Lịch Sử Việt Nam

Thảo luận trong 'Kỷ niệm Hội Vườn Đào' bắt đầu bởi trungyhth, 24/11/04.

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. trungyhth

    trungyhth Mario & Luigi Lão Làng GVN

    Tham gia ngày:
    6/5/04
    Bài viết:
    861
    Nơi ở:
    Trái tim KL
    Người ta thường nói thanh niên Việt ta hiểu rõ về lịch sử của Trung Hoa hơn là Sử Việt Nam nay thấy tình hình trong hội ta quả đúng như vậy.
    Sep đã có cái topic về sử Trung hoa rùi nên hôm nay tôi lập ra 1 cái Sử Việt Nam cho anh em vào thảo luận rồi trao đổi Âu cũng là lẽ đúng.
    Nếu không phiền nhờ anh Ciga cho topic lên chú ý hộ em nha,đồng thời nghiêm cấm mọi hình thức câu bài,cái này phải nhờ mod xử lý luôn thể :p
     
  2. trungyhth

    trungyhth Mario & Luigi Lão Làng GVN

    Tham gia ngày:
    6/5/04
    Bài viết:
    861
    Nơi ở:
    Trái tim KL
    Tổng Quan về Lịch Sử Việt Nam.
    Thời thượng cổ
    (2879(?)-207trCN)

    Thời kì dựng nước(2879(?)-207trCN)
    Thời Bắc thuộc(207tr. CN - 906)
    THờI trung cổ
    (906 - 1858)

    Bước đầu nền độc lập tự chủ - Khúc - Ngô - Đinh - Lê
    Nhà Lý (1010 - 1225)
    Nhà Trần (1225 - 1400)
    Nhà Hồ - Giai đoạn thuộc Minh (1400 - 1428)
    Nhà Hậu Lê (1428 - 1527)
    Nhà Mạc - Nam Bắc Triều (1527 - 1592)
    Đại Việt - thời kỳ phân liệt Trịnh Nguyễn (1600 - 1777)
    Nhà Tây Sơn (1771 - 1802)
    Nhà Nguyễn (1802 - 1858)
    THờI cận đại
    (1858 - 1945)

    Giai đoạn trước thế chiến thứ nhất
    Giai đoạn sau thế chiến thứ nhất
    THờI hiện đại
    (1945 - 1975)

    Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954)
    Cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ (1954-1975)​
     
  3. trungyhth

    trungyhth Mario & Luigi Lão Làng GVN

    Tham gia ngày:
    6/5/04
    Bài viết:
    861
    Nơi ở:
    Trái tim KL
    Thời thượng cổ
    (2879(?)-207trCN)
    Thời kì dựng nước(2879(?)-207trCN)

    Dựa vào truyền thuyết, sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên viết rằng Lộc Tục lên làm vua vùng đất phía Nam núi Ngũ Linh (Quảng Đông) vào năm 2879 trước Công Nguyên. Lộc Tục lấy hiệu là Kinh Dương Vương, đặt quốc hiệu là Xích Quỷ. Cương vực Xích Quỷ khá rộng lớn, phía Bắc là núi Ngũ Linh, phía Nam giáp nước Hồ Tôn (sau này là vương quốc Champa), phía Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên) và phía Đông là biển Nam Hải.

    Kinh Dương Vương lấy nàng Thần Long, con gái của chúa hồ Động Đình sinh được một người con là Sùng Lãm. Sùng Lãm lên làm vua thay Kinh Dương Vương lấy hiệu là Lạc Long Quân. Tương truyền rằng Lạc Long Quân có gốc rồng từ dòng họ của mẹ nên thường ở dưới động nước. Khi người dân có việc cần giải quyết, thường đến trước động nước kêu to lên: "Bố ơi, ở đâu? Hãy đến với ta". Thế là Lạc Long Quân liền lên cạn giải quyết mọi việc khó khăn cho dân chúng.

    Lạc Long Quân gặp được Âu Cơ và lấy nàng làm vợ. Họ sinh ra một trăm người con trai (hoặc 100 trứng).

    Một hôm, khi các người con trai đã trưởng thành Lạc Long Quân nói với nàng Âu Cơ: "Ta là giống rồng, sống dưới nước, nàng là tiên, sống trên cạn. Thủy hỏa khắc nhau, không sống lâu bền với nhau được".

    Thế là hai người chia tay. Năm mươi người con ở lại với cha dưới động nước. Năm mươi người con kia theo mẹ lên cạn. Họ đến sống ở đất Phong Châu (Vĩnh Phú), tôn người con cả lên làm vua và cùng nhau xây dựng cơ đồ. Cũng từ truyền thuyết này mà người Việt vẫn cho rằng tổ tiên của mình là tiên rồng.

    Người con cả lên làm thủ lĩnh vùng đất mới. Đó là Hùng Vương thứ nhất. Bắt đầu một thời đại mà sử sách gọi là thời đại Hùng Vương. Hùng Vương đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Bạch Hạc (Việt Trì, Vĩnh Phú). Vua chia nước ra làm 15 bộ. Đa số các em của vua cai trị các bộ này. Họ được gọi là Lạc tướng và có quyền cha truyền con nối.

    Dưới các bộ là các công xã nông thôn có các Bố chính tức là các già làng đứng đầu. Vua có một hàng ngũ quan chức để giúp mình trị nước. Các quan ấy được gọi là Lạc hầu. Các con trai của vua gọi là Quan lang còn con gái thì gọi là Mị Nương (mệ). Đó là tổ chức nhà nước sơ khai đầu tiên của dân tộc Lạc Việt.

    II. Nước Âu Lạc và Thục An Dương Vương (258-207)

    Có nhiều giả thuyết về trường hợp An Dương Vương lên làm vua nước Âu Lạc. Theo một số sách sử như Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ngô Sĩ Liên), Việt Sử Tiêu án (Ngô Thời Sỹ), An Dương Vương tên là Thục Phán, nguyên là thủ lĩnh xứ Thục (hiện nay chưa xác định được xứ Thục ở đâu). Vào năm 257 trước Công Nguyên, Thục Phán đem quân đánh Hùng Vương thứ Mười Tám. Hùng Vương cậy mình có binh hùng tướng mạnh, không lo phòng bị, chỉ ngày đêm uống rượu, đàn hát. Quân Thục Phán tấn công bất ngờ, Hùng Vương không chống cự được, phải nhảy xuống giếng tự tử.

    Nhưng, lại có giả thuyết cho rằng Thục Phán là thủ lĩnh người Tây Âu, cư trú trên địa bàn phía Bắc nước Văn Lang. Vào năm 214 tr. CN. Tần Thủy Hoàng (Hoàng Đế Trung Hoa) sai tướng là Đồ Thư sang đánh đất Bách Việt. Người Tây Âu và người Lạc Việt cùng nhau đứng lên chống quân Tần. Sau khi thành công đuổi được quân xâm lăng, Hùng Vương thứ Mười Tám nhường ngôi cho Thục Phán.

    Dù tình huống lên ngôi của Thục Phán chưa được xác định rõ ràng, nhưng tất cả đều công nhận sự việc Thục Phán hợp nhất vùng đất của mình vào Văn Lang mà lập nên nước Âu Lạc.

    Thời An Dương Vương được chép lại vẫn nhiều tính chất hoang đường, truyền thuyết. Như truyền thuyết thần Kim Quy giúp vua xây thành Cổ Loa và tặng chiếc nỏ thần để giữ cơ đồ.

    Triệu Đà là quan úy quận Nam Hải, cho quân tiến đánh Âu Lạc nhiều lần nhưng không thành vì Âu Lạc có thành Cổ Loa hiểm yếu cùng chiếc nỏ thần diệu trấn giữ. Triệu Đà bèn hòa hoãn, cầu hôn con gái của An Dương Vương cho con trai của mình là Trọng Thủy. An Dương Vương đồng ý. Trọng Thủy ở rể tại Âu Lạc ba năm để do thám và tráo được lấy nỏ. Vì thế khi quân Triệu Đà kéo đến thì nỏ thần mất hiệu nghiệm. Quân Âu Lạc tan vỡ. An Dương Vương đem Mỵ Châu lên ngựa chạy loạn. Đến núi Mộ Dạ (Nghệ An), thần Kim Quy hiện lên, lên án Mỵ châu là giặc. An Dương Vương liền chém chết con gái và nhảy xuống bể tự tử. Dân Việt mất nền tự chủ từ đấy cho đến ngàn năm sau.

    III. Trạng thái kinh tế thời Hùng Vương - An Dương Vương

    Vào thời kỳ này, tuy sinh hoạt săn bắn và hái lượm vẫn còn giữ một vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế của cư dân, nhưng nghề chài lưới và nghề nông đã có những bước phát triển đáng kể.

    Thời ấy, ngư dân vẫn thường hay bị những loài cá dữ sát hại. Vua Hùng bèn dạy cho dân cách xâm trên mình hình ảnh những con cá sấu để thủy quái tưởng lầm là đồng loại mà không sát hại nữa. Từ đó dân Lạc Việt có tục xâm mình. Tục này kéo dài đến đời vua Trần Anh Tông (1293-1314) mới dứt.

    Nghề đánh cá đã phát triển với các dụng cụ đánh bắt như lưới có chì lưới bằng đất nung, lưỡi câu bằng đồng thau, mũi lao có ngạnh bằng xương.

    Vua Hùng lại chỉ cho dân cách trồng lúa và chính bản thân vua vẫn hàng năm lên núi cầu trời đất cho được trúng mùa. Chỗ núi vua lên khấn vái lúa về sau được gọi là núi Hùng (thuộc xã Hy Cương, huyện Phong Châu, Vĩnh Phú). Thuở ấy Văn Lang có ruộng lạc, tức là ruộng ở chỗ trũng nằm ven sông Hồng, sông Mã. Dân theo thủy triều lên xuống mà làm ruộng, được gọi là Lạc dân. Lạc dân dùng phương pháp thủy nậu để cấy lúa bằng cách lấy chân đạp cho cỏ sụt bùn rồi mới lấy cấy lúa lên. Thoạt tiên đó là những giống lúa hoang. Về sau được Lạc dân thuần dưỡng để trở thành hạt gạo nếp thơm dẻo. Nhưng dân Lạc không chỉ độc canh cây lúa mà còn trồng các loại rau củ, cây trái nữa. Qua các sự tích ta thấy đã có trầu cau, dưa hấu. Ngoài ra còn có khoai đậu, trồng dâu, nuôi tằm.

    Kỹ thuật luyện kim phát triển mạnh, cư dân Lạc Việt đã biết làm ra những công cụ sản xuất bằng kim loại như rìu đồng và quan trọng nhất là cày đồng và lưỡi hái bằng đồng ảnh hưởng mạnh đến sinh hoạt nông nghiệp. Lưỡi cày thời ấy có hình cánh bướm hoặc hình tam giác. Và xuất sắc đặc biệt là dân Lạc Việt đã đúc nên những chiếc đồng phức tạp đòi hỏi một trình độ kỹ thuật văn hóa cao.

    Những dụng cụ sinh hoạt như mâm đồng, đục, kim dao, lưỡi câu, chuông và đồ trang sức cũng được sản xuất với số lượng đáng kể. Ngoài ra, đã có nghề luyện sắt (di tích Gò Chiền Vậy) và nghề gốm.

    IV. Đời sống văn hóa

    1. Văn hóa vật chất

    1.1. Cư trú

    Nhà được dựng theo kiểu nhà sàn. Nguyên liệu là gỗ, tre, nứa, lá. Nhà có mái cong hình thuyền hoặc mái tròn và sàn thấp. Nhà chưa có vách, đuôi mái gối sát sàn nhà. Cầu thang lên đặt trước nhà.

    Các ngôi nhà được bố trí quây tụ ở ven đồi, đỉnh gò, chân núi, nếu gần sông suối thì nằm trên các giải đất cao để tránh lụt lội.

    1.2 Trang phục

    * Đầu tóc: có 3 kiểu chính

    Cắt ngắn ngang vai dùng cho cả nam lẫn nữ
    Búi tóc búi lên đỉnh đầu, có trường hợp chít khăn lên búi tóc. Loại kiểu tóc này cũng được cả nam lẫn nữ sử dụng. Về nữ, có trường hợp chít khăn lên búi tóc.
    Loại kiểu tóc kết đuôi sam và có vành khăn nằm ngang trán thì chỉ dùng cho phụ nữ.
    * Mặc: Cách phục sức đã có sự phân biệt nam nữ. Nữ mặc váy, thân để trần, đi chân đất. Váy có hai kiểu là kín và mở, ngắn đến đầu gối, có khi có đệm váy. Phụ nữ giàu có ăn mặc có phần chải chuốt hơn, khăn chóp nhọn trùm lên búi tóc, đủ cả váy, áo và yếm, áo cánh xẻ ngực, thắt lưng có trang trí. Váy kín có trang trí, buông chùng đến gót chân, đệm váy có hình chữ nhật cũng có trang trí, thả trước bụng hay sau mông.

    Nam đi chân không, ở trần, mặc khố. Khố có hai kiểu, kiểu quấn một vòng và kiểu quấn hai vòng. Có đuôi thả đàng sau.

    Trang phục lễ hội không phân biệt nam nữ. Thường là váy kết bằng lá hay bằng lông vũ. Mũ kết bằng lông chim có cắm thêm bông lau ở phía trên hoặc phía trước.

