Files Resident Evil 5

Thảo luận trong 'Resident Evil Fans Club' bắt đầu bởi steppe Copious, 23/10/09.

  1. steppe Copious

    steppe Copious The Warrior of Light Lão Làng GVN

    Tham gia ngày:
    12/4/09
    Bài viết:
    2,148
    Nơi ở:
    PSN: nguyenphukts
    [​IMG]


    Tổng cộng có tất cả 12 file được unlock trong RE5:
    01. History of Resident Evil
    02. B.S.A.A.
    03. Majini
    04. Chris Redfield
    05. Sheva Alomar
    06. Ricardo Irving
    07. Ndipaya Tribe
    08. U-8
    09. Tricell
    010. Jill Valentine
    011. Excella Gionne
    012. Albert Wesker




    No.01 History of RESIDENT EVIL


    Đây là bản file tóm lược lịch sử của dòng game Resident Evil được unlock trong phiên bản RE5, nội dung bản file này sẽ được chia ra và lần lần lượt được hiển thị trên màn hình loading trong suốt quá trình chơi.

    1960

    Kỹ sư Michael Waren bắt đầu điện khí hóa thành phố Raccoon.

    Chủ nhân đời thứ 5 của gia đình Ashford, Edward Ashford, bắt đầu nghiên cứu của mình và sau đó được biết đến với tên gọi Progenitor virus.

    1962

    Ozwell E. Spencer tuyển mộ kiến trúc sư George Trevor về thiết kế và xây dựng một tòa biệt thự ở khu vực ngoại ô của thành phố Raccoon.
    [​IMG]

    1966

    ( Tháng mười hai. )
    Ozwell E. Spencer, James Marcus và Edwward Ashford chính thức đưa Progenitor virus vào tái thiết lại DNA của cơ thể sống.


    1967

    (Tháng mười một.)
    Khởi công xây dựng tòa biệt thự và các thiết bị trong phòng thí nghiệm ở dãy núi Arklay hoàn tất.

    Jessica và Lisa Trevor được tiêm một biến thể của Progenitor virus. Virus thất bại trong việc hòa hợp với cơ thể Jessica, và sau đó cô đã bị loại bỏ. Nhưng virus cho thấy một kết quả hứa hẹn với cơ thể của Lisa, và kết quả là cô ấy được giữ lại để tiếp tục nghiên cứu.

    George Trevor được chọn để kiểm tra thí nghiệm, tuy nhiên, do ông ta biết quá nhiều thông tin mật về tòa lâu đài, cuối cùng ông ta đã bị khử.


    1968

    Xây dựng công trình xe điện công cộng của thành phố Raccoon bắt đầu ở Châu Âu và nhanh chóng được đưa vào sử dụng rong phạm vi thành phố.


    Spencer sáng lập công ty dược phẩm Umbrella cùng với Marcus và Edward Ashford. Công ty được thành lập để che dấu các nghiên cứu sinh học của họ.

    (Tháng bảy.)
    Edward Ashford bị nhiễm Progenitor virus và chết. Con trai của ông ta, Alexander Ashford kế vị ông ta như chủ nhân của gia đình dòng họ Ashford.

    (Tháng tám.)
    Cơ sở thí nghiệm của Umbrella được xây dựng tại dãy núi Arklay và Marcus được chỉ định làm giám đốc.


    1969

    (Tháng hai.)
    Alexander Ashford bắt đầu thiết kế một cơ sở ở Nam cực. Ông đã bí mật kế hoạch xây dựng một phòng thí nghiệm dưới lòng đất với dự án “Code: Veronica”

    (Tháng mười một.)
    Chi nhánh của Umbrella ở Nam cực và các thiết bị nghiên cứu được hoàn tất.


    1971

    Dự án “Code: Veronica” thành công. Cặp sinh đôi Alfred và Alexia Ashford được ra đời.


    1977

    Albert Wesker và William Birkin tham gia vào cơ sở huấn luyện (Training Facility) như những nhà quản lý tương lai.


    1978

    (Tháng giêng.)
    Marcus phát triển thành công T-virus.

    (Tháng bảy.)
    Kết thúc huấn luyện của Training Facility được hoàn thành. Wesker và Birkin dời chỗ nghiên cứu T-virus đến khu nghiên cứu ở dãy núi Arklay; Marcus tiếp tục nghiên cứu của riêng mình tại cơ sở huấn luyện (Training Facility) cô lập bên dưới.


    1981

    Mặc dù chỉ mới 10 tuổi, Alexia Ashford đã là sinh viên tốt nghiệp đứng đầu lớp tại một trường đại học uy tín.
    Birkin bắt đầu xem Alexia như một đối thủ ganh đua.


    1982

    Alexia tiêm T-Veronica virus vào chính cha cô ta, Alexander, nhưng thử nghiệm kết thúc trong thất bại.


    1983
    (Tháng mười hai.)
    Wesker lần thứ hai nghiên cứu về bản chất của T-virus. Hắn ta bắt đầu cảnh giác về những kế hoạch của Spencer.

    Alexia tự tiêm T-Veronica virus vào cơ thể mình và đi vào giấc ngủ 15 năm. Để duy trì bí mật của kế hoạch này, nó sẽ được thông báo rằng cô ấy chết do tình cờ tiếp xúc với virus.


    1987

    Michael Warren becomes bắt đầu trở thành thị trưởng của thành phố Raccoon.


    1988

    Wesker được lệnh từ Spencer ám sát Marcus. Dưới sự hướng dẫn của Birkin, T-Virus bắt đầu chương trình phát triển BOW tyrant.

    Umbrella bắt đầu dự án Nemesis tại cơ sở nghiên cứu thứ 6 tại châu Âu.
    [​IMG]

    1991

    Umbrella bắt đầu xây dựng phòng thí nghiệm ngầm bên dưới thành phố Raccoon.

    Spencer duyệt dự án G-Virus của Birkin và bắt đầu làm việc với nó.

    Wesker được chuyển giao đến cục thông tin (Information Department).


    1992

    Umbrella đóng góp quỹ cho việc tái thiết City Hall và xây dựng bênh viện đa khoa. Tượng của Michael Warren được dựng lên tại City Hall.


    1993

    Cảnh sát trưởng Brian Irons bắt đầu tiến hành đàm phán với Umbrella.

    Birkin chuyển đến phòng thí nghiệm ngầm của thành phố Raccoon, các cuộc gặp bí mật với Iron diễn ra tại đây.

    Alfred Ashford tốt nghiệp từ một trường đại học Anh, và trở thành giám đốc của cơ sở Nam cực (Antarctic Facility). Ông thăng cấp nhanh chóng và cuối cùng trở thành một ủy viên ban quản trị Umbrella, và sau đó trở thành chủ của hòn đảo Rockfort.

    (Tháng mười hai.)
    Một cơ sở huấn luyện một đội các thành viên để đối phó lại BOW được hoàn thành.


