Author: Rumer Nội dung: Lấy cảm hứng từ bộ manga- anime Gate thus JSDF fought there. Thế kỉ 21, Một cánh cổng kì lạ xuất hiện tại trung tâm Ginza, Tokyo Nhật Bản, nó từ đâu đến và ai tạo ra nó thì vẫn còn là điều bí ẩn. Từ phía kia cánh cổng, Một đội quân gồm những chiến binh cổ đại liền xuất hiện và tàn sát dân chúng. Quân đội nhật phản công và sau khi dành thắng lợi, họ quyết định tiến qua cánh cổng bí ẩn đó để truy bắt kẻ chịu trách nhiệm cho “thảm kịch Ginza”. Quân đội Đế chế và lực lượng phòng vệ Nhật (JSDF) chạm trán nhau thêm lần nữa tại đồi Alnus và chiến thắng vẫn nghiêng về phía những binh đoàn thế kỉ 21. Biết rằng thất bại là không tránh khỏi, Pina, công chúa của Đế chế và cũng là người đầu tiên tiếp xúc với JSDF đề xuất một nền hòa bình. Nhật bản chấp nhận và tuyên bố với các nước trên thế giới rằng “ Thế giới mới” là một đặc khu chính trị và kinh tế nằm trong lãnh thổ Nhật. Fanfic lấy cột mốc từ chương 49-50 của bộ manga. Ngay tại thủ đô đế chế, Sadera, Hoàng đế Molt Son Augustus đột ngột lâm bệnh, thái tử Zorzal một kẻ tàn nhẫn và bốc đồng chớp lấy thời cơ tuyên bố mình là nhiếp chính, âm mưu phá hỏng hiệp ước hòa bình mong manh vừa đạt được. Phía bên này, các cường quốc khác cũng bắt đầu khởi động các kế hoạch xâm nhập Đặc khu.
CHAPTER 1: KAYLE Biển Nam Nhật Bản – 3 :00 sáng Kayle Wilson giật mình tỉnh giấc khi chiếc trực thăng đi vào vùng thời tiết xấu trên biển nam Nhật Bản. Khoang máy bay bắt đầu rung lắc, còn động cơ thì cứ phát ra những âm thanh rầm tú đáng sợ, làm người ta dễ nghĩ đến chuyện nó sắp nổ đến nơi. Nếu một mai ngày tận thế đến thì ắt hẳn nó phải bắt đầu như thế này đây. Khi cô còn chưa kịp hoàng hồn thì một cơn chấn động nữa tràn đến, lần này có vẻ nguy hiểm hơn, Kayle ngã nhào khỏi ghế, đầu đập vào tường. Mặc kệ cơn đau choáng váng, cô liền vùng dậy, thắt lại đai an toàn rồi khom người lại ; Bên ngoài, mặt biển tối đen nhưng tĩnh lặng,và lãnh lẽo. Một tín hiệu tốt, trong trường hợp xấu nhất, phi hành đoàn buộc phải bơi một quảng đường dài đến bờ. Cơ trưởng vẫn chưa phát tín hiệu cấp cứu, và khi trực thăng đâm sầm xuống mặt nước thì có lẽ đã quá muộn. Họ không có phao cứu hộ và cũng ai chẳng cần đến nó làm gì nếu chiếc Black Hawk vỡ tan tành sau cú va chạm. Không đủ thời gian để vớ theo thứ gì được nữa, cô kết luận, họ phải thoát khỏi chỗ này thật nhanh trước khi biển cả nhấn chìm mọi thứ. Giờ thì Kayle chỉ mong dòng nước kia đừng quá lạnh lẽo vì sự thật là cô bơi rất kém. “Cố lên nào!” giọng cơ trưởng vang lên trong bộ đàm, trầm và nặng, có mùi Whiskey . “Chris, chúng ta rơi nhanh quá.” Cơ phó hốt hoảng kêu lên. “Lo để ý bảng thủy lực đi.” Chris quát “ Havey ! bám chặt vào.” Havey là tên của chàng xạ thủ súng máy, hai mươi tuổi, người Colorado, răng trắng và má lúng đồng tiền. Mặt mày cậu ta giờ tái mét, tuyệt vọng bám lấy đai bảo hộ như những người bị đắm tàu, nhất quyết không chịu buông mảnh ván bé nhỏ. Nước bắt đầu bắn lên cửa sổ, và Kayle biết trực thăng đang bay rất thấp. Chừng hai mươi mét là cùng. Đèn cứu hộ tự động bật lên, đỏ sẫm, thê lương như màu máu, còi hú inh ỏi. Khi những ngọn sóng nhấp nhô bắt đầu xuất hiện trên ô cửa kính mờ đục thì cô biết chuyện gì sắp xảy ra Năm giây nữa thôi, không hơn. Linh tính đang mách bảo cô. Một tiếng động lớn, vỡ toang và thế là xong Hít thật sâu , Kayle chờ đợi. Cô đã nhẵn mặt với thần chết, một lão già cô đơn, ảm đạm, không phải