhiều người. Salamander đã tham gia rất nhiều cuộc chiến của Imperial và giành được thắng lợi. Cho dù những chiến công vĩ đại của họ bị lu mờ nhưng họ vẫn chiến đấu tích cực trong cuộc chiến lần thứ 2 tại Armageddon. Trong khi Blood Angels tiêu diệt 1 đàn Ork lớn, và Ultramarines bảo vệ những hive cities còn lại, Salamander có nhiệm vụ bảo vệ những đoàn xe tiếp về, hộ tống và chống lại những cuộc tấn công của Ork vào dòng người tị nạn. Do không ngại khó khăn thực hiện những nhiệm vụ không nhận được sự ca ngợi mà Salamander đã nhận được sự biết ơn và tôn trọng của Guardsmen và những người dân thường. Salamander trở nên nổi tiếng là 1 đồng minh mạnh mẽ và đáng tin cậy. Third War for Armageddon (998.M41): Khi Ork Warboss Ghazghkull phát động 1 đợt tấn công mới vào lực lượng Imperial trên Armageddon, Salamander là 1 trong những chapter đầu tiên phản hồi, và tung toàn bộ 7 company vào cuộc chiến với Ork, bao gồm cả chapter master Tu'Shan và Firedrakes( 1st Company). Salamander tổ chức 1 cuộc phản công vào các Rok( những tàu vũ trụ đáng sợ nhất của Ork) đã hạ cánh dọc theo con sông Hemlock. Những đường hầm thô sơ bên trong Rok thích hợp cho các cuộc chiến tầm gần hơn là tầm xa như các hoang mạch, sự táo bạo này của Salamander đã khiến cho Ork phải trả giá đắt. Ít nhất ba Rok bị phá hủy hàng hàng tên mọi da xanh bị tàn sát. Nhiều chapter đã chiến đấu nhân danh Emperor và cho vinh quang của bản thân. Trong số 20 chapter triển khai toàn bộ lực lượng trênn Armageddon chỉ có Salamander là chiến đấu cho những người dân ở đây. Họ đã chống lại 1 captain của Marines Malevolent vì đã để những người dân chết vì Marines Malevolent không có thời gian để bảo vệ họ. Moribar (Unknown Date.M41): 1 nhiệm vụ trên Cemetery World Moribar( Cemetery World là những thế giới chôn cất những người hi sinh vì imperium 1 vài Cemetery World chỉ đơn giản là nơi chôn cất của hive world gần đó), tại đây Salamander dự định bắt giữ những kẻ phản bội của chapter bao gồm Vai'tan Ushorak kẻ đã bị giết trong hành động này và Nihilan, 1 Librarian của Salamanders đã gia nhận Renegade Chaos Space Marine warband từng là 1 phần của 6th company bây giờ được biết với tên Dragon Warriors. Đây là 1 hành động không thành công của Slamander khi phần lớn Renegade Chaos trốn thoát sau khi gây ra nhiều rắc rối cho chapter. Stratos Campaign (Unknown Date.M41): Salamander giải phóng thành phố Cirrion thủ phủ của mining world Stratos. 1 nhóm nhỏ Dragon Warriors dưới sự chỉ huy của Chaos Sorcerer Nihilan đã tổ chức 1 cuộc nổi dậy của Chaos Cult trên Stratos. Chúng đã bí mật đào các những decyphrex ( không biết là cái gì) được chôn dưới thành phố Cirrion. Salamander đã phản hồi 1 cuộc gọi của astropathic trên Stratos. Và Nihilan đã gây ra cái chết của captian Kadai. Scoria (Unknown Date.M41): Sau khi phục hồi 1 cổ vật từ Forge Ship Archimedes Rex, 3rd company của Salamander đi đến Scoria. Trên 3rd company đã tìm thấy