    1994

    John từ phòng thí nghiệm Chicago tiếp quản Birkin ở cơ sở nghiên cứu ở Arklay.

    Alfred xây dựng một tòa biệt thư riêng và nhà tù trên đảo Rockfort.


    1996

    Đội S.T.A.R.S. của sở cảnh sát thành phố Raccoon được thành lập với đội trưởng là Wesker.

    Hunk (sau này là lực lượng đặc biệt của Umbrella) trải qua khóa huấn luyện tại đảo Rockfort.


    1998

    (Tháng năm.)
    Một bản sao bí ẩn của Marcus xuất hiện tại cơ sở huấn luyện của Umbrella.

    Một sự rò rỉ virus quy mô lớn xảy ra tại lâu đài Arklay. Phòng thí nghiệm nghiên cứu ở đó đã bị phá hủy.

    Cerbecus xác hại nạn nhân đầu tiên của nó : môt người phụ nữ khoảng 20 tuổi mà cơ thể tìm thấy bị chia cắt.
    [​IMG]

    (Tháng sáu.)
    Cerbecus được trông thấy trong một thông báo của một tạp chí địa phương của thành phố Raccoon.

    (Tháng bảy.)
    Hai nhóm được gửi đến điều tra các cở sở huấn luyện (Training Facility). Nhóm đầu tiên bị triệt hạ bởi những vũ khí sinh học địa phương.

    Các báo cáo về các tai nạn và người mất tích ngày càng tăng trong dãy núi Arklay. Thành phố gửi đội S.T.A.R.S. Bravo đến để điều tra.

    Sự trục trặc động cơ trực thăng của đội Bravo mà không rõ lý do, và họ buộc phải hạ cánh xuống khu vực dãy núi Arklay.

    Đội Bravo đi tốc hành đường chính để điều cơ sở huấn luyện (Training Facility), sau đó bị tiêu diệt.

    Đội Alpha được gửi đi sau đó để tìm kiếm thông tin liên lạc với đội Bravo bị mất tích.

    Các sự kiện tại tòa biệt thự Spencer xảy ra.

    Đội trưởng của đội Bravo Enrico Marini biết bộ mặt thật của Wesker nhưng đã bị Wesker thủ tiêu.

    Bị tàn phá bởi virus, tòa biệt thự và các phòng thí nghiệm bị phá hủy. Bốn thành viên của đội Alpha và một thành viên của đội Bravo thoát khỏi thảm họa đó. Những người sống sót:
    Chris Redfield
    Jill Valentine
    Barry Burton
    Brad Vickers
    Rebecca Chambers

    Wesker thoát khỏi cơ sở nghiên cứu Arklay trước khi nó bị phá hủy.

    (Tháng tám.)
    Cựu thành viên S.T.A.R.S Chris Redfield được biết về G-Virus và đi đến châu Âu để điều tra về Umbrella.

    (Tháng chin.)
    Virus lây lan khắp thành phố Raccoon qua đường lây lan bởi lũ chuột. Thành phố công bố thảm họa sinh học như những biến cố của “tục ăn thịt người” liên tiếp tăng lên.
    [​IMG]

    Birkin hoàn thành nghiên cứu G-Virus.

    Những thây ma vô ý thức (zombies) tấn công đồn cảnh sát thành phố.

    Các đồn cảnh sát bị phá hủy, và sếp Irons sa đọa trong những cơn nghiện. Warren thoát khỏi thành phố nhưng bỏ con gái ông ta ở lại.

    U.B.C.S (Umbrella Biohazard Countermeasure Service) đến thành phố để bất đầu công tác cứu hộ.

    Một nhân viên cảnh sát tân binh Leon S. Kennedy đên thành phố cùng lúc với Claire Redfield.

    Umbrella triển khai vũ khí sinh học Nemesis vào thành phố, và nó bắt đầu săn đuổi một thành viên của S.T.A.R.S – Jill Valentine.

    Umbrella triển khai sảng xuất đại trà Tyrant vào trong thành phố.

    Leon và Claire thoát khỏi thành phố cùng với con gái của William và Annette Birkin, Sherry.

    Quân đội Mỹ đến thành phố và đặt nó dưới tình trạng thiệt quân luật.

    Những thành viên sống sót U.B.S.S. bị lợi dụng bởi những giám sát viên của Umbrella – Nicholai Ginovaef, và họ đã chết từng người một. Bệnh viện đã bị phá hủy.

    Ada Wong và Hunk mỗi người thu được một mẩu G-Virus.

    Các phòng thí nghiệm ngầm trong thành phố Raccoon đã bị phá hủy.

    (Tháng mười.)
    Chính phủ Hoa Kỳ quyết định loại bỏ các mối đe dọa từ virus bằng việc phá hủy thành phố Raccoon bằng một quả tên lửa.
    [​IMG]

    (Tháng mười hai.)
    Claire xâm nhập phòng thí nghiệm Paris, chỉ bị bắt giữ và bỏ tù trên đảo Rockfort.

    Wesker tấn công đảo với lực lượng riêng của mình và giải phóng T-Virus lên đảo.

    Claire thoát khỏi nhà tù và gửi một thư điện tử cho Leon yêu cầu trợ giúp. Vị trí của cô ấy được gửi đến Chris.

    Jill thoát khỏi thành phố Raccoon và đi đến căn hộ của Chris, nhưng anh ta đã đi đến đảo Rockfort.

    Alfred Ashford thoát khỏi đảo.

    Chris đến đảo Rockfort và tìm thấy Wesker.

    Alexia Ashford thức dậy từ giấc ngủ đông tại cơ sở Nam cực (Antarctic Base). Alfred chết ngay sau đó.

    Claire và Chris đoàn tụ tại cơ sở Nam cực (Antarctic Base). Và cùng nhau tiêu diệt Alexia.

    Họ thoát khỏi đảo trước khi nó bị phá hủy.


    2002

    Jack Krauser ngụy tạo cái chết của mình và gia nhập tổ chức bí mất của Wesker.


    2003

    (Tháng hai.)
    Chris và Jill tham gia vào sứ mệnh phá hủy Cơ sở nghiên cứu Umbrella Caucasus.
    [​IMG]
    Cơ sở ở Nga. Họ đã thành công trong việc phá hủy vũ khí sinh học mới được biết đến với tên gọi TALOS.


    2004

    Con gái của tổng thống Mỹ, Ashley Graham bị một tổ chức tong giáo được gọi là Los Illuminados bắt cóc. (vụ bắt cóc thực chất được thực hiện bỏi Krauser)

    Leon Kennedy được nhận nhiệm vụ tham gia điều tra các bí mật của Ashley, nhưng sau đó được thay vào nhiệm vụ đi tìm cô ấy.
    [​IMG]
    Leon Kennedy đã bị tiêm ký sinh Las Plagas bởi tổ chức Los Illuminados. Sau đó anh và Ashley đều bị nhiễm bởi cùng một loại ký sinh- người đã bị giam trong nhà thờ.