người đàng hoàng gì cho cam. Lão vung tay vào không khí, nắm lấy trái tim của một kẻ đáng thương nào đó, rồi ung dung nhìn nó lạnh dần. Thường thì các ông bà cụ quá tuổi thất thập là con mồi dễ xơi, nhưng gần đây lão lại chú ý tới đám thanh niên và những hoạt động sôi nổi của họ dưới nắng sa mạc. Phải nói là thần chết đang ăn nên làm ra, tuy có vài vụ thất bại nhưng đâu có hề gì vì lão luôn để lại một cái hẹn khi ra đi, như nhắc mọi người nhớ rằng sớm muộn gì họ cũng gặp lại lão. Nhưng hôm nay tử thần lại hào phóng tặng thêm cho cô một cái hẹn nữa . Chiếc Black Hawk làm một cú xoay người tuyệt đẹp trên mặt biển, lực quán tính làm cơ bắp cô căng lên, ngực nhói đau và hai tai điếc đặc. Mọi chuyện diễn ra chỉ trong vòng vài nhịp tim, và khi Kayle kịp định thần lại thì nó đã kết thúc rồi. Chris vừa có một màn cứu thua ngoạn mục, tựa như Roy Jones mắt sưng vù, hàm bị lệch tung đòn đấm móc hạ James Toney trước khi chuông hiệp mười hai kịp đổ. “Thoát rồi !” Chris reo lên vui sướng “ Năm mét có hơn đấy.” Kayle trộm nghĩ liệu hơi men đang làm ông ta cao hứng hơn bình thường không vì cô thấy hai người còn lại thì chỉ biết ngồi chết lặng trên ghế. Đây có lẽ là lần đầu tiên họ bước một chân xuống mộ, một trải nghiệm không lấy gì làm hay ho. Khi trực thăng đã lên cao hơn một chút thì đèn cứu hộ và còi cũng tắt ngấm. Bóng tối tràn vào khoang, tham lam chiếm hết hết mọi khoảng không lớn nhỏ, trừ gương mặt của Havey, u sầu và mệt mỏi dưới ánh trăng mờ xuyên qua lỗ châu mai. Trong cảnh tranh tối tranh sáng, Kayle cố tìm lại hành lí, nó đã văng đi đâu mất sau lần chết hụt vừa rồi. Gọi là hành lí nhưng thật ra cô chỉ mang theo vài bộ quần áo, kem đánh răng và khăn tắm trong cái Ba lô có đính logo Fort Bragg, hậu quả của việc bị lôi ra khỏi giường lúc hai giờ sáng. Giờ muốn tìm nó cũng không phải là chuyện dễ vì trong cái khoang rộng chừng bốn mét vuông này là cả một mớ hỗn độn: bưu phẩm từ quê nhà gửi đến, gói lại bằng giấy bạc văng tứ tung trên sàn, vài cái thùng gỗ trông giống thùng đạn cối nằm xếp chồng lên nhau, tạo thành một bức tường màu xanh xám chắn mất lối đi đến buồng lái. “Tuyệt thật ” Cô lầm bầm “ Họ gọi mình dậy lúc hai giờ sáng và nhét mình lên một cái xe thồ.” Bất cứ khoảng trống nào còn sót lại đều được tận dụng triệt để, chỉ cần hạ băng ghế phụ xuống là sẽ có chỗ cho vài block bia, một ai đó, mà cô đoán là Havey đã nảy ra ý tưởng biến trầng trực thăng thành một tác phẩm nghệ thuật như cái mà ta thường thấy trong các nhà thờ ở Rome. Nàng Megan Fox tóc đen khiêu gợi trong bộ bikini màu da báo, cạnh bên là Scarlett Johanson, tóc vàng bốc lửa nằm dài trên bãi biển cùng dòng chữ “Chào mừng đến Malibu”. Đàn ông sinh ra để làm chiến binh cũng như phụ nữ sinh ra để thỏa mãn chiến binh, Nietzsche chắc chắn thế và do bọn đàn ông thì tin sái cổ nên Kayle đành chấp nhận trừ việc cô không nghĩ mình sẽ thỏa mãn bất cứ ai trong số bọn họ. Phải mất chừng năm phút để Havey lấy lại bình tĩnh, cậu lấy tay lau đi những giọt mồ hôi trên trán nhưng mắt vẫn lơ đãng nhìn về đất liền, nơi ánh đèn thành phố chỉ còn là những đốm mờ trong sương. Với một cảm giác có phần ích kỷ, cô hy vọng tình trạng u ám này kéo dài, ít ra là cho đến khi họ đến Tokyo vì không biết bao nhiêu lần, cô phát giác cặp mắt ấy đang hau háu nhìn mình. Đó là một cái nhìn làm người khác bối rối, cứ như họ đang trần truồng vậy. “Havey, kiểm tra thiệt hại đi. Cậu có hai