    Đồ trang sức: người thời Hùng Vương cả nam lẫn nữ đều rất ưa thích dùng dùng đồ trang sức. Nam cũng như nữ đều đeo vòng tai. Ngoài ra, các trang sức hạt chuỗi, nhẫn và vòng tay rất phổ biến.

    Hình dáng của vòng tay rất đa dạng: hình vành khăn, hình tròn, hình tròn có mấu. Hạt chuỗi có hình trụ, hình trái xoan, hình tròn. Vòng nhẫn hình tròn hoặc hình bện thừng. Vòng tay có tiết diện chữ nhật, hình ống, hoặc có cánh.

    Chất liệu của các đồ trang sức là những kim loại cao cấp như vàng bạc. Thường là bằng đá, đồng thau, rất ít khi bằng ngọc nhưng được tạo thành với khiếu thẩm mỹ cao.

    1.3 Ăn uống

    Thức ăn chính là gạo nếp tẻ, đã có dụng cụ bếp núc như nồi, chõ. Sách Lĩnh Nam Chích Quái ghi lại là dân Lạc đã biết làm mắm: "Lấy cầm thú, cá, ba ba làm mắm". Họ cũng biết làm rượu, làm bánh.

    Thức ăn thường là cá, gà, vịt, chim, heo, chó, trâu, hươu, nai, cáo, khỉ, ba ba, rùa, cua ốc... với các hương liệu: gừng muối, trầu cau, đất hun.

    2. Văn hóa xã hội

    2.1 Hôn nhân

    Có một số tục lệ như lấy gói đất, gói muối tượng trưng cho tình nghĩa vợ chồng. Vì thế có câu: "Tục hôn nhân lấy gói đất (hoặc lấy gói muối) làm đầu". Một số nghi thức khác trong hội lễ ghi nhận được là ném bùn, ném đất và hoa quả vào người chàng rể. Nghi thức chủ yếu nhất là hai vợ chồng mới ăn chung bát cơm nếp. Sau khi ăn bát cơm nếp, họ được cộng đồng công nhận là vợ chồng.

    2.2 Tang ma

    Khi trong nhà có người chết, người ta giã vào cối, đó là tín hiệu thông tin cho hàng xóm, láng giềng biết để đến giúp đỡ.

    Người chết có quyền đem theo một số tài sản để sử dụng trong cuộc sống khác. Các đồ tùy táng là những đồ dùng hàng ngày và đồ trang sức.

    Thời ấy người chết được hỏa táng hay được chôn cất. Các nhà khảo cổ học đã đào được các quan tài độc mộc. Đó là một thân cây khoét rỗng có hình dáng giống như chiếc thuyền độc mộc.

    2.3 Phong tục khác

    Khi trẻ sơ sinh ra đời, dân Lạc có tục lệ lót ổ cho trẻ bằng lá chuối tươi. Khi trẻ lớn lên được làm lễ thành đinh, Lễ thành đinh mang tính thử thách năng lực của các thanh niên, thường được tổ chức những buổi thi tài trong các ngày hội. Sau lễ thành đinh, thanh niên trở thành thành viên lao động mới của xã hội.

    3. Văn hóa tinh thần

    3.1 Vẽ: Nghệ thuật vẽ đã rất phổ biến với các hoa văn đa dạng trên các đồ gốm, trên các trống đồng. Không những thế cư dân Văn Lang đã biết dùng màu để vẽ. Tục xăm mình là một minh chứng về nghệ thuật vẽ màu của người Văn Lang.

    Đề tài chính của nghệ thuật này là con người đang hoạt động, đang sống hồn nhiên. Đó là quang cảnh nhảy múa, thổi khèn, giã cối... hoặc là quan hệ giữa con người và thiên nhiên. Mặt trống đồng như một vũ trụ mà trung tâm là mặt trời. Hoạt động của con người quây tròn chung quanh mặt trời đang tỏa sáng.

    3.2. Nghệ thuật tạo tượng phát triển rất cao. Chất liệu là đất nung, đồng thau, đá... những bức tượng mang dáng vẻ rất hồn nhiên, sinh động, ví dụ như bức tượng người ngồi thổi khèn, tượng người cõng nhau nhảy múa thổi khèn cho thấy sự thoải mái, thanh nhàn trong cuộc sống đơn giản. Bên cạnh đề tài là con người còn có các động vật gần trong sinh hoạt của con người: gà, chó, chim...

    3.3 Âm nhạc

    Qua các hiện vật khảo cổ tìm được qua hình ảnh trên các trống đồng, ta thấy cư dân Văn Lang rất ưa ca hát, nhảy múa. Họ hát đối đáp, đánh trống, đánh cồng hoặc hòa tấu cùng nhau với đủ các dụng cụ âm nhạc mà họ đã sáng tạo được như sau:

    Trống đồng có âm thanh dũng mãnh-trống da-Cồng chiêng (mỗi giàn chiêng có từ 6 đến 8 chiếc)-Chuông nhạc-Phách-Khèn...

    3.4 Hội lễ

    Hội lễ là một phần trong cuộc sống của dân Lạc. Trong các buổi lễ hội có những sinh hoạt như sau:

    Tục lệ đánh trống đồng: hoặc do một người đánh hoặc hòa tấu từng cặp trống đực cái, người đánh trống bận lễ phục hình chim ở tư thế ngồi hay đứng.

    Múa nhảy ca hát: Người trình diễn cũng bận lễ phục hình chim, có múa hóa trang, múa vũ trang, múa hát giao duyên nam nữ. Múa hóa trang thường đội mũ có gắn lông chim, có từ ba đến bảy người, có người cầm vũ khí, cầm khèn.

    Hội giã cối: từng đôi nam nữ cầm chày dài giã cối tròn tạo nên hình ảnh tượng trưng cho sự sinh phồn.

    Các cuộc đua thuyền hào hứng với những chiếc thuyền độc mộc mình thon, mũi cong, đuôi én.

    Mọi sinh hoạt trên đều gắn với điều cầu mong thiết thực của cuộc sống như mong mưa thuận, gió hòa, mong được mùa, mong sinh sản được nhiều.

    3.5 Tín ngưỡng: dân Lạc thờ các lực lượng thiên nhiên (thần núi, thần sông, thần đất); thờ các vật thiêng (thần rồng, chim, hổ); thờ anh hùng (Phù Đổng).

    3.6. Truyện kể: thời đại Hùng Vương - An Dương Vương để lại trong nền văn hóa dân tộc một kho tàng truyện kể phong phú, giúp ta hình dung được phần nào cách sống của người thời ấy. Truyện Trầu Cau nói về nguồn gốc của thói quen ăn trầu. Truyện Bánh Chưng Bánh Dày giải thích quan niệm trời tròn đất vuông cùng tục nấu bánh chưng của người Việt vào các dịp Tết. Truyện An Tiêm cho biết thời ấy con người đã biết trồng trọt. Truyện Sơn Tinh-Thủy Tinh là cách giải thích mộc mạc nhưng rất trữ tình về nạn lụt lội hàng năm ở miền quanh núi Ba Vì. Mối tình thơ mộng giữa Tiên Dung và Chử Đồng Tử được cụ thể hóa bằng hình ảnh đầm Dạ Trạch và bãi Tự Nhiên. Tinh thần yêu nước được sớm tuyên dương qua hình ảnh của Phù Đổng Thiên Vương. Các truyền thuyết thần thoại ấy đã được kể từ thế hệ này đến thế hệ khác, truyền mãi đến nay, qua biết bao thời gian mà vẫn giữ được tính tưởng tượng dồi dào của người Lạc xưa.

    V. Di tích tiêu biểu

    Thời gian đã tàn phá hầu hết di tích của thời Hùng Vương, ta chỉ có một số dấu tích được xây dựng vào các thế kỷ sau với mục đích tưởng nhớ thời dựng nước. Đó là trường hợp Đền Hùng. Còn trong trường hợp thành Cổ Loa, đã phải nhờ đến khảo cổ học để vạch lại một số đường nét của dấu vết xưa.

    Đền Hùng

    Ngọn núi Hùng tọa lạc ở thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, huyện Phong Châu, tỉnh Vĩnh Phú. Nơi đây vào ngày 19.9.1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến thăm và phát biểu cùng các chiến sĩ.

    "Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước"

    Núi Hùng cao 175m và có khoảng 150 loài thực vật. Rải từ chân núi lên đến đỉnh là cụm di tích lịch sử, văn hóa Đền Hùng, gồm có ba cụm kiến thức, tính từ dưới lên là đền Hạ, đền Trung và đền Thượng, nằm cách nhau theo cao độ.

    Vòm cổng vào đền nằm ở chân núi phía Tây. Hai bên cột có hai câu đối với ý nghĩa như sau:

    "Mở lối đắp nền, bốn mặt non sông qui một mối, Lên cao nhìn rộng, nghìn trùng đồi núi tựa đàn con" (dịch từ chữ Hán)

    Từ cổng leo lên 225 bậc thềm ta đến được đền Hạ. Đền này được xây vào khoảng thế kỷ XVIII theo kiểu chữ nhị, là nơi mà theo truyền thuyết, Âu Cơ đã đặt cái bọc trăm trứng cầu khẩn cho nở thành trăm người con trai. Ngoài đền Hạ còn có gác chuông và chùa Thiêng Quang, được xây vào thời Lê (thế kỷ thứ XV). Trước cửa chùa có cây thiên tuế.

    Đền Trung nằm cao cách đền Hạ 168 bậc thềm. Đây là ngôi đền được xây dựng trước nhất của cụm kiến trúc đền Hùng, vào khoảng thế kỷ XIV. Sau đó đền bị hư hại đến thế kỷ XVII thì được trùng tu lại và tồn tại cho đến nay. Đền được xây theo kiểu chữ nhất. Tương truyền nơi đây ngày xưa các vua Hùng bàn việc nước với các Lạc hầu, Lạc tướng và cũng là nơi Lang Liêu dâng bánh chưng, bánh dầy lên vua Hùng thứ sáu.

    Đền Thượng được xây dựng từ thế kỷ XV, đến đầu thế kỷ XX, đền được trùng tu lại. Đền ở gần đỉnh núi, cách đền Trung 102 bậc thềm, là nơi ngày xưa các vua Hùng cùng các bô lão làm lễ tế trời, khấn thần lúa, và là nơi vua Hùng thứ Sáu lập đền thờ Thánh Gióng sau khi thắng giặc Ân. Mộ Tổ (lăng HùngVương) nằm gần đền Thượng. Trước đây, mộ Tổ chỉ là một mô đất. Vào năm 1874 mộ được xây dựng lại như kiểu dáng ngày nay. Tương truyền đấy là mộ của vua Hùng thứ Sáu.

    Sau núi, về phía Đông Nam còn có đền Giếng với giếng Ngọc, được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ XVIII, là nơi các con gái vua Hùng xưa thường soi bóng chải tóc.

    Hiện nay tại khu di tích này còn được xây dựng thêm nhiều công trình phụ, trong đó đáng kể là bảo tàng Hùng Vương, giúp cho ta hình dung được một phần nào cuộc sống, sinh hoạt của cư dân Lạc Việt.

    Mỗi năm, vào mùa xuân, dân chúng từ mọi miền kéo về đây làm giỗ Tổ theo câu ca dao cổ nhắc nhở:

    "Dù ai đi ngược về xuôi
    Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba"

    Lễ Hội đền Hùng được kéo dài trong bốn ngày, từ mồng 8 đến 11 tháng ba âm lịch, và ngày chính hội, như câu ca nhắc nhở, là ngày mồng mười. Đông đảo dân chúng từ ngày mồng 8 đã kéo đến thăm và dâng hương tại cả ba đền. Vào ngày chính hội, buổi quốc lễ được cử hành để nhắc nhở mọi người đến cội nguồn của mình. Lễ vật để cúng không thể thiếu là bánh chưng, bánh dày, để nhớ đến công ơn vua Hùng đã dạy dân trồng lúa cùng sự tích Lang Liêu. Ngoài ra còn có cỗ tam sinh gồm lợn, bò, dê nguyên con, cạo lông. Lợn để sống, mỡ chài phủ kín toàn thân, còn bò và dê thì được thui vàng, cộng với xôi màu trắng, tím, đỏ, thật đủ màu sắc.

    Sau buổi quốc lễ là các tiết mục truyền thống như đám lễ rước, múa hát xoan, ca trù, ném còn, đu tiên, chàm thau, đâm đuống, bắn nỏ, đấu vật. Đám rước có voi nan, ngựa gỗ, kiệu, lọng, cờ xí. Người rước đi từng bước một trong nhịp chiêng trống. Đến đền Hạ, những người vác cờ chạy quanh đền, còn các chiếc kiệu lại rập rình làm động tác kiệu bay.

    Múa hát xoan (xoan là xuân) là dân ca Vĩnh Phú, có một kép đánh trống và bốn cô đào hát thơ và dâng hương.