    Sau khi thoát khỏi làng, Leon và Ashley bắt buộc phải tìm nơi ẩn náu trong một tòa lâu đài, nhưng Ashley lại một lần nữa bị bắt. Thời gian này cô được đưa lên một hòn đảo bị cô lập bơi Krauser theo lệnh của Ramon Salazar – chủ nhân đời thứ tám của gia đình Salazar. Leon đương đầu với Salazar và tiêu diệt được hắn ta.

    Leon đến hòn đảo để tìm Ashley, và anh ta đã đánh thắng cả krauser và Saddler – người đứng đầu của tổ chức Los Illuminados. Leon và Ashley sử dụng các thiết bị trên đảo để loại bỏ các ký sinh trong cơ thể.

    Ada Wong phỗng tay trên mẫu ký sinh Las Plagas từ tay Leon.

    Leon và Ashley thoát khỏi đảo bằng mô tô nước trước khi hòn đảo nổ tung.
     
  2. steppe Copious

    steppe Copious The Warrior of Light Lão Làng GVN

    Tham gia ngày:
    12/4/09
    Bài viết:
    2,148
    Nơi ở:
    PSN: nguyenphukts
    No.02 B.S.A.A.


    [​IMG]

    Sau sự kiện hủy diệt của thành phố Raccoon, tập đoàn Umbrella gặp nhiều khó khăn với các vụ kiện cho sự liên quan của họ trong các rắc rối mà họ gây ra. Nhưng có một tổ chức còn bị tổn thất nặng nề hơn nữa đến sự kiện này: the Global Pharmaceutical Consortim ( Tập đoàn dược phẩm toàn cầu), một tổ chức gồm các công ty Dược phẩm từ khắp nơi trên thế giới.

    Umbrella phát triển và thử nghiệm với B.O.W. (vũ khí sinh học), cùng với việc bán những vũ khí trên chợ đen, gây ra những nghi ngờ của cộng đồng đến Tập đoàn dược phẩm toàn cầu, và thực tế Umbrella – một thành viên trong ban điều hành chỉ làm sâu thêm những nỗi nghi ngờ của họ.

    Nếu vụ việc xảy ra kết thúc ở đó, tập đoàn có thể thoát ly ra khỏi với sự lu mờ uy tín. Thế nhưng trong thế giới ngày nay, thuốc là một phần tất yếu của hầu hết mọi thủ tục y tế. Công chúng cũng có khá nhiều thông tin khi nói đến dược phẩm nào đáng tin cậy và cái nào không. Nếu người dân mất đi sự tin tưởng dược phẩm của công ty chịu trách nhiệm cho việc sản xuất một loại thuốc nào đó, nó cũng có thể làm cho công ty đó phá sản nhanh chóng.

    Những vụ xét xử Umbrella đã đi theo những chiều hướng xấu cho tập đoàn khi những người khởi tố trình bày những bằng chứng buộc tôi nhiều công ty dược phẩm khác.

    Bên khởi tố cho thấy Umbrella đã mua lại những dược phẩm và các kỹ thuật được phát triển bởi các công ty khác và sử dụng chúng trong việc nghiên cứu về vũ khí sinh học của riêng họ. Họ từng ủy nhiệm cho các công ty tương ứng chỉ để phát triển những phần thuốc nhất định, vì thế mà họ không thể lần ra mục đích cuối cùng của chúng. Những công ty chịu trách nhiệm như vây không hề chủ động đến sự phát triển của vũ khí sinh học (B.O.W.).

    Cho đến khi vụ kiện phát triển, thì Tập đoàn này bị nhìn nhận vụ kiện này như vấn đề của Umbrella. Bây giờ vấn đề này đã tạo nên sức ép cho họ.
    [​IMG]
    Những công ty liên quan đến Umbrella phải đối mặt với khả năng gánh lấy trách nhiệm cho những cái chết của hàng trăm nghìn người dân vô tôi, và nếu Umbrella thua kiện, họ phải đối mặt với phá sản. Thậm chí nếu Umbrella chứng minh được mình vô tôi, sự tiêu cực trong cộng đồng không chỉ tai hại cho thị phần, những chính phủ trên thế giới sẽ thu hội giấy phép kinh doanh sản phẩm của họ.

    Không cho phép họ phân phối những sản phẩm của mình trên toàn thế giới sẽ phá hủy đến khả năng của họ.

    Các công ty dược phẩm này nhận thức được họ không có sự lựa chọn nhưng họ buộc phải đưa ra biện pháp xử lý quyết liệt để tránh viễn cảnh tăm tối trước mắt họ.

    Các công ty này đã quyết định đưa ra một thỏa thuận với những người khỏi tố. Họ đặt mọi nỗ lực của họ trong việc tham dự vào các vụ kiện chống lại Umbrella, thậm chí kể cả việc phải đưa ra các tai liệu nội bộ của công ty. Những người khởi tố của vụ án, bắt đầu bị ám ảnh với việc nhìn thấy sự sụp đổ của Umbrella, đã đồng ý giúp đỡ các công ty này, và sẽ không theo đuôi các hành vi pháp lý chống lại họ nữa.

    Năm 2003, Umbrella đã được chứng minh là phạm tôi trong tất cả mọi cáo buộc. Những sự bê bối, tai tiếng đã làm rung chuyển ngành công nghiệp dược phẩm có thể sẽ đặt dấu chấm hết.

    Nhưng sự phá hủy Umbrella đã dẫn đến một tình cảnh không ngờ.

    Sự sụp đổ của Umbrella dẫn đến việc các vũ khí sinh học bắt đầu xuất hiện trên các chợ đen. Các vũ khí này đến tay những kẻ khủng bố, những chiến du kích và trang thái không ổn định của các quốc gia. Chẳng mấy chốc những đường dây vũ khí sinh học này bắt đầu kết nôi lại với nhau trên khắp thế giới.

    Đối mặt với một Umbrella mới – khủng hoảng, các tập đoàn dược phẩm biết rằng họ phải hành động ngay lập tức.

    Bioterrorism Security Assessment Alliance (B.S.A.A) đã được hình thành để chông lại mối đe dọa từ các vũ khí sinh học.

    Dựa trên nên tảng ban đầu, chỉ có mười một cá nhân hoạt động trong BSAA. Công việc của họ được giới hạn từ các quan sát viên đến những quân đôi và cảnh sát, đơn vị trên khắp thế giới và tiến hành các hoạt động chống khủng bố sinh học. Không may, vấn đề khủng bố sinh học trên thế giới đặt nhiều vấn đề lớn hơn những gì họ dự đoán, và vì thế đòi hỏi một hướng hoạt động mới để xử lý vấn đề.