những gười còn sống sót Imperium's 154th Expeditionary Force còn lại từ Great Crusade và 50 bộ Power Armour cổ xưa và Salamander sống lâu nhất Gravius, người từng có chiến đấu tại Istvaan V hơn 10000 năm trước. Salamandercung4 thành công trong việc chiếm 1 pháo đài của Iron Warriors trước khi chống lại cuộc tấn công của hàng ngàn tên Ork và các Fire Born đã dũng cảm đẩy lùi đợt tấn công của Ork. Sao khi bẽ gãy cuộc tấn công của Ork. Salamander được giải cứu bởi 1 Strike Cruiser của Marines Malevolent. 1 chapter có quan hệ chẳng tốt đẹp gì với Salamander. 1 cuộc họp không mấy thân thiện diễn ra trên Archimedes Rex khi Marines Malevolent yêu cầu nắm giữ công nghệ của Forge Ship cho riêng họ. Captian của 3rd company nghi ngờ là đã bị giết bởi 1 đội Ork commando, đồng thời Chaos Sorcerer Nihilan, kẻ thù của Salmander, được phát hiện và đã thoát được sự truy bắt của 3rd company. Trên Scoria Salamander phát hiện ra 1 vũ khí hủy diệt, 1 khẩu Seismic Cannon, bây giờ nằm trong tay Nihilian kẻ luôn muốn tiêu diệt Salamander.
KHORN ‘’Blood for the Blood God! Skull for the Skull Throne’’ Khorn, còn được gọi là Blood God và Lord of Skull, là Chaos God của máu, chiến tranh và tàn sát. Lãnh địa của hắn là nơi căn bản và tàn bạo nhất của các hành động và cảm xúc như câm ghét, giận dữ, cuồng nộ, chiến tranh và giết chóc. Mỗi hành động giết chóc hoặc tàn sát trong vũ trụ vật chất đều cho Khorn sức mạnh, càng vô nghĩa, càng tàn phá thì sức mạnh mà hắn nhận được ngày càng nhiều. Tuy nhiên, Khorn là vị thân của tàn sát, nhưng hắn cũng là vị thần của kiêu hãnh và danh dự của những kẻ chiến thắng những kẻ thù nguy hiểm nhất và chiến thắng vận may của chính mình. Một tín đồ của Khorn có khả năng để trở thành một nhà vô địch như một tên cuồng sát. Các Khornate không sử dụng các thủ đoạn để giết chóc, mà chỉ tàn sát hơn là gây đau đớn, bởi vì trong khi máu của nạn nhân tăng sức mạnh cho Khorn, nỗi đau đớn của họ cũng đồng thời tăng cường sức mạnh cho kẻ thù của hắn là Slaanesh. Hắn ta là kẻ mạnh và xuất hiện thứ hai trong bốn Chaos God ( trong khoảng 2nd Millenium). Khorn được thích niềm kiêu hãnh và danh dự của chiến tranh, sự yếu đuối và vô dụng không có giá trị gì với hắn. Battle cry của những kẻ theo Khorn đã cho thấy sự ham muốn bạo lực của hắn:’’ Blood for the Blood God, Skull for the Skull Throne’’. Khorn Berserkers hay Khorn Chosen thường hét lên: ‘’ Chẻ chúng ra làm đôi’’ trong các trận chiến tàn bạo và đẫm máu mà chúng luôn hằng tìm kiếm. Những bề tôi của Slaanesh, những kẻ Khornate coi như những thứ cặn bã thoái hóa giết người cho vui hơn là thử thách bản thân trước một đối thủ mạnh. Con số thiêng liêng của Khorn là 8, quân đội của hắn thường được tổ chức theo con số này. Màu sắc chủ đạo của hắn là màu đỏ máu, đen và đồng thau. Chaos Star of Khorn Tính ngưỡng của Khorn Khorn là Blood God, thần của giận dữ và tàn sát, những tiếng la thét giân dự của hắn xuyên qua các