    Trò "ném còn" còn được gọi là trò "tung còn tìm bạn tình", là một trò chơi hào hứng trong các dịp lễ hội dân gian. "Còn" là một trái bằng vải, có hình vuông tám múi, bên trong lèn chặt các hạt bông. Các góc của trái "còn" được đính thêm cái giải vải màu sặc sỡ. Một sợi dây chắc, dài, được gắn vào một góc "còn". Dây này cũng được kết vải ngũ sắc, dùng để cầm và quay trái còn lên cao tít. Khi chơi, hai bên nam nữ đứng cách nhau, tung "còn" qua một vòng tròn bằng tre treo trên một cây tre trồng ở giữa. Ai tung được một đường "còn" uốn lượn rồi chui qua vòng thì sẽ được nhiều điều may mắn. Chàng trai thương một cô gái nào thì tung thẳng "còn" vào cô ấy. Nếu cô gái bắt lấy và tung trở lại cho chàng trai, ấy là cô gái đồng ý. Tung qua, ném lại, tạo nên những đường còn lả lướt là dấu hiệu của hạnh phúc sẽ tới.

    Trò đu tiên thường được diễn ra ở sân đền Hạ. Từng đôi cô gái, áo váy sặc sỡ, trang điểm xinh tươi, đạp chân cho bàn đu quay. áo váy bay phất phới trong tiếng hát:

    Này lên, này lên, này lên
    Lên non Cổ Tích, lên đền Hùng Vương
    Đền này có thờ Tổ Nam phương

    Ba lần "Này lên" tương ứng với ba độ cao khác nhau của ba ngôi đền Hạ, Trung, Thượng

    Hội đền Hùng càng rộng ràng trong tiếng "chàm thau" (đánh trống đồng) dũng mãnh của các chàng trai, tiếng "đâm đuống" (giã gạo) nhịp nhàng của các cô gái, đưa người thưởng lãm trở về một không gian xã hội xa xưa, bình dị nhưng sống động của người Việt.

    Thành Cổ Loa

    Khi lên làm vua, An Dương Vương hợp nhất hai nhóm dân tộc Tây Âu và Lạc Việt, lập ra nước Âu Lạc. Sau đó, nhà vua cho dời đô từ Phong Châu về Phong Khê và hạ lệnh xây thành Cổ Loa để bảo vệ kinh đô. Thành Cổ Loa xưa tọa lạc tại địa điểm xã Loa ngày nay, thuộc huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội.

    Bối cảnh địa lý, xã hội

    Vào thời Âu Lạc, Cổ Loa nằm vào vị trí trung tâm của đất nước và là nơi giao lưu quan trọng của đường thủy. Đó là một khu đất đồi cao ráo nằm ở tả ngạn sông Hồng. Con sông này qua nhiều thế kỷ bị phù sa bồi đắp và nay đã trở thành một con lạch nhỏ, nhưng xưa kia sông Hoàng là một con sông nhánh lớn quan trọng của sông Hồng, nối liền sông Hồng với sông Cầu, con sông lớn nhất trong hệ thống sông Thái Bình. Như vậy, về phương diện giao thông đường thủy, Cổ Loa có một vị trí vô cùng thuận lợi hơn bất kỳ ở đâu tại đồng bằng Bắc bộ vào thời ấy. Đó là vị trí nối liền mạng lưới đường thủy của sông Hồng cùng với mạng lưới đường thủy của sông Thái Bình. Hai mạng lưới đường thủy này chi phối toàn bộ hệ thống đường thủy tại Bắc bộ. Qua con sông Hoàng, thuyền bè có thể tỏa đi khắp nơi, nếu ngược lên sông Hồng là có thể thâm nhập vào vùng Bắc hay Tây Bắc của Bắc Bộ, nếu xuôi sông Hồng, thuyền có thể ra đến biển cả, còn nếu muốn đến vùng phía Đông Bắc bộ thì dùng sông Cầu để thâm nhập vào hệ thống sông Thái Bình đến tận sông Thương và sông Lục Nam.

    Phong Khê hồi ấy là một vùng đồng bằng trù phú có xóm làng, dân chúng đông đúc, sống bằng nghề làm ruộng, đánh cá và săn bắn. Việc dời đô từ Phong Châu về đây có ý nghĩa lịch sử quan trọng, đánh dấu một giai đoạn phát triển của dân Việt, đánh dấu giai đoạn người Việt thiên cư từ vùng Trung du, rừng núi về định cư tại vùng đồng bằng. Việc định cư tại đồng bằng chứng tỏ một bước tiến lớn trong các lãnh vực xã hội, kinh tế trong giao tiếp, trao đổi con người dễ dàng đi lại bằng đường bộ hay bằng đường thủy; trong nông nghiệp các cánh đồng bằng phẳng đã được khai thác có quy mô; trong công nghiệp sự sản xuất các công cụ như cuốc, cày, hái bằng sắt đã tăng tiến.

    Kỹ thuật xây thành

    Theo sử cũ, thành được xây quanh co chín lớp, chu vi chín dặm, sâu nghìn trượng, xoáy tròn như hình ốc, cho nên được gọi là Loa Thành ("loa" có nghĩa là con ốc). Thành còn có tên nôm là Chạ Chủ và nhiều tên khác như Khả Lũ ("lũ" có nghĩa là quanh co nhiều lớp), Côn Lôn thành (ý nói thành cao như núi Côn Lôn bên Trung Quốc) hoặc Việt Vương thành (thành của vua xứ Việt), dân địa phương gọi bằng tên nôm là thành Chủ.

    Để có đất xây thành, An Dương Vương phải cho dời dân tại chỗ đi nơi khác. Theo truyền thuyết thì làng Quậy hiện nay nguyên vốn ở tại Cổ Loa đã phải dời xuống vùng đất trũng cuối dòng sông Hoàng để An Dương Vương xây thành.

    Thành Cổ Loa được các nhà khảo cổ học đánh giá là "tòa thành cổ nhất, quy mô lớn vào bậc nhất, cấu trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy của nước ta"

    Vào thời Âu Lạc, con người chỉ mới làm quen với một ít kỹ thuật sơ khai, công cụ lao động còn rất thô thiển, ít hiệu quả, tất cả công việc đều do bàn tay người mà ra. Muốn xây được công trình với "quy mô lớn vào bậc nhất" này, phải có một số lượng khổng lồ đất đào đắp, đá kè và gốm rải, như vậy, nhà nước Âu Lạc hẳn đã phải điều động một số nhân công rất lớn để lao động trong một thời gian rất dài mới có thể hoàn thành được. Các nhà khảo cổ học cho rằng đã phải có đến hàng vạn người làm việc hàng năm cho công trình này.

    Khi xây thành, người xưa đã biết lợi dụng tối đa và khéo léo các địa hình tự nhiên. Họ tận dụng chiều cao của các đồi, gò, đắp thêm đất cho cao hơn để xây nên hai bức tường thành phía ngoài, vì thế hai bức tường thành này có đường nét uốn lượn theo địa hình chứ không băng theo đường thẳng như bức tường thành trung tâm. Người xưa lại xây thành bên cạnh con sông Hoàng để dùng sông này vừa làm hào bảo vệ thành vừa là nguồn cung cấp nước cho toàn bộ hệ thống hào vừa là đường thủy quan trọng. Chiếc Đầm Cả rộng lớn nằm ở phía Đông cũng được tận dụng biến thành bến cảng làm nơi tụ họp cho đến cả hàng trăm thuyền bè.

    Chất liệu chủ yếu dùng để xây thành là đất, sau đó là đá và gốm vỡ. Đá được dùng để kè cho chân thành được vững chắc. Các đoạn thành ven sông, ven đầm được kè nhiều đá hơn các đoạn khác. Đá kè là loại đá tảng lớn và đá cuội được chở tới từ các miền núi. Xen giữa đám đất đá là những lớp gốm được rải dày mỏng khác nhau, nhiều nhất là ở chân thành và rìa thành để chống sụt lở. Các cuộc khai quật khảo cổ học đã tìm thấy một số lượng gốm khổng lồ gồm ngói ống, ngói bản, đầu ngói, đinh ngói. Ngói có nhiều loại với độ nung khác nhau. Có cái được nung ở nhiệt độ thấp, có cái được nung rất cao gần như sành. Ngói được trang trí nhiều loại hoa văn ở một mặt hay hai mặt.

    Tường thành phía ngoài được xây dựng đứng để gây khó khăn cho đối phương, còn mặt trong thì được xây thoai thoải để dễ dàng lên xuống.

    Ba vòng thành Cổ Loa

    Hiện nay thành Cổ Loa có ba vòng thành, mỗi vòng thành được gọi bằng tên tương đương với vị trí của thành: thành ở trung tâm được gọi là thành Nội (hoặc thành Trong), bao ngoài thành Nội là thành Trung (hoặc thành Giữa). Vòng ngoài cũng được gọi là thành Ngoại (thành Ngoài).

    Thành Nội có hình chữ nhật vuông vức và cân đối, nằm theo chính hướng Đông-Tây, Nam-Bắc, chu vi 1650m. Thành cao trung bình khoảng 5m, mặt thành rộng từ 6m đến 12m, chân thành rộng từ 20m đến 30m.

    Trên mặt thành có đắp các ụ đất nhô ra ngoài rìa thành. Các ụ đất này được gọi là hỏa hồi. Có tất cả 12 hỏa hồi đối xứng với nhau. Mỗi cạnh ngắn của thành có hai hỏa hồi giống nhau, mỗi cạnh dài có bốn hỏa hồi dài ngắn khác nhau. Các hỏa hồi dài được bố trí nằm ở gần góc, ở giữa là hai hỏa hồi ngắn hơn.

    Thành Nội chỉ có một cửa trổ ngay chính giữa tường thành phía Nam, ắt hẳn là để kiểm soát cho chặt chẽ việc xuất thành nhập thành.

    Thành Nội dùng để bảo vệ khu cung cấm của An Dương Vương. Khu này ngày nay là đất Xóm Chùa, thôn Cổ Loa. Nơi đây có đền thờ An Dương Vương và đình Cổ Loa.

    Thành Trung bao bọc Thành Nội, không có hình dáng rõ rệt vì người xưa đã tận dụng địa hình thiên nhiên bằng cách đắp nối các gò đất cao hoặc đắp men theo bờ của các đầm hồ. Chu vi khoảng 6.500m. Chiều cao của thành trung bình từ 6m đến 12m. Đoạn cao nhất là Gò Ông Voi ở vào góc Đông-Bắc. Mặt thành rộng không đều, trung bình là 10m. Chân thành rộng gấp hai mặt thành.

    Thành Trung có năm cửa: cửa Bắc, cửa Tây, cửa Tây-Nam, cửa Đông, cửa Đông và cửa Nam.

    Cửa Đông còn gọi là cửa Cống Song, đó là một con đường thủy nối Đầm Cả với năm con rạch phía trong thành Trung để cung cấp nước cho vòng hào của thành Nội.

    Đặc biệt cửa Nam là cửa chung của cả hai thành Trung và thành Ngoại. Hai bức thành này, khi chạy về phía Nam thì được đắp gần nhau và điểm gặp nhau của hai thành được bố trí thành cửa chung. Đây là một điều hiếm có trong lịch sử xây thành của Việt Nam. Cửa Nam còn được gọi là Trấn Nam Môn, là cửa chính và là mặt tiền của thành Cổ Loa nên có hai miếu thờ thần trấn cửa ở ngay trên mặt thành hai bên cửa.

    Khu đất nằm giữa thành Trung và thành Ngoại được dùng làm chỗ ở cho quan lại. Như vậy nhà vua được bảo vệ rất kỹ càng.

    Thành Ngoại cũng không có hình dáng rõ rệt như thành Trung. Đây là vòng thành dài nhất, vào khoảng 8.000m. Cao từ 3m đến 4m. Đoạn cao nhất đến 8m, gọi là Gò Cột Cờ. Chân thành rộng từ 12m đến 20m

    Ngoài cửa Nam là cửa chung với thành Trung, thành Ngoài còn có cửa Bắc (còn gọi là cửa Khâu), cửa Tây Nam và cửa Đông. Các cửa này được bố trí chéo với các cửa thành Trung để gây thêm phần trắc trở cho việc nhập thành.

    Cửa Đông là con đường nước nối sông Hoành với cửa Cống Song để chảy vào thành Nội.

    Khu đất giới hạn giữa thành Trung và thành Ngoại là nơi doanh trại của quân đội.

    Hệ thống hào nước

    Mỗi vòng thành đều có hào nước bao quanh bên ngoài, hào rộng trung bình từ 10m đến 30m, có chỗ còn rộng hơn. Các vòng hào đều thông với nhau và thông với sông Hoàng.

    Sông Hoàng được dùng làm hào thiên nhiên cho thành Ngoại ở về phía Tây Nam và Nam. Phần hào còn lại được đào sát chân tường thành từ gò Cột Cờ đến Đầm Cả. Con hào này nối với hào của thành Trung ở Đầm Cả và Xóm Mít, chảy qua cửa Cống Song nối với năm con lạch có hình dáng như bàn tay xòe, và với một nhánh của con lạch này, nước chảy thông vào vòng hào của thành Nội.

    Thuyền bè đi lại dễ dàng trên ba vòng hào để đến trú đậu ở Đầm Cả hoặc ra sông Hoàng và từ đó có thể tỏa đi khắp nơi. Theo truyền thuyết, An Dương Vương thường dùng thuyền đi khắp các hào rồi ra sông Hoàng.