    Cuối cùng, sự xem xét để tạo ra một đội có thể phản ứng nhanh tức thì các mối đe dọa, nhưng BSAA vẫn chỉ là một tổ chức do người dân lãnh đạo. Họ không thể hoạt động tùy ý trong các quốc gia có chủ quyền, vì vậy, không thể chỉ đạo điều tra, các cuộc bắt giữ thích đáng, hoặc thậm chí là sử dụng vũ lực trong các trường hợp cần thiết. Rõ ràng bây giờ các mối đe dọa khủng bố sinh học vấn còn là vấn đề của toàn thế giới, và phải nhanh chóng hành động.

    BSAA sau đó đã được tổ chức lại dưới thẩm quyền của Liên Hiệp Quốc.

    BSAA được chấp thuận bởi các thành viên của các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc. hoạt động như một lực lượng kiểm soát đặc biệt.

    Thật ra chỉ có 70% các quốc gia thành viên chấp thuận BSAA hoạt động trên đất nước của họ, phần còn lại của các quốc gia thành viên chỉ chấp nhận cho BSAA hoạt động trong đất nước của họ trên một cơ sở có điều kiện.

    Đó là lý do hiện thân BSAA ngày nay được hình thành thế nào.

    Trụ sở chính của BSAA được đặt tại Anh, nhưng thông tin chi tiết về những địa điểm của họ không được tiết lộ cho công chúng. Một đội BSAA có thể triển khai lực lượng trong vòng 12h, nên có giả thiết cho rằng nó được đặt ở gần trung tâm sân bay hoặc một cơ sở không quân. Một số nguồn tin cho rằng BSAA có những cơ sở trong các khu vực dưới quyền của họ.

    Sau đây là danh sách các lĩnh vực thuộc thẩm quyền giải quyết của các chi nhánh BSAA tương ứng.

    [​IMG]
    Trụ sở chính châu Âu : châu Âu và phía Tây Nga.

    [​IMG]


    Chi nhánh Trung Đông: Trung Đông và một phần châu Phi.
    [​IMG]
    Chi nhánh Bắc Mỹ: toàn bộ lục địa Bắc Mỹ (Chris Redfield đóng quân ở đây.)

    [​IMG]

    Chi nhánh Nam Mỹ: toàn bộ lục địa Nam Mỹ
    [​IMG]
    Chi nhánh Tây Phi: một phần phía Tây của lục địa châu Phi (Sheva Alomar đóng quân ở đây)
    [​IMG]
    Chi nhánh Đông Phi: một phần phía Đông của lục địa châu Phi và các quốc gia phía Đông của Ấn Độ.
    [​IMG]
    Chi nhanh viễn Đông: phía Đông nước Nga và các quốc gia phía Đông của Ấn Độ.
    [​IMG]
    Chi nhanh châu Đại dương: Úc là trung tâm của những hoạt động châu Đại dương.

    (Nam cực, nơi cơ sở Nam cực của Umbrella đã được đặt ở đây, dưới quyền của chi nhánh Châu Đại dương.)

    Mỗi chi nhánh BSAA có một số lượng các thành viên chiến thuật đáng kể trong mỗi đội, hầu hết họ đến từ các lực lượng cảnh sát đặc biệt và quân đội trên toàn thế giới.

    Các nhân viên hộ trợ cho đội cũng khá lớn, và họ chủ yếu đến từ những tổ chức chính phủ trong những quốc gia khác nhau. Có nhiều nhóm của những chuyên gia kỹ thuật, y tế, vật lý và sự hộ trợ tinh thần cho các đội.
    [​IMG]
    Các đội BSAA được triển khai chia vào hai nhóm.

    Nhóm đầu tiên là đơn vị hoạt động đặc biệt (SOU - Special Operations Unit). SOU được cấp phép để đột nhập vào các khu vực,giao chiến trong các trận đánh. Các nhóm chinh phục các tội phạm. Các đội thông thường gồm có 12 thành viên, và mỗi đội được chia thành 4 người đàn ông cho mỗi bộ ba người.

    Khả năng đặc biệt của SOU là sự linh hoạt của các thành viên trong suốt thời gian hoạt động. Để tương thích với quy mô chiến dịch, những chi bộ từ các đội khác được mang vào căn cứ chính quy. Đối với những hoạt động đặc biệt, có 70 thành viên cấp cao làm việc cùng nhau.

    Dechant hiện đang là lãnh đạo của đội Alpha cho nhiệm vụ này. Đội gồm có các tiêu chuẩn riêng của ông ta cùng với các chi bộ từ các nhóm khác. (Đội Alpha được chỉ định cho nhiệm vụ lần này.)
    [​IMG]
    Những báo cáo chỉ ra rằng, do chưa biết các vũ khí sinh học có liên quan , hiệu quả của những phương pháp tác chiến của đôi có thể thấp, và điều này đã được xem xét để đưa ra những biện pháp xử lý hiệu quả hơn.
    Một bộ phận chủ chốt của BSAA là lực lượng hoạt động trinh thám đặc biệt (SOA). Thông thường, họ chỉ hoạt động trinh thám gián tiếp, và không giống như SOU, họ hoạt động riêng lẻ. Các đặc vụ này thường chủ yếu tham gia các hoạt động điều tra và gián điệp, và chính vì thế, họ được xem là đôi mắt và tai của BSAA. Trong thời gian hoạt động nhất định, đội tác chiến có thể gặp khó khăn khi xâm nhập vào chính diện, do đó, cần tới những đặc vụ này để có thể hoàn thành nhiệm vụ.

    Trong thời gian thi hành nhiệm vụ, một chi bộ gồm 2 người đàn ông là đơn vị triển khai cơ bản được yêu cầu để hoàn thành nhiệm vụ.

    Đôi khi các đặc vụ trinh thám phải vượt ra khỏi quyền hạn của một chi nhánh BSAA để thực hiện nhiệm vụ của họ. Nhiều người trong số họ được gửi tới những khu vực hoạt động bất hợp pháp. Chris Redfield là đại diện cho vai trò đó.
    [​IMG]
    Những đặc vụ trinh thám làm việc một mình có năng lực rất cao, và họ cấp bậc cao hơn nhiều so với những thành viên SOU; tuy nhiên, các đặc vụ không được lựa chọn nhiệm vụ theo năng lực chuyên môn của mình, nhưng được chọn dựa vào trạng thái tâm lý và khả năng xử lý tình huống. Trong những kỹ năng thực tế và tài năng, họ có thể vượt trội hơn các thành viên SOU.

    BSAA là một tổ chức công khai với một đội ngũ quốc tế, nhưng do ngành hậu cần được quản lý bỏi một tổ chức, thực tế là hầu hết các nguồn tài trợ đến từ Tập đoàn dược phẩm toàn cầu.