hành lan không gian và thời gian. Khorn là hiện thân của sự tàn bạo, hủy diệt tất cả mọi thứ trong tầm với, gây chiến với đồng bọn và kẻ thù. Bề tôi của Khorn luôn là những chiến binh dã man và không bao giờ sử dụng năng lượng tâm linh, vì Khorn cực kì ghét các trò ma thuật và các phù thủy hèn nhát, đặc biệt là những kẻ theo Tzeenth. Con người theo Khorn vì sức mạnh chinh phục, để chiến thắng kẻ thù của họ trên chiến trường, để trả nợ máu. Những kẻ cuồng tính nhất trong đám tín đồ là những kẻ có linh hồn bị mắc trong máu và chúng chỉ xứng đán với tàn sát cho chính mình. Khorn không quan tâm bất cứ thứ gì ngoại trừ nơi có máu chảy. Khorn có một lực lượng to lớn trong số các loài, đặc biệt là con người, quyền lực và những cảm xúc mạnh liệt của hắn lôi kéo tất cả những ai thèm khát chiến tranh. Những kẻ sung bái Khorn thường là những con người và bộ lạc nguyên thủy trên các Feral World. Những tín đồ của Khorn là những chiến binh bất khảm, giết chóc điên cuồng. Các Khornite Cultist chia sẽ triết lý đơn giản của Khorn trong nghệ thuật chiến tranh và chiến thuật, tiến thẳng vào kẻ thù để giết trong cận chiến. Khorn Berserker không để ý đến chiến thuật hoặc phòng thủ. Không giống các Chaos God khác, tín đồ của Khorn không xây dựng các ngôi đền thờ hắn, mà chỉ chem giết trên chiến trường thôi cũng đã đủ để thờ hắn. Trong bốn Chaos God, Khorn là kẻ dễ thờ nhất, vì trong khi các God khác cần nghi lễ, nơi thờ, và hiến dâng, nhu cầu chủa Khorn chỉ đơn giản là máu và đầu lâu. Những người được Khorn chú ý thượng nhận được các ‘’phước lành (đột biến)’’ . Đôi khi những thay đổi về thể chất này thường mang đến sức mạnh điên cuồng và khuôn mặt của thú dữ, đôi khi còn xuất hiện sừng, móng vuốt. Hình dáng Khorn được miêu tả là một thực thể lớn và rất lực lưỡng, với khuôn mặt của nửa người nửa thú ngồi trên ngai vàng trên một núi đầu lâu, ở giữa một biển máu. Khorn mặc áo giáp màu đen và đồng thau, và cầm một cây búa hai đầu được làm từ cùng chất liệu với giáp của hắn. The Skull Throne of Khorn ( Ngai vàng đầu lâu ) được làm từ vô số đầu lâu. Có một lò rèn lớn ở ngay chiếc ngai vàng của hắn, tất cả vũ khí của những kẻ theo Khorn đều được lấy từ đây. KHORN Sự cạnh tranh Có một sự cạnh tranh với nhau giữa các Chaos đã từ rất lâu rồi. Kẻ thù của Khorn là Slaanesh, Khorn là một vị thần dũng mãnh- có tính hướng ngoại, chỉ thích giết chóc. Hắn ghét Slaanesh- có tính hướng nội, kẻ luôn tìm kiếm sự thỏa mãn cho mình với mỗi hành động và kinh nghiệm. Vì vậy, Khorn và Slaanesh là hai nhân cách hoàn toàn đối lặp nhau của Chaos. Khorn thích đanh chính diện trong combat và ghét bất kì hình thức nào của ma thuật vì coi đó là sự hèn nhát. Vì vậy Khorn cũng cực kì kinh bỉ Tzeentch. Khorn xem Slaanesh như là một kẻ chơi bời yếu đuối không có kiêu hãnh và danh dự, và là kẻ mà Khorn thù hận nhiều nhất trong các Chaos God. Pháo đài của Khorn [/B][/SIZE][/COLOR Pháo đài của Khorn nằm trong