phút. Thiếu tá không sao chứ? ” “Vẫn còn sống” Cô đáp cộc lốc “ Chuyến bay không như tôi mong đợi.” Dù thấy mình hơi bất lịch sự nhưng nghĩ lại cô có quyền nói năng như thế vì nói gì thì nói, cô là người có cấp bậc cao nhất ở đây. “Xin lỗi về sự cố vừa rồi” Ông ta cười cười “ Thường thì thời tiết không hay nhặng xị như vậy đâu nhưng cô biết rồi đấy, chúa thích làm theo cách riêng của ông ta. Tôi luôn tin rằng nếu chúng ta …” “Tôi không tìm thấy đồ của mình.” Kayle bực bội ngắt lời ,việc mò mẫm trong bóng tối đang bào mòn lòng kiên nhẫn của cô, trong khi đầu vẫn còn đau như búa bổ bởi cú va chạm . Anh chàng xạ thủ nghe vậy liền tháo dây bảo hộ ra, nhảy vào giúp. Một vài lần, tay họ vụng về chạm vào nhau và cô là người chủ động rút tay lại. Havey đang cười, Kayle không thấy rõ mặt cậu nhưng cô biết thế. Tám tháng ở Fort Bragg là một trời kinh nghiệm . Họ sẽ tìm đủ mọi cách để chạm vào bạn từ phòng ăn ra bãi tập. Sĩ quan huấn luyện, đồng đội của cô, thợ nấu, thợ bảo trì và bảo vệ, tất cả bọn họ. Cánh đàn ông dường như bị ám ảnh bởi việc đó , hoặc có thể do chính Kayle mới là người bị ám ảnh nên đâm ra hoang tưởng. Đời nào có chuyện mọi người đều thông đồng với nhau được, cô tự nhủ vậy. “Trong này tối quá” Havey nói “Đợi một chút” khi ông ta vừa dứt câu thì đèn bật sáng. Lần này không phải màu đỏ nữa mà là một màu xanh lá mạ . Chàng xạ thủ súng máy không gặp mấy khó khăn để tìm thấy cái Balo và khi cô định nói cảm ơn thì nụ cười đáng ghét ấy lại xuất hiện. Dưới ánh đèn mờ mờ, nó càng trông tởm lợm hơn. “Tôi thắng rồi nhé trung úy” Havey tinh quái nói, không kiềm nổi phấn khích “ Mười đô! Không! hai mươi chứ.” “Mười thôi” Chris gạt đi nhưng khá yếu ớt “Đừng có tham lam” “Hai mươi. Thiếu úy Cooper có thể làm chứng.” Thoạt nhiên, cô không hiểu họ đang nói về cái gì nhưng nó ắt phải liên quan đến một vụ cá cược. Copper khẳng định rằng là đàn ông thì không nên hứa cụi và Chris phải miễn cưỡng gật gù. Không gian bị náo động bởi sự sôi nổi của ba người bọn họ, tuyệt nhiên chẳng ai nhớ đến việc mình vừa suýt mất mạng. Chris rất muốn biết Havey định làm gì với số tiền ấy và ông ta cũng tự vạch ra một kế hoạch khá lằng nhằng, đầy những khả năng nếu mình là người chiến thắng. “Đi bơi. Hồ bơi của quân đội có giá vé năm đô” Havey nói “ Số còn lại tôi sẽ mua một chai Labor” “Nó có giá một trăm năm mươi đô đấy” Copper tặc lưỡi“ không đủ.” “Không có vấn đề gì, tôi vớ được một mánh lớn hai trăm đô vào ngày hôm qua rồi. Ngài có biết D.D không ? Cái tên đẹp mã bên khu Nanto ấy?” “Có” Chris gật gù “Nghe đồn là con cưng tay nghị sĩ nào đó, lại giàu có nữa chứ.” Hậu duệ của những ngài tay to mặt lớn luôn nhận được sự chăm sóc đặc biệt- Từ “đặc biệt” ở trong quân đội luôn được hiểu theo cách tiêu cực- Buồn cười thay khi một bộ phận trong quân ngũ lại chính là nguyên nhân khiến số còn lại vác ba lô xung trận. Có hàng nghìn lí do để người ta đi lính. Người thì vì lòng yêu nước thuần túy, chiến đấu bảo vệ giá trị Mỹ - Một thứ mà Kayle vẫn chưa thể xác định được là cái gì. Người thì xem chuyện đi lính như một nghề, nhưng phần đông chọn kiểu đầu húi cua chỉ để đi tìm sự công bằng. Thanh niên xuất thân từ các gia đình làm công ăn lương khó lòng chạm ngón tay lên bãi cỏ của dân thượng lưu. Đó là sự thật phũ phàng dù điệp khúc “ Một giấc mơ mỹ” chưa bao giờ là quá cũ . Những thanh niên như Havey thích thú với cái ý nghĩ rằng chiến trường là nơi