    Trong khi mối quan hệ này là mục tiêu của nhiều lời chỉ trích, thì sự tài trợ của các công ty này đã loại bỏ những gánh nặng tài chính đến các quốc gia tham dự, vì vậy, nó là động lực để thay đổi tình hình và những phí tổn không cần thiết. Về phía Tập đoàn, trách nhiệm của người đỡ đầu về nguồn tài trợ này là cần thiết để nối lại công tấc quan hệ quần chúng rộng rãi. Cho đến lúc này, mối hợp tác này đã mang lại lợi ích cho tất cả các bên liên quan.

    Một điểm lưu ý cuối cùng, mười một người góp phần khởi đầu BSAA rất được kính trọng trong tổ chức, và được biết đến như Original Eleven. Cái tên đựa dựa theo Original Seven, 7 nhà du hành vũ trụ được lựa chọn cho Dự án sao Thủy (Project Mercury).

    Một trong số Original Eleven chính là Chris Redfield. Các thành viên khác của Original Eleven cũng làm việc cùng với rất nhiều đội tác chiến.
     
  3. steppe Copious

    steppe Copious The Warrior of Light Lão Làng GVN

    Tham gia ngày:
    12/4/09
    Bài viết:
    2,148
    Nơi ở:
    PSN: nguyenphukts
    No.03 Majini


    [​IMG]


    Danh sách được liệt kê dưới đây là những gì hiện đang được biết về ký sinh Las Plagas:

    Tuy chỉ mới được khám phá trong thời gian gầy đây, ký sinh được biết đến với tên gọi Las Plagas đã bị niêm phong dưới tòa lâu đài của gia đình Ramon Salazar qua nhiều thế hệ.

    Các ký sinh xâm nhập vào cơ thể vật chủ và đồng hóa trung tâm thần kinh. Những người bị mắc nhiễm bị mất tất cả khả năng tư duy và hoàn toàn bị điều khiển bởi một dạng Plaga khác được biết đến như một Plaga chỉ huy (thường là một người bị mắc nhiễm). Các vật chủ mất đi lý trí nhưn họ vẫn giữ được mức trí tuệ sơ đẳng của con người như hiểu và giao tiếp với người khác.

    Leon S. Kennedy cung cấp tư liệu về cuộc chạm trán của anh ấy với những con người bị nhiễm ký sinh trong báo cáo của Kennedy.Trong bản báo cáo của mình, họ được gọi tắt là Ganados.

    Sự hiện diện của Las Plagas trong nhiệm vụ lần này đã được xác nhận. Hiện nay chưa biết làm thế nào mà những con ký sinh được phát hiện ở Châu Âu đã có mặt ở Châu Phi. Một người buôn lâu vũ khí nổi tiếng, Ricardo Irving, bị truy nã cho các câu hỏi liên quan đến vấn đề này.
    [​IMG]
    Thông tin này đã được thu thập từ đội Alpha của BSAA cùng với rủi ro cá nhân cao cho chính bản thân họ. Báo cáo chỉ ra rằng một mẫu Las Plagas đã được trính xuất từ châu Âu và trải qua sự biến đổi cả về mặt sinh vật học và di truyền học, tạo ra một vũ khí sinh học có hiệu quả hơn và tiềm tàng nguy hiểm.

    Las Plagas bị đã bị biến đổi và được nghiên cứu phân loại thành Type 2 Plagas.
    Sự có mặt của Type 2 Plagas đã được xác nhận có mặt ở châu Phi bởi những báo cáo quốc tế khác nhau.

    Những đặc trưng truyền nhiễm đặc trưng ban đầu có sự thay đổi so với bản ký sinh gốc. Las Plagas được phát hiện ở châu Âu được tiêm vòa cơ thể khi còn trong giai đoạn trứng. Sau đó chúng sẽ trưởng thành trong cơ thể của vật chủ và kiểm soát hệ thần kinh trung ương của vật chủ.
    [​IMG]
    Với Type 2, sự truyền nhiễm xảy ra từ một ký sinh đã trưởng thành. Điều này đòi hỏi nó xâm nhập vào cơ thể vật chủ thông qua miệng, thường là do bị ép buộc trực tiếp.
    [​IMG]
    Kết quả quan sát cho thấy phương pháp truyền nhiễm này là một trong những phương pháp gây chấn động các bắp thịt cực độ và sự co thắt thân thể đến mức không thể kiểm soát được.

    Ngoài ra, trong khi bản gốc Las Plagas xâm chiếm khắp cơ thể và cần vài giờ cho đến vài ngày để đồng hóa vật chủ, Type gần như trưởng thành mà không cần yêu cầu về thời gian. Với đặc điểm này, Type 2 là một thứ vũ khí hiệu quả hơn rất nhiều.

    Sự lây nhiễm ở dạng này đã được chứng kiến bởi các đặc vụ trinh thám của BSAA hiện thời tại một vị trí trong khu vực.
    [​IMG]
    Type2 kiểm soát hệ thần kinh trung ương của người bị nhiễm bệnh, và làm mất khả năng tư duy lý trí bình thường. Các vật chủ bị nhiễm sẵn sàng trở thành đối tượng bị kiểm soát. (Tuy nhiên, để tăng tối đa hiệu quả của một vũ khí sinh học, kẻ ra lệnh cho chúng không cần phải có một Plaga để điều khiển.)

    Các vật chủ vẫn giữ lại trí thông minh, và các khả năng sẵn có trước khi bị lây nhiễm. Đây là điểm giống với phiên bản nguyên thủy của ký sinh Las Plagas.
    [​IMG]
    Điều đó suy đoán ra rằng để tăng nhanh sự sinh sôi, các ký sinh đã được biến đổi để vật chủ của nó sẽ tích cực lây lan cho những người khác như một mệnh lênh gia tăng số lượng của nó.

    Theo các báo cáo quốc tế, Type 2 được những kẻ buôn bán vũ khí biết đến như một Majini. Từ này xuất phát từ ngôn ngữ địa phương có nghĩa là “linh hồn tội lỗi” (evil spirits)

    Vì tồn tại tên mã Type2, điều đó chứng tỏ còn có các dạng đánh số khác nữa (ví dụ : Type 3 và Type 4 ). Không có xác nhận nào về điều này, tuy nhiên, chí ít đã thu thập được thông tin trong thời điểm này.







     
  4. huuduc_hero

    huuduc_hero Youtube Master Race

    Tham gia ngày:
    7/9/09
    Bài viết:
    57
    Xin thêm đôi điều trong res 4 có 2 loại Lam plagas chỉ huy là Master Lam Plagas (do Omu Salla là vật thể) và Queen Lam Plagas (Do Jack Krauser là vật thể).....trong res 5 này ko thấy gặp Lam Plagas chỉ huy nhỉ? hay nó chính là Urobos?
     
