Bài 36: CÔ GÁI CÓ MỘT BÔNG HỒNG John Blanchard rời băng ghế, chăm chú nhìn dòng người đang ra khỏi nhà ga xe lửa trung tâm thành phố. Anh đang chờ người con gái mà trái tim đã rất quen thuộc với anh nhưng khuôn mặt thì anh chưa từng gặp, một cô gái với một bông hoa hồng. 13 tháng trước đây trong một thư viện ở Florida, khi nhấc một cuốn sách ra khỏi kệ anh bỗng cảm thấy bị lôi cuốn không phải vì nội dung cuốn sách mà vì dòng chữ viết bằng bút chì bên lề cuốn sách. Những hàng chữ mềm mại với nội dung chứa đựng một tâm hồn sâu sắc và một trí tuệ sáng suốt. Bên trong bìa cuốn sách, nơi ghi tên người mượn, anh tìm ra tên chủ nhân của hàng chữ, đó là Hollis Maynell. Cô gái sống ở thành phố New York. Sau đó anh viết cho cô gái một bức thư tự giới thiệu và mong cô trả lời, nhưng ngày hôm sau anh đã phải lên tàu ra nước ngoài tham gia cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ II. Trong vòng một năm và một tháng sau đó, hai người dần dần tìm hiểu nhau qua thư từ. Mỗi lá thư là một hạt giống được gieo vào trái tim nồng cháy. Một mối tình nảy nở. Anh đề nghị cô gái gửi cho mình một tấm hình nhưng cô gái từ chối. Cô cho rằng nếu anh thực lòng thì diện mạo của cô đâu có quan trọng gì. Cuối cùng đến ngày anh từ châu Âu trở về, họ hẹn sẽ gặp nhau lần đầu tại nhà ga trung tâm thành phố New York vào lúc 19g. Cô gái viết: “Anh sẽ nhận ra em là người có một bông hồng trên ve áo”. Khi đó, tôi thấy một người con gái bước lại phía tôi, cô ấy có một thân hình mảnh mai thon thả. Những cuộn tóc vàng loăn xoăn bên vành tai nhỏ nhắn. Cặp mắt cô ấy xanh như những đoá hoa. Đôi môi và cằm cô ta có nét cương quyết nhưng rất dịu dàng. Trong chiếc áo vét màu xanh nhạt cô gái trông như mùa xuân đang tới. Tôi tiến lại phía cô gái và hoàn toàn không để ý là cô ấy không có bông hồng trên ve áo. Khi tôi bước tới, cô gái nở một nụ cười nhẹ nhàng hấp dẫn trên vành môi và nói nhỏ: “Đi cùng em chứ, chàng thủy thủ?”. Khi ấy hầu như không tự chủ được, tôi bước thêm một bước nữa lại phía cô gái, và đúng lúc ấy tôi nhìn thấy Hollis Maynell với bông hồng đứng ngay sau cô ấy. Đó là một người đàn bà đã ngoài 40 tuổi. Bà ta có mái tóc màu xám bên trong một chiếc mũ đã cũ. Bà ta có một thân hình nặng nề, đôi chân mập mạp trong đôi giày đế thấp. Khi đó cô gái trong chiếc áo màu xanh vội vã bước đi. Tôi có cảm giác dường như con người tôi lúc đó bị chia làm hai, một nửa mong muốn được đi theo cô gái và một nửa hướng tới người đàn bà mà tâm hồn đã thật sự chinh phục tôi. Và bà ta đứng đó, khuôn mặt béo tốt với làn da nhợt nhạt nhưng hiền lành và nhạy cảm. Khi đó bỗng nhiên tôi không còn lưỡng lự nữa. Tay tôi nắm chặt cuốn sách nhỏ cũ kỹ giống như cuốn sách trong thư viện trước đây để cô gái có thể nhận ra tôi. Đây không phải là tình yêu nhưng là một cái gì đó rất đáng quý, một cái gì đó thậm chí có thể còn hơn cả tình yêu, một tình bạn mà tôi luôn luôn và mãi mãi biết ơn. Tôi đứng thẳng chào người đàn bà, chìa cuốn sách ra và nói, mặc dù khi nói tôi cảm thấy mình bị nghẹn lại cay đắng và thất vọng: “Tôi là trung úy John Blanchard và xin phép được hỏi chắc đây là cô Maynell? Tôi rất vui mừng là cô đã có thể đến đây gặp tôi hôm nay. Tôi muốn mời cô dùng cơm tối có được không?”. Người đàn bà nở một nụ cười bao dung và trả lời: “Ta không biết việc này như thế nào con trai ạ, nhưng cô gái trẻ mặc chiếc áo vét màu xanh vừa đi kia đã năn nỉ ta đeo đóa hoa hồng này trên ve áo. Cô ấy nói nếu anh có mời ta đi ăn tối thì nói rằng cô ấy đang đợi anh ở nhà hàng lớn bên kia đường. Cô ấy nói đây là một cuộc thử nghiệm gì đó!”. Chúng ta chắc cũng hiểu được và khâm phục sự sáng suốt của cô gái. Bản chất thật sự của trái tim được nhận ra khi phải đối mặt với những điều không như ý muốn.
Bài 37: MỐI TÌNH GIÀ Ai cũng có những khoảnh khắc bất chợt bắt gặp một hình ảnh nào đó để rồi xúc động và nhớ mãi… Riêng tôi không thể nào quên được hình bóng của đôi vợ chồng già in trên đại lộ thênh thang và đầy xe cộ… Lúc bấy giờ, bọn tôi đứng trên lan can nhà thiếu nhi để thưởng thức không khí mát mẻ của buổi sáng thị xã. 7 giờ sáng - giờ cao điểm - các em học sinh như những đàn bướm trắng tung tăng đến trường, xe cộ bắt đầu tấp nập, kẻ đi chợ, người đi đến công sở, nhộn nhịp ồn ào… Giữa cảnh hỗn loạn ấy, bên kia đường một ông lão áo phong phanh, quần ngắn, chân đất cõng một bà lão áo nâu, nhỏ nhắn, ốm yếu trên vai (sau này tôi mới biết ông cõng bà đi đi về về để trâm cứu trị bệnh) như chẳng quan tâm đến mọi vật xung quanh. Ông đi chầm chậm, thỉnh thoảng lấy tay quẹt mồ hôi trán, ông nói nho nhỏ với bà một câu gì đó, môi bà liền nở một nụ cười móm mém… Nhìn ông cõng bà đi khuất sau công viên 1 tháng 5, mắt tôi bỗng thấy cay cay… Vài ngày kế tiếp, tôi cố ý đứng đón với hy vọng ghi được vài tấm ảnh “Mối tình già” ấy nhưng không còn thấy ông bà đâu cả, có thể là bà đã khỏi bệnh, cũng có thể là…!!! Hình ảnh ấy rất đời thường, và đôi vợ chồng già yếu, nghèo khó kia chẳng phải là vĩ nhân, cũng chẳng phải là thành phần nổi bật trong xã hội, nhưng đối với tôi họ tượng trưng cho tính nhân bản của con người Việt Nam: chung thủy, nghĩa tình trong bất kỳ hoàn cảnh nào, xã hội nào, thời đại nào…
Bài 38:….::TRÁI TIM HOÀN HẢO::…. Có một chàng thanh niên đứng giữa thị trấn và tuyên bố mình có trái tim đẹp nhất vì chẳng hề có một tì vết hay rạn nứt nào. Đám đông đều đồng ý đó là trái tim đẹp nhất mà họ từng thấy. Bỗng một cụ già xuất hiện và nói: “Trái tim của anh không đẹp bằng trái tim tôi!”. Chàng trai cùng đám đông ngắm nhìn trái tim của cụ. Nó đang đập mạnh mẽ nhưng đầy những vết sẹo. Có những phần của tim đã bị lấy ra và những mảnh tim khác được đắp vào nhưng không vừa khít nên tạo một bề ngoài sần sùi, lởm chởm; có cả những đường rãnh khuyết vào không hề có mảnh tim nào trám thay thế. Chàng trai cười nói: - Chắc là cụ nói đùa! Trái tim của tôi hoàn hảo, còn của cụ chỉ là những mảnh chắp vá đầy sẹo và vết cắt. - Mỗi vết cắt trong trái tim tôi tượng trưng cho một người mà tôi yêu, không chỉ là những cô gái mà còn là cha mẹ, anh chị, bạn bè… Tôi xé một mẩu tim mình trao cho họ, thường thì họ cũng sẽ trao lại một mẩu tim của họ để tôi đắp vào nơi vừa xé ra. Thế nhưng những mẩu tim chẳng hoàn toàn giống nhau, mẩu tim của cha mẹ trao cho tôi lớn hơn mẩu tôi trao lại họ, ngược lại với mẩu tim của tôi và con cái tôi. Không bằng nhau nên chúng tạo ra những nếp sần sùi mà tôi luôn yêu mến vì chúng nhắc nhở đến tình yêu mà tôi đã chia sẻ. Thỉnh thoảng tôi trao mẩu tim của mình nhưng không hề được nhận lại gì, chúng tạo nên những vết khuyết. Tình yêu đôi lúc chẳng cần sự đền đáp qua lại. Dù những vết khuyết đó thật đau đớn nhưng tôi vẫn luôn hy vọng một ngày nào đó họ sẽ trao lại cho tôi mẩu tim của họ, lấp đầy khoảng trống mà tôi luôn chờ đợi. Chàng trai đứng yên với giọt nước mắt lăn trên má. Anh bước tới, xé một mẩu từ trái tim hoàn hảo của mình và trao cho cụ già. Cụ già cũng xé một mẩu từ trái tim đầy vết tích của cụ trao cho chàng trai. Chúng vừa nhưng không hoàn toàn khớp nhau, tạo nên một đường lởm chởm trên trái tim của anh không còn hoàn hảo nhưng lại đẹp hơn bao giờ hết vì tình yêu từ trái tim của cụ già đã chảy trong tim anh…