họ lập lại trật tự vốn dĩ đã bị đảo lộn từ lâu, nơi tiền, địa vị trở nên vô nghĩa, và chỉ cần một chút liều lĩnh cộng với may mắn, họ sẽ có quyền đứng ngang hàng với lũ hợm hĩnh kia. May mắn thì cô không chắc nhưng về phần liều mạng thì Kayle biết họ có thừa. Suốt thời gian ở trại huấn luyện, cũng may cho Kayle vì ngoài việc cô là phụ nữ ra thì họ không chú ý đến những thứ khác lắm. Chuyện sẽ còn tệ hơn nếu ai đó biết được cha cô là trung tướng Ron. “Hắn luôn mồm bảo rằng mình phục vụ đất nước, và rằng sẽ thật không công bằng nếu hắn ngồi ở nhà nhìn đồng bào mình đổ máu.” Havey nói, tất nhiên là bằng giọng hài hước. “Vậy đấy. Quí ngài D.D đạo mạo, quí ngài D.D sẵn sàng từ bỏ căn biệt thự bên hồ để đến đây với chúng ta ! Toàn là bịa đặt. Hắn ra đây chỉ vì số người vác cái bụng đến gõ cửa nhà hắn đã vượt quá năm” “Sao cậu biết?” Copper ngạc nhiên. “Nếu không muốn người khác biết thì đừng bao giờ làm. Dù gì thì tôi cũng cho hắn một vố. tôi thách hắn cưa đổ con bé người Nhật ở của hàng hóa phẩm trong một tuần” Havey nhúng vai “ nếu tôi thua thì buộc phải trồng cây chuối và sủa gâu gâu mỗi khi gặp hắn trong một tháng. Khỏi phải nói gã tức tối đến mức nào khi vừa chào hỏi được vài câu thì con thì bé chỉ gật đầu rồi chạy biến. Nó không đáp lại gã một lời và tôi thắng cược” Kayle phải thừa nhận cu cậu liều mạng thật. Chris thì lại đinh ninh Havey chơi ăn gian. “Cậu đã gian lận ?” “Chỉ một nửa thôi. Tôi không hề thông đồng với con bé đó và hơn nữa tôi biết nó bị câm lâu rồi.” Hai người phi công cười phá lên. Kayle cũng cười theo, chỉ là một một cái nhếch môi rất nhẹ nhưng vậy cũng đủ làm Havey hài lòng. Cô không phải là loại lạnh lùng, xa cách và cũng chưa bao giờ muốn trở thành người như thế. Kể từ cái ngày Louie bỏ nhà ra đi với vài trăm đô dằn túi, quyết chí ngắm thế giới qua gian bếp của Bobby Van's Steakhouse, trong khi ở bên ngoài, các ngài tài phiệt, những tay chơi cổ phiếu mới phất, và CEO của Goldman Sach đang nhâm nhi rượu vang cùng món bò hầm kiểu pháp thì những gì từng thuộc về anh : khẩu súng săn của anh, phòng của anh, trách nhiệm của anh và quyền thừa kế- cha cô kiên quyết gạch tên anh khỏi di chúc- đều được đẩy sang cô. “Kể từ nay, con là con trai ta .Đừng làm ta thất vọng như thằng Louie’’ Cha cô đã nói như thế sau khi Louie đi được khoảng một tuần Đối với Kayle, lời của ông giống một mệnh lệnh hơn là thỉnh cầu. Đến giờ cô vẫn còn thắc mắc tại sao mình không có chút phản kháng nào, dù là nhỏ nhất trước quyết định kì lạ ấy. Cô đáng nhẽ nên tìm cách từ chối hoặc khăn gói ra đi . Nhưng không, cô chỉ im lặng và chấp nhận. Có lẽ vì chuyện quá bất ngờ ,đường đột nên cô không biết phải làm sao cho đúng hoặc là do cô sợ cha mình lên cơn đau tim nếu nói không . Louie bỏ đi đã là quá sức chịu đựng. Thêm một lần nữa sẽ là đòn chí mạng. Dù luôn cố tỏ ra là kẻ cứng rắn gai góc nhưng có một lần nọ, cô thấy trung tướng ngồi cạnh lò sưởi với khẩu súng săn của Louie trên tay. Ông dùng khăn lau sạch lớp bụi bám trên báng súng rồi cẩn thận đặt nó về chỗ cũ. “Một ngày nào đó, có lẽ thế ” Cha cô nói rất khẽ như cố không cho ai nghe thấy. Lúc bé, Kayle luôn nghĩ mình sẽ lên xe hoa với một nghị sĩ hoặc tướng tá đẹp mã khi lớn lên và thực sự cô đã được nuôi dạy để làm chuyện đó. Cô học trường tư, có thầy dạy kèm riêng để đảm bảo cô sẽ biết lướt mười ngón tay trên đàn dương cầm và đọc Hermet vanh vách bằng ba thứ tiếng. Kayle