    ụ, lũy

    Trong cấu trúc chung của thành Cổ Loa còn có một yếu tố khác làm phong phú thêm tổng thể kiến trúc này. Đó là những gò đất dài họặc tròn được đắp rải rác giữa các vòng thành hoặc nằm ngoài thành Ngoại. Ta không biết được có bao nhiêu ụ, lũy như thế, nhưng một số được dân chúng gọi là Đống Dân, Đống Chuông, Đống Bắn... Các ụ, lũy này được dùng làm công sự, có nhiệm vụ của những pháo đài tiền vệ, phối hợp với thành, hào trong việc bảo vệ và chiến đấu. Đây cũng là một điểm đặc biệt của thành Cổ Loa.

    Về mặt quân sự, thành Cổ Loa thể hiện sự sáng tạo độc đáo của người Việt cổ trong công cuộc giữ nước và chống ngoại xâm. Với các bức thành kiên cố, với hào sâu rộng cùng các ụ, lũy, Cổ Loa là một căn cứ phòng thủ vững chắc để bảo vệ vua, triều đình và kinh đô. Đồng thời là một căn cứu kết hợp hài hòa thủy binh cùng bộ binh. Nhờ ba vòng hào thông nhau dễ dàng, thủy binh có thể phối hợp cùng bộ binh để vận động trên bộ cũng như trên nước khi tác chiến.

    Về mặt xã hội, với sự phân bố từng khu cư trú cho vua, quan, binh lính, thành Cổ Loa là một chứng cứ về sự phân hóa của xã hội thời ấy. Không như buổi đầu của thời đại Hùng Vương khi nhà vua và dân còn cùng nhau đi cày, cùng nhau vui chơi; thời kỳ này vua quan không những đã tách khỏi dân chúng mà còn phải được bảo vệ chặt chẽ, sống gần như cô lập hẳn với cuộc sống bình thường. Xã hội đã có giai cấp rõ ràng và ắt hẳn cũng đã phải có sự phân biệt giàu nghèo, sang hèn.

    Về mặt văn hóa, là một tòa thành cổ nhất còn để lại dấu tích, Cổ Loa trở thành một di sản văn hóa vô cùng quy báu, một bằng chứng về óc sáng tạo, về trình độ kỹ thuật cũng như văn hóa của người Việt Cổ. Đá kè chân thành, gốm rải rìa thành, hào nước quanh co, ụ lũy phức tạp, hỏa hồi chắc chắn và nhất là địa hình hiểm trở ngoằn ngoèo, tất cả những điều này làm cho thành ốc xứng đáng là biểu tượng linh động cho tinh hoa truyền thống của dân tộc Việt Nam. Hàng năm, vào ngày 6 tháng giêng âm lịch, cư dân thành ốc tổ chức một lễ trang trọng để tưởng nhớ đến những người đã có công xây thành, và nhất là để ghi ơn An Dương Vương. Trong dân gian thường lưu truyền câu ca:

    Ai về qua huyện Đông Anh
    Ghé xem phong cảnh Loa thành Thục Vương
    Cổ Loa thành ốc khác thường,
    Trải bao năm tháng dấu thành còn đây.
     
  4. kechienthuat

    kechienthuat Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    13/5/04
    Bài viết:
    464
    Đùa thật ,phải nói tên trungyht này giỏi thiệt ,viết cứ như là một sử gia ,những lời này thiết nghĩ tên này có thể thốt ra một lời như trong những bài viết dài của hắn thì tôi quả phải phục sát đất ,thật ra tôi không khoái nói xấu nó ,nó ở cùng tôi thiệt ,nhưng phải nói hắn chịu khó tìm những tra web trên mạng rồi copy về pate lên kiếm bài thật dễ ,nếu ai muốn kiếm MP thì cứ học cách này của trungyth nhé đảm bảo mỗi bài sẽ được +5mp .
     
  5. Justwonder

    Justwonder Legend of Zelda Lão Làng GVN

    Tham gia ngày:
    8/12/03
    Bài viết:
    988
    Ở đời có câu "Trâu cột ghét trâu ăn" là vậy. :)) Mặc ai nói sao cũng được, thấy đúng thì cứ làm! Keep up the good work, trungth!
     
  6. trungyhth

    trungyhth Mario & Luigi Lão Làng GVN

    Tham gia ngày:
    6/5/04
    Bài viết:
    861
    Nơi ở:
    Trái tim KL
    To all :đây là topic lich sử để tránh làm ảnh hưởng tới topic này có gì thắc mắc mời các huynh sang topic khác nha.Anh ciga xoá luôn cả bài này của em và 2 bài trên được không ạ thank.
     
  7. kechienthuat

    kechienthuat Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    13/5/04
    Bài viết:
    464
    Trích Dẫn & Sưu TầmI. Họ Khúc đặt nền móng tự trị (906-923)

    Khúc Thừa Dụ 906-907
    Khúc Hạo 907-917
    Khúc Thừa Mỹ 917-930
    Dương Đình Nghệ 931-937
    Vào đầu thế kỷ thứ 10, nhà Đường trở nên suy yếu. Lợi dụng thời cơ này, Khúc Thừa Dụ (?-907), một hào trưởng cư trú lâu đời ở Hồng Châu (Hải Hưng) nổi lên, tự xưng là Tiết độ sứ (906). Nhà Đường bắt buộc phải công nhận sự việc ấy và còn phong thêm tước "Đồng binh Chương sự" cho ông nữa. Sử cũ chép rằng Khúc Thừa Dụ tính tình khoa hòa, nhân ái nên được nhiều người theo về.

    Nhà Đường, dù trên danh nghĩa, phong tước và công nhận Khúc Thừa Dụ, nhưng thực chất là không thể kiểm soát được đất Giao Châu nữa. Khúc Thừa Dụ làm chủ đất nước, xây dựng chính quyền tự chủ, khởi đầu cho nền độc lập của nước nhà.

    Khúc Thừa Dụ làm Tiết độ sứ một năm thì mất, con là Khúc Hạo lên nối nghiệp cha được mười năm (907-917). Trong mười năm này, Khúc Thừa Hạo cho sửa đổi các khu vực hành chính, cắt đặt người trông coi mọi việc cho đến tận đơn vị xã, định lại mức thuế ruộng đất và miễn bỏ các lao dịch nặng nề.

    Trong khi ấy, tại Trung Hoa, một Tiết độ sứ họ Lưu chiếm lấy vùng Quảng Châu, lập nên nước Nam Hán.

    Năm 917, Khúc Hạo mất, con là Khúc Thừa Mỹ lên nối chức Tiết độ sứ. Khúc Thừa Mỹ giao hảo cùng nhà Lương (đã thay nhà Đường làm chủ Trung Hoa). Vua Nam Hán lấy cớ ấy cho quân sang đánh họ Khúc. Khúc Thừa Mỹ không chống cự được, bị bắt đưa về Quảng Châu (930). Quân Nam Hán chiếm đóng thành Đại La.

    Kế tục sự nghiệp của họ Khúc là Dương Đình Nghệ (?-937), một người làm quan dưới đời Khúc Thừa Mỹ.

    Sau khi Khúc Thừa Mỹ bị bắt, Dương Đình Nghệ dấy binh ở làng Ràng (Dương xá, Thanh Hóa), vốn là quê của ông. Các hào trưởng như Ngô Quyền, Đinh Công Trứ đem lực lượng của mình gia nhập hàng ngũ của Dương Đình Nghệ.

    Năm 931, Dương Đình Nghệ tiến quân đánh thành Đại La, Thứ sử Giao Châu là Lý Tiến chống không lại, chạy về Quảng Châu (Trung Hoa) thì bị vua Nam Hán giết chết. Một toán quân Nam Hán được cử sang để đàn áp quân của Dương Đình Nghệ, nhưng bị đánh tan, phải bỏ chạy về Trung Hoa. Thắng lợi, Dương Đình Nghệ tự xưng là Tiết độ sứ.

    Cai quản đất nước được sáu năm thì Dương Đình Nghệ bị một thuộc tướng là Kiều Công Tiễn sát hại. Ngô Quyền (897-944), tướng tài và đồng thời là rể của Dương Đình Nghệ, đang cai quản Châu ái, đem quân đi trừng phạt Kiều Công Tiễn.

    Ngô Quyền là người cùng quê với Phùng Hưng, xã Đường Lâm (nay thuộc thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây), đã từng theo Dương Đình Nghệ từ buổi ban đầu và có uy tín lớn với dân chúng.

    Trước sự tiến công của Ngô Quyền, Kiều Công Tiễn lo sợ, vội vàng đi cầu cứu nhà Nam Hán. Vua Nam Hán nắm cơ hội thực hiện mộng xâm lăng, bèn phong cho con là Hoằng Tháo làm Tĩnh Hải Quân Tiết độ sứ, sai đem thủy quân đi trước còn bản thân mình sẽ theo đường bộ tiếp ứng.

    Năm 938. Ngô Quyền chiếm được thành Đại La, bắt được Kiều Công Tiễn và đem bêu đầu trên thành. Dù biết tin Kiều Công Tiễn đã bị giết chết, và Ngô Quyền đã làm chủ thành Đại La, quân Nam Hán vẫn tiến công. Ngô Quyền bèn bày thế trận thủy chiến, cho cắm cọc trên sông Bạch Đằng, chở địch. Tháng 12 năm ấy, Hoằng Tháo đem thủy binh tiến ồ ạt vào sông Bạch Đằng. Nhân lúc triều cường, Ngô Quyền cho thuyền nhẹ ra đánh, nhử quân Hoằng Tháo lọt qua trận địa cọc ngầm. Khi thủy triều xuống mạnh, trận địa cọc ngầm nổi lên, Ngô Quyền thúc đại quân ra đánh. Chiến thuyền của Nam Hán nặng nề, không thoát được, bị cọc đâm vỡ rất nhiều. Hoằng Tháo bị giết tại trận, toàn bộ đội thủy quân bị tiêu diệt. Vua Nam Hán nghe tin bại trận và tin Hoằng Tháo bị giết chết, thương khóc thảm thiết rồi rút về nước.
     
  8. kechienthuat

    kechienthuat Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    13/5/04
    Bài viết:
    464
    Sưu Tầm
    . Nhà Ngô (939-965)

    Ngô Vương 938-944
    Dương Bình Vương 945-950
    Hậu Ngô Vương 951-965
    Đánh đuổi quân Nam Hán, Ngô Quyền xưng vương (939), đóng đô ở Cổ Loa. Ngô Vương đặt ra các chức quan văn võ, qui định triều nghi, lập bộ máy chính quyền mang tính chất tập quyền.

    Ngô Quyền chỉ ở ngôi được sáu năm. Lúc sắp mất, Ngô Quyền đem con là Ngô Xương Ngập ủy thác cho người em vợ là Dương Tam Kha. Dương Tam Kha là con của Dương Đình Nghệ, em của bà Dương Hậu. Nhưng khi Ngô Quyền mất rồi. Dương Tam Kha phản bội lòng tin của Ngô Quyền, cướp lấy ngôi, tự xưng là Bình Vương (945-950). Ngô Xương Ngập phải chạy trốn vào núi. Dương Tam Kha bèn bắt người con thứ của Ngô Quyền là Ngô Xương Văn làm con nuôi. Ngô Xương Văn, trong một dịp đi hành quân dẹp loạn, đem quân trở ngược lại bắt được Dương Tam Kha, giáng Kha xuống bậc công.

    Ngô Xương Văn xưng vương và cho người đi rước anh về cùng làm vua. Không bao lâu Ngô Xương Ngập bệnh chết (954). Thế lực nhà Ngô ngày một yếu kém, khắp nơi loạn lạc. Trong một chuyến đi dẹp loạn (965), Xương Văn bị trúng tên chết. Kể từ đấy, nhà Ngô không còn là một thế lực trung tâm của đất nước nữa. Con của Xương Văn là Ngô Xương Xí trở thành một trong 12 sứ quân.

    Từ đó đất nước trải qua một thời kỳ nội chiến tranh quyền khốc liệt mà sử sách gọi là loạn 12 sứ quân. Sau nhờ Đinh Bộ Lĩnh (924-979) đánh thắng tất cả các sứ quân, đất nước mới thoát cảnh nội chiến.
     
  9. kechienthuat

    kechienthuat Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    13/5/04
    Bài viết:
    464
    SƯu Tầm
    Nhà Đinh (968-980) - Đại Cồ Việt

    Đinh Tiên Hoàng 968-979
    Đinh Tuệ 980
    Sau khi dẹp tan loạn sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế tức là Đinh Tiên Hoàng, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư (tỉnh Ninh Bình)

    Đồng thời với gian đoạn này, ở Trung Hoa, nhà Tống làm chủ đất nước và tiêu diệt nước Nam Hán (970). Đinh Tiên Hoàng sai sứ sang thông hiếu. Đến năm 972 nhà vua sai Đinh Liễn đem quà sang cống. Vua Tống bèn phong cho Đinh Tiên Hoàng làm An Nam Quận vương và Đinh Liễn làm Tĩnh Hải Quân Tiết độ sứ.

    Đinh Tiên Hoàng đặt ra những luật lệ hình phạt nặng nề như bỏ phạm nhân vào dầu hay cho hổ báo xé xác.

    Quân đội dưới thời Đinh Tiên Hoàng đã được tổ chức chặt chẽ, phân ra làm các đơn vị như sau:

    Đạo = 10 quân
    Quân = 10 lữ
    Lữ = 10 tốt
    Tốt = 10 ngũ
    Ngũ = 10 người.
    Năm 979, nhân lúc Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn say rượu, nằm ở sân điện, một tên quan hầu là Đỗ Thích giết chết cả hai.

