[uk.hardware.info] Vài ngày trước, chi nhánh forum chúng tôi tại Hà Lan đã tiếp nhận một trường hợp khiếu nại của một user về bo mạch chủ Gigabyte mà anh ấy mua có những đặc tính thiết kế khác hẳn so với bản gốc và những điểm thay đổi này có thể thấy rõ khi so ảnh thực tế của user này với hình sản phẩm đăng trên shop bán lẻ. Qua quá trình tìm hiểu trên Google thì chúng tôi thấy hãng điện tử Đài Loan đã tái sản xuất (revision) khá nhiều bo mạch chủ của mình, hầu hết đều nằm ở phân khúc rẻ tiền. Gigabyte đã tái sản xuất khá nhiều bo mạch chủ của mình, sử dụng lại tên sản phẩm gốc kể từ thời xa xưa rồi. Điều này không có gì đặc biệt để nói. Các bo mạch chủ dạng này thường dễ dàng được nhận biết thông qua các dòng chữ Rev 2.0 hay Rev 3.0 v.v... Tuy nhiên, có vẻ như gần đây các bản revision của bo mạch chủ đang được định hướng tinh giảm giá thành. Với những bo mạch chủ thuộc dạng nghi vấn mà chúng tôi test ở đây thì chúng tôi luôn soi rất kỹ những điểm khác biệt dạng như số lượng phase nguồn CPU có giảm không hay việc loại bỏ chip BIOS thứ hai trên bo mạch. Hai bản revision của bo mạch chủ B85M-HD3. Liệu có khó khăn để nhận ra sự "khác biệt" hay không? Dù Gigabyte rất thành thật trong việc phân biệt các bản revision trên website của mình (nhưng những thay đổi dạng như số phase nguồn CPU giảm thì lại không thấy trong phần đặc tả chi tiết), nhưng vấn đề chúng tôi đang hướng đến không phải là đây. Vấn đề mà chúng tôi muốn đề cập đến là việc Gigabyte trưng sản phẩm ra thị trường bán, dùng lại thông tin về nhà sản xuất cũng như mã UPC giống hệt như phiên bản gốc. Chính vì thế mà các nhà phân phối cũng như shop bán lẻ online (những đối tượng bán hàng chủ yếu dựa trên các thông tin này) không thể thấy rõ sự khác biệt. Và qua đó, họ nhận hàng và bán hàng không hề hay biết là hàng mình bán đã có một số thay đổi. Và khi hàng đến tay người dùng cuối thì chẳng có cách gì để nhận thấy sự khác biệt này trừ khi mở hàng ra soi. Vì vậy, là một người tiêu dùng tiềm năng, bạn sẽ kiểm tra thông tin đặc tả chi tiết và hình ảnh của sản phẩm tại các shop bán lẻ, nhưng tất cả đều dựa trên phiên bản gốc; một khi đã đặt hàng chắc chắn bạn sẽ nhận hàng tái sản xuất với số revision mới hơn. Vì thế trên các trang web so sánh giá cả sản phẩm như Hardware.info chúng tôi luôn sử dụng mã UPC và mã sản phẩm để phân loại thông tin, những thông số này không giúp cho việc nhận biết các revision mới của bo mạch chủ vì nó chỉ show ra những thông tin của sản phẩm gốc mà thôi. Vì thế khách hàng sẽ không có được những thông tin chính xác để cân nhắc đặt hàng. Tái sản xuất các sản phẩm đang bán mà không đổi thông tin mã sản phẩm và UPC là chuyện không chỉ riêng Gigabyte mới có. Chúng tôi đã có rất nhiều thread thảo luận về việc các nhà sản xuất nguồn PSU như Nexus, Antec, Seasonic và XFX có động thái tương tự Gigabyte. Tuy nhiên có một điểm khác biệt rất quan trọng: hầu hết các trường hợp mà chúng tôi thảo luận về những thương hiệu này thì các sản phẩm tái sản xuất của họ luôn được đánh giá cao hơn người tiền nhiệm. Mặc dù chúng tôi vẫn bảo lưu quan điểm của mình về việc thay đổi mã sản phẩm và UPC với các sản phẩm tái sản xuất, nhưng nếu các sản phẩm revision này tốt hơn người tiền nhiệm thì không có gì để nói, trừ khi chúng tệ hơn cả phiên bản gốc. Thêm một trường hợp tương tự nữa mà chúng tôi từng đối mặt là với dòng SSD Kingston V300 khi sản phẩm bán ra của dòng SSD này sử dụng chip flash nhớ khác hẳn với loại mà chúng tôi test đầu tiên. Việc này dẫn đến hiệu năng của SSD bị giảm rất nhiều trong các bài test của chúng tôi. Kingston nói rằng họ không thay đổi gì so với đặc tả chi tiết trên website chính thức, trường hợp này giống với bo mạch chủ Gigabyte mà chúng tôi đang nói tới đây. Tuy nhiên, chúng tôi cũng như Kingston đều cho rằng sẽ là không khôn ngoan một chút nào cả nếu bán hàng có hiệu năng không như khách hàng họ mong đợi vì họ thường xuyên xem các bài đánh giá và xem hình ảnh thực tế về sản phẩm trên mạng. Nếu vẫn còn nghi vấn, phải thử nghiệm thực tế Để giải quyết nghi án "treo đầu dê bán thịt chó" này, chúng tôi đã đặt mua 2 bo mạch chủ thuộc phân khúc rẻ tiền của Gigabyte là B85M-D2V và B85M-HD3 (cả hai đều là Rev 2.0) từ Azerty.nl và Alternate.nl. Rất tiếc là chúng tôi không có mẫu gốc Rev 1.0 của bo mạch chủ thứ nhất nhưng chúng tôi có hình ảnh của phiên bản Rev 1.1 nên cũng có cơ sở để phân tích. Bo mạch chủ thứ hai thì mẫu gốc chúng tôi vẫn còn giữ nên chúng tôi vẫn có thể làm một số bài test để tìm ra liệu có sự khác biệt nào về hiệu năng - và khả năng là sẽ có chăng? Đây là 2 sản phẩm sẽ được thảo luận trong topic này: So sánh sự khác biệt giữa hai bản revision B85M-D2V Như đã nói ở trên, chúng tôi không có bản Rev 1.0 (hay bản gốc) của bo mạch chủ này trên tay nhưng hình ảnh phiên bản Rev 1.1của nó thì chúng tôi vẫn còn giữ trong bộ công cụ so sánh giá cả của chúng tôi. Dưới đây bạn sẽ được thấy hình ảnh của 2 bo mạch chủ B85M-D2V bản Rev 1.1 và 2.0, hãy bỏ qua vụ màu sắc của bo mạch vì hình ảnh được chụp bởi 2 luồng sáng khác nhau. REV 1.1 REV 2.0 Những điểm khác biệt mà chúng tôi nhận thấy như sau: Rev 1.1 có 3 MOSFET trên 1 phase nguồn CPU còn Rev 2.0 chỉ có 2 MOSFET. Rev 1.1 có 2 BIOS có chức năng Dual BIOS còn Rev 2.0 thì chỉ có 1 BIOS. Rev 1.1 có thêm chip phụ ASMedia gần cổng HDMI và trên Rev 2.0 thì không có. Rev 2.0 có ít linh kiện SMD xung quanh chip âm thanh. Rev 2.0 có ít linh kiện SMD xung quanh chipset. Điểm khác biệt số 2 theo chúng tôi là quan trọng nhất vì Dual BIOS là chức năng đặc biệt của Gigabyte, nhiều trang web bán lẻ vẫn còn để thông tin bo mạch chủ B85M-D2V có Dual BIOS nhưng bạn sẽ không được hưởng chức năng nếu mua bo mạch chủ này ở thời điểm hiện tại. Nếu chỉ dựa trên hình ảnh thì chúng tôi không thể nói nhiều được về việc số lượng MOSFET ít hay các linh kiện còn thiếu có ảnh hưởng gì đến hiệu năng không nhưng các bài test trên B85M-HD3 sẽ cho chúng ta thấy các kết quả thú vị đấy... Những điểm khác biệt kèm theo kết quả test giữa hai bản revision B85M-HD3 Với bo mạch chủ này chúng tôi cũng có 2 bản revision, Rev 1.0 vẫn còn trong phòng test lab từ năm 2013, Rev 2.0 thì chúng tôi mới mua từ shop bán lẻ online. Với 2 revision này thì chúng tôi không thấy những điểm khác biệt cho thấy Rev 2.0 bị mất những tính năng đã có ở bản Rev 1.0, nhưng rõ ràng ở 2 hình dưới đây chúng ta sẽ thấy rất rõ bản Rev 2.0 có ít linh kiện hơn. REV 1.0 REV 2.0 Điểm khác biệt quan trọng dễ nhận thấy nhất là nằm ở số lượng phase nguồn CPU. Rev 2.0 chỉ có 3 phase trong khi Rev 1.0 có đến 4 phase. 3 phase của Rev 2.0 mỗi con đều có 2 MOSFET, trong khi Rev 1.0 dùng 3 MOSFET mỗi phase. Ngoài ra, MOSFET của Rev 1.0 đạt chuẩn 69A trong khi Rev 2.0 chỉ là 52A. Tính tổng cộng thì Rev 1.0 có 12 bộ MOSFET 69A, Rev 2.0 có 6 bộ MOSFET 52A. Đấy là sự khác biệt cực lớn mà bạn không thể bỏ qua. Chúng tôi đã flash BIOS mới nhất cho cả 2 bo mạch chủ và thử nghiệm chúng với CPU i7-4770K. Chế độ Turbo Boost trên Rev 1.0 sẽ tự động đẩy xung CPU lên 3.9GHz cho tất cả các core khi tải nặng tuy nhiên ở bên Rev 2.0 do sử dụng cơ chế Turbo Boost chuẩn Intel mặc định nên chỉ 1 core là lên được 3.9GHz còn nếu tất cả các core thì chỉ lên 3.7GHz khi tải nặng. Tất nhiên điều này sẽ ảnh hưởng đến hiệu năng các benchmark ở bản Rev 2.0. Tuy nhiên khi test, chúng tôi cũng set xung bằng tay cho bản Rev 2.0 để khi Turbo Boost nó cũng lên được mức 3.9GHz cho tất cả các core và kết quả test ra thì vẫn thấp hơn so với Rev 1.0 dù mức chênh lệch là rất nhỏ. Tuy vậy, Rev 2.0 lại có lợi thế về điện năng tiêu thụ khi nghỉ do nó có số lượng linh kiện ở khu vực phase nguồn CPU ít hơn so với người tiền nhiệm. Sau khi chạy các benchmark hiệu năng xong chúng tôi tiếp tục test nhiệt độ và độ ổn định với phần mềm Prime95 cùng bài test Small FFT vốn sẽ rút 100% công lực của CPU. Và qua đó, CPU 4770K trên Rev 2.0 đã tuột xung xuống 800MHz sau khoảng 2.5 phút, dùng máy đo nhiệt hồng ngoại chúng tôi đo được nhiệt độ MOSFET lên đến 112*C. Nếu set chế độ tăng tốc bằng tay (như chế độ mặc định bên Rev 1.0) thì CPU tăng tốc chỉ sau 15 giây lên 800MHz. Bên Rev 1.0 tụt xung xuống 800MHz sau 3 phút ở chế độ tăng tốc mặc định và lúc này thì nhiệt độ cao nhất của MOSFET mà chúng tôi đo được chỉ chừng 100*C. Nếu set chế độ tăng tốc như Rev 2.0 trên Rev 1.0 thì CPU lên xung cao nhất là 3.7GHz và chạy vững ở mức đó hơn 1 giờ đồng hồ test Prime95. Nhiệt độ MOSFET lúc này cũng chẳng cao hơn 90*C. Tất nhiên Prime95 không phải là phép test để thấy thực tế sử dụng của bo mạch chủ nên chúng tôi test thêm một số bài test khác như Tech Arp x264 để convert phim qua codec H.264. Và thời gian benchmark là khoảng 10 phút. Trong lúc encode phim chúng tôi không thấy xung rớt trên bo Rev 1.0 ngay cả khi ở chế độ tăng tốc mặc định của nó lên đến 3.9GHz. Nhiệt độ MOSFET khoảng 80*C. Rev 2.0 với chế độ tăng tốc của Intel, chỉ sau 6 phút là xung tuột xuống 800MHz và nhiệt độ MOSFET nằm giữa khoảng 105 và 112*C. Xung rớt tất nhiên sẽ làm giảm điểm. Với bo mạch Rev 2.0 được set chế độ tăng tốc bằng tay như Rev 1.0 thì CPU hạ xung chỉ sau 4 phút encode phim. Rõ ràng với nhiệt độ tải cao hơn ở các linh kiện cấp nguồn CPU và MOSFET trên bo Rev 2.0 cho thấy bản tái sản xuất này sẽ không bền so với Rev 1.0 trong thời gian dài sử dụng. Những gì mà chúng tôi test cho thấy rõ ràng bộ phận cấp nguồn cho CPU chưa thực sự sẵn sàng để phục vụ user ngay cả với những tác vụ bình thường nhất. Phép thử encode phim cho thấy sự bất lợi rõ rệt của việc số lượng MOSFET ít sẽ dẫn đến nhiệt độ gia tăng rất nhanh trong khi tải nặng, dẫn đến CPU phải hạ xung và hiệu năng sẽ giảm theo là điều tất yếu. Rev 1.0 tuyệt nhiên không có những điểm yếu như vầy. - - - - - - - - - - Gộp bài viết - - - - - - - - - - Kết luận sơ bộ Đầu tiên: tại Hardware.info này, chúng tôi cực kỳ nghiêm túc trong các bài đánh giá sản phẩm và độc giả của chúng tôi cũng thế trong việc tìm hiểu thông tin và xem đánh giá của chúng tôi trên các sản phẩm họ sắp bỏ tiền túi ra mua. Nếu Gigabyte cung cấp mã sản phẩm cũng như mã UPC khác cho các bo mạch chủ Rev 2.0 và Rev 3.0 cũng như cập nhật hình ảnh sản phẩm cho các shop bán lẻ thì mọi chuyện chẳng có gì để nói. Đằng này, với những gì mà chúng tôi test và kết quả show ra cho thấy chẳng có lý do gì mà hãng điện tử Đài Loan phải tái sản xuất các bo mạch chủ này cả. Còn bây giờ bất kỳ shop bán lẻ hay người dùng cuối đặt mua một chiếc bo mạch chủ dựa trên các bài đánh giá sản phẩm gốc và nhận được sản phẩm không giống như mô tả, đã vậy hiệu năng còn suy giảm như các bài test mà chúng tôi thử nghiệm, thì đây là rõ ràng là vấn đề nghiêm trọng đấy. Kết quả phân tích của B85M-D2V thực sự rất đáng kinh ngạc khi Gigabyte cắt mất một tính năng quan trọng vốn có ở sản phẩm gốc là Dual BIOS. Nó giống như đặt mua xe hơi trong catalogue quảng cáo và nhận được chiếc xe mất đi gương hậu bên phải vậy: Không thể chấp nhận được! Còn B85M-HD3 ít nhất trên giấy tờ thì ít vấn đề hơn khi mà tất cả các thông số đặc tả chi tiết của Rev 1.0 đều có trên Rev 2.0. Tuy nhiên ác một chỗ là Gigabyte không hứa hẹn gì về việc bo mạch chủ sẽ đi kèm với 4 phase nguồn cấp CPU. Các phép thử của chúng tôi cho thấy bản Rev 2.0 nhiều khả năng sẽ có tuổi thọ thấp hơn do có số MOSFET ít hơn và chắc chắn sẽ dẫn đến hiệu năng thấp hơn bản Rev 1.0 ở các ứng dụng rất bình thường (như encode phim chẳng hạn). Câu trả lời từ Gigabyte Vài ngày trước, chúng tôi có đến gặp gỡ bên phía Gigabyte để bình luận về các kết quả test của chúng tôi và trả lời một số câu hỏi chuyên môn. Cho đến thời điểm này chúng tôi vẫn chưa nhận được câu trả lờ nhưng một khi đã có thì chúng tôi sẽ công khai các bài trả lời trong phần cập nhật của bài viết này. Nguồn: Hardware.info