mơ về những buổi mít tinh ở Boston, ở Carolina và những bữa tiệc rượu Brandy, nơi phòng khách luôn rộn rã tiếng cười của các mệnh phụ phu nhân, trong khi cánh đàn ông bận bàn chuyện cử tri, phổ thông đầu phiếu. Mẹ cô đã có ba mươi tám năm hạnh phúc với một cuộc sống như thế và hiển nhiên cô cũng muốn được như bà. Dù đã năm năm trôi qua, cô vẫn không thôi nghĩ vể cái ngày cô đứng trước gương trong bộ đồ đi săn quá cỡ của Louie, súng trường đeo trên vai, chiếc nón tai bèo xấu xí che mất những lọn tóc mai vàng cô từng tự hào một thời mà than thở “ Mình đang làm cái quái gì thế này ?”. Cha cô dạy cô mọi thứ mà ông đã cố dạy cho Louie khi anh lên mười : săn bắn, cắm trại, nghệ thuật lãnh đạo, truyền thống quân đội. Có vài khó khăn nhưng rồi cô cũng vượt qua được. Kayle bắn rất khá, khá hơn so với cô nghĩ. Trong cuộc thi tác xạ toàn bang một năm sau, cô dành giải nhì chung cuộc. Thành tích này thôi thúc cô điền tên vào trường bắn tỉa lục quân nhưng cha cô liền nhăn mặt. Ông đã dọn lối cho cô vào học West Point dưới sự đỡ đần của một vị đại tá từng mang ơn ông, vô tình thay nay là hiệu phó của học viện. Đó bước đầu tiên để Louie và nay là cô có một chân trong Lầu Năm Góc. Kế hoạch phải nói là rất hoàn hảo, Trung tướng Ron đã lường hết mọi chuyện trừ cái tính cứng đầu của thằng quí tử. À không, ông cũng đâu ngờ cô cũng cứng đầu y như vậy. Cái viễn cảnh phải hy sinh cuộc sống cũ chỉ để đổi lấy ba mươi năm ngồi sau bàn giấy, dự những buổi tọa đàm nhàm chán và chờ đợi đặc ân từ đám bạn già đầy uy quyền của cha mình khiến Kayle phát ngán. Không ! Ngàn lần không. Cha đã biến cô thành một người lính, và cô sẽ sống như một chiến binh đúng nghĩa. Kì lạ thay, lúc đó chuyện phản kháng thật quá ư là dễ. Một ngày cuối tháng giêng, trời vẫn còn se lạnh, người ta thấy một chiếc Lincol dừng lại trước cổng Fort Bragg, ngôi nhà của các lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ. Kayle bước xuống xe với một niềm vui khó hiểu, khác hẳn với ngài trung tướng, rầu rĩ và mệt mỏi lê bước như một kẻ sắp ra pháp trường. “Ta không biết nói gì ngoài việc chúc con may mắn” Cô thấy hai má ông rung lên “Nhưng nếu sau này con đổi ý thì …” “Không đâu” Kayle ngắt lời ông. Cô sẽ không bỏ cuộc giữa chừng “không bao giờ” Thế là Kayle sải bước đi vào trong ,để rồi sáu năm sau, cô lại ước gì mình đã nói “Vâng” “Đó là vụ hai trăm đô, thế còn vụ mười đô?” Kayle vô tư lự hỏi, giống như khi ta vô tình nghe được chuyện trái khoái trong quán rượu rồi mời người kể vài ly bia, hy vọng họ bồi vào một cái gì đó thú vị hơn nữa. Tuy nhiên, chỉ có sự im lặng là hồi đáp. Tự dưng cả ba người bọn họ nín bặt như thể cô vừa phạm thánh. Không hiểu sao cô lại có cảm giác trò cá cược vừa rồi có liên quan đến mình. Mấy trò chơi khăm của đám lính tráng với cấp chỉ huy thì không có gì lạ vì chính cô cũng từng bỏ ra năm dollar ra để đoán cái ngày đại tá Peterson đệ đơn ly dị bà vợ đàng điếm. Tiền thắng cược nào có quan trọng lắm khi niềm vui duy nhất ở đây là đừng bao giờ để bị phát hiện. “Trung úy Chris ?” Cô chờ đợi một câu trả lời. “ À thì…” ông ta ấp úm “Chỉ đơn thuần là về nhiệm vụ ấy mà.” “ Nhiệm vụ ? Nhiệm vụ của ai đây ?” “Của cô, thưa thiếu tá ” Chris e dè đáp Kayle tựa lưng vào ghế, ngồi bắt chéo chân rồi ném cho Havey một cái nhìn đe nẹt khiến mặt mày cậu ta biến sắc. Phải thừa nhận là việc dọa nạt cấp dưới có cái thú vị riêng của nó. Chris hít một hơi rồi nói : “Thiếu tá biết đấy, chúng tôi không hay nhận nhiệm vụ đưa đón cấp sĩ quan. Thường thì những chuyến bay sớm chỉ để chuyển thư và bưu phẩm còn sót lại từ đợt trước mà thôi. Lúc thấy cô ở sân bay, tôi đã nói với Havey rằng cô giống Demi Moore nhưng anh ta lại cho là không.” Nhiều phụ nữ sẽ nhảy cẩn lên khi người ta so sánh họ với nữ minh tinh một thời nhưng Kayle lại thấy khó hiểu vì Demi Moore và cô đâu có điểm gì chung, ngay cả màu tóc cũng khác. “Trong A Few Good men. Cô ấy đóng vai nữ luật sư hải quân đến vịnh Cuba để điều tra án mạng. Tôi nghĩ cô sắp biện hộ cho anh binh nhì nào đó ở Tokyo, có vẻ tôi đoán trật rồi.” Cô nhớ là mình chưa hề nhắc đến nhiệm vụ ở Tokyo, cũng như việc cô là ai và từ đâu đến. Các phi công thường chỉ biết mỗi tên hành khách, nơi đi và điểm đến, ngoài ra thì họ không được cung cấp gì thêm. “Phù hiệu trên túi của cô, thưa thiếu tá.” Havey nhanh nhảu nhảy vào giải thích. Cái phù hiệu đính trên đó giờ như chứng minh thư của cô vậy. Thật sự thì số luật sư quân đội xuất thân từ Fort Bragg gần như là con số không. “Cô thuộc lực lượng đặc biệt sao ?” Cooper tỏ vẻ ngạc nhiên “ Seal hay Delta ?” “Spectre” cô đáp. Đó là cái tên khá lạ lẫm với nhiêù người nhưng nếu đã từng lăn lộn ở Iraq hay Afganishtan thì họ phải biết đơn vị này. Năm 2007, Hoa Kỳ nhận ra rằng họ không thể chống lại lối đánh du kích đô thị theo cách thông thường được. Cuộc xung đột gần thập kỷ chỉ quanh đi quẩn lại trên những con phố đầy bụi, những khu nhà tồi tàn vùng ngoại ô, nơi quân nổi loạn tha hồ tổ chức phục kích, còn mấy tay diều hâu ở Washington thì đứng ngồi không yên với đám người biểu tình ở đồi Capitol mỗi khi đạn cối đánh sập khu nhà nào đó. Do vũ khí hạng nặng tỏ ra kém hiệu quả nên họ đành quay sang sử dụng các đội đặc nhiệm. SEAL và Delta là những người đầu tiên vào cuộc, họ tham gia các trận càn cùng lính thủy đánh bộ, những vụ đột kích lúc năm giờ chiều, khi đối phương còn bận đọc kinh cầu nguyện. Không còn cảnh nhà cửa tan hoang vì bom đạn nữa, thương vong cũng giảm rõ rệt, tướng lĩnh hoan hĩ, dân Mỹ vui mừng, tất cả đều hạnh phúc trừ người Iraq – tất nhiên họ lúc nào mà không phiền muộn. Nhưng rồi các chỉ huy chiến trường cũng nhận ra họ đang lãng phí nguồn lực của hai đơn vị tinh nhuệ nhất Hoa Kỳ. Nhiệm vụ chính của SEAL là tiêu diệt các đối tượng giá trị chứ không phải ngày nào cũng xuống phố chơi trò mèo vờn chuột với phiến quân được và tổn thất cũng dần bất đầu xuất hiện . Quân đội cần gấp một lực lượng lì lợm, không ngại nguy hiểm chuyên trách mảng đó nên vào những năm cuối của cuộc chiến, Spectre ra đời. Đội có một trăm năm mươi thành viên, đa phần là tân binh như Kayle, một ban tham mưu độc lập nhưng toàn là nhân viên CIA và ở đâu có bọn Langley thì chỗ đó luôn bốc mùi hắc ám. Trách nhiệm của Spectre là tìm và diệt càng nhiều quân nổi dậy càng tốt, một công việc vinh quang, khiến ai trong đội cũng nghĩ mình như người hùng trong mấy tháng đầu tiên nhưng đó là chỉ trước khi CIA tiếm hết mọi quyền hành. Các nhiệm vụ bắt đầu trở nên bẩn thỉu, họ thường xuyên xông vào nhà người khác lúc nửa đêm, lôi kẻ tình nghi ra khỏi giường rồi ném lên xe tải, đôi khi cô còn nhận được lệnh bắt luôn cả đàn bà trẻ nít vì có tên khôn lõi nào đó trong ban tham mưu nghĩ cái trò gây sức ép luôn cần thiết trong trường hợp bẻ răng hay trấn nước mất tác dụng. Dưới đôi cánh bảo hộ của cục tình báo, Spectre tha hồ sử dụng mọi phương thức tấn công tàn bạo miễn là hoàn thành nhiệm vụ Tuy không trực tiếp tham gia vào mấy vụ tra khảo nhưng cô cũng nghe được vài lời bàn tán. CIA có hẳn một trại tù ngay tại Iraq, họ ngụy trang nó thành nhà máy phân bón, tường bê tông bao quanh và lính Spectre bảo vệ chúng. Điều kiện giam giữ thì khỏi cần bàn, tù nhân còn thở được ngày nào thì khổ ngày ấy. Báo chí đánh hơi được liền mò đến, CIA nhanh chóng dọn sạch chỗ đó rồi chuyển tù nhân đến nơi khác. Họ còn láu cá trao cho Spectre một cái tên dài lằng ngoằng “ Đơn vị xây dựng, tái thiết, cung ứng vật tư nông nghiệp Iraq thời hậu Sadam do Hoa Kỳ tài trợ” để tránh bị nghi ngờ. Do dính líu quá nhiều đến hoạt động tra tấn bắt bớ nên quân đội phát hoảng rồi nhường luôn quyền điều hành Spectre cho phía tình báo. Một nước cờ khôn ngoan, nhỡ một mai chuyện có bị vỡ lỡ thì họ chỉ cần phủi tay nói “ Spectre thuộc CIA nên chúng tôi không liên quan.” Cái ngày đó cuối cùng cũng đến, chỉ có điều sớm hơn họ tưởng mà thôi. “Spectre xuất hiện ở đây thì sớm muộn gì cũng có rắc rối.” Chris rầu rĩ rồi buông thêm một câu “ Chiến tranh là không tránh khỏi.” Người đàn ông này cũng là môt cựu binh của “Chiến dịch Iraq tự do”, cái tên có phần mỹ miều cho một cuộc phiêu lưu thảm họa của nước Mỹ. “Tôi không ngại đánh nhau đâu” Havey nhúng vai.“ Tôi đã sẵn sàng” Kayle thì không thể nói mình sẵn sàng được .Ngay từ cái lúc gã chiến binh thánh chiến ngã nhào từ bang công tầng ba xuống đất với một cái lỗ to bằng đồng xu trên đầu, cô biết mình chưa bao giờ sẵn sàng. Mỗi lần siết cò, mỗi lần máu bắn ướt mặt tường, thảm trải sàn và rèm cửa, một phần trong cô lại chết đi. Người ta đã dạy cô cách giết chóc hoàn hảo nhất nhưng lại quên nói cho cô biết làm sao để sống chung với nó. Sau Iraq hoang tàn, bạo lực và một Afganishtan cũng hoang tàn bạo lực không kém thì cô chỉ muốn đến một chỗ yên bình, nơi cô có thể dành cả buổi sáng viết báo cáo, ăn trưa trong căn tin, dạo chơi trên những con phố mà không cần sợ cái thùng rác ở góc đường tự dưng phát nổ. Cha cô nói đúng. Ba mươi năm làm văn phòng và chờ chiếu cố không hẳn là ý tồi. “Sẽ không có chiến tranh đâu. Spectre bị giải thể rồi. Kẻ thù không còn thì nó cũng chẳng cần tồn tại làm gì. Tôi đến đây với tư cách là sĩ quan huấn luyện.” Kayle cố trấn an Chris mà thực sự cô nói thế chỉ để tự trấn an chính mình nhỉ ? Một cú điện thoại khẩn từ Tokyo, một chuyến bay vội vã, mệnh lệnh thì mờ mịt. Có chuyện gì đó rất kinh khủng đang diễn ra và tệ hơn hết là cô hoàn toàn không biết đó là gì. “Cánh cổng.” Cooper khẳng định “Chỉ có thể là nó mà thôi” Nghĩ lại, Kayle thấy chuyện này cứ như đùa. Một vật thể kì quái tự dưng xuất hiện ngay tại khu vực nhịp nhịp nhất của Tokyo, một trận tắm máu giữa JSDF với những kẻ xâm lược cưỡi rồng và kị sĩ mặc áo giáp lưới, một chiến dịch trã đũa qui mô kết thúc với chiến thắng tuyệt đối của người Nhật . Ngay cả khi súng vẫn chưa thôi nổ và người vẫn chưa thôi chết trên những con phố đổ nát của Syria thì truyền thông vẫn ngập trong đống tin tức về một đất nước viễn đông và một thời kì hoàng kim của khai phá, thám hiểm. Liệu mọi người sẵn sàng gây chiến với nhau vì nó không nhỉ ? Kayle toan tiếp tục câu chuyện thì Chris cắt ngang. “Đã đến Tokyo thưa thiếu tá, thời gian hạ cánh dự đoán là 4:25 sáng.” Kayle thoáng nhìn qua ô cửa, con tim cô đập rộn ràng theo từng làn sóng phấn khích. Tokyo không làm cô thất vọng, nó đẹp