    Đinh Tiên Hoàng làm vua được 12 năm, thọ 56 tuổi

    Sau khi Đinh Tiên Hoàng bị Đỗ Thích giết chết, đình thần tìm bắt được Đỗ Thích và đem giết chết đi rồi tôn người con nhỏ là Đinh Tuệ, mới sáu tuổi lên làm vua. Quyền bính ở cả trong tay Thập Đạo Tướng quân Lê Hoàn. Lê Hoàn lại có quan hệ chặt chẽ với người vợ góa của Đinh Tiên Hoàng là Dương Thái Hậu nên uy thế rất lừng lẫy. Các công thần cũ của Đinh Bộ Lĩnh như Nguyễn Bặc, Đinh Điền đem quân vây đánh Lê Hoàn nhưng bị Lê Hoàn tiêu diệt và giết cả.
     
  10. kechienthuat

    kechienthuat Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    13/5/04
    Bài viết:
    464
    Nhà Tiền Lê (980-1009)

    Lê Đại Hành 980-1005
    Lê Long Việt 1005
    Lê Long Đĩnh 1005-1009
    Nhà Tống lợi dụng sự rối ren trong triều nhà Đinh, chuẩn bị cho quân sang xâm lược Đại Cồ Việt. Thái hậu Dương Vân Nga trao long cổn (áo bào của vua Đinh Tiên Hoàng - tượng trưng cho uy quyền của nhà vua) cho Lê Hoàn và cùng quan lại, quân lính tôn Lê Hoàn lên làm vua.

    Lê Hoàn lên ngôi, lấy hiệu là Lê Đại Hành, lập nên nhà Tiền Lê. Để có thời gian chuẩn bị, nhà vua phái sứ giả qua xin hòa hoãn cùng nhà Tống. Đồng thời nhà vua gấp rút bày binh bố trận. Đầu năm 981, quân Tống theo hai đường thủy bộ, vào đánh Đại Cồ Việt. Lê Đại Hành một mặt cho quân chận toán quân bộ ở Chi Lăng (Lạng Sơn). Tướng Hầu Nhân Bảo, cầm đầu toán quân bộ, mắc mưu trá hàng của Lê Hoàn, bị chém chết. Toán quân bộ bị diệt quá nửa, tan rã. Toán quân thủy bị chặn ở Bạch Đằng, nghe tin thất bại, bèn tháo chạy về nước.

    Dù chiến thắng, Lê Đại Hành vẫn giữ đường lối hòa hoãn, cho thả các tù binh về nước, đồng thời cho người sang nhà Tống xin triều cống. Thấy thế không thắng được Lê Đại Hành, vua Tống đành chấp thuận, phong cho Lê Đại Hành làm Tiết độ sứ.

    Không còn lo lắng việc chống Tống nữa, Lê Đại Hành sửa sang mọi việc trong nước. Ông mở mang kinh đô Hoa Lư, củng cố bộ máy chính quyền trung ương, sắp xếp các đơn vị hành chính. Để khuyến khích hoạt động nông nghiệp, Lê Đại Hành làm lễ cày ruộng Tịch điền, mở đầu cho tục lệ này ở đất nước. Về đối ngoại, nhà vua tuy thần phục nhà Tống và chịu lệ cống, nhưng hoàn toàn không lệ thuộc gì cả.

    Lê Hoàn làm vua được 24 năm, mất năm 1005, thọ 65 tuổi.

    Sau khi Lê Đại Hành mất, Thái Tử Long Việt lên ngôi được ba ngày thì bị Long Đĩnh sai người giết chết. Các hoàng tử đánh nhau trong 8 tháng để tranh ngôi. Cuối cùng Lê Long Đĩnh diệt được các hoàng tử khác và lên ngôi vua cai trị đất nước.

    Lê Long Đĩnh là người hoang dâm, không thiết gì việc xây dựng đất nước, chỉ chú trong đến việc ăn chơi. Do bị bệnh hoạn, mỗi khi thiết triều, Lê Long Đĩnh không thể ngồi được mà phải nằm, nên sử sách gọi ông tà là Lê Ngọa Triều. Lê Long Đĩnh lại rất tàn ác, đặt ra nhiều hình phạt dã man để mua vui. Lê Long Đĩnh ở ngôi 4 năm (1005-1009) thì chết. Triều đình đưa người dòng họ khác là Lý Công Uẩn lên ngôi vua.
     
  11. kechienthuat

    kechienthuat Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    13/5/04
    Bài viết:
    464
    III. Tình hình kinh tế, văn hóa thời Ngô - Đinh - Lê

    Kinh tế: Nông nghiệp đóng vai trò chủ yếu trong sinh hoạt kinh tế. Phần lớn ruộng đất công của làng xã. Nông dân được làng xã chia ruộng để cày cấy, nộp thuế và đi lính cho nhà vua. Khi có những công trình xây dựng lớn như xây cung điện, xây thành, làm đường thì họ phải tham gia. Các vua rất chú ý khuyến khích nông nghiệp. Lê Hoàn là vua Việt Nam đầu tiên cử hành lễ cày tịch điền vào mùa xuân hàng năm. Từ đó, các vua thời sau đều giữ lệ ấy.

    Song song với nông nghiệp, vấn đề thủy lợi cũng được các vua chú ý kênh ngòi được đào vét nhiều nơi vừa để tưới ruộng vừa để tiện lợi giao thông bằng thuyền bè. Trên những bến đò quan trọng, nhà nước cho thuyền chở người qua lại. Hệ thống giao thông đường bộ được mở mang. Những đường giao thông chính đều có đặt các trạm xá.

    Các nghề thủ công như nghề gốm, nghề dệt, khai mỏ, luyện sắt, đúc đồng... đều được phát triển. Nhờ ngành thủ công nghệ phát triển cao nên Lê Đại Hành xây được một cung điện làm nơi coi chầu, cột nhà được thếp vàng, ngói bằng bạc.

    Cuộc sống vật chất của dân chúng đã được trở lại thanh nhàn hơn trước. Sách sử ghi lại rằng vào năm 987 cả nước được mùa to. Những sinh hoạt lễ hội, nghệ thuật đã trở về lại với người dân Việt. Ca hát nhảy múa được triều đình khuyến khích. Đinh Tiên Hoàng đặt ra chức Ưu bà để dạy múa hát cho quân đội. Lê Đại Hành kiến tạo lại trò chơi đua thuyền, cứ vào tháng bảy là tháng sinh nhật của vua, vua cho thả thuyền ở giữa sông, lấy tre kết làm núi giả trên thuyền, gọi là Nam sơn rồi cho đua thuyền. Lễ hội này cũng được triều nhà Lý kế tục. Lê Đại Hành còn tổ chức hội hoa đăng, hội đánh cá.

    Phật giáo: Một điểm đặc biệt của thời Ngô - Đinh - Lê là sự hưng thịnh của phật giáo. Các nhà vua đã lấy lý thuyết Phật giáo làm tư tưởng chủ đạo cho việc trị dân và việc giải hóa ảnh hưởng của nhà Hán sau ngàn năm Bắc thuộc.

    Phật giáo đã được thâm nhập vào đất nước từ thế kỷ thứ nhất, trước Nho giáo. Những người đầu tiên mang tôn giáo này đến không phải là những nhà truyền giáo hay là những bậc chân tu mà là những nhà buôn bán người ấn Độ theo đạo phật, họ đến buôn bán và trong thời gian lưu trú, họ ăn chay niệm Phật cúng bái theo nghi lễ Phật giáo, có người lại lấy vợ Việt và dần dà những sinh hoạt tôn giáo của họ lan đến người Việt. Lý thuyết đạo phật cho rằng đời là bể khổ, con người bị rằng buộc trong kiếp luân hồi, muốn thoát khỏi cảnh ấy, con người phải diệt dục, phải diệt lòng ham muốn để tiến tới niết bàn. Lý thuyết ấy phù hợp với tâm trạng của người Việt đang ở trong cảnh đô hộ.

    Vào thế kỷ thứ hai thì các tăng sĩ theo phái Đại thừa đến truyền giảng đạo phật. Đến năm 580, phái thiền đầu tiên của Việt Nam được Vinitaruci (Tỳ Ni Đa Lưu Chi) thành lập (Thiền học là do Bodhidharma, người ấn, sáng tạo. Theo ông, nguồn gốc bản chất của con người là thiện và con người có khả năng giao tiếp trực tiếp với Phật bằng trái tim chân thành, "không biết gì là biết hết tất cả").

    Vinitaruci là người dòng dõi Bà La Môn, gốc ở phía Nam Thiên Trúc. Sau khi thấm nhuần giáo lý của Phật, ông đến Trung Hoa và sau đó xuôi đến Giao Châu và trụ trì tại chùa Pháp Vân ở làng Cổ Châu (Long Biên-580). Ông bắt đầu dịch kinh Phật, tác phẩm đầu tiên là kinh "Tượng đầu tinh xá" mang tính chất thiền học, nói về sự giác ngộ như một cái gì không thể dùng lời nói và chữ viết để diễn tả được, tuệ giác được truyền thẳng vào tâm người, thấy được nhân tâm và thành chính quả. Thiền phái này truyền được 19 đời đến năm 1213 mới dứt. Những người nổi tiếng nhất trong phái thiền này là Từ Đạo Hạnh, Vạn Hạnh.

    Phái thiền thứ hai của Việt Nam do nhà sư Vô Ngôn Thông thành lập vào thế kỷ thứ chín. Vô Ngôn Thông gốc người Quảng Đông đến Giao Châu vào năm 820 vào trụ trì tại ngôi chùa Kiến Sơ, làng Phù Đổng (Bắc Ninh). Vô Ngôn Thông tính tình trầm lặng ít nói, nhưng lại hiểu biết mau chóng cho nên được người đời tặng cho danh hiệu là Vô Ngôn Thông. Ông là người phát triển phương pháp bích quan (thiền tọa bằng cách xây mặt vào vách). Ông phủ nhận việc đi tìm chân lý, niết bàn qua các kinh điển mà chỉ bằng thiền tại tâm, ông chủ trương con người có thể trong giấy lát đạt đến giác ngộ tức khắc, khỏi cần qua nhiều giai đoạn tiệm tiến bởi vì "Phật tại tâm"

    Vào thời Ngô - Đinh - Lê, sau khi đất nước giành lại được độc lập, những nhà nho được đào tạo theo kiểu Trung Hoa bị gạt ra ngoài cuộc sống chính trị, nhà nước trọng dụng các nhà sư và chính họ đã có một vai trò quan trọng trong việc cai trị đất nước.

    Đinh Tiên Hoàng là người rất sùng đạo Phật. Năm 973 nhà vua phân định giai cấp cho giới tăng sĩ, lập ra một hế thống tăng lữ, đứng đầu là nhà sư Ngô Chân Lưu, một vị Tổ thuộc thế hệ thứ năm của phái thiền Vô Ngôn Thông. Hệ thống tăng lữ này đứng bên cạnh vua, giúp vua trong việc cai trị. Đinh Tiên Hoàng phong cho Ngô Chân Lưu danh hiệu Khuông Việt đại sư (nghĩa là giúp nước Việt) cai quản toàn bộ hệ thống tăng giá trong nước.

    Trong nước, chùa tháp được xây dựng. Nă 973 Đinh Liễn cho dựng tại Hoa Lư 100 cột đá khắc kinh Phật, gọi là kinh tràng. Các nhà sư tạo thành một tầng lớp có học thức và có uy tín trong xã hội. Các tác phẩm văn hóa của thời ấy phần nhiều là của các nhà sư như Đỗ Thuận, Ngô Chân Lưu, Vạn Hạnh.

    Vào thời Tiền Lê, các nhà sư tiếp tục được trọng dụng Khuông Việt vẫn được Lê Đại Hành ưu đãi. Sách Thiền uyển tập anh chép rằng vua Lê Đại Hành rất kính trọng Khuông Việt đại sư, "phàm những việc quân quốc trong triều đình đều đưa cho ngài cả". Nhà vua lại còn mời các thiền sư Pháp Thuận (tức là Đỗ Thuận) và Vạn Hạnh của phái thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi làm cố vấn chính trị.

    IV. Di sản văn hóa tiêu biểu

    Buổi đầu của thời kỳ xây dựng nền tự chủ không có nhiều công trình kiến trúc đồ sộ, nhưng để lại cho chúng ta một số di sản vô cùng có ý nghĩa. Đó là vùng đất "Hai vua một hậu" Đường Lâm, tuy ở đây không có kiến trúc của đất nước vào thời kỳ đầu xây dựng nền độc lập tự chủ, nhưng lại là quê hương của Ngô Quyền, Phùng Hưng. Đây cũng là địa điểm qui tụ nhiều đền thờ, miếu mạo tưởng nhớ đến các người xưa, trong đó có lăng Ngô Quyền và đền thờ Phùng Hưng. Ngoài ra, về kiến trúc, có di tích Hoa Lư, kinh thành đầu tiên của thời kỳ độc lập, một tên gọi gắn bó với các chuyện kể về cậu bé chăn trâu Đinh Bộ Lĩnh lấy hoa lau làm cờ.

