Có một lần sau khi tiễn đưa Đức Phật và các Thầy Tỳ Khưu trở về Tịnh Xá Kỳ Hoàn, A Xà Thế Vương cùng đình thần lui về yến phòng dự buổi yến tiệc thân mật và bàn vài việc cần làm thêm trong ngày đại lễ sắp đến.Vua A Xà Thế Vương niềm nở nói với các đại thần: Các khanh! Quả nhơn rất bằng lòng và thoả mãn! Các khanh đã lo liệu quá ư tươm tất cho buổi lễ cúng dường Đức Phật và Giáo Hội. Đại thần Kỳ Bà đứng dậy, ngần ngừ trong giây lát rồi thong thả tâu: Tâu Đại Vương, ngoài sự cúng dường trai phạn và y phục mà Đại Dương đã dâng lên Đức Chí Tôn và Giáo Hội, theo thiển ý của thần thì không việc gì có ý nghĩa hơn việc cúng dường ánh sáng. Vua phán: Hay lắm! Hay lắm! Ý kiến của khanh rất chí lý. Chiều hôm ấy trên đường trở về xóm nghèo, một bà lão hành khất gặp rất nhiều lính tráng xe cộ tấp nập chuyên chở những thùng dầu đèn vô số những chiếc lòng đèn ngũ sắc rực rỡ. Hỏi ra thì biết những lễ vật nhà vua đem đi cúng dường Phật và Giáo Hội. Bà cho tay vào bị và moi móc hết ra vỏn vẹn chỉ được có hai đồng tiền. Một sự quyết định nhanh chóng trong tâm niệm khiến bà hoan hỷ cầm hai đồng tiền vào quán gần đó và nói: Thưa cậu! Cậu làm ơn bán cho tôi hai đồng tiền dầu thắp. Mua làm gì? Bà sao không đi mua đồ ăn lại đi mua dầu? Nhà cửa đâu mà dầu với đèn? Thưa cậu, tôi nghe các cụ tuổi tác trong xóm bảo: “Ngàn năm một thuở Đấng Giác Ngộ mới ra đời một lần, tôi may mắn được gặp nhưng chưa có lễ mọn nào để dâng hiến lên Ngài. Điều ấy làm tôi vô cùng ân hận. Vừa rồi được biết Đức Vua A Xà Đế Vương sửa soạn cây đèn để dâng lên Đức Thế Tôn và Giáo Hội. Tuy nghèo khổ tôi cũng xin nguyện đem hai đồng tiền mới xin được đây mua dầu dâng ánh sáng lên Ngài. Nghe bà lão hành khất tỏ nỗi sự tình và tấm lòng chân thành với Đấng Giác Ngộ, người chủ quán nhìn bà một cách cảm mến và hạ giọng: Hai đồng tiền chỉ được hai muỗng, nhưng tôi xin tặng ba muỗng nữa là năm. Mong bà nhận cho. Cảm ơn chủ quán, bà ra về với niềm hoan hỷ của người được kẻ khác biểu đồng tình và giúp mình trong việc phước thiện. Phát nguyện xong, đặt cây đèn lên bờ thành, bà đi thẳng vào Tịnh Xá, chí thành đảnh lễ Đấng Giác Ngộ rồi lui ra về. Suốt đêm hôm ấy, tuy có những đội lính thay nhau lo việc châm dầu, thắp lại, nhưng trong số đèn của nhà Vua ít có cây được hoàn toàn. Cây thì bị gió thổi tắt, cây thì hụt dầu, hết tim v.v... Duy chỉ có cây đèn của bà lão hành khất là nổi bật sáng rực rỡ trong muôn vạn cây đèn khác, và mãi đến sáng rõ vẫn không tắt mà dầu cũng không hao. Sáng hôm ấy Đức Phật gọi Tôn Giả Mục Kiền Liên bảo ra tắt những cây đèn còn đỏ. Tôn Giả Mục Kiền Liên làm theo lời Phật. Đến lượt cây đèn của bà lão hành khất, thì ba lần Tôn Giả quạt mạnh nhưng ánh sáng cũng không mất. Lần thứ tư, Tôn Giả cầm ngay vạt áo cà sa quạt hắt vào đèn, nhưng đèn lại sáng hơn trước. Ngay lúc ấy, Đức Phật đến gần và điềm đạm bảo: -Thôi! Đệ tử hãy thôi! Vì là ánh sáng công đức của đấng giác ngộ trong tương lai cho nên sức mạnh và oai thần của đệ tử không thể nào dập tắt được. Câu chuyện này đến tai vua A Xà Thế Vương, Ngài cho vời đại thần Kỳ Bà đến để thuật lại câu chuyện và hỏi: -Kỳ Bà! Khanh đã biết quả nhơn làm rất nhiều công đức nhưng không thấy Đức Thế Tôn dạy gì về quả báo của quả nhơn, mà bà già hành khất chỉ cúng một cây đèn lại được Ngài thọ ký là nghĩa làm sao? Đại thần Kỳ Bà nghiêm nét mặt và đứng yên. Kỳ Bà! Ngươi đừng ngại gì cả, quả nhơn muốn tìm hiểu những khuyết điểm chứ quả nhơn không bao giờ dám chê Đức Thế Tôn. Nghe đại thần Kỳ Bà phân tích tỷ mỷ về động cơ của sự cúng dường, A Xà Thế Vương sau một hồi tự xét lại bản thân nhận thấy lời vị đại thần rất đúng với tâm địa của mình. Và từ đấy trở đi, ông được giác ngộ, nêu gương tốt cho cả triều đình và rộng ra trong nước. Nguồn: câu chuyện phật pháp Xem thêm: Ðại Bi trì nghiệm Ðại bố thí Ðại vương và khỉ chúa