rực rỡ trong thứ ánh sáng nhiều màu, các khu dân cư riêng rẽ được xâu lại với nhau bằng những con đường uốn lượn và những tòa nhà chọc trời đứng sừng sững, đầy kêu hãnh, thách thức cái lạnh tháng mười. Một thành phố sầm uất giống y như trong trí tưởng tượng của cô miền Tây Virginia. Nếu như Kayle, một thiếu tá, một người Mỹ thú nhận rằng mình không biết một thành phố lớn thì trông ra làm sao, người ta sẽ cười phá lên . Trước khi vào quân đội, thị trấn Hasen là nơi gần ánh sáng đô thị nhất mà cô từng đặt chân đến, sau đó cô chỉ biết Bagdad, một thành phố cũng nổi tiếng đông đúc nhưng người dân cứ tối tối lại ở lỳ trong nhà, còn ban ngày, họ chẳng dại gì mà thò đầu ra đường. Nói chung, Kayle không biết tí gì về New York, Washington hay Los Angeles trừ những thứ có trên tạp chí, phim ảnh và mục quảng cáo nhà đất. Khi họ bay ngang trung tâm thành phố, Kayle đề nghị Chris bay thấp hơn để cô có thể thấy rõ con phố bên dưới. Chris vui vẻ làm theo và cô không ngại nói cảm ơn ông với thái độ chân thành nhất. “Lần đầu cô đến Tokyo sao ? Ấn tượng chứ?” Chris hỏi Đáng nhẽ cô phải nói đây là lần đầu tôi thấy một thành phố thực sự nhưng lại thôi. Cánh cổng mà Cooper nhắc đến ở bên khu Ginza, ở đây thì cô thể không thấy nó được. Xa về phía tây, vươn lên giữa những tòa nhà cao tầng là tháp truyền hình Tokyo, công trình cao nhất nhì thế giới lộng lẫy trong ánh đèn Neon xanh màu biển. Cô đã từng nhìn thấy tòa tháp trên mặt báo nhưng giữa việc ngắm nghía một kỳ quan kiến trúc qua khung ảnh cỡ 6x9 và trông thấy nó bằng đôi mắt trần thịt thì đúng là khác nhau một trời một vực. Nó to và cao đến nổi những tòa nhà cao nhất Tokyo chỉ như những cây nấm lùn dưới gốc đại thụ và đẹp đến mức Kayle không tìm được từ ngữ nào diễn tả được. Chris không hề dấu diếm ý định lượn quanh cái tháp vài vòng nhưng do sợ mấy tay điều phối không lưu sẽ nhảy dựng lên nên đành bỏ cuộc. “Các anh sẽ về Iga ngay hay ở lại một hai hôm?” “Về ngay hôm nay, thưa thiếu tá. Tám hoặc chín giờ sáng là chậm nhất. Máy bay cần được bảo trì trước khi cất cánh.” “Vẫn còn đủ thời gian cho điểm tâm. Các anh tham gia cùng tôi chứ?” “Một mênh lệnh?” Ông ta huýt sáo “Còn tùy” Cô nhúng vai. “Nhưng anh có thể tạm xem đó là một lời mời. Giờ thì lượn vài vòng quanh cái tháp truyền hình xem nào, tôi sẽ chịu trách nhiệm.” “Tuân lệnh” Chris và Cooper đồng thanh trong niềm vui sướng. Mặc xác cái gì đang ở phía trước. Trong lúc này, tất cả những gì cô muốn là tận hưởng cảnh tượng huyễn mỹ trước mắt mà thôi.
Bản đồ Falmart và Đế Chế Sadera Hôm nay đọc đỡ phần phụ lục nhé, mình làm mất một file word các chapter mới rồi nên phải viết lại khá nhiều. Cái phần phụ lục này ban đầu mình không có ý định viết nhưng một số bạn khuyên mình nên làm vì nhiều người sẽ không hiểu cái thế giới Falmart này ra làm sao, Đế chế trông như thế nào, có những ai sinh sống. Do GATE vẫn là một cái Manga, Light novel chưa hoàn thành và tác giả cũng không hứng thú với việc xây dựng thế giới Falmart chi tiết lắm ( Theme chính của nó là harem pha lẫn một chút Military) nên mình đành phải tham khảo kết hợp những thông tin gốc với những thứ do các author trên fanfiction.net và mình phóng tác nên để tạo ra một thế giới Falmart gần sát với trí tưởng tượng của mình nhất. Do đó đừng ngạc nhiên khi thấy lịch sử, đại lý, con người, địa điểm, thành phố, thị trận tôn giáo, trong fanfic của mình hơi khác so với bộ manga gốc nhé.