    Vùng cổ tích Đường Lâm

    Đường Lâm là vùng đất cổ, mang giá trị lịch sử, văn hóa cao. Vùng cổ tích này thuộc thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây, với diện tích chỉ chừng 4km2, gồm 7 thôn là Cam Lâm, Đoài Giáp, Đông Sàng, Hà Tân, Hưng Thịnh, Mông Phụ và Phụ Khang. Đường Lâm vốn nổi tiếng là một vùng đất đá ong. Đâu đâu cũng thấy đá ong, từ cái giếng cho đến cổng nhà, cột đình, ngôi mộ, nhà thờ họ. Không gian tràn ngập màu sắc đá ong đem đến cho Đường Lâm một vẻ cổ kính không nơi nào có được. Đường Lâm còn được biết đến là một vùng trồng mía, làm đường nổi tiếng. Vì thế có những địa danh liên quan đến các hoạt động này như Đường Lâm, chùa Mía, phố Mía, tổng Mía. Đó cũng là hình ảnh mía, mật, đường qua câu ca ví von như sau:

    "Lên phố Mía,
    Gặp cô hàng mật,
    Nắm lấy tay hỏi đường"

    Theo các tư liệu khảo cổ học thì cách đây 3.500 năm, Đường Lâm là nơi tụ cư của người Việt Cổ. Và đây là quê hương của hai vị nữ tướng của hai bà Trưng là Chiêu Trưng và Đỗ Lý, là căn cứ của bà Man Thiện, mẹ của Trưng Trắc và Trưng Nhị. Đường Lâm được gọi là đất "Hai vua một hậu" vì đây là quê hương của hai vị anh hùng dân tộc Phùng Hưng, Ngô Quyền và của bà Nguyễn Thị Rong, quý phi chúa Trịnh Tráng (có tài liệu cho là Ngô Thị Ngọc Diệu). Vùng địa linh nhân kiệt này, vì thế, chứa chất nhiều di tích lịch sử, văn hóa. Có nhiều đình, chùa, miếu được xây dựng từ nhiều thế kỷ. Trong đó, có đền Phùng Hưng, lăng Ngô Quyền, miếu thờ bà Lê Thị Lan (nữ tướng của hai Bà Trưng), chùa Mía, chùa Mèn (thờ bà Man Thiện), đình Mông Phụ... và các địa danh liên quan đến các vị anh hùng như đồi Hồ Gấm, nơi Phùng Hưng ngày xưa tập luyện, hoặc rặng dứa cổ thụ, nơi buộc voi của Ngô Quyền. Đặc biệt, Đường Lâm còn có giếng Xin Sữa, tuy nhỏ nhưng khi nào cũng đầy nước trong ngọt ngào, là nơi các bà mẹ đến uống nước để cầu mong có nhiều sữa cho con bú.

    Phùng Hưng (Bố Cái Đại Vương) là người thôn Cam Lâm (một trong bảy thôn của xã Đường Lâm), đã cùng hai em tập hợp dân làng Đường Lâm cùng dân chúng ở mọi miền đứng lên khởi nghĩa, lấy Đường Lâm làm căn cứ chống quân nhà Đường, từ đấy tỏa ra khắp nước, giành được độc lập (767) Phùng Hưng lên làm vua được bảy năm thì mất. Nhân dân Đường Lâm lập đền thờ tưởng nhớ ông. Đền thờ Phùng Hưng tọa lạc ngay tại xã Cam Lâm, đền nhỏ nhưng đẹp, còn giữ được nét dáng cổ xưa.

    Ngô Quyền, người chiến thắng trận Bạch Đằng oanh liệt, cũng là người thôn Cam Lâm. Lăng Ngô Quyền cách đền Phùng Hưng 300m. Lăng hiện nay là kiến trúc của lần trùng tu năm 1821 có bia ghi bốn chữ "Tiền Ngô Vương lăng". Sau lưng ngôi mộ, nơi an nghỉ của thân xác người anh hùng là ngôi đền thờ ngài. Hằng năm vào ngày lễ Ngô Quyền (từ 16 đến 18 tháng Giêng Âm lịch), một đoàn hành hương chừng 150 người, ăn mặc theo kiểu lễ hội với đủ đồ tế lễ và ban nhạc dân tộc, từ hội đền xã Đằng Hải, Hải Phòng, nơi xảy ra chiến thắng Bạch Đằng lịch sử, kéo đến Đường Lâm cùng dự lễ hội.

    Quán Sứ, một ngôi nhà cổ nằm ven đường đất đỏ là nơi quàn thi hài của những anh hùng, liệt sĩ. Quán Sứ với mái ngói dày nặng có các cột vuông bằng đá ong chống đỡ. Vòm mái uốn cong như hình trăng khuyết. Địa điểm này liên quan đến một nhân vật mà nhân dân Đường Lâm hằng tưởng nhớ. Đó là Thám Hoa Giang Văn Minh. Nhà Lê sau khi trung hưng, sai Thám Hoa Giang Văn Minh đi sứ sang nhà Minh xin cầu phong (1673). Ông Minh vốn là người tiết tháo, luôn luôn giữ gìn quốc thể. Một hôm vua Minh ra cho ông một câu đối có ý khinh rẻ người Việt bằng cách nhắc lại chuyện Mã Viện dựng cột đồng có sáu chữ "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt":

    "Đồng Cổ chí kim đài dĩ lục"
    Nghĩa là "Cột đồng đến nay rêu đã xanh"

    Tức thì ông Thám Hoa ngạo nghễ đối lại:

    "Đằng Giang tự cổ huyết do hồng"
    Nghĩa là: "Sông Bạch Đằng từ xưa máu vẫn còn đỏ"

    Vua Minh tức giận sai mổ bụng sứ thần rồi cho ướp xác đưa về nước. Thi hài được rước đi qua làng Đường Lâm. Dân làng ra đón xác và xin vua cho được chôn sứ thần tại quê làng Đường Lâm. Vua phong cho ông tước "Công bộ thị lang minh Quận công" và khen rằng: "Đi sứ không làm nhục mệnh nước, thực là anh hùng thiên cổ" và chuẩn y cho ý nguyện của dân làng. Thi hài của Thám Hoa được quàn tại ngôi nhà quán sứ này trước khi chôn cất. Ngày 2 tháng 6 âm lịch là ngày lễ Giang Văn Minh. Về sau, nhà Quán Sứ còn được dùng làm nơi quàn các chiến sĩ trận vong.

    Chùa Mía ở Đông Sàng, có tên chữ là Sùng Nghiêm tự (có nghĩa là tôn kính sự nghiêm trang). Chùa Mía là một công trình có giá trị nghệ thuật tạo hình cao. Chùa được xây dựng vào nă 1632 do bà Nguyễn Thị Rong, vợ chúa Trịnh Tráng và là con gái làng Mía (danh xưng khác của Đường Lâm) hưng công. Chùa có ba khu, cách nhau bằng hai khoảng sân. Trước chùa có một cây cổ thụ rùm ròa thuộc vào loại lâu đời. Gác chuông hai tầng, tám mái có hàng lan can con tiện. Khu thứ hai là nhà Tổ và nhà tăng. Sau cũng là nhà bái đường, chùa hạ, chùa trong và thượng điện. Tại nhà bái đường có tấm bia khắc kể công ơn làm chùa của bà Rong. Cột kèo của chùa bằng gỗ đều được chạm trổ công phu. Trong chùa có 287 pho tượng bằng gỗ hay bằng đất luyện với rễ cây si, giấy bản và mật. Các pho Bát bộ Kim Cương, Tuyết Sơn, Quan Âm tống tử là những tuyệt tác nghệ thuật tạo hình. Bát bộ Kim Cương là 8 pho tượng cao khoảng 2m, đứng hai bên tả hữu của chùa trong. Pho tượng Tuyết Sơn nổi tiếng với những nét chạm khắc sống động, đầy chất "thần" của con người. Pho Quan Âm tống tử là tượng Thị Kinh ẵm con, nét mặt hiền từ, phúc hậu. Ngoài ra, gần đây, dân Đường Lâm đã cùng nhau đóng góp, xây một chiếc tháp 9 tầng, cao 13,5m. ở tầng 7 của tháp có chiếc khánh niên hiệu Cảnh Hưng (1740-1786), ở tầng 8 treo một chiếc chuông nặng 400 kg, niên hiệu Cảnh Thịnh (1792-1802). Chùa Mía đã được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử và văn hóa.

    Xã Đường Lâm, với bề dày lịch sử của mình suốt từ 2.000 năm là một vùng cổ tích, một vùng văn hóa đáng được tham quan và tôn tạo.

    Thành Hoa Lư

    Thành Hoa Lư được xây từ đời Đinh Tiên Hoàng và đến đời Lê Đại Hành thì được tu bổ lại. Thành Hoa Lư ở xã Trường Yên, Huyện Gia Khánh, tỉnh Ninh Bình, cách Hà Nội khoảng 100km về phía Nam, cách thị xã khoảng 10km về phía Tây Bắc.

    Thành nằm trên một khu đất được núi đá vôi bao quanh ba mặt Tây, Nam, Đông. Phía Bắc và Đông Bắc có con sông Hoàng Long chảy ngang. Sông Hoàng Long bắt nguồn từ vùng rừng núi Hòa Bình Nho Quan và chảy vào sông Đáy tạo nên con đường thủy Bắc - Nam tiện lợi.

    Cũng giống như khi xây thành Cổ Loa, dân Việt đã tận dụng địa hình thiên nhiên, dùng chiều cao của dãy núi đá vôi để làm nên những bức tường thành kiên cố. Có tất cả mười đoạn tường thành được đắp thêm, nối những ngọn núi lại. Đoạn dài nhất 500m. Đoạn ngắn nhất 65m, cao khoảng 10m, rộng chừng 15m.

    Thành Hoa Lư gồm hai vòng thành riêng biệt, nằm cạnh nhau. Vòng thành ở phía Đông được gọi là thành Ngoài, vòng thành ở phía Tây được gọi là thành Trong.

    Thành Ngoài bao quanh một khu đất có diện tích chừng 140ha, gồm hai thôn Yên Thượng và Yên Thành của xã Trường Yên, là nơi có cung điện, lầu gác của vua. Thành Trong có diện tích tương đương với thành Ngoài, bao gồm khu đất nay là thôn Chi Phong, xã Trường Yên.

    Hai tòa thành chạy gần nhau ở ngách núi Quền Vòng (phía Tây của thành Ngoài và phía Đông của thành Trong). Ngách núi Quền Vòng cũng là nơi thông thương của hai vòng thành.

    Vì dựa theo thế núi để xây nên, cho nên cả hai tòa nhà thành đều không có hình dáng rõ rệt, giống nhau ở điểm là hình dài và eo lại ở chính giữa. Và chính ở chỗ eo này là bức tường vầu, ngăn mỗi thành ra hai phần, làm tăng thêm mức độ quanh co hiểm hóc cho tòa thành.

    Cả hai thành đều có nhánh của Sông Hoàng Long chảy vào, nhờ vậy việc chuyển ra vào thành đều dễ dàng.

    ở những chỗ đất dễ lún, móng tường được chôn sâu đến 2 mét, chất liệu là từng lớp cành cây lẫn cùng đất. Các lớp đất này có cọc đóng sâu xuống để giữ cho móng khỏi trôi. Cọc thì có cọc kép và cọc chiếc. Cọc kép gồm hai thanh gỗ nối với nhau bằng đà ngang qua lỗ mộng, trên đà lại còn có nhiều thanh gỗ dài. Nhờ cách xây móng cẩn thận thế nên các đoạn thành xây bên trên tồn tại cho đến ngày nay.

    Thân tường bên trong được xây bằng gạch chắc chắn dày khoảng 0,45m. Chân tường có kè đá tảng và cọc gỗ chòng chéo.

    Kinh đô Hoa Lư, một Kinh đô được xây dựng sau một ngàn năm Bắc thuộc đã phản ánh phần nào tính dân tộc của người Việt. Trong khi tại Trung Quốc, những thành lũy thời Hán đều có hình dáng đều đặn hình học, đường ngang lối dọc ngay hành thẳng lối thì Hoa Lư lại ngoằn ngoèo không theo khuôn mẫu của nhà Hán mà theo địa thế thiên nhiên. Qua đó ta thấy được tính độc lập ngay cả trong kiến trúc của dân tộc.
     
  12. kechienthuat

    kechienthuat Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    13/5/04
    Bài viết:
    464
    Gia Long hoàng đế (1802 - 1819)


    --------------------------------------------------------------------------------

    Nguyễn ánh lấy lại được Gia Định năm Mậu Thân (1788) tuy đã xưng vương mà chưa đặt niên hiệu riêng, vẫn dùng niên hiệu vua Lê. Tháng 5 năm Nhâm Tuất (1802) lấy lại được toàn bộ đất đai cũ của các chúa Nguyễn, Nguyễn Vương Phúc ánh cho lập đàn tế cáo trời đất, thiết triều tại Phú Xuân, đặt niên hiệu Gia Long năm thứ nhất. Lê Quang Định được cử làm Chánh sứ sang nhà Thanh xin phong vương và đổi tên nước là Nam Việt. Nhà Thanh cho rằng tên nước là Nam Việt sẽ lẫn với nước của Triệu Đà (gồm cả Đông Việt, Tây Việt) nên đổi là Việt Nam. Thế là năm Giáp Tý (1804) án sát Quảng Tây Tề Bồ Sâm được vua Thanh phái sang phong vương cho Gia Long và nước ta có tên là Việt Nam. Năm Bính Dần (1806), Gia Long chính thức làm lễ xưng đế ở điện Thái Hòa và từ đây qui định hàng tháng cứ ngày rằm và mồng một thì thiết đại triều, các ngày 5, 10, 20 và 25 thì thiết tiểu triều.