Warp. Đó là một pháo đài của giận dữ và đẫm máu, và được xây dựng trên nền tảng của giết chóc và chiến tranh. Pháo đài được bao bọc bởi Bras Citadel (thành trì bằng đồng?). Hắn ngồi trên đỉnh núi đầu lâu của những người đã bị giết nhân danh của hắn và ngọn núi này dần dần cao hơn. Một ngọn lửa cực lớn xung quanh căn phòng của hắn, ngọn lửa màu đen được tao ra bởi linh hồn của những kẻ hèn nhét đã chạy khỏi chiến trường. Xung quanh thành lũy là một hào sâu đầy máu của những kẻ đã chết trong chiến trường, bên ngoài con hào là một vùng đất được bao bọc đầy xương khô của những kẻ đã ngả xuống trên chiến trường, vùng đất này được chia cắt bởi một vết nứt rất sâu. Tương truyền rằng vết nứt này được tao ra khi Khorn đang giận dữ và cấm thanh kiếm của hắn xuống đất. Thanh kiếm này có tên là Warmaker và The End of All Things, nó có khả năng hủy diệt một thế giới chỉ bằng một nhát chém. Sự tha hóa của Khorn Những người thờ Khorn chủ yếu là các chiến binh, binh lính, hoặc những người trong quân đội và tất cả những người cảm thấy yếu đuối, bất lực và mong muốn có sức mạnh thể chất nâng cao ý chí và làm những gì họ muốn. Đối với những kẻ này, Khorn sẽ cho chúng sức mạnh, sực sống và sức mạnh trong chiến trận, đặc biệt là cận chiến. Tuy nhiên, càng nhiều người bán linh hồn họ cho Khorn và càng bị tha hóa bởi Khorn, thì chúng càng không thể kiểm soát được tính khác máu, giận dự, cuồng nộ và chỉ có thể thỏa mản bằng cách chem giết. Kẻ nào càng nhận nhiều đột biến của Khorn thì càng tàn bạo và khát máu. Khornate Berserker
Chaos God không thể bị giết, vì chúng được chính con người tạo ra. Nếu chơi tay đôi thì Emperor ăn chắc. Còn 1 vs 4 thì không biết sao.
chaos không chỉ do con người tạo ra, mỗi 1 chủng tộc phát triuển quá cao nào đó lại tạo ra 1 chaos khi tính xấu của họ nổi lên chiếm ưu thế trong xã hội
Ước gì bây giờ cũng có một người hoàn mỹ như The Emperor xuất hiện lãnh đạo thế giới nhỉ , mình tình nguyện bán mạng phục vụ
Cầm dao cắt ven tay hiến tế cái mạng của bạn đi , biết đâu lại giống trg game hiến tế hàng loạt psyker để Emperor ra đời
NURGLE The Mark of Nurgle Nurgle còn được biết đến với danh hiêu Plague Lord ( Chúa tể Bệnh Hoạn ), là Chaos God của bệnh tật, suy tàn và hủy diệt. Đặc biệt, nỗi tuyệt vọng của con người sẽ tăng thêm sức mạnh cho hắn. Hắn còn được gọi là Grandfather Nurgle (Ông tổ Nurgle), Father Nurgle (Cha Nurgle), Papa Nurgle bởi các tín đồ của hắn. Hắn là Chaos God già nhất trong 4 Chaos God và trực tiếp tham gia nhiều nhất với những cảnh ngộ của con người, đặc biệt là những con người chịu đựng sâu sắc từ nỗi sợ và cái chết. Trong khi Nurgle là vị thân của cái chết và suy tàn, hắn còn là thần của sự tái sinh. Dù sao đi nữa suy tàn là một phần của cuộc đời, không có suy tàn làm sao có cái mới được sinh ra. Nurgle của là vị thần của sự kiên trì và sinh tồn. Những kẻ muốn ban phát sự suy tàn và tha hóa điều là đệ tử của hắn, đây là những kẻ mong