  5. steppe Copious

    steppe Copious The Warrior of Light Lão Làng GVN

    Tham gia ngày:
    12/4/09
    Bài viết:
    2,148
    Nơi ở:
    PSN: nguyenphukts
    No.04 Chris Redfield


    [​IMG]

    Danh sách được liệt kê trong hồ sơ này là tổng hợp những thông tin tổng quan một đặc vụ của BSAA – Chris Redfield – được ráp lại với nhau từ nhiều nguồn khác nhau. Thông tin được liệt kê ở đây không phải là hoàn chỉnh mà cũng không phải được sử dụng như một sự phân tích tâm lý học của chủ thể.


    Chris Redfield bắt đầu sự nghiệp của mình trong lực lượng không quân Hoa Kỳ.

    Sở hữu một thành tích phục vụ đầy đủ với những lời ca ngợi và các hành động kỷ luật. Các sĩ quan đã mô tả Chris là “cương quyết”, “sở hữu sự công hiến vững chắc”. và có một “khả năng thích nghi rất cao”.

    Đó là những điểm nhìn thấy được mà Chris có được bằng đôi cánh của anh ấy., nhưng đó cũng là những đặc điểm khiến anh ta xung đột trực tiếp với các cấp trên.

    Không thể giải quyết được những bất đồng đó, Chris đã về hưu từ lực lượng không quân của Hoa Kỳ.

    Sau khi về hưu, Chris bị theo dõi bởi lực lượng đặc biệt của thành phố Raccoon (S.T.A.R.S.) bởi khả năng thiện xạ và những kỹ năng đánh trận giáp lá cà, cùng với khả năng sửa chữa cánh máy bay và làm phi công trực thăng.

    Gia nhập đội STARS, Chris được chỉ định làm mũi nhọn (PM)cho đội Alpha. Là một PM, công việc của anh là do thám và đảm bảo an toàn các vị trí phía trước cho đội. Những nhiệm vụ của anh ta không chỉ yêu cầu một khả năng bắn súng giỏi và chiến binh cừ khôi, mà còn biết sử dụng tất cả các loại vũ khí.

    [​IMG]

    Đó là lĩnh vực sở trường của anh ta thể hiện được khả năng xử lý bất cứ điều gì từ vũ khí nhỏ cho đến những vũ khí hạng nặng và sự linh hoạt để sử dụng chúng trong mọi tình huống cấp bách.

    Thành tích của Chris với S.T.A.R.S. đáng để noi gương. Có vẻ cuối cùng anh đã tìm thấy một chỗ thích hợp cho mình. Nhưng số phận đã sắp đặt những kế hoạch khác với suy nghĩ của Chris. Không biết điều gì xảy đến với anh ta, chương tiếp trong câu chuyện của anh ta sắp sửa mở ra điều đó trong một đêm định mệnh vào tháng 7 năm 1998.

    Đội STARS Bravo trả lời trong một báo cáo về những sự việc biến mất xung quanh thành phố Raccoon, bỗng nhiên radio yên lặng. Đội Alpha được gửi đến để điều tra. Không lâu sau đó trực thăng của họ buộc phải hạ cánh, họ đã bị tấn công bởi những hàm răng nanh hoang dại (được biết đến như một vũ khí sinh học BOW Cerberus ),và buộc phải tìm nơi ẩn náo trong một tòa biệt thự gần đó.

    Tòa biệt thự này thực tế là cơ sở nghiên cứu Arklay của tập đoàn dược phẩm khổng lồ Umbrella. Chính tại cơ sở này họ đã phát triển các loại vũ khí sinh học và chỉ đạo cho những thí nghiệm bất hợp pháp. Chris và cộng sự của mình, Jill Valentine đã buộc phải chống lại nhiều vũ khí sinh học tại đây như một phần kế hoạch nghiên cứu được sắp đật bởi Albert Wesker.

    Albert Wesker là một sĩ quan chỉ huy của STARS, và là cấp trên của Chris và Jill. Dù cho mọi hoạt động của hắn ta được thực hiện theo chỉ thị của tập đoàn Umbrella, Wesker đã sử dụng vị thế của mình trong STARS để sai khiến Chris và Jill. Wesker đã thả một vài vũ khí sinh học trong tòa biệt thự ra để thu thập dữ liệu cho mục đích riêng của hắn ta.

    Thảm kịch tại dãy núi Arklay được biết đến với tên gọi Mansion Incident. Và kết thúc với việc Chris và Jill tiêu diệt các sinh vật được biết đến với tên gọi Tyrant, cái chết của Wesker và tiêu hủy các phòng thí nghiệm.

    Sống sót sau biến cố tại tòa biệt thự, Chris đã cố gắng thông báo cho những nhà chức trách xem xét tới những hoạt động của tập đoàn Umbrella, nhưng tất cả những lời cảnh báo của anh đã bị lờ đi do thế lực của Umbrella quá mạnh. Mệt mỏi với lựa chọn, anh đã cố gắng thông báo đến chính phủ Hoa Kỳ về tình trạng này. Tuy nhiên, không có kết quả. Anh biết rằng để đánh bại một tập đoàn lớn như vậy là điều không dễ dàng, và vụ kiện có thể nguy hiểm đến tính mạng. nhưng cuối cùng anh không có sự lựa chọn nào khác.

    Vì vậy, Chris tiếp tục cuộc điều tra của riêng mình. Không có thông báo cho gia đình anh ấy về những dự định của mình, không lâu sau anh ta rời khỏi châu Âu.


    Chris muốn che chở gia đình của anh ấy khỏi bất kỳ điều gì tai hại từ kết quả điều tra có thể mang lại, nhưng thật mỉa mai nó đã làm cho một thành viên của gia đình anh ta vào cuộc.

    Khi Claire Redfield không thể nhận được liên lạc của anh trai mình, cô đã đến thành phố Raccoon để tìm anh trai. Sau khi đến thành phố, cô phát hiện khu vực này tràn ngập nỗi kinh hoàng bởi sự lan tràn của Virus.

    Trong sự chết chóc và rắc rối đó, Claire gặp Leon S. Kennedy, và cùng nhau chiến đấu để thoát khỏi thành phố. Sau thử thách ở thành phố Raccoon , Claire bay tới Paris để điều tra những hoạt động của Umbrella ở châu Âu, nhưng cô đã bị bắt và gửi đến đảo Rockfort.

    [​IMG]
    Khi Chris nhận biết được những gì đang xảy ra với Claire thông qua Leon, anh đã đến đảo Rockfort để giải cứu cho cô ấy. Tại đây Chris đương đầu với nhiều sự thật tàn nhẫn.Umbrella có một cơ sở nghiên cứu ở Nam cực. Alexia vẫn còn sống. Một thứ virus mới được gọi là T-Veronica.

    Và đáng ngạc nhiên nhất, Albert Wesker vẫn còn sống.

    Kẻ đứng đằng sau những sự kiện kinh hoàng ở Mansion Incident, cựu chỉ huy của Chris, bằng cách nào đó đã sống sót khi tòa biệt thự bị nổ tung.

    Một lần nữa, Chris không chủ động đẩy mình vào những kế hoạch của Wesker, và anh ta đã buộc phải đối mặt với kẻ mà số mệnh đã gắn vào anh ấy. Chris dễ dàng bị áp đảo bởi sức mạnh phi thường của Wesker, nhưng may mắn đã ở bên cạnh Chris vào ngày đó.

    Cuộc xung đột dữ dội đã tàn phá hòn đảo mà Chris và Wesker đang giao chiến, nó chỉ còn tồn tại trong thời gian ngắn.

    Với quyết tâm mạnh mẽ của mình, Chris xác định rằng không có vấn đề gì cho những tổn thất cá nhân của chính mình, Umbrella sẽ phải trả giá.

    Cho đến năm 2003, Chris chu du khắp bầu trời nước Nga; đồng đội của anh, Jill Valentine, luôn bên cạnh anh.

    [​IMG]

    Tại thời điểm này, Umbrella đang trong tình trạng nguy khốn. Trong sự kiện phá hủy thành phố Raccoon, công ty này đã trở thành đối mặt với các vụ kiện, và giá cổ phiếu của họ giảm xuống nhanh chóng. No chỉ là vấn đề thời gian trước khi Umbrella sụp đổ.

    Chính trong thời gian này Chris biết được kế hoạch phát triển vũ khí sinh học mới của Umbrella.

    Chris và Jill đã thu được những thông tin và khám phá ra phòng thí nhiệm Caucasus, nơi mà kế hoạch về T-A.L.O.S được tiến hành trong bí mật. Họ đã gặp nhau nơi hẹn với một đơn vị chống lại vũ khí sinh học và cùng tấn công vào căn cứ.

    Không lâu sau sự kiện này, Umbrella một thời tưởng chừng như không thể đụng đến đã chính thức sụp đổ.

    Mầm mống mà Umbrella đã gieo, tuy nhiên, vẫn sẽ tiếp tục mang đến những nỗi kinh hoàng cho cả thế giới. Những vũ khí sinh học không còn bị giới hạn đến các khu vực có xung đột, nhưng giờ đây được sử dụng trong các cuộc tấn công khủng bố nhằm vào những người dân vô tội. Trong thời gian này, Chris và Jill gia nhập BSAA, một tổ chức chuyên chống lại những vũ khí sinh học.

    Hai người họ đi cùng nhau khắp nơi trên thế giới, đồng đội trong những cuộc chiến chống lại khủng bố sinh học. Cái bóng của Umbrella vẫn còn bao trùm rộng lớn, dù vậy, họ sẽ sớm tìm ra.

    Khi Chris và Jill đến điều tra về người sang lập của Umbrella, Ozell E. Spencer về Wesker, họ đã được chứng kiến cảnh tượng người sáng lập Umbrella đã nằm sóng soài dưới sàn , và hình ảnh của Wesker nhuốm máu đang đứng ngay cạnh ông ta.

    Lần này là lần đối đầu thứ 3 giữa Chris và Wesker.

    Lần này đã kế thúc trong bi kịch với Jill, nhận thấy không còn lựa chọn khác, cô đã quyết định hy sinh để chặn đứng Wesker. Với một trong những nỗ lực cuối cùng cô ấy đã ôm lấy Wesker và ném cả mình lẫn hắn ta qua cửa sổ của một vực thẳm. BSAA đã tìm kiếm thi thể của Jill trong ba tháng nhưng không có một dấu vết nào của cô ấy được tìm thấy.

    [​IMG]

    Sau ba tháng tìm kiếm không thành công, BSAA đã chính thức thông báo Jill Valentine đã chết.

    Không một ai biết được những lời hứa của Chris trước phần mộ trống rỗng của Jill, nhưng khi mất mát cô ấy, anh ta nỗ lực gấp đôi để diệt trừ tận gốc rễ của mọi vũ khí sinh học. Khởi đầu đóng vị trí ở chi nhánh Bắc Mỹ của BSAA, nhưng những cuộc điều tra của anh sớm mang anh đi khắp nơi trên thế giới. Anh tham gia vào các hoạt động mà không lâu sau đó tên của anh gắn liền với nhiệm vụ này hơn bất kỳ thành viên BSAA nào khác.

    [​IMG]
    Trong một cuộc điều tra của mình, Chris biết được về một thỏa thuận sắp tới của vũ khí sinh học ở châu Phi liên quan đến một người đàn ông tên là Ricardo Irving. Cái tên Irving được xuất hiện thường xuyên hơn trong các mối quan hệ liên quan đến việc buôn lậu vũ khí sinh học.

    Sau khi thông báo với chi nhánh BSAA châu Phi về Irving, Chris yêu cầu khẩn trương cho phép anh tham gia vào các hoạt động để bắt giữ Irving.


    [​IMG]
    Đối với những lý do anh muốn thực hiện nhiệm vụ này, Chris không có bình luận nào. Liệu có phải anh muốn giấu thông tin hay không là không rõ ràng.


    Là một trong những thành viên BSAA được tôn trọng nhất, sự có mặt của anh ấy trong hoạt động lần này tăng lên rất nhiều cơ hội thành công, do đó anh yêu cầu của anh đã được cho phép.
     
  6. steppe Copious

    steppe Copious The Warrior of Light Lão Làng GVN

    Tham gia ngày:
    12/4/09
    Bài viết:
    2,148
    Nơi ở:
    PSN: nguyenphukts
    No.09 Tricell Pharmaceutical Company


    [​IMG]


    Bàn dịch File No.09 - Tricell được unlock trong RESIDENT EVil 5 sẽ mô tả lại lịch sử hình thành và các vấn đề liên quan đến tập đoàn dược phẩm xuất hiện và là nguyên nhân của những hiện tượng kỳ lạ tại thị trấn Kijuju.

    Tricell là một tổ chức được kết hợp bởi các bộ phận hàng hải, phát triển nguồn tài nguyên thiên nhiên, và các bộ phận dược phẩm.



    Những ngày tháng lịch sử của Tricell quay trở lại thời kỳ được biết đến với tên gọi Age of Exploration ( Thời kỳ Khai phá). Tiền thân của Tricell là Travis Trading, một công ty thuộc sở hữu của thương gia giàu có châu Âu Thomas Travis.



    Công ty này kiếm lợi nhuận rất nhiều từ thương mại, có thể mở rộng với các quốc gia phương Đông, và đặt nền móng cho việc trở thành một bộ phận hàng hải của Tricell.



    Travis Trading vào thế kỷ 19 như một sự đầu cơ có lợi nhuận thương mại.