Bài 39:….::MẢNH ĐĨA VỠ::…. Một ngày khi tôi khoảng chín tuổi, mẹ có chuyện phải vào thị trấn và giao tôi cho anh chị trông nom. Khi mẹ vừa đi, tôi chạy vào phòng ngủ của mẹ và mở tủ trang điểm. Trong ngăn trên cùng, dưới lớp vải mềm thơm, tôi thấy hộp nữ trang. Tôi thích thú như vừa khám phá một kho tàng: cái nhẫn hồng ngọc của cô tặng cho mẹ, đôi hoa tai ngọc trai một thời thuộc về bà, dải lụa của chiếc áo mẹ mặc vào ngày cưới… Tôi thích thú nghịch ngợm bằng cách mang thử tất cả thứ ấy vào, tưởng tượng vô số hình ảnh thú vị đầy màu sắc về những gì mà một phụ nữ xinh đẹp phải có… Bỗng nhiên tôi phát hiện một cái hộp nhỏ màu đỏ. Mở ra, tôi hết sức kinh ngạc khi nhận thấy bên trong chỉ có mỗi một mảnh sứ trắng hẳn đã vỡ ra từ một cái đĩa. Tại sao mẹ tôi lại cất giữ một vật như thế này nhỉ? Lấp lánh dưới ánh sáng, mảnh đĩa vỡ chẳng nói lên được câu trả lời. Vài tháng sau, khi tôi đang chuẩn bị ăn, cô láng giềng Marge đến chơi. Liếc qua chiếc bàn, cô Marge nói: “Ồ, hẳn gia đình đang chuẩn bị tiếp khách. Thôi, để tôi vào lúc khác vậy”. “Không, cứ tự nhiên. Chúng tôi chẳng đón ai cả” - mẹ trả lời. Marge hỏi: “Nhưng trên bàn toàn đĩa đẹp… Tôi chẳng bao giờ dám cho bọn trẻ đụng đến những thứ như thế”. Mẹ cười: “Tối nay, gia đình tôi được thưởng thức món thích nhất. Nếu dọn bàn thật đặc biệt để đãi khách thì sao không dọn thật đặc biệt cho chính gia đình mình?”. “Nhưng những cái đĩa đẹp thế kia…”. “Ồ, vài cái đĩa vỡ là cái giá không đáng kể phải trả để đổi lại niềm vui cho gia đình. Mỗi mảnh vỡ đều chứa một câu chuyện kỷ niệm…”. Đi đến tủ chén, mẹ tôi lấy ra một cái đĩa cũ, kể: “Cái này vỡ vào ngày chúng tôi mang Mark từ nhà bảo sanh về. Hôm đó là một buổi chiều thật lạnh lẽo. Khi ấy, Judy chỉ mới sáu tuổi nhưng cứ nằng nặc đòi giúp tôi việc bếp núc. Nó làm vỡ cái đĩa này khi khệ nệ mang đến bồn rửa”… Mẹ kế tiếp: “Thoạt đầu, tôi bực mình ghê lắm nhưng rồi tự nhủ mình không thể vì chuyện cái đĩa vỡ lại làm mất đi không khí hạnh phúc khi vừa đón thằng bé mới sinh về. Hơn nữa, sau đó tất cả chúng tôi cùng ngồi hàn keo cho chiếc đĩa vỡ đó. Hóa ra, không khí càng vui hơn”. Mẹ lại đến tủ chén, lấy ra một cái đĩa nữa “Chị có thấy cạnh đĩa bị mẻ không? - Mẹ hỏi cô Marge - Chuyện xảy ra khi tôi 17”. Giọng mẹ trở nên nhẹ hẳn: “Một ngày mùa thu, các anh tôi cần người giúp dọn đống cỏ khô. Vì thế, một thanh niên được thuê. Anh ta trông mảnh dẻ nhưng đôi tay rất khoẻ và khá đẹp trai với mái tóc vàng. Mấy ông anh tôi bỗng thích anh ta và mời anh ấy ngồi sát tôi, mặt tôi đỏ ửng vì mắc cỡ… Trong bữa ăn, anh ấy đưa tôi cái đĩa nhờ lấy hộ thức ăn nhưng lúc đó tim tôi đập mạnh và tôi run đến nỗi làm cái đĩa va vào một cái khác khiến cạnh bị mẻ… Khi ra về, anh ấy nắm tay tôi, đặt mảnh đĩa vỡ vào, không nói gì hết nhưng nở nụ cười. Chỉ cười… Một năm sau, tôi lập gia đình với anh ấy. Mãi cho đến nay, cứ khi nào nhìn cái đĩa này tôi lại thích thú nhớ đến chuyện xưa…”. Tôi không thể nào quên được mảnh đĩa vỡ trong tủ trang điểm của mẹ. Đợi dịp thích hợp, tôi chạy ngay vào phòng mẹ, lấy mảnh vỡ đó xem cẩn thận, rồi lao xuống nhà bếp bắc ghế lấy cái đĩa mẻ ra. Đúng như tôi nghĩ, mảnh vỡ hoàn toàn khớp với chỗ mẻ trên đĩa. Đó chính là mảnh đĩa vỡ mà bố tôi đã đưa cho mẹ vào ngày đầu tiên hai người gặp nhau. Và bây giờ, câu chuyện tình bắt đầu từ mảnh vỡ đó đã trôi qua đến năm thứ 54, trong hạnh phúc… Mới đây, một cô chị của tôi đã ngỏ lời xin mẹ chiếc nhẫn hồng ngọc; một cô chị khác lại đòi đôi hoa tai của bà. Còn tôi, tôi chỉ thích kỉ vật quí nhất đời mẹ mà bà đã trân trọng giữ mãi suốt mấy chục năm qua: mảnh đĩa vỡ nhỏ xíu.
Bài 40:….:: TÌNH YÊU VÀ ĐÔI CÁNH ::…. Ngày xưa có một cô gái sống cô đơn trong ngôi nhà gỗ cạnh một cánh rừng. Hôm nọ, trong lúc dạo chơi cô bỗng thấy hai chú chim non mất mẹ đang thoi thóp trong tổ trên một chạc cây. Lập tức cô đem chúng về nuôi trong một cái lồng rất đẹp. Với sự chăm sóc chan chứa tình thương của cô, hai chú chim ngày càng trở nên khỏe mạnh và xinh đẹp. Mỗi sáng chúng cất tiếng líu lo để chào đón cô. Một ngày kia cô quên cài cửa lồng chim. Thế là một chú chim liền bay ra khỏi lồng, nhưng nó chưa bay đi hẳn mà lại lượn vài vòng quanh cô như muốn chào cô lần cuối. Cô gái buồn bã nhìn theo. Cô không muốn phải rời xa nó. Cô không muốn tình yêu của cô bay mất, nên khi con chim bay thật gần cô liền với tay tóm lấy nó thật mạnh. Cô sung sướng và giữ chặt nó trong tay. Nhưng một lúc sau, cô cảm thấy con vật yêu quý bỗng trở nên mềm nhũn trên tay. Cô hốt hoảng xèo tay ra và bàng hoàng nhận thấy con chim đã khép mắt qua đời. Nó đã chết bởi chính tình yêu mà cô dành cho nó. Cô thẫn thờ nhìn cô chim lẻ bạn còn lại trong lồng và bắt đầu mường tượng rằng nó cần được tự do bay vút lên bầu trời xanh thẳm. Cô liền tiến đến chiếc lồng và nhẹ nhàng tung chú chim vào không trung. Nó lượn quanh cô một vòng, hai vòng, rồi ba vòng. Cô đón nhận niềm vui của nó bằng ánh nhìn rạng rỡ và trìu mến. Những muộn phiền trước đó không còn nữa. Bỗng nhiên chú chim dịu dàng đáp xuống đậu trên vai cô và hót vang những giai điệu mượt mà chưa bao giờ trong cuộc đời cô được thưởng thức. Qua tiếng hót diệu kỳ kia, cô chợt hiểu rằng cách nhanh nhất để đánh mất tình yêu là khi ta nắm giữ nó quá chặt. Trái lại, để giữ mãi sự yêu thương thì ta phải ân cần trao cho tình yêu một đôi cánh tự do.
Bài 41:….:: CÁI CHẬU NỨT ::…. Một người có hai chiếc chậu lớn để khuân nước. Một trong hai chiếc chậu có một vết nứt, vì vậy khi khuân nước từ giếng về nước trong chậu chỉ còn một nửa. Chiếc chậu còn nguyên rất tự hào về sự hoàn hảo của mình, còn chiếc chậu nứt luôn bị cắn rứt vì không thể hoàn thành nhiệm vụ. Một ngày nọ, chiếc chậu nứt nói với người chủ: “Tôi thật sự xấu hổ về mình. Tôi muốn xin lỗi ông!”. “Ngươi xấu hổ về chuyện gì?”. “Chỉ vì lỗi của tôi mà ông không nhận được đầy đủ những gì xứng đáng với công sức của ông!”. “Không đâu, khi đi về người hãy chú ý đến những luống bên vệ đường”. Qủa thật, dọc theo bên đường là những luống hoa thật rực rỡ. Cái chậu nứt cảm thấy vui vẻ một lúc, nhưng rồi về đến nhà nó vẫn chỉ còn phân nửa nước. “Tôi xin lỗi ông!”. “Người không chú ý rằng hoa chỉ mọc bên này đường, phía của ngươi thôi sao? Ta đã biết được vết nứt của ngươi và đã tận dụng nó. Ta gieo những hạt giống hoa bên vệ đường phía bên ngươi và trong những năm qua ngươi đã vun tưới cho chúng. Ta hái những cánh hoa đó để trang hoàng căn nhà. Nếu không có ngươi, nhà ta không ấm cúng và duyên dáng thế này đâu”. Cuộc sống của mỗi chúng ta đều có thể như cái chậu nứt, hãy biết tận dụng vết nứt của mình.