muốn tồn tại, muốn trở nên mãnh mẽ hơn để giải quyết các khó khăn và có cơ hội để giới thiệu một vũ trụ vô cảm. Nhiều người bị ảnh hưởng bởi Nurgle thường theo hắn để thoát khỏi nỗi đau gây ra bởi ốm đau và bệnh tật. Con số thiêng liêng của Nurgle là 7,và màu sắc chủ đạo của hắn là màu xanh lá cây độc và màu nâu. Nurgle cũng là thể hiện ý chí của nhân loại để đấu tranh. Đau đớn, sự chịu đụng, cái chết: con người từ lâu đã xuất hiện những ý nghĩ này trong đầu và cố gắng quên chúng bằng cách sống trong hy vọng rằng tương lai sẽ tốt đẹp hơn. Vì lí do này Nurgle, ác quỷ và tín đồ của hắn thường vui mừng khi thấy các bệnh dịch mà hắn gây, xem các bệnh dịch là một món quà và sự đau đớn của nạn nhân như là sức mạnh để vượt qua đau đớn. Elder Harlequins gần đây đã phát hiện ra rằng Nurgle đang nắm giữ nữ thần Isha của họ, và đang bị giam cầm tại lãnh địa của hắn trong Warp. Nurgle sử dụng cô ấy để làm thí nghiệm, tạo ra các loại bệnh mới để đưa ra ngoài vũ trụ vật chất. Nhưng với khả năng chữa lãnh của Isha, cô ấy đều vượt qua tất cả các thí nghiệm và cô bí mật thì thầm cách chữa lành các dịch bệnh này cho con người. Chaos Star of Nurgle Tín ngưỡng của Nurgle Nurgle là kẻ nắm giữ tất cả sự tha hóa về mặt thể chất và bênh tật. Bênh dịch và sự thối rữa, những điều không tránh khỏi mọi thứ, và Nurgle rất thích ban phát những thứ này trong khắp vũ trụ. Nỗi sợ chết có thể tìm thấy trong trái tim của tất cả chúng sinh trong vũ trụ, và không ít kẻ đã bán linh hồn mình để giữ lấy sự sống. Tín đồ của Nurgle So với các vị thần khác, tín đồ của Nurgle thường thờ hắn bằng chính bản thân chúng. Bệnh của Nurgle dễ dàng lây lan giữa người và con vật, và bệnh dịch tồi tệ nhất là Nurgle’ Rot có thể tấn công ngay cả người khỏe nhất và làm cho anh hoặc cô ta bị xu đuổi như người bị mắc bệnh hủi. Mặc dù đó là các ảnh hường mà Nurgle gây ra nhưng Nurgle quan tâm và chăm sóc nạn nhân nên hắn mới được gọi là Grandfather Nurgle. Điều này làm cho một số người không suy tính sẽ không bao giờ tìm ra nguyên nhân căn bệnh thậm chí là tự đầu độc chính mình. Những tín đồ của Nurgle rất thích lầy truyền bệnh dịch. Những kẻ này sẽ bị lây nhiễm những thứ bênh tồi tệ nhất sẽ làm cho kẻ đó to ra và thối rữa, hoặc da nhăn nheo, ốm yếu và xanh sao. Nurgle Champion không hề biết đau và gần như không thể bị thương. Sức mạnh của Nurgle có xu hướng làm suy yếu hơn các Ruinous Power khác. The Death Guard, được biết đến là những Plague Marine, chỉ phục vụ Nurgle và là những nhà vô địch vĩ đại nhất của hắn. Hình dáng Nurlge đang quan sát quân đội của hắn Nurgle có thân hình to, còng kềnh ( mập thây), cơ thể hoàn toàn bị thối rữa. Hắn là hiện thân hoàn hảo của dịch bệnh và suy tàn. Da hắng có màu xanh, có nhiều mụt cóc nổi lên, với những vết lỡ loét, và những dấu hiệu của các loại bệnh mà hắn tạo ra. Nội tạn của hắn gần như không còn ở trong cơ thể, chúng trào ra ngoài xung quanh thắt lưng và chân. Từ các cơ quan này sẽ tạo ra các ác quỷ con (Nurgling). Thân hình của hắn được bao phủ bỏi một đám ruồi. Sự cạnh tranh Kẻ mà Nurgle ghét nhất là Tzeetch, vì Tzeetch thích sự xây dựng, tính toán, âm mưu, trong khi đó thì Nurgle chỉ phá hoại và hủy diệt. Nurgle đại cho thế lực hủy diệt, những tín đồ của hắn đã thoát ra khỏi mọi đau khổ khi được khí truyền dịch bệnh. Tzeentch đại diện cho sự tiến hóa, thay đổi và xây dựng nên các kể hoạch lớn, những tín đồ của hắn đều bỏ qua mọi hy vọng để đạt được sức mạnh và các phần thưởng. Khu vườn của Nurgle Khu vườn của Nurgle được đặt trong Warp. Đây là nhà của mọi loại bệnh và tai họa và được chăm sóc hằng ngày với mùi hôi thối. Khu vườn này không phải là một vùng đất cằn cỗi mà là thiên đường của cái chết và dịch bệnh. Ruồi bay đầy trời và dây leo, cành cây thối nát bao phủ cả mặt đất, bên trên được che phủ bởi lá cây với đầy côn trùng. Nấm độc mọc khắp nơi trên bề mặt lá. Và một dòng sông bùn chảy qua khung cảnh hỗn độn này. Biệt thự của Nurgle (nằm ở trung tâm khu vườn) được xây từ gỗ mục, khu biệt thự mục nát và cỗ xưa, nhưng mãi mãi sẽ đứng vững ở đó. Trong căn biệt thự đó Nurgle đang làm việc cực nhọc tại cái vạc- nơi mà hắn chế tạo thuộc độc và dịch bệnh. Tương truyền rằng cái vạc đó có thể chứa nước của tất cả các đại dương trong thiên hà. Sự tha hóa của Nurgle Nurgle Cultist Nurgle là vị thần cổ xưa nhất trong 4 Chaos God, hắn là biểu hiện của một nổi sợ mà ai cũng phải trải qua đó là sợ chết. Hầu hết các Nurgleties thường không thể hoàn thành giao kèo với Nurgle; đó là những người đã mắc một dich bệnh khủng khiếp hoặc phải đối mặc với cái chết, Nurgle đề nghị một lối thoát cho họ thoát khỏi đau đớn của bệnh tật hoặc cái chết cận kề, sao đó họ sẽ sống trở lại với một linh hồn bị nguyền rủa vĩnh viễn. Trong số các loài thông minh trong vũ trụ, nhân loại là sợ chết nhiều nhất, và con người luôn là những kẻ bị Nurgle cám dỗ nhiều nhất. Đổi lại với lòng trung thành và sự phục vụ của chúng, Nurgle sẽ đưa ra lời đề nghi là ban cho chúng sức mạnh để chống lại mọi thứ dịch bệnh trên đời bằng cách truyền cho họ tất cả các thứ dịch bệnh trên đời kể cả ở vụ trụ vật chất và trong Warp. Champion của Nurgle có thể là những Chaotic mạnh nhất trong thiên hà. Các Nurgle phì ra, da sưng lên lỡ loét đến tận xương tủy, và các chất dịch chảy ra không ngừng. Các Nurgleite hoàn toàn miễn dịch với tất cả các loại bênh trên đời và cơ thể thối nát của chúng trở nên mạnh mẽ, có khả năng chịu được các vết thường mà ngay cả cơ thể cường tráng nhất cũng không chịu nỗi. Typhus- Champion of Nurgle
nó tuy hung hăng nhưng lí trí không suy đoán như các loài khác nên mới vậy, mà hình nhưu nó còn có j đặc biệt (waghh ??) hay sao ý nên không ảnh hưởng <snip> Kite biết là rất nhiều người không ưa CP, nhưng đừng đem CT vào đây, cảm ơn. </snip>
There is no hope in opposing the inevitable. Put down your arms, unbeliever, and bow before the "Laziness"