    Trong những năm 1800, Henry Travis, một thanh niên trẻ trong số 7 anh chị em, đã đầu tư nhiều vào vận may của ông ta trong cuộc thám hiểm ở châu Phi.



    Trong suốt thời gian này, những kỳ công của những người thám hiểm đã được David Livingstone gây nên một sự xôn xao trong các tờ báo hằng ngày.Cuộc thám hiểm của Henry là nguồn cảm hứng cho các bài báo cáo này, và chính quyết định của anh ấy đã có tác động lớn đến tương lai của Travis Trading.



    Henry đã thực hiện 5 cuộc thám hiểm ở châu Phi để khám phá tất cả các khu vực. Với ngân quỹ dồi dào của gia đình Travis cho phép ông ta tiếp tục nghiên cứu châu Phi xuyên suốt thời gian , ngay cả khi các kết quả không đến.



    Sau cuộc thám hiểm thứ 5 và là cuối cùng của ông ở châu Phi, Henry Travis trở về quê hương đã 34 tuổi.



    Henry hoàn thành những bản ghi chép những cuộc thám hiểm của ông vào 72 quyển tập ấn tượng mang tên “Khảo sát về Lịch sử tự nhiên” (Survey of Natural History). Những cuốn sách bao gồm tất cả mọi thứ từ động vật, cây trồng, côn trùng, khoáng chất, và địa hình , các nền văn hóa, lịch sử và truyền thống của những người dân bản ngữ. Những cuốn sách này cũng chứa đựng những thông tin chi tiết về văn học dân gian của những dân tộc khác nhau khắp lục địa. Những cuốn sách này là một bách khoa toàn thư về lục địa châu Phi.



    Cuộc thám hiểm của Henry đã được suất bản toàn bộ, nhưng những chi tiết tỉ mỉ của ông bị xem như những sản phẩm được sáng tạo bừa bãi và sự hư cấu thái quá. Những quyển sách cuối cùng bị tách riêng bởi hội đồng khoa học. Đã xem xét chúng như một mục mới, chỉ có một vài bản sao và toàn bộ chúng không bao giờ được xuất bản.



    Những cú sốc bị xa lánh bởi cộng đồng khoa học khiến Henry rơi vào trạng thái trầm cảm. Ông qua đời chỉ 2 năm sau kể từ khi ông trở về từ châu Phi.



    Điều đó cho thấy người đứng đầu Travis Trading vào thời điểm đó ( anh trai cả của Henry) chủ tâm phổ biến tin đồn là những sách của Henry không có gì hơn là trí tưởng tượng.



    Bản chất của ý đồ ông ta đã làm này là vì ông ta muốn Travis Trading là công ty duy nhất có thể khai thác các thông tin chứa đựng bên trong những cuốn sách đó.



    Điều đặc biệt chú ý là thông tin về phép đo vẽ địa hình được chứa đựng bên trong những tập sách 17 đến 24.



    Vào khoảng cuối thế kỷ 19, Travis Trading đã bắt đầu khai thác nguồn khoáng sản tài nguyên ở châu Phi. Khắp nơi trên lục địa châu Âu, công ty đã khai mỏ được các kim loại quý giá và khám phá/ phát triển lĩnh vực dầu và khí đốt tự nhiên. Trong khi đó, lợi nhuận của công ty tiếp tục tăng lên. Những hiệu quả này là cơ sở cho việc thành lập bộ phận phát triển nguồn tài nguyên thiên nhiên Tricell.



    [​IMG]


    Travis Trading xây dựng một chỗ đứng vững chắc ở châu Phi, và bắt đầu vào giữa thế kỷ 20, họ đã bắt đầu tích cực thu thập những mẫu cây, động vật và sâu bọ.



    Những cuốn sách của Henry là được dùng làm phương tiện hướng dẫn trong những nỗ lực này.



    Các mẫu thu thập được sử dụng trong nghiên cứu dược phẩm, và trước khi kéo dài nghiên cứu đã mang lại thành công và đặt nên móng cho việc sáng lập bộ phận dược phẩm Tricell.



    Travis Trading là cơ sở cho bộ phận hàng hải.



    Bộ phận phát triển tài nguyên thiên nhiên được sinh ra từ những thông tin chứa trong nhật ký của Henry.



    Những mẫu được thu được từ hệ động vật châu Phi được sử dụng để tạo ra bộ phận dược phẩm độc lập.



    Những năm 1960, 3 bộ phận này của Travis Trading đã được thành lập và hình thành một một khối dưới tên Tricell.



    Tuy nhiên, gia đình Travis không phải là những người duy nhất biết đến nhật ký của Henry.



    Người sáng lập Umbrella, Ozwell E. Spencer, đã quan tâm đến chúng trong các bản ghi chép về truyền thống giân dan. Đặc biệt quan tâm đến các bản báo cáo về những nghi thức Ndipaya. Spencer đặt giả thuyết những bông hoa được sử dụng trong các nghi lễ của họ. Ý nghĩa, và điều này cuối cùng dẫn đến sự khám phá ra Progenitor virus.
     
  7. Rồ hay nóp

    Rồ hay nóp T.E.T.Я.I.S

    Tham gia ngày:
    14/8/09
    Bài viết:
    545
    Nơi ở:
    q9-xì gòn
    bài viết rất hay, sao + rep cho chú mà ko dc nhĩ?
     
  8. darkbool1992

    darkbool1992 Sonic the Hedgehog GameOver Lão Làng GVN

    Tham gia ngày:
    28/2/07
    Bài viết:
    4,628
    Nơi ở:
    Hà Nội
    kô + rep thì hơi phí :D
     
  9. tyty1234

    tyty1234 Mario & Luigi

    Tham gia ngày:
    5/5/08
    Bài viết:
    881
    Nơi ở:
    TP HCM
    còn bản 5 6 7 8 10 11 12 sao bạn không dịch ra hết luôn đi :|bản dịch file rát hay thank ban nhá :D
     
  10. aluco

    aluco Lãng tử vô tình

    Tham gia ngày:
    15/4/04
    Bài viết:
    4,292
    Nơi ở:
    Castlevania
    Làm hết luôn đi rồi cho nó vào box lưu trữ.
     
  11. steppe Copious

    steppe Copious The Warrior of Light Lão Làng GVN

    Tham gia ngày:
    12/4/09
    Bài viết:
    2,148
    Nơi ở:
    PSN: nguyenphukts
    mọi người tạm thời không post hay thắc mắc gì vào đây nhé, cứ để topic chìm, khi nào dịch tiếp thì sẽ post tiếp, dạo này không có thời gian làm mấy thứ này nên đừng hỏi gì nữa nhé :)
     
  12. Brother_Crush

    Brother_Crush ✣✣✣ Xiaolonista✣✣✣ Lão Làng GVN

    Tham gia ngày:
    22/8/05
    Bài viết:
    6,754
    Quăng nó vào Review đi :)
     

Chia sẻ trang này