Bài 42:….:: NHỮNG VẾT ĐINH ::…. Một cậu bé nọ có tính rất xấu là rất hay nổi nóng. Một hôm, cha cậu bé đưa cho cậu một túi đinh rồi nói với cậu: “Mỗi khi con nổi nóng với ai đó thì hãy chạy ra sau nhà và đóng một cái đinh lên chiếc hàng rào gỗ”. Ngày đầu tiên, cậu bé đã đóng tất cả 37 cái đinh lên hàng rào. Nhưng sau vài tuần, cậu bé đã tập kiềm chế dần cơn giận của mình và số lượng đinh cậu đóng lên hàng rào ngày một ít đi. Cậu nhận thấy rằng kiềm chế cơn giận của mình dễ hơn là phải đi đóng một cây đinh lên hàng rào. Đến một ngày, cậu bé đã không nổi giận một lần nào trong suốt cả ngày. Cậu đến thưa với cha và ông bảo: “Tốt lắm, bây giờ nếu sau mỗi ngày mà con không hề giận với ai dù chỉ một lần, con hãy nhổ cây đinh ra khỏi hàng rào”. Ngày lại ngày trôi qua, rồi cũng đến một hôm cậu bé đã vui mừng hãnh diện tìm cha mình báo rằng đã không còn một cây đinh nào trên hàng rào nữa. Cha cậu liền đến bên hàng rào. Ở đó, ông nhỏ nhẹ nói với cậu: “Con đã làm rất tốt, nhưng con hãy nhìn những lỗ đinh còn để lại trên hàng rào. Hàng rào đã không giống như xưa nữa rồi. Nếu con nói điều gì trong cơn giận dữ, những lời nói ấy cũng giống như những lỗ đinh này, chúng để lại những vết thương khó lành trong lòng người khác. Cho dù sau đó con có nói lời xin lỗi bao nhiêu lần đi nữa, vết thương đó vẫn còn lại mãi. Con hãy luôn nhớ: vết thương tinh thần còn đau đớn hơn cả những vết thương thể xác. Những người xung quanh ta, bạn bè ta là những viên đá quý. Họ giúp con cười và giúp con mọi chuyện. Họ nghe con than thở khi con gặp khó khăn, cổ vũ con và luôn sẵn sàng mở trái tim mình ra cho con. Hãy nhớ lấy lời cha…”.
Bài 43: ….:: HAI VIÊN GẠCH XẤU XÍ ::…. Đến miền đất mới, các vị sư phải tự xây dựng mọi thứ. Họ mua đất, gạch, mua dụng cụ và bắt tay vào việc. Một chú tiểu được giao xây một bức tường gạch. Chú rất tập trung vào công việc, luôn kiểm tra xem viên gạch đã thẳng thớm chưa, hàng gạch có ngay ngắn không. Công việc tiến triển khá chậm vì chú đặc biệt kỹ lưỡng. Tuy nhiên, chú không lấy đó làm phiền lòng bởi vì chú biết mình sắp sửa xây một bức tường tuyệt đẹp đầu tiên trong đời. Cuối cùng, chú cũng hoàn thành công việc vào lúc hoàng hôn buông xuống. Khi đứng lui ra xa ngắm nhìn công trình lao động của mình, chú bỗng cảm thấy có gì đó đập vào mắt: mặc dù chú đã rất cẩn thận khi xây bức tường song vẫn có hai viên gạch bị đặt nghiêng. Và điều tồi tệ nhất là hai viên gạch đó nằm ngay chính giữa bức tường. Chúng như đôi mắt đang trừng trừng nhìn chú. Kể từ đó, mỗi khi du khách đến thăm ngôi đền, chú tiểu đều dẫn họ đi khắp nơi, trừ đến chỗ bức tường mà chú xây dựng. Một hôm, có hai nhà sư già đến tham quan ngôi đền. Chú tiểu đã cố lái họ sang hướng khác nhưng hai người vẫn nằng nặc đòi đến khu vực có bức tường mà chú xây dựng. Một trong hai vị sư khi đứng trước công trình ấy đã thốt lên: “Ôi, bức tường gạch mới đẹp làm sao!”. “Hai vị nói thật chứ? Hai vị không thấy hai viên gạch xấu xí ngay giữa bức tường kia ư?” - chú tiểu kêu lên trong ngạc nhiên. “Có chứ, nhưng tôi cũng thấy 998 viên gạch còn lại đã ghép thành một bức tường tuyệt vời ra sao” - vị sư già từ tốn. Đôi khi chúng ta quá nghiêm khắc với bản thân mình khi cứ luôn nghiền ngẫm những lỗi lầm mà ta đã mắc phải, cho rằng cả thế giới đều nhớ đến nó và quy trách nhiệm cho ta. Chúng ta đã hoàn toàn quên rằng đó chỉ là hai viên gạch xấu xí giữa 998 viên gạch hoàn hảo. Và đôi khi chúng ta lại quá nhạy cảm với lỗi lầm của người khác. Khi bắt gặp ai mắc lỗi, ta nhớ kỹ từng chi tiết. Và hễ có ai nhắc đến tên người đó, ta lại liên hệ ngay đến lỗi lầm của họ mà quên bẵng những điều tốt đẹp họ đã làm. Cần phải học cách rộng lượng với người khác và với chính mình. Một thế giới nhân ái trước hết là một thế giới nơi lỗi lầm được tha thứ.
Bạn nào đang quan tâm đến những câu chuyện này thì hãy nhắn tin cho mình để xác nhận về việc có bao nhiêu bạn quan tâm đến những câu chuyện này. Mình rat mong được các bạn ủng hộ và động viên để mình đánh tiếp những câu chuyện khác. Bài 44: ….:: HẠT NGỌC VÀ ƯỚC MƠ ::…. Vào tuần cuối của năm học, thầy York dạy môn Khoa học triệu tập 20 học sinh lớp tôi lại để chào tạm biệt cuối năm. Chúng tôi ngồi im lặng khi thầy vào lớp. Trông thầy vẫn như mọi khi với chiếc nơ nhỏ và cặp kính gọng sừng. Sau khi nói vài lời, thầy đưa mỗi đứa chúng tôi chiếc hộp nhỏ màu trắng: “Bên trong - thầy nói - các em sẽ thấy một cánh hoa bạc có đính hạt ngọc trai ở giữa. Hạt ngọc đó tượng trưng cho tiềm lực của các em, là thứ mà các em cần trong bước đường tương lai. Bởi vì cát khi nằm trong vỏ trai sẽ biến thành hạt ngọc có giá trị rất lớn, và vì thế, mỗi em đang nắm trong tay hạt giống ươm mầm cho giá trị tiềm tàng”… Tôi cắn chặt môi để ngăn những giọt nước mắt sắp trào. Lời của thầy có ý nghĩa biết bao, nhưng với tôi, tất cả đã quá muộn, từ khi tôi biết mình mang thai. Tất cả đã kết thúc… Giấc mơ của tôi và kỳ vọng của mẹ đang tan dần thành mây thành khói bởi tôi đã làm hỏng cuộc đời sinh viên mình trong giây phút yếu lòng… Làm sao tôi có thể quên được hy sinh vô biên của mẹ với lòng mong mỏi duy nhất là tôi lấy được mảnh bằng đại học. Mỗi tuần, mẹ chắt chiu gửi chút tiền cho chị Marianne và tôi. Đại học, chỉ có đại học mới thật sự là con đường giúp chúng tôi thoát khỏi cuộc sống nghèo khổ của những người đào mỏ ở quê nhà Pennsylvania - mẹ tôi thường nói như vậy. Ký ức tuổi thơ khốn khó vẫn im đậm trong tâm trí tôi… Khi tôi ba tuổi, cha tôi đã phải vào dưỡng trí viện vì bệnh lao phổi. Rồi vài năm sau, cha tôi xuất viện, sống vật vờ không làm được gì. Mọi lo toan trong gia đình đều trông cậy vào đồng lương ít ỏi của mẹ. Từ những nỗi thống khổ, một giấc mơ đã nảy sinh trong tâm trí mẹ: chị Marianne và tôi nhất định phải vào được đại học… Và bây giờ… Thay vì đem lại sự tự hào, tôi mang về gia đình sự nhục nhã. Tôi và Dan cưới nhau rồi Dan tiếp tục theo đại học, còn tôi phải nghỉ. Trước khi Dan tốt nghiệp, tôi cho ra đời đứa con thứ hai. Sau đó, Dan nhập ngũ và tôi theo chồng dọn đến căn cứ này sang căn cứ khác. Đứa con thứ ba lại ra đời. Bảy năm sau, Dan xuất ngũ, kiếm được việc nhưng không đủ nuôi sống cả nhà nên tôi phải làm thêm phụ chồng. Làm đủ thứ nghề, tâm trí như cuồng lên với vô số nỗi lo toan. Đôi lúc, tôi lấy hạt ngọc ra ngắm nghía, lòng tự nhủ khi nhớ đến lời thầy York. Một đêm, tôi trằn trọc nghĩ đến việc trở lại giảng đường, nhưng “mình đã 35 tuổi rồi còn gì…”. Mẹ hẳn đoán được nỗi dằn vặt mà tôi đang chịu đựng bởi một hôm bà gọi điện: “Con còn nhớ số tiền mẹ dành dụm cho con không? Nay vẫn còn nguyên đấy”. Tôi thẫn thờ nhìn chăm chăm vào chiếc ống nghe… 17 năm rồi mà mẹ vẫn còn nuôi giấc mơ đó… Cuối cùng, sáu tháng sau, tôi ghi danh vào trường đại học gần nhà, học lớp sư phạm. Nỗi gian khổ trở nên nặng nề hơn tôi tưởng. Vừa phải lo chuyện gia đình, vừa phải cố hết sức trong một lớp mà sinh viên không bằng nửa tuổi tôi với sức bật nhanh nhạy. Một ngày tháng năm, sau khi tan học (vào giai đoạn năm nhất), tôi về nhà bật khóc, hoang mang không biết lần này liệu có theo hết chương trình đại học không. Đứa con gái đầu lòng đang chuẩn bị vào đại học vào mùa thu này. Ngân sách gia đình eo hẹp. Chi tiêu cho việc học của hai đứa kế ngày càng tốn kém… Vài ngày sau đó, tôi tình cờ gặp vợ thầy York ở phòng mạch nha sĩ. Tôi kể với cô chuyện về hạt ngọc và việc cố gắng trở lại giảng đường nhưng gặp phải vô vàn khó khăn… “Tôi hiểu - cô York nói - thầy cũng bắt đầu vào đại học ở tuổi 50”. Tôi lắng nghe, ngạc nhiên, nhất là khi cô kể về những nỗi khốn khổ mà thầy York chịu đựng khi quyết tâm theo đuổi đại học. Câu chuyện về thầy York khiến tôi trở nên mạnh mẽ và cứng rắn. Tôi theo nốt ba năm học còn lại… Sau khi tốt nghiệp, tôi dạy Anh ngữ tại một trường trung học địa phương. Chính những năm tháng khốn khó đã cho tôi kinh nghiệm sống qúy giá và phương pháp học cụ thể. Tôi đem sự hiểu biết đó vào lớp… Cuối năm, thầy hiệu trưởng báo một tin khiến tôi hết sức bất ngờ: Tôi được đề cử vào danh sách các giáo viên giỏi nhất tranh giải cấp quốc gia. Trong tờ tường trình, tôi kể lại câu chuyện hạt ngọc của thầy York đã ảnh hưởng tôi như thế nào… Vào một ngày tháng chín, tôi nhận được danh hiệu cao qúy đó. Thật thú vị là sau đó tôi và thầy York được báo chí mời phỏng vấn. Tôi gặp lại thầy, xúc động khi nghe thầy nói thầy sẽ nghỉ hưu vào năm tới. Thầy còn kể rằng ngày trước đã có lúc thầy nghĩ đến việc bỏ học vì “tôi không tin vào tương lai, không tin vào chính mình…”. Tôi hỏi có phải khi đưa hạt ngọc, thầy cũng không tin vào 20 đứa sinh viên lớp tôi. Thầy trả lời: “Không, thầy đã xem 20 người với các đức tính như là những hạt ngọc giá trị”.
Đây là bài viết kết thúc chuỗi dài những bài vết mang chủ đề "Quà tặng của cuộc sống". Vào ngày 01/09/2004 chúng ta sẽ bước qua chương mới mang chủ đề "Hãy can đảm & tốt bụng". Nhân đây tui xin nhắc lại những bạn không tin đây là những bài do mình đánh thì có thể dùng bất kì bộ máy tìm kiếm nào để tìm những bài viết này thì chỉ thấy ở gamevn này thôi (chỉ nói đến trên mạng thôi nhé). Bài 45: ....:: CÓ BAO NHIÊU CÂY TRONG MỘT HẠT ::.... Một hạt nhỏ bé sẽ trở thành cây. Cây sinh ra nhiều hạt hơn. Những hạt này lại trở thành cây. Cây lại sinh ra hạt. Và cứ như thế... Vậy có bao nhiêu cây trong một hạt? Không có cây trong hạt. Đập hạt ra, bạn sẽ chẳng tìm thấy một cây nào. Hạt chỉ mang mầm sống của cây, những gì tiềm ẩn để trổ thành cây. Và cây chỉ xuất hiện khi hạt được nuôi dưỡng đủ nước, đất và ánh nắng mặt trời. Những người mà bạn gặp, những điều bạn được học, những kinh nghiệm trong đời bạn, những gì bạn lựa chọn, mỗi ngày, mỗi khoảng khắc trong cuộc đời của bạn... tất cả là những hạt giống với sức sống vô tận. Chúng đang chờ để trổ thành cây, rồi thành trái; nhưng chỉ khi chúng được trồng ở đất tốt và được nuôi dưỡng. Bạn thân mến! Không phải lúc nào bạn cũng có thể chọn lựa hạt nào sẽ rơi xuống đời mình nhưng bạn hoàn toàn có thể trồng nó, nuôi dưỡng nó theo cách bạn muốn. Hãy nghĩ về điều đó. Bạn có thể thay đổi cuộc đời mình ngay từ bây giờ bằng cách quyết định sẽ trồng những hạt nào, sẽ lựa chọn những gì. Và bằng cách cung cấp cho những hạt giống tốt, những hạt giống bất ngờ một mảnh đất màu mỡ, đủ chất dinh dưỡng để sống và phát triển.
Vâng, đó là những lời giới thiệu về những câu chuyện mà các bạn xem đọc mỗi ngày. Đây là quyển thứ hai mà các bạn sẽ được đọc. Thay vì chúng ta phải đi mua một quyển sách với giá 11.500đ thì mỗi ngày bạn chỉ cần bỏ ra 1 phút load và xem offline, nó còn cái lợi là bạn sẽ có một ngày để suy nghĩ về câu chuyện vừa đọc. Và đây là chủ đề lần này: "HÃY CAN ĐẢM VÀ TỐT BỤNG" Câu chuyện thứ 46: ....:: NẾU ƯỚC MƠ CỦA MÌNH ĐỦ LỚN, MỌI CHUYỆN KHÁC SẼ CHỈ LÀ VẶT VÃNH ::.... Tôi vẫn thường nhìn thấy cô bé từ cửa sổ nhà. Lần nào trông thấy cô, tôi cũng phì cười: bé loắt choắt, chạy huỳnh huỵnh chen lấn cùng bọn con trai trên sân chơi. Ngôi trường phía bên kia đường, đối diện nhà tôi, và tôi thường đứng ở cửa sổ, khi thì rửa chén dĩa, khi thì ngồi bột bánh, vừa làm vừa xem bọn trẻ con chơi trong giờ nghỉ. Một biển con nít, nhưng với tôi, cô bé lúc nào cũng nổi bật lên. Tôi nhớ ngày đầu tiên nhìn thấy cô bé chơi bóng rổ. Tôi đứng xem mà kinh ngạc: cô bé chạy thoăn thoắt giữa đám trẻ, rướn mình lên, nhảy vượt qua đầu bọn bạn, rồi ném bóng vào rổ. Bọn con trai cố hết sức để túm cô bé lại nhưng không đứa nào túm được. Tôi bắt đầu nhận thấy có những lần khác, khi chỉ có một mình trên sân, cô bé cũng chơi bóng một mình. Cô bé tập đi tập lại ném bóng, đập bóng, có khi tới tận tối mịt. Một bữa nọ, tôi hỏi cô bé vì sao phải tập nhiều đến thế. Khi cô quay đầu lại, mớ tóc buộc đuôi ngựa vung vẩy, cô bé nhìn thẳng vào mắt tôi và nói, không ngập ngừng: "Con muốn vào đại học. Ba con đã không được học đại học, ba vẫn hay nói con là phải học cho được. Nhưng con chỉ đi học được nếu có học bổng. Rồi con sẽ chơi cho đội bóng rổ trường đại học. Con sẽ chơi hay nhất. Ba vẫn nói, nếu ước mơ của mình đủ lớn thì mọi chuyện khác chỉ là chuyện vặt". Cô bé mỉm cười rồi chạy đến cuối sân, tập bài tập mà tôi đã chứng kiến không biết đã lần thứ bao nhiêu. Thì cứ tin chứ biết làm sao, cô bé đã quả quyết thế mà! Từ cửa sổ nhà, tôi đã theo đõi cô bé suốt những năm phổ thông trung học, cứ mỗi tuần cô lại đưa đội bóng của mình đến chiến thắng, và mỗi lần xem cô thi đấu là một lần kỳ thú. Khi cô bé học năm cuối phổ thông, một ngày kia, tôi thấy cô ngồi trên bãi cỏ, gục đầu trong hai cánh tay. Tôi băng qua đường, ngồi xuống cạnh, khẽ khàng hỏi, có chuyện không hay đã xảy ra? “Ồ, không có gì cả!”, cô bé khẽ đáp. “Chỉ tại con quá lùn”. Người huấn luyện viên đã nói với cô bé rằng chỉ cao có 5 “fit” rưỡi thì không thể đứng vào hàng ngũ đội tuyển được, và như thế khó mà có cơ hội giành học bổng, giấc mơ đại học có lẽ cũng tiêu tan. Cô bé buồn khổ, cả tôi cũng cảm thấy cổ họng mình thắt lại khi thấy cô thất vọng. Tôi hỏi thế cô đã nói cho ba mình nghe chưa. Cô ngẩng đầu lên và nói với tôi rằng ba cô bảo ông huấn luyện viên thế là không phải chút nào. Họ là những người không hiểu được sức mạnh của ước mơ. Ba cô cũng nói với cô rằng nếu cô thực sự muốn chơi cho một trường đại học tốt, nếu cô tha thiết muốn đạt được học bổng, thì không có gì cản được cô, ngoại trừ một thứ - chính cô. Ba cô lại nói với cô: “Nếu ước mơ đủ lớn thì những chuyện khác chỉ là vặt vãnh”. Một năm sau, khi cô bé cùng đội bóng của mình đi thi đấu ở đại hội thể thao Bắc California, cô đã lọt vào mắt một người huấn luyện viên của một trường đại học nọ. Ông đi theo đội bóng của mình - đội đối thủ của cô bé. Mọi chuyện sau đó như một giấc mơ: người ta mời cô bé vào đội bóng nữ của trường, và họ nói, nếu cô đồng ý, họ sẽ cấp cho cô một học bổng! Cô bé của tôi đồng ý ngay. Cô đã được vào đại học, nơi mà cô đã mơ ước và làm cật lực để đến được. Có lẽ trong lịch sử của ngôi trường đó, người ta chưa bao giờ có một nữ sinh viên chơi bóng hay như cô! Khi đã là sinh viên năm thứ ba đại học, một đêm nọ, người cha gọi điện cho con gái: “Ba bệnh rồi. Ba bị ung thư. Nhưng con đừng rời trường mà về. Mọi việc sẽ ổn thôi. Ba yêu con, con gái!”. Khi cô đến bên ông, ông nắm tay cô và nói một cách khó nhọc: “Rachel, phải biết mơ ước. Đừng để ước mơ chết theo ba. Hứa với ba nhé! Con hứa đi!”. Cô gái gật đầu: “Con hứa!”. Sáu tuần sau, người cha mất - người hùng của cô bé - người cha thân yêu. Đó là những năm khó khăn trong đời. Cô phải chia đôi mình ra cho trường học và gia đình, cho mẹ cô với một đứa em mới sinh cùng ba đứa em nhỏ phải nuôi dạy. Nỗi buồn về cái chết của người cha không bao giờ hết, có những lúc trỗi dậy và làm cô muốn gục ngã. Mọi việc dường như ngày càng khó khăn hơn. Cô phải đấu tranh hàng ngày với nỗi lo âu, hoang mang, và nghi ngờ. Cô học sút và không lấy được các chứng chỉ cần thiết và cho năm học. Nhưng mỗi lần muốn bỏ cuộc, cô lại nhớ lời người cha: “Nếu giấc mơ của con đủ lớn, con có thể làm bất cứ việc gì con muốn”. Và dĩ nhiên, cô cũng không quên lời hứa với người cha trước lúc ông mất. Đó là con bé nhỏ của tôi. Cô đã giữ lời hứa và tốt nghiệp được đại học. Dù rằng phải mất đến 6 năm cô mới ra trường, nhưng quan trọng nhất là cô đã không bỏ cuộc. Và bây giờ, thỉnh thoảng lúc chiều tà, người ta vẫn thấy cô chơi bóng rổ trên sân. Và tôi vẫn thường nghe cô nói với những người khác: “Nếu ước mơ đủ lớn thì mọi chuyện khác chỉ là vặt vãnh”.
Câu chuyện thứ 47: ….:: KHÔNG BAO GIỜ NÓI “KHÔNG BAO GIỜ” ::…. Tôi không nhớ lúc nào trong đời, mình bắt đầu không muốn cái gì khác hơn là trở thành một cô giáo. Khi còn là một đứa trẻ, tôi chơi trò dạy học với các anh chị em họ và bạn bè như thể một cách thực tập cho nghề nghiệp tương lai của mình. Nhưng cái mà một đứa trẻ là tôi lúc đó không thể nhận thấy, là giấc mơ của mình đắt giá biết nhường nào. Tôi xuất thân từ một gia đình trung bình, và dường như chúng tôi luôn luôn phải vận lộn để có đủ cái ăn. Giấc mơ của tôi được vào học trường đại học Connecticut dường như vượt khỏi tầm với nhưng tôi vẫn không muốn một thứ gì thấp hơn thế. Vào năm học cuối của trung học, tôi bắt đầu nộp đơn vào các trường đại học. Trong tim tôi đã quyết định sẵn rồi: trường đại học Connecticut là trường duy nhất. Nhưng một trở ngại lớn như một hòn đá chặn giữa tôi và giấc mơ của tôi, đó là học phí. Nghĩ tới điều đó, thoạt tiên, tôi suýt bỏ cuộc. Tôi nghĩ, ai mà tài trợ cho mình - một cô nữ sinh trung bình - một món tiền như vậy cơ chứ? Tôi không phải là học sinh giỏi nhất lớp, gần giỏi nhất cũng không phải, nhưng tôi biết trái tim mình đã đặt đúng chỗ, và thế là tôi kiên định với chọn lựa của mình. Tôi biết học bổng sẽ chỉ dành cho những học sinh thật thông minh, hay tương tự như vậy. Nhưng tôi vẫn nộp đơn cho tất cả các loại học bổng mà tôi biết. Tôi có gì để mất nào? Và khi người tư vấn của tôi nói với tôi rằng có một hệ thống chuyên hỗ trợ tài chính cho người muốn vào đại học, tôi bèn nộp đơn. Nộp, nhưng tôi hoàn toàn không nghĩ là mình có đủ tiêu chuẩn để được giúp đỡ. Sau kỳ nghỉ, các bạn của tôi bắt đầu nhận những thư báo nhập học của các trường đại học, và tôi cũng nôn nóng chờ nhận cái thư của mình. Cuối cùng, một lá thư đến từ trường đại học Connecticut. Cảm giác sợ hãi và vui sướng tràn ngập, nhưng tôi đã sẵn sàng. Tôi mở phong bì với tay run run và nước mắt tràn mi. Trời đất! Tôi đã được nhận vào trường đại học Connecticut! Tôi khóc mất một lúc, vừa hào hứng vừa sợ hãi. Tôi đã làm cật lực để được trường chấp nhận. Nhưng tôi nghĩ tới học phí, có lẽ nào tôi lại sẽ không được đến trường chỉ vì không đủ tiền đóng? Tôi bắt đầu làm một công việc toàn thời gian, nhưng cũng không đủ trả tiền học. Món tiền quá lớn. Tôi là đứa con đầu tiên trong gia đình có thể vào đại học, và tôi biết bố mẹ tự hào biết bao, nhưng họ không thể lo nổi học phí cho tôi. Tuy nhiên, bố mẹ tôi là những người tuyệt vời, và họ dạy tôi không bao giờ được từ bỏ ước mơ của mình, bất chấp những trở ngại trên đường đi, và nhất là không bao giờ được để “mất dấu” những gì mình thật sự muốn trong đời. Bố mẹ tôi nói đúng, và tôi tiếp tục tin tưởng vào chính mình và giấc mơ của mình. Nhiều tháng trôi qua mà vẫn không có tin tức gì từ văn phòng hỗ trợ tài chính. Tôi đoán rằng tôi không đủ điều kiện, nhưng vẫn chưa hết hy vọng. Cuối cùng, một là thư đến. Tôi nôn nóng mở ra, nhưng đó chỉ là báo động giả. Lá thư yêu cầu tôi cung cấp thêm một số thông tin nhằm tiến hành xét đơn của tôi. Việc này diễn đi diễn lại nhiều lần, và hy vọng của tôi ngày càng teo lại. Cuối cùng, một phong bì to tướng gửi tới. Tôi biết đây chính là cái phong bì sẽ quyết định tôi có được đi học hay là không. Tôi mở phong bì ra nhưng không thể hiểu nổi nội dung của những tài liệu trong cái phong bì đó. Ngày hôm sau, tôi mang ngay những tài liệu đó đến trường và đề nghị người tư vấn của tôi coi giùm chúng nói gì. Ông nhìn tôi với một nụ cười rạng rỡ, và nói với tôi rằng quỹ hỗ trợ tài chính không chỉ tài trợ tiền học của tôi, mà tôi còn đạt thêm hai học bổng nữa mà tôi đã nộp đơn. Thoạt tiên, tôi bị sốc, rồi tôi òa khóc… Giờ đây tôi là sinh viên của trường đại học Connecticut, khoa ngôn ngữ. Trong năm tới – năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới, giấc mơ của tôi sẽ thành sự thực: tôi sẽ trở thành cô giáo. Tôi sống theo câu châm ngôn này: “Hãy với tới bầu trời, vì nếu không chạm tới được thì bạn cũng đã ở giữa những vì tinh tú”.
Câu chuyện thứ 48: ….:: ĐIỂM SỐ ::…. Năm 1951, tôi 18 tuổi và làm một chuyến đi với vỏn vẹn có 50 đô la. Tôi nhảy lên chiếc xe đò từ Los Angeles tới Berkeley. Giấc mơ của tôi được ngồi vào giảng đường của Berkeley đã thành hiện thực. Học phí cho một học kỳ tôi đã trả. Tiền trọ một tháng ở ký túc xá cũng đã trả. Mọi thứ còn lại tôi phải tự lo tiếp. Bố mẹ nghèo túng không thể “cứu trợ” tôi. Tôi đã tự lập ngay từ lúc 15 tuổi. Hồi đó, mỗi trưa đã phải rời lớp để về trông trẻ cho đến tận nửa đêm. Suốt những năm trung học và năm đầu ở đại học, tôi luôn ước mong mình được tham dự những hoạt động ngoại khóa, nhưng công việc làm thêm không cho phép. Bây giờ, khi được chuyển về Berkeley, tôi hy vọng mình sẽ kiếm được một học bổng, để giải thoát khỏi những việc làm thêm này. Tuần đầu tiên, tôi tìm được chân chạy bàn, trông trẻ và rửa chén. Như vậy đỡ được phần nào tiền trọ của tôi. Cuối học kỳ, tôi đạt điểm B cần thiết để tiến hành xin ọhc bổng. Lúc này tôi chỉ cần đạt thêm một điểm B vào kỳ thi tới nữa là đủ. Tôi không muốn Berkeley để học những lớp học vớ vẩn. Tôi tin là mình có thể hơn người trong những môn học khó. Và tôi chọn cho mình một môn thật hóc búa. Đó là nghiên cứu về văn học. Bộ môn này do giáo sư Sears Jayne phụ trách. Ông thường đi đi lại lại trên bục giảng của giảng đường mênh mông, tay vung vẩy cái micro trong lúc giảng bài cho một rừng sinh viên ngồi chật ních các hàng ghế. Không có chép bài ở đây. Thay vào đó, chúng tôi dùng sách, loại sách bìa mỏng, ít tốn và dễ mua. Tôi rất hâm mộ những quan điểm mà giáo sư trình bày. Với nhiều sinh viên, môn học này chỉ là một môn học bắt buộc, nhưng với tôi, mỗi buổi học quả thực là một bữa tiệc với đầy những món ăn là những ý tưởng kỳ thú. Các bạn ở trong ký túc xá cũng tham dự lớp học và đề nghị tôi giúp đỡ. Chúng tôi lập thành một nhóm học tập mà tôi làm trưởng nhóm. Khi tôi làm bài thi đầu tiên của môn này - một bài thi với rất nhiều câu hỏi - tôi nghĩ rằng mình đã làm rất tốt. Vậy mà khi nhận lại tập bài thi của mình, tôi thật không thể tin nổi: chỉ có 77 điểm và C “cộng”. Tôi thật sự bị sốc, vì văn chương là môn học giỏi nhất của tôi. Đã buồn khổ, tôi còn cảm thấy nhục nhã hơn, khi các bạn trong nhóm học tập của tôi - các “đệ tử” của tôi đều nhận được điểm B. Họ đến và cảm ơn tôi vì đã hướng dẫn họ! Tôi gặp người trợ giảng. Người này dẫn tôi đến gặp giáo sư Jayne. Ông lắng nghe những lời tranh cãi hăng hái của tôi, nhưng quyết định của ông vẫn không chuyển. Trước khi, tôi chưa bao giờ hỏi một giáo viên về điểm số của mình. Chưa bao giờ. Lúc này, tôi có hỏi thì cũng không phải là để xin xỏ cho học bổng. Mà đơn giản, tôi chỉ muốn công bằng, chứ không phải òng thương hại. Trong lòng, tôi luôn tin rằng những câu trả lời trong bài làm của mình xứng đáng được điểm cao hơn. Tôi quyết tâm làm việc nhiều hơn, mặc dầu tôi không biết như thế thì có ý nghĩa gì, vì bài vở ở trường bao lâu nay đối với tôi đã quá dễ, không có gì phải cố gắng. Tôi vẫn kiên trì tìm kiếm các việc làm thêm hoặc chùi rửa sàn. Tôi đọc sách kỹ càng hơn. Nhưng mọi nỗ lực của tôi một lần nữa lại chỉ được đền đáp bằng con số 77. Một lần nữa, lại C “cộng” cho tôi và B và A cho các bạn cùng nhóm. Và họ lại cảm ơn tôi. Một lần nữa, tôi trở lại gặp giáo sư Jayne và chất vấn về tính công bằng của ông khi chấm bài. Một lần nữa, giáo sư lắng nghe kiên nhẫn, thảo luận các đề tài của tôi, nhưng sau đó vẫn không đổi, tôi vẫn bị điểm C. Giáo sư dường như thích thú những nhận xét của tôi về ý tưởng của ông trong bài giảng, những giấc mơ của tôi về học bổng và những hoạt động ngoại khóa têu tan dần. Rồi một bài kiểm tra nữa trước khi bước vào kỳ thi cuốc - một cơ hội nữa cho tôi “rửa hận”. Nhưng đó cung có thể là một rào cản mơ hồ không biết chừng. Lần này, chúng tôi sẽ làm bài trên tác phẩm vừa học của T.S. Eliot, The Wasteland. Quyển sách chỉ có ở dạng bìa cứng và với ngân sách nhỏ bé của tôi thì quá là đắt. Tôi mượn sách từ thư viện. Tuy nhiên, tôi biết mình cũng cần phải có một cuốn riêng để chú giải, ghi chép vào. Năm 1951 chưa có máy photocopy, cho nên tôi chọn giải pháp hợp lý nhất là lôi cái máy đánh chữ Royal cổ lỗ trung thành của mình ra và bắt đầu đánh máy hết 420 trang. Vừa chạy bàn, rửa chén, vừa dự lớp, vừa trông trẻ, vừa hướng dẫn nhóm học tập, tôi vừa xoay sở để ngốn hết chừng đó trang sách… Tôi đã nỗ lực gấp đôi cho bài kiểm tra thứ ba này. Lần đầu tiên, tôi học nghĩa của từ “hoàn hảo”. Nhưng nỗ lực của tôi dù cao mấy vẫn đem lại kết quả hoàn toàn không tốt. Mọi thứ vẫn như cũ, vẫn là 77 điểm và C “cộng”. Tôi đi thẳng tới phòng giáo sư Jayne, lôi tất cả bài làm trước nay của mình ra, và chất vấn về điểm số. Nhìn thấy xấp đánh máy của cuốn The Wasterland, giáo sư hỏi: “Cái gì kia?” “Em không có tiền để mua sách, nên em phải đánh máy lại”. Tôi không nghĩ chuyện đó có gì bất bình thường. Bởi vì tính tôi là thế, không bao giờ để cái khó bó cái khôn. Nhưng trên nét mặt vui vẻ của giáo sư Jayne có cái gì đó thay đổi. Ông im lặng một lúc lâu. Rồi chúng tôi quay lại đề tài tranh cãi muôn thuở đầy hào hứng là các nhà văn thực sự nói gì trong các tác phẩm. Khi rời văn phòng của giáo sư, tôi vẫn chỉ có điểm số 77 - có lẽ đó là con số “xui” của tôi, và nỗi nhục rằng một trưởng nhóm thảo luận, người hướng dẫn nhóm học tập như mình mà cuối cùng lại kẹt đẹt thua xa những sinh viên đang chịu ơn mình. Cuối cùng, kỳ thi lớn. Tôi biết, bây giờ cho dù tôi có nỗ lực đến mấy thì ba điểm C “cộng” lia vẫn không thể nào xóa đi được. Tôi nghĩ, chắc mình hôn tạm biệt vụ xin học bổng đi là vừa. Và, có ích gì đâu, tôi đã nhồi nhét đến toét cả mắt, mà cuối cùng cũng đành qui hàng con số 77. Tôi không học bài nữa. Tôi cảm thấy mình thuộc các tác phẩm như chưa bao giờ thuộc như vậy. Chẳng phải tôi đã đọc đi đọc lại những quyển sách đó và cắt nghĩa cho các bạn của tôi sao? Chẳng phải là những câu chữ của The Wasterland vẫn còn ong ong trong đầu tôi à? Cho nên đêm trước ngày thi, tôi tự thưởng cho mình một vé xem phim. Tôi thong thả bước vào giảng đường và quyết định rằng đây chính là dịp để mình biến cuộc thi thành một trò giải trí. Tôi giam các nhà văn mà chúng tôi đã được học qua trên một hòn đảo và viết lên giấy một cuộc tranh cãi tưởng tượng giữa họ với nhau về vị trí của mình. Việc làm vẻ điên khùng này thật thích hợp với tâm trạng “không có gì để mất” của tôi lúc đó. Những dòng chữ tuôn chảy, và chính những gì tôi đã tranh luận với giáo sư Jayne đã khi61n cho bài viết được viết ra dễ dàng. Một tuần sau, tôi đi chơi ngang văn phòng, tiện tay vào lục trong xấp bài thi tìm bài của mình. Và thật không tin nổi vào mắt nữa: trên quyển bài thi bìa xanh của tôi là màu mực chấm thi đỏ chói - tôi đã đạt điểm A! Tôi vột vã chạy tới phòng giáo sư Jayne. Ông dường như đang đợi tôi mặc dù không có hẹn trước đó. Tôi ngay lập tức công kích ông với một sự phẫn nộ thẳng thắn. Tại sao tôi lại chỉ nhận C “cộng” mỗi lần học bài đầu tắt mặt tối, và bây giờ, khi viết một bài thi đùa bỡn thì lại được điểm A? “Tôi biết nếu tôi cho em những điểm A mà em hoàn toàn xứng đáng đó, em sẽ không tiếp tục làm việc cật lực nữa.” Tôi nhìn giáo sư không chớp mắt, nhận ra rằng sự phân tích và chiến lược của ông hoàn toàn đúng. Quả thực tôi đã làm việc đến nổ tung cái đầu - một việc trước nay tôi chưa bao giờ làm. Giáo sư đứng dậy và lấy ra từ trên giá sách chật cứng một cuốn sách. “Của em!” Đó là một cuốn The Wasterland, bản bằng bìa cứng. Ở trang lót là dòng chữ đề tặng tôi. Lần đầu tiên trong đời “lắm mồm” của tôi, tôi không thốt nên lời. Tôi lại không thốt nên lời một lần nữa khi điểm số của toàn khoá học của tôi được công bố: đó là A “cộng”. Tôi tin rằng đó mới chính là con A “cộng” trời cho. Một năm sau, khi đã nhận được học bổng, tôi mới có thể tham gia các hoạt động ngoại khóa: Tôi tham gia viết, rồi diễn, hát, nhảy múa trong một vở nhạc kịch vui nhộn độc đáo do Hội Sinh Viên dàn dựng. Vở kịch được diễn nhiều lần, có khi trong một nhà hát thuộc loại lớn nhất; có lúc trong những căn nhà mà khán giả chỉ có thể đứng cơi. Tôi viết phê bình sân khấu cho tờ Daily Cat - một tờ báo ngày của sinh viên. Tôi viết một màn kịch - một trong những vở kịch đầu tiên của nhà hát thuộc trường đại học. Tôi diễn trong vở kịch của khoa kịch nghệ dàn dựng. Những tia lửa sáng tạo được hun đức từ những chồng đĩa tôi rửa, từ những đống tã tôi giặt, từ những công việc cực nhọc… đã bừng cháy lên. Tôi không còn nhớ nhiều những gì mình đã học ở trường vào những năm xa xưa ấy, nhưng tôi không bao giờ quên niềm vui khi viết và khi diễn dịch. Và tôi luôn nhớ đến bài học của giáo sư Jayne: Hãy biết rằng bạn vẫn còn chưa khui hết năng lực ở trong bạn. Rằng bạn phải dùng chúng, ngay cả khi bạn có được chúng mà không cần phải nỗ lực. Rằng chính bạn, và chỉ có bạn mới định được một tiêu chuẩn thế nào là xuất sắc cho mình.
Công nhận box này có rất nhiều chuyện rất hay và rất có ý nghĩa ! Tuy cũng xin góp một số câu chuyện mà tui sưu tầm được . Mong các bạn hãy cho ý kiến đóng góp nhé ! CHÚ BÉ VÀ ÔNG GIÀ "Cháu hay làm rớt cái muỗng khi ăn," chú bé nói. "Ta cũng vậy," ông già nói. "Cháu hay đái dầm," chú bé thì thầm. "Ta cũng vậy luôn," ông già cười. "Cháu hay khóc nhè," chú bé nói. "Ta cũng vậy," ông già gật đầu. "Nhưng tệ nhất là," chú bé nói, "người lớn hông thèm chú ý đến cháu gì hết." Và chú bé cảm thấy bàn tay nhăn nheo nhưng ấm áp của ông già quàng lên vai mình. "Ta hiểu cháu muốn nói điều gì," ông già bé nhỏ nói.
TRÁI TIM NGƯỜI MẸ Tôi ngồi trên cái ghế ọp ẹp dành cho thính giả với máy quay video trên vai và nước mắt trào lên trong mắt tôi. Đứa con gái mới sáu tuổi của tôi đang đứng trên sàn sân khấu, bình tĩnh, hoàn toàn tự chủ, và đang hát với tất cả tấm lòng. Tôi bồn chồn và vô cùng xúc động. Tôi đang cố không bật khóc. "Hãy nghe, bạn có nghe âm thanh, những trái tim đang đập ở xung quanh bạn?" Con bé hát. Khuôn mặt bé nhỏ tròn trịa của nó quay về phía ánh sáng, một khuôn mặt nhỏ thân thương và quen thuộc và thật không giống với những nét mảnh mai của tôi. Đôi mắt của con bé - đôi mắt thật khác so với đôi mắt của tôi - nhìn về phía khán giả với sự tin tưởng tuyệt đối. Nó biết là nó được yêu mến. "Trong thung lũng hay ngoài đồng bằng, mọi nơi quanh ta, nhịp đập trái tim đều như nhau." Khuôn mặt của mẹ đẻ con bé nhìn vào tôi từ trên sàn sân khấu. Đôi mắt của một người đàn bà trẻ đã một lần nhìn thẳng vào tôi nay đang nhìn xuống khán giả. Những đường nét mà con bé đã thừa hưởng từ mẹ đẻ của mình - đôi mắt hơi xếch về phía đuôi, và đôi má hồng hào bụ bẫm mà tôi muốn hôn không dừng. "Đen hay trắng, đỏ hay nâu, đó là trái tim của một gia đình của một con người... ồ đã ra đi, đã ra đi," con bé kết thúc. Khán giả như vỡ bùng lên. Tôi cũng vậy luôn. Tiếng hoan hô như sấm động trong căn phòng. Tất cả chúng tôi đều đứng lên để cho con bé biết rằng chúng tôi yêu nó đến từng nào. Con bé mỉm cười; nó đã biết. Và bây giờ thì tôi bật khóc. Tôi cảm thấy hạnh phúc và may mắn biết bao được làm mẹ của con bé. Nó đã cho tôi biết bao niềm vui đến mức trái tim tôi đau nhói. Trái tim của một gia đình của một con người... trái tim của lòng dũng cảm đã chỉ đường cho chúng ta đi khi chúng ta lạc lối... trái tim đã đưa những con người xa lạ lại gần nhau với mục đích đơn giản: đây là trái tim của mẹ con bé đã chỉ cho tôi. Từ nơi sâu thẳm nhất của lòng mình, con bé đã nghe được mẹ của mình. Đó là trái tim của lòng dũng cảm xuất phát từ tình yêu vô điều kiện. Cô ta là một người đàn bà đã có thể đưa cho đứa con của mình một điều mà không ai khác có thể làm được: có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Trái tim con bé đập thật gần tôi khi tôi ôm hôn nó và nói với nó rằng nó đã biểu diễn thật tuyệt vời. Nó ngọ nguậy trong vòng tay tôi và nhìn lên tôi. "Sao mẹ lại khóc hả mẹ?" Tôi trả lời nó, "Vì mẹ hạnh phúc vì con và những gì con đã làm, tự một mình con!" Tôi có thể thấy được chính mình vươn ra và ôm lấy con bé không chỉ với vòng tay của mình. Tôi ôm con bé với tất cả tình yêu không chỉ cho riêng tôi, mà cho cả người đàn bà đẹp và dũng cảm đã quyết định sinh nó ra đời, rồi quyết định trao nó cho tôi. Tôi đã mang tình yêu của cả hai người... người mẹ đã sinh ra nó với tình yêu để san sẻ, và người đàn bà với vòng tay tràn đầy tình yêu... cho nhịp đập trái tim của cả hai chúng tôi.
Chắc hẳn các bạn cũng đã từng đọc Những tấm lòng cao cả rồi phải ko ? Riêng tôi thì đến tận hôm nay mới được đọc cuốn sách đầy tính nhân văn này. Thú thực khi đọc chương Mẹ tôi, tôi mới thấy mình còn quá vô tâm trước những hy sinh của mẹ. Xin post lên đây để hy vọng phần nào giúp ai đó chưa nhận ra tình cảm của mẹ dành cho chúng ta : Mẹ tôi Thứ năm, 10 tháng Mười một Bố để ý là sáng nay, lúc cô giáo đến thăm, tôi có nhỡ thốt ra 1 lời thiếu lễ độ. Bố thấy mình có nhiệm vụ viết mảnh thư này cảnh cáo tôi. Đọc thư tôi xúc động vô cùng. “Trước mắt cô giáo của em con, con đã thiếu lễ độ với mẹ! Việc như thế ko bao giờ con được phạm nữa, Enrico của bố ạ! Sự hỗn láo của con như 1 nhát dao đâm vào tim bố vậy! Bố nhớ tới mẹ con, cách đây mấy năm, đã phải thức suốt đêm, cúi mình trên chiếc nôi của con, trông chừng hơi thở hổn hển của con, quằn quại vì nỗi lo sợ, khóc nức nở khi nghĩ rằng có thể mất con đi!....Nhớ lại điều ấy, bố ko thể nén được cơn tức giận đối với con. Hãy nghĩ xem, Enrico ạ! Con mà lại xúc phạm mẹ con à! Người mẹ sẵn sàng bỏ 1 năm hạnh phúc để tránh cho con 1 giờ đau đớn, người mẹ có thể đi ăn xin để nuôi con, có thể hy sinh tính mạng để cứu sống con! Hãy nghĩ kĩ đến điều này, Enrico ạ: Trong đời con sẽ có thể trải qua những ngày thật buồn thảm, nhưng ngày buồn thảm nhất tất sẽ là ngày mà con mất mẹ con. Và khi ấy dù con đã lớn khôn, con đã trưởng thành, có thể có lúc con sẽ hồi tưởng tới mẹ con, với lòng mong ước thiết tha được nghe tiếng nói của mẹ, và được mẹ dang tay ra đón con vào lòng; vì dù con lớn, dù khoẻ mạnh thế nào chăng nữa, con sẽ vẫn tự thấy mình chỉ là 1 đứa trẻ tội nghiệp, yếu đuối và ko được che chở. Con sẽ nhớ lại với 1 nỗi cay đắng những lúc con đã làm cho mẹ phải phiền muộn, lương tâm cắn rứt sẽ bắt con trả 1 giá rất đắt. Khốn khổ thay! Con ko thể hy vọng được yên ổn trong đời nếu con đã làm cho mẹ con buồn phiền. Dù có hối hận, có cầu xin tha thứ, có sùng bái linh hồn của mẹ, tất cả cũng vô ích mà thôi. Hình ảnh dịu dàng và hiền hậu của mẹ sẽ làm cho tâm hồn con như bị khổ hình. Enrico, hãy nhớ rằng, tình thương yêu cha mẹ là tình cảm thiêng liêng hơn cả. Vô phúc cho kẻ nào dám chà đạp lên tình thương yêu đó ! Từ nay, ko bao giờ con được thốt ra 1 lời nói nặng với mẹ con, và con phải xin lỗi mẹ, ko phải vì sợ bố, mà do nhiệt tình thành khẩn của lòng con. Con hãy cầu xin mẹ hôn con, để cho cái hôn ấy xoá đi cái dấu vết vong ân bội nghĩa trên trán con. Bố rất yêu con, con ạ, con là niềm hy vọng tha thiết nhất của đời bố, nhưng thà rằng bố phải thấy con chết đi, còn hơn là thấy con bội bạc với mẹ con. Thôi, và trong 1 thời gian con đừng hôn bố: bố sẽ ko thể vui lòng đáp lại cái hôn của con được. ” Bố của con.
Các câu chuyện mà tini_lam post rất hay, rất ý nghĩa, tôi rất mong bạn post nhiều hơn nữa, ngày nào tôi cũng online vào để đọc, để thấy cuộc đời tươi đẹp hơn.
Thật buồn cười **Thật buồn cười là sao tờ 10.000 trông quá to và quá giá trị lúc chúng ta cho người ăn xin, mà lại quá nhỏ khi ta mang nó đi mua hàng. Thật buồn cười là sao 60 phút quá dài khi nói chuyện với ông bà cha mẹ mà 60 phút lại quá ngắn khi chơi điện tử hay tán gẫu với bạn bè. Thật buồn cười là chúng ta khoái chí và hồi hộp run lên khi trận đá bóng đến phút bù giờ, nhưng chúng ta lại than thở và khó chịu khi thày cô dạy thêm vài ba phút sau tiết học. **Thật buồn cười là chúng ta thấy khó nhọc thế nào khi đọc 1 chương cuốn sách giáo khoa, và chúng ta lại thấy dễ dàng thế khi đọc 1 cuốn truyện dày cả trăm trang. Thật buồn cười là mọi người cãi nhau để tranh 1 chỗ ghế ngồi hàng đầu khi xem bóng đá hoặc biểu diễn ca nhạc nhưng lại cãi nhau để tranh 1 chỗ ghế ngồi hàng cuối ở lớp học thêm. Thật buồn cười là chúng ta cần 2 đến 3 ngày để suy nghĩ thì mới đưa được 1 buổi học bù vào thời gian biểu của mình, nhưng lại sắp xếp được thời gian cho 1 buổi đi chơi ngay vào phút cuối cùng. **Thật buồn cười là chúng ta có thể dễ dàng nhớ tới sinh nhật của người yêu nhưng lại thật khó khăn để nhớ tới sinh nhật của cha mẹ, ông bà. Thật buồn cười là 1 số người thấy vô cùng khó khăn khi đọc và giải thích cho ngưòi khác 1 bài học, nhưng lại thấy rất dễ dàng khi hiểu và truyền bá những chuyện ngồi lê đôi mách. Thật buồn cười là chúng ta ko thể nghĩ ra cái gì để cầu nguyện cho người khác nhưng lại nghĩ ra đủ thứ để mong ước cho bản thân mình. Thật buồn cười là con người bị ảnh hưởng quá nhiều bởi những gì người khác đánh giá về mình, hơn là những gì tự mình đánh giá về mình. Rừng trong phố. **Một chiều trên ngã tư phố đông Hà Nội. Bỗng 1 bọc to tướng buộc ở 1 chiếc xe máy ngọ nguậy, rồi thò ra những cái đuôi. Người lái xe cố ấn mạnh nhưng lại bục chỗ khác. Những con kỳ đà dài ngót mét tuồn ra, chúng vươn cả 4 chân, nghiêng cái cổ ngơ ngác nhìn. Thoát được cái bọc, lại rơi vào hàng rào người đứng vây quanh. Hơi đường nhựa nóng rẫy, ngột ngạt lên vì đám người vây quanh hô hố cười :” Kỳ đà kìa !”, “Kỳ nhông chứ...”. Có bà ré lên :”Tắc kè to quá, ngâm rượu bổ phải biết.” **Các con vật tội nghiệp đứng như chết, mà chúng biết bò đi đâu ? Chẳng có khe hở nào để chúng rúc vào. Đương những con vật rừng xanh lại bị tóm cổ nhốt vào bọc. Lần này họ ấn tàn bạo hơn, chẳng kể đầu đuôi, kẻo ko nhanh tay lại bị lập biên bản buôn thú rừng. Những con kỳ đà như hiểu thân phận, nằm yên trong bịch. Hình như vượt ra ngoài còn đáng sợ hơn nằm yên trông chờ số phận. Đây đâu phải là chốn rừng xanh, mà chỉ là chỗ của rừng người....
Bé Eleanor không biết chuyện gì đã xảy ra với bà. Bà luôn quên mọi thứ, ví dụ như lọ đường để ở đâu, lúc nào thì phải đóng tiền nước, hay giờ nào thì đi chợ... - Bà bị làm sao hả mẹ? - Eleanor hỏi - Trước đây bà tuyệt lắm cơ mà! Bây giờ trông bà rất buồn, bà chẳng nhớ gì cả! - Bà già đi đấy mà - Mẹ cô bé trả lời - Bây giờ bà rất cần được yêu thương và chăm sóc. - Già đi tức là sao? - Eleanor ko ngừng hỏi - Rồi mọi người đều già, đều quên mọi thứ ạ? Và con cũng thế hả mẹ? - Không phải tất cả mọi người đều quên mọi thứ khi về già đâu, Eleanor. Có thể bà bị chứng Alzheimer nên quên nhiều hơn những người khác. Có lẽ chúng ta phải đưa bà vào viện dưỡng lão để bà được chăm sóc đúng cách. - Không được đâu mẹ ơi! Bà sẽ nhớ ngôi nhà của chúng ta rất nhiều... - Có thể, nhưng chúng ta biết làm gì bây giờ? - Người mẹ xoa đầu Eleanor - ở đó bà sẽ có thêm nhiều bạn bè. Trông Eleanor có vẻ rất buồn... Cô bé không hề thích ý kiến này của mẹ. - Chúng ta sẽ đến thăm bà thường xuyên chứ? Con sẽ rất nhớ bà, dù bà đã quên nhiều thứ. - Chúng ta sẽ đến thăm bà vào cuối tuần, và mang quà cho bà nữa. - Con sẽ mang kem - Eleanor reo lên - Bà rất thích kem dâu! Lần đầu tiên hai mẹ con tới thăm bà trong viện dưỡng lão, Eleanor chỉ muốn khóc. - Mẹ ơi, ở đây ai cũng phải ngồi xe đẩy cả! - Cần phải thế mà, nếu không họ sẽ ngã mất - Mẹ giải thích - Khi nào con gặp bà, con hãy mỉm cười và nói rằng trông bà vẫn rất khỏe mạnh nhé! Bà đang ngồi trong góc phòng sưởi nắng và nhìn ra cây cối bên ngoài. Eleanor ôm lấy bà và reo lên: - Bà xem này, cháu mang quà tới cho bà, món kem dâu mà bà thích đấy! Bà cầm cốc kem, cái thìa và ăn chậm, không nói lời nào. Eleanor tròn mắt đứng nhìn. - Chắc chắn là bà rất thích - Mẹ của Eleanor trấn an cô bé. - Nhưng bà cứ như là không quen biết chúng ta ấy - Eleanor thất vọng ra mặt. Lần sau, khi hai mẹ con tới thăm bà, mọi chuyện không có gì thay đổi. Bà ăn kem và mỉm cười, nhưng không nói gì. - Bà có biết cháu là ai không? - Eleanor lay lay tay bà. - Cháu là cô bé mang kem tới cho bà - Bà trả lời. - Đúng, nhưng cháu cũng là Eleanor nữa, cháu là cháu của bà đây mà! Bà không nhớ cháu à? - Eleanor rối rít ôm lấy bà. Bà mỉm cười yếu ớt... nhưng dường như bà không thể nhớ ra được. - Bà có nhớ chứ - Bà vẫn khẳng định. - Cháu là cô bé mang kem tới! Đó là lúc mà Eleanor biết rằng bà sẽ không bao giờ nhớ ra cô bé nữa. Bà bị bệnh, và bà sống trong thế giới của riêng mình, một thế giới cô đơn và không có kỉ niệm. - Bà ơi, dù thế nào thì cháu vẫn yêu bà! - Eleanor nắm tay bà. Và Eleanor nhìn thấy bà khóc. - Cháu yêu bà? - Bà ôm lấy Eleanor - Bà có nhớ sự yêu thương. Bà biết cháu yêu bà! - Thấy không, Eleanor? - Mẹ cô bé nói - Tất cả những gì bà cần bây giờ là sự yêu thương và quan tâm. - Cuối tuần nào con cũng sẽ mang kem dâu đến - Eleanor nói to - Dù bà không nhớ con là ai!!! Ko nhớ được người thân của mình là một điều đáng tiếc... Nhưng nhớ được sự yêu thương còn quan trọng hơn là nhớ một cái tên...
Một cô gái than thở với bố cô về cuộc sống. Cô bảo, cuộc sống thật khó khăn, mọi thứ đều chông gai. Cô không biết sẽ đi tiếp như thế nào... Cô rất mệt mỏi khi cứ phải căng thẳng mãi. Có vẻ như khi một vấn đề kết thúc thì một vấn đề mới lại nảy sinh. Bố cô là một đầu bếp. Ông dẫn con gái vào nhà bếp, đổ nước vào ba chiếc bình rồi đặt lên bếp đun sôi. Nước sôi rất nhanh... Bình thứ nhất, ông bỏ vào một ít cà rốt thái nhỏ. Bình thứ hai, ông bỏ một quả trứng vào. Bình thứ ba, ông bỏ vào một ít hạt cà phê xay. Và ông không nói lời nào... Cô gái nhăn mặt, chờ đợi một cách thiếu kiên nhẫn, tự hỏi không hiểu bố đang làm gì. Sau 20', ông bố tắt ba cái bếp. Ông đổ cà rốt, trứng và cà phê ra, mỗi thứ để riêng vào một cái bát... Ông quay sang hỏi cô con gái: "Con nhìn thấy những gì? Cà rốt, trứng và cà phê phải không? Con hãy chạm vào cà rốt xem". Cô gái cầm những mẩu cà rốt lên... chúng rất mềm. "Con xem trứng đi", ông bố lại bảo. Cô con gái đập quả trứng ra... quả trứng đã được luộc chín. Cuối cùng, ông bố bảo cô con gái thử nhấp một ngụm cà phê. Cô con gái uống thử và mỉm cười vì cà phê đặc và thơm. "Nhưng túm lại là gì ạ?", cô con gái vẫn không hiểu. Ông bố giải thích: "Những thứ này đã cùng trải qua một thử thách như nhau là nước sôi... nhưng mỗi thứ lại "phản ứng" khác nhau... Lúc đầu cà rốt có vẻ cứng cáp và mạnh mẽ, nhưng sau khi bị đun trong nước sôi, nó mềm ra và mất đi sự mạnh mẽ của nó... Trứng lúc đầu rất dễ vỡ, nó có một lớp vỏ cứng để bảo vệ phần bên trong rất lỏng và mềm. Nhưng sau khi bị đun trong nước sôi, phần bên trong của nó trở nên khô cứng... Hạt cà phê xay thì rất chắc chắn. Sau khi bị đun trong nước sôi, nó đã thay đổi chính cốc nước... Vậy con gái thân mến, con giống thứ gì, cà rốt, trứng hay cà phê? Nếu một con người giống như cà phê, thì khi mọi thứ tồi tệ nhất xảy ra, con người đó vẫn tốt lên và làm cho cuộc sống cũng tốt hơn...".