    Là vua sáng nghiệp của triều Nguyễn, Gia Long phải quyết định rất nhiều việc đặt nền móng cho vương triều có một địa bàn thống trị rộng lớn từ Bắc chí Nam. Để tránh lộng quyền, ngay từ đầu nhà vua bãi bỏ chức vụ Tể tướng. ở triều đình chỉ đặt ra 6 bộ: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công do các Thượng thư đứng đầu và Tả hữu tham tri, Tả hữu thị lang giúp việc. ở trong cung cũng vậy, nhà vua không lập ngôi Hoàng hậu, chỉ có Hoàng phi và các cung tần.

    Quản lý một đất nước thống nhất kéo dài từ Lạng Sơn đến Hà Tiên đối với Gia Long lúc đó là hoàn toàn mới mẻ. Gia Long cho tổ chức lại các đơn vị hành chính từ trung ương xuống. Cả nước chia làm 23 trấn, 4 doanh. Từ Ninh Bình trở ra gọi là Bắc thành gồm 11 trấn (5 nội trấn và 6 ngoại trấn); từ Bình Thuận trở vào gọi là Gia Định thành gồm 5 trấn; ở quãng giữa là các trấn độc lập: Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Nghĩa, Bình Định, Phú Yên, Bình Hòa, Bình Thuận; đất kinh kỳ đặt 4 doanh: Trực Lệ Quảng Đức doanh (tức Thừa Thiên), Quảng Trị doanh, Quảng Bình doanh và Quảng Nam doanh. Cai quản Bắc thành và Gia Định thành có Tổng trấn và Phó tổng trấn. Mỗi trấn có Lưu trấn hay Trấn thư, cai bạ và ký lục. Trấn chia ra phủ, huyện, châu có tri phủ, tri huyện, tri châu đứng đầu. Đây là lần đầu trên một lãnh thổ thống nhất, các tổ chức hành chính được sắp đặt chính quy như vậy.

    Quản lý đinh khẩu, ruộng đất và thế khóa áp dụng theo mẫu hình thời Lê sơ nhưng được thực hiện trên quy mô lớn hơn, có quy củ hơn. Đáng chú ý là việc làm sổ ruộng (địa bạ) dưới thời Gia Long được tiến hành nhất loạt, có quy mô toàn quốc. Các làng xã phải lập sổ địa bạ ghi rõ từng loại ruộng đất, diện tích, vị trí, công, tư... chép thành 3 bản nộp lên bộ Hộ. Bộ đóng dấu kiềm, lưu 1 quyển, tỉnh giữ 1, xã giữ 1. Năm năm làm lại địa bạ một lần. Đến nay còn lưu giữ khá đủ toàn bộ địa ba Gia Long của các trấn, doanh cả nước. Trên cơ sở điều tra kê cứu địa chí các địa phương. Cả nước gồm 4 địa hình sông núi, cầu quán, chợ búa, phong tục, thổ sản... năm Bính Dần (1806), vua Gia Long sai biên soạn và ban hành bộ "Nhất thống địa dư chí" gồm 10 quyển.

    Năm ất Hợi (1815) bộ "Quốc triều hình luật" gồm 22 quyển với 398 điều luật đã được ban hành.

    Công cuộc khai hoang vùng đồng bằng sông Cửu Long được tiếp tục. Nhà nước đã bỏ tiền đào kênh thoát nước Thụy Hà và sông Vĩnh Tế tạo thuận lợi cho việc khẩn hoang. Những công trình lớn như sông Vĩnh Tế huy động sức người, sức của cả dânViệt và Chân Lạp dọc hai bờ có sông chạy qua. Việc trị thủy vùng đồng bằng Bắc Bộ cũng được Gia Long chú ý ngay từ đầu. Năm Giáp Tý (1804), trên đường ra Bắc làm lễ thụ phong của nhà Thanh, Gia Long cũng nêu vấn đề đắp đê để sĩ phu Bắc Hà bàn luận. Mặc dù chưa nhất trí, nhà vua vẫn quyết định đắp đê. Thời Gia Long khối lượng đê, kè, cống được đắp nhiều nhất so với các triều trước.

    Đối ngoại, triều Nguyễn một mặt tranh thủ sự ủng hộ và giữ lễ thần phục nhà Thanh, mặc khác lại tạo quan hệ đàn anh đối với Chân Lạp và Ai Lao. Đối với các nước phương Tây, từ chỗ dựa vào lực lượng của họ để giành thắng lợi chuyển sang lạnh nhạt. Năm Quí Hợi (1803), nước Anh xin mở cửa hàng buôn bán ở Trà Sơn (Quảng Nam) bị nhà vua từ chối. Sĩ quan Pháp đã từng giúp vua được trọng đãi, chầu không phải lạy... Còn yêu sách khác của chính phủ Pháp đều bị khước từ. Năm Đinh Sửu (1817) tàu buôn Pháp tên là "La paix" (hòa bình) chở hàng sang bán nhưng là hàng không hợp thị hiếu người Việt Nam, phải trở về, miễn thuế. Đến khi tàu Cybèle vào Đà Nẵng đưa thư Hoàng đế (1787) (Bá Đa Lộc thay mặt Nguyễn ánh, có khoản Nguyễn ánh nhường cho Pháp cửa biển Đà Nẵng và đảo Côn Lôn). Gia Long kiên quyết bác bỏ viện lý rằng: Điều ước tuy đã ký nhưng thuở đó phía Pháp không thực hiện thì nay không buôn phương Tây song cũng không mời chào, khuyến khích hoặc có một chính sách tỏ ra chủ động, tích cực hơn.

    Gia Long có hai vợ chính: thứ nhất là Thế tổ Thừa Thiên Cao hoàng hậu họ Tống, người huyện Tống Sơn, Thanh Hóa, con gái Quí Quốc công Tống Phúc Khuông. Nguyễn Phúc ánh cưới bà làm vợ năm 18 tuổi, người cung kính, cẩn thận, có phép tắc lễ độ. Bà sinh được hai hoàng tử, con cả là Chiêu chết sớm; con thứ là Hoàng tử Cảnh từng theo Bá Đa Lộc làm con tin sang cầu viện Pháp rồi về nước được lập làm Thái tử, sau bị bệnh đậu mùa mất năm Tân Dậu (1801). Bà thứ hai là Thuận thiên Cao hoàng hậu họ Trần, người huyện Hương Trà, phủ Thừa Thiên, con gái Thọ Quốc công Trần Hưng Đạt, được tiến vào hầu Nguyễn ánh từ năm Giáp Ngọ (1774), năm Kỷ Dậu (1789) được tấn phong là Tả cung tần, hiệu Nhị phi. Bà sinh được 4 hoàng tử: Nguyễn Phúc Đởm (sau lên ngôi lấy hiệu là Minh Mệnh); Nguyễn Phúc Đài (Kiến An vương); Nguyễn Phúc Hiệu (mất sớm), Nguyễn Phúc Thấn (Thiệu Hòa quận vương). Ngoài 6 người con với hai vợ chính đã kể trên Gia Long còn 7 người con trai với các bà khác, tổng cộng 13 hoàng tử 18 công chúa.
     
  13. kechienthuat

    kechienthuat Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    13/5/04
    Bài viết:
    464
    Thế Phổ Họ Mạc
    Vua nhà Mạc Niên hiệu Năm Niên hiệu Trung Quốc Triều đại Trung Quốc Vua nhà Lê Niên hiệu
    Âm lịch Dương lịch
    Thái Tổ Mạc Đạng Dung (1527-1529) Minh Đức Đinh Hợi 1527-1529 Gia Tĩnh 6 Minh Thế Tông Lê Hoàng Đệ Xuân Thống Nguyên 6-7
    Thái Tông Mạc Đăng Doanh (1530-1540) Đại Chính Canh Dần 1530-1540 Gia Tĩnh 9 Minh Thế Tông Lê ý, Lê Trang Tông Quang Thiệu 15, Nguyên Hòa 8
    Hiến Tông Mạc Phúc Hải (1541-1546) Quảng Hòa Tân Sửu 1541-1546 Gia Tĩnh 20 Minh Thế Tông Lê Trang Tông Nguyên Hòa 9-14
    Tuyên Tông Mạc Phúc Nguyên (1547-1561) Vĩnh Định Đinh Mùi 1547 Gia Tĩnh 26 Minh Thế Tông Lê Trang Tông Nguyên Hòa 15
    Tuyên Tông Mạc Phúc Nguyên (1547-1561) Cảnh Lịch Mậu Thân 1548-1553 Gia Tĩnh 27 Minh Thế Tông Lê Trang Tông Nguyên Hòa 16
    Tuyên Tông Mạc Phúc Nguyên (1547-1561) Quang Bảo Giáp Dần 1554-1561 Gia Tĩnh 33 Minh Thế Tông Lê Trung Tông Thuận Bình 6
    Mạc Mậu Hợp (1562-1592) Thuần Phúc Nhâm Tuất 1562-1565 Gia Tĩnh 41 Minh Thế Tông Lê Anh Tông Chính Trị 5
    Mạc Mậu Hợp (1562-1592) Sùng Khang Bính Dần 1566-1577 Gia Tĩnh 45 Minh Thế Tông Lê Anh Tông Chính Trị 9
    Mạc Mậu Hợp (1562-1592) Diên Thành Mậu Dần 1578-1587 Vạn Lịch 6 Minh Thần Tông Lê Thế Tông Quang Hưng 1
    Mạc Mậu Hợp (1562-1592) Đoan Thái Bính Tuất 1586-1587 Vạn Lịch 14 Minh Thần Tông Lê Thế Tông Quang Hưng 9
    Mạc Mậu Hợp (1562-1592) Hưng Trị Mậu Tý 1588-1590 Vạn Lịch 16 Minh Thần Tông Lê Thế Tông Quang Hưng 11
    Mạc Mậu Hợp (1562-1592) Hồng Ninh Tân Mão 1591-1592 Vạn Lịch 19 Minh Thần Tông Lê Thế Tông Quang Hưng 14
    Mạc Toản (1592) Võ An Nhâm Thìn 1592 Vạn Lịch 20 Minh Thần Tông Lê Thế Tông Quang Hưng 15
    Mạc Kính Chỉ (1592-1593) Bảo Định Nhâm Thìn 1592 Vạn Lịch 20 Minh Thần Tông Lê Thế Tông Quang Hưng 15
    Mạc Kính Chỉ (1592-1593) Khang Hựu Quý Tị 1593 Vạn Lịch 21 Minh Thần Tông Lê Thế Tông Quang Hưng 15
    Mạc Kính Cung (1593-1625) Kiền Thống Quý Tị 1593-1625 Vạn Lịch 21 Minh Thần Tông Lê Thế Tông, Lê Thần Tông Quang Hưng 16, Vĩnh Tộ 7
    Mạc Kính Khoan (1623-1625) Long Thái Quý Hợi 1623-1625 Thiên Khải 3 Minh Hy Tông Lê Thần Tông Vĩnh Tộ 5
    Mạc Kính Vũ (1638-1677) Thuận Đức Mậu Dần 1638-1677 Sùng Trinh 11 Minh Chiêu Liệt Đế Lê Thần Tông, Lê Hy Tông Dương Hòa 4, Vĩnh Trị 2

    Thế Phổ Họ Trịnh
    Chúa nhà Trịnh Năm Vua nhà Lê Niên hiệu
    Âm lịch Dương lịch
    Thế Tổ Minh Khang Thái Vương Trịnh Kiểm Âất Tị 1545-1569 Lê Trang Tông Nguyên Hòa 13
    Thế Tổ Minh Khang Thái Vương Trịnh Kiểm . . Lê Anh Tông Chính Trị 12
    Bình An Vương Trị Tùng Canh Ngọ 1570-1623 Lê Anh Tông Chính Trị 14
    Bình An Vương Trị Tùng . . Lê Thần Tông Vĩnh Tộ 5
    Thanh Đô Vương Trịnh Tráng Quý Hợi 1623-1657 Lê Thần Tông Vĩnh Tộ 5
    Thanh Đô Vương Trịnh Tráng . . Lê Thần Tông Thịnh Đức
    Tây Đô Vương Trịnh Tạc Đinh Dậu 1657-1682 Lê Thần Tông Thịnh Đức 5
    Tây Đô Vương Trịnh Tạc . . Lê Hy Tông Chính Hòa
    Định Vương Trịnh Căn Nhâm Tuất 1682-1709 Lê Hy Tông Chính Hòa 3
    Định Vương Trịnh Căn . . Lê Dụ Tông Vĩnh Thịnh 5
    An Đô Vương Trịnh Cương Kỷ Sửu 1709-1729 Lê Dụ Tông Vĩnh Thịnh 5
    An Đô Vương Trịnh Cương . . Lê Đế Duy Phường Vĩnh Khánh 1
    Uy Nam Vương Trịnh Giang Kỷ Dậu 1729-1740 Lê Đế Duy Phường Vĩnh Khánh 1
    Uy Nam Vương Trịnh Giang . . Lê ý Tông Vĩnh Hựu 6
    Minh Đô Vương Trịnh Doanh Canh Thân 1740-1767 Lê ý Tông Vĩnh Hựu 6
    Minh Đô Vương Trịnh Doanh . . Lê Hiển Tông Cảnh Hưng 28
    Tính Đô Vươnh Trịnh Sâm Đinh Hợi 1767-1782 Lê Hiển Tông Cảnh Hưng 28
    Tính Đô Vươnh Trịnh Sâm . . Lê Hiển Tông Cảnh Hưng 43
    Điện Đô Vương Trịnh Cán Nhân Dần 1782 (2 tháng) Lê Hiển Tông Cảnh Hưng 43
    Đoan Nam Vương Trịnh Khải Nhâm Dần 1782-1786 Lê Hiển Tông Cảnh Hưng 43
    Đoan Nam Vương Trịnh Khải . . Lê Hiển Tông Cảnh Hưng 47
    án Đô Vương Trịnh Bồng Đinh Mùi 1787-1788 Lê Mẫn Đế Chiêu Thống 1-2

    Thế Phổ Họ Nguyễn
    Chúa nhà Nguyễn Năm Vua nhà Lê Niên hiệu
    Âm lịch Dương lịch
    Triệu Tổ Nguyễn Kim (Chiêu Huân Tĩnh Công 1594) Quý Tị 1533-1545 Lê Trang Tông Nguyên Hòa 1-13
    Thái Tổ Nguyễn Hoàng (Chúa Tiên) Mậu Ngọ 1558-1612 Lê Anh Tông, Lê Kính Tông Chính Trị 1, Hoằng Định 13
    Hy Tông Nguyễn Phúc Nguyên (Chúa Sãi) (Phật Chúa) Quý Sửu 1613-1634 Lê Kính Tông, Lê Thần Tông Hoằng Định 14, Đức Long 6
    Thần Tông Nguyễn Phúc Lan (Chúa Thượng) Âất Hợi 1635-1648 Lê Thần Tông, Lê Chấn Tông Dương Hòa 1, Phúc Thái 6
    Thái Tông Nguyễn Phúc Tần (Chúa Hiền) Mậu Tý 1648-1687 Lê Chấn Tông, Lê Hy Tông Phúc Thái 6, Chính Hòa 8
    Anh Tông Nguyễn Phúc Trăn (Chúa Nghĩa) Đinh Mão 1687-1691 Lê Hy Tông Chính Hòa 8, 12
    Hiển Tông Nguyễn Phúc Chu (Chúa Quốc) Tân Mùi 1691-1725 Lê Hy Tông, Lê Dụ Tông Chính Hòa 12, Bải Thái 6
    Túc Tông Nguyễn Phúc Chú (Ninh Vương) Âất Tị 1725-1738 Lê Dụ Tông, Lê Yý Tông Bảo Thái 6, Vĩnh Hựu 4
    Thế Tông Nguyễn Phúc Khoát (Võ Vương) Mậu Ngọ 1738-1765 Lê Yýỏ Tông, Lê Hiển Tông Vĩnh Hựu 4, Cảnh Hưng 26
    Duệ Tông Nguyễn Phúc Thuần (Định Vương) Âất Dậu 1765-1775 Lê Hiển Tông Cảnh Hưng 26, 36

    Tên các vua và niên hiệu nhuận triều Việt Nam
    Các vua Niên hiệu Năm Niên hiệu Trung Quốc Triều đại Trung Quốc Vua nhà Lê Niên hiệu
    Âm lịch Duong lịch
    Lê Ngạ (Dương Củng) Vĩnh Thiên Canh Tý 1420 Vĩnh Lạc 18 Minh Thành Tổ Lê Lợi Bình Định Vương
    Trần Cảo Thiên Khánh Bính Ngọ 1426 Tuyên Đức 1 Minh Tuyên Tông Lê Lợi Bình Định Vương
    Trần Cảo Thiên Ưứng Bính Tý 1516 Chính Đức 11 Minh Võ Tông Lê Chiêu Tông Quang Thiệu 1
    Trần Thăng Tuyên Hòa Bính Tý 1516 Chính Đức 11 Minh Võ Tông Lê Chiêu Tông Quang Thiệu 1
    Lê Bảng Đại Đức Mậu Dần 1518 Chính Đức 13 Minh Võ Tông Lê Chiêu Tông Quang Thiệu 3
    Lê Du Thiên Hiến Mậu Dần 1518 Chính Đức 13 Minh Võ Tông Lê Chiêu Tông Quang Thiệu 3
    Nguyễn Dương Minh Phúc Đức Đinh Dâụ 1597 Vạn Lịch 25 Minh Thần Tông Lê Thế Tông Quang Hưng 20
    Nguyễn Minh Tri Đại Đức Đinh Dậu 1597 Vạn Lịch 25 Minh Thần Tông Lê Thế Tông Quang Hưng 20
    Trịnh Cối Trần Đức Hầu Kỷ Tỵ 1569 Long Khánh 3 Minh Mục Tông Lê Anh Tông Chính Trị 12
     
  14. yuna_fan

    yuna_fan Mario & Luigi

    Tham gia ngày:
    3/2/04
    Bài viết:
    800
    Tôi cũng xin tham gia, bắt từ thời Pháp thuộc :
    ( Sưu tầm từ internet )
    Vào giữa thế kỷ 19 (1858), thực dân Pháp bắt đầu cuộc xâm chiếm Việt Nam. Triều đình nhà Nguyễn bất lực đã dần dần nhân nhượng quân xâm lược và từ năm 1884 Pháp thiết lập chế độ bảo hộ và thuộc địa trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Ngay từ những ngày đầu, các phong trào kháng chiến quần chúng dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu yêu nước nổ ra ở khắp mọi nơi, nhưng cuối cùng đều thất bại.
    Nguyễn ái Quốc, sau đó trở thành Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã hoạt động ở nước ngoài để tìm con đường cứu nước. Người đã sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3/2/1930. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, quần chúng nhân dân đã đứng lên đấu tranh chống thực dân Pháp và quân chiếm đóng Nhật, thực hiện cuộc Tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945 và thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngày 2/9/1945.
    Nước Việt Nam non trẻ vừa mới ra đời lại phải đương đầu với các âm mưu xâm lược và can thiệp của Pháp và Mỹ, phải tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc kéo dài suốt 30 năm sau đó. Trước hết, sự trở lại xâm lược của Pháp đã gây ra cuộc kháng chiến 9 năm (1945-1954) của Việt Nam, kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Genève về Việt Nam năm 1954. Theo Hiệp định này, đất nước tạm thời bị chia làm hai vùng lãnh thổ miền Bắc và miền Nam lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến và sẽ được thống nhất hai năm sau đó (1956) thông qua một cuộc tổng tuyển cử. Miền Bắc Việt Nam vào thời kỳ nay mang tên Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động với Thủ đô là Hà Nội. Miền Nam mang tên Việt Nam Cộng hoà nằm dưới sự quản lý của chính quyền thân Pháp, rồi thân Mỹ đặt tại Sài Gòn. Chính quyền Sài Gòn sử dụng mọi sức mạnh để ngăn chặn cuộc tổng tuyển cử, đàn áp và loại bỏ những người kháng chiến cũ, do vậy xuất hiện phong trào đấu tranh vì hoà bình, thống nhất đất nước. Chính quyền Sài Gòn đã không thể ngăn cản được nguyện vọng thống nhất đất nước của quần chúng, đặc biệt từ ngày Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập, ngày 20/12/1960.
    Để duy trì Chế độ Sài Gòn, Mỹ đã tăng cường viện trợ quân sự. Đặc biệt kể từ giữa thập kỷ 60 Mỹ đã gửi nửa triệu quân Mỹ và đồng minh đến miền Nam Việt Nam trực tiếp tham chiến, và từ 5/8/1964 bắt đầu ném bom miền Bắc Việt Nam. Nhưng nhân dân Việt Nam, theo lời dạy của Chủ Tịch Hồ Chí Minh "Không có gì quý hơn độc lập tự do", đã đứng vững và giành nhiều thắng lợi ở cả hai miền Nam và Bắc. Năm 1973, Washington buộc phải ký hiệp định Paris về lập lại hoà bình ở Việt Nam và rút toàn bộ quân đội Mỹ ra khỏi Việt Nam. Mùa xuân năm 1975, trên tinh thần đại đoàn kết dân tộc và được sự đồng tình của nhân dân yêu chuộng hòa bình, công lý và tiến bộ trên thế giới, các lực lượng vũ trang yêu nước Việt Nam đã thực hiện cuộc tổng tiến công đè bẹp Chính quyền Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
    Ngày 25/4/1976, nước Việt nam Dân chủ Cộng hoà được đổi tên thành nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt nam với lãnh thổ bao gồm cả hai miền Nam và Bắc.
    Năm 1977, Việt Nam trở thành thành viên của Liên Hợp Quốc.
    Sau nhiều năm chiến tranh kéo dài, đất nước bị tàn phá nặng nề. Từ năm 1975 đến 1986, Việt Nam phải đối phó với vô vàn khó khăn. Những hậu quả và tệ nạn xã hội do chiến tranh để lại, dòng người tị nạn, chiến tranh ở biên giới Tây Nam chống diệt chủng Khme đỏ, chiến tranh ở biên giới phía Bắc, bao vây, cấm vận của Mỹ và các nước phương Tây, thêm vào đó thiên tai liên tiếp xảy ra... đã đặt Việt Nam trước những thử thách khắc nghiệt. Hơn nữa, những khó khăn càng trầm trọng do xuất phát từ các nguyên nhân chủ quan, nóng vội và duy ý chí muốn xây dựng lại đất nước nhanh chóng mà không tính đến những điều kiện cụ thể. Vào đầu những năm 80, khủng hoảng kinh tế - xã hội ở Việt Nam trở nên gay gắt, tỉ lệ lạm phát lên đến 774,7% vào năm 1986.
    Từ năm 1986, Việt Nam bắt đầu tiến hành công cuộc Đổi mới toàn diện nhằm vượt qua khó khăn, đi vào vào con đường phát triển và từng bước hội nhập khu vực và quốc tế. Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam tháng 12/1986 đã nghiêm khắc kiểm điểm sự lãnh đạo của mình, khẳng định những mặt làm được, phân tích những sai lầm khuyết điểm, đề ra đường lối Đổi mới toàn diện trong đó đổi mới kinh tế được đặt lên hàng đầu với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng XHCN, đi đôi với việc tăng cường cơ sở pháp lý, đổi mới tổ chức Đảng và Nhà nước. Nền kinh tế Việt Nam thực sự mở cửa, chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp dựa trên việc nhập khẩu và nhận viện trợ của nước ngoài sang cơ chế thị trường, tự chủ về tài chính nhằm cân bằng ngân sách nhà nước và hướng tới xuất khẩu. Trước năm 1989 hàng năm Việt Nam đều phải nhập khẩu lương thực, có năm trên 1 triệu tấn. Từ năm 1989, Việt Nam đã bắt đầu xuất khẩu 1-1,5 triệu tấn gạo mỗi năm; lạm phát giảm dần (đến năm 1990 còn 67,4%). Đời sống của nhân dân được cải thiện, dân chủ trong xã hội được phát huy. Quốc phòng, an ninh được giữ vững. Quan hệ đối ngoại được mở rộng, đẩy lùi tình trạng bao vây, cô lập.
    Tháng 6 năm 1991, Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định lại quyết tâm tiếp tục chính sách Đổi mới của Việt Nam với mục tiêu vượt qua khó khăn, thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa đất nước cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng. Đại hội cũng đề ra chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ với mục tiêu Việt Nam "muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển."
    Mặc dù bị tác động sâu sắc do việc Liên Xô, Đông Ấu tan rã, các thị trường truyền thống bị đảo lộn; tiếp tục bị bao vây cấm vận và phải đối phó với các âm mưu hoạt động gây mất ổn định chính trị và bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, Việt Nam đã từng bước khắc phục khó khăn, trở ngại, tiếp tục giành nhiều thắng lợi to lớn. Từ năm 1991-1995 nhịp độ tăng bình quân hàng năm về tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt 8,2%. Đến tháng 6/1996, đầu tư trực tiếp của nước ngoài đạt trên 30,5 tỷ USD. Lạm phát giảm từ mức 67,1% (1991) xuống còn 12,7% (1995) và 4,5% (1996). Đời sống vật chất của phần lớn nhân dân được cải thiện. Trình độ dân trí, mức hưởng thụ văn hoá của nhân dân được nâng lên. Sự nghiệp giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khoẻ, các hoạt động văn hoá nghệ thuật thể dục thể thao, thông tin đại chúng, công tác kế hoạch hoá gia đình và nhiều hoạt động xã hội khác có những mặt phát triển và tiến bộ. Chính trị ổn định, độc lập chủ quyền và môi trường hoà bình của Việt Nam được giữ vững, quốc phòng an ninh được củng cố tạo điều kiện thuận lợi cơ bản cho công cuộc Đổi mới. Hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở được củng cố, bộ máy nhà nước pháp quyền được tiếp tục xây dựng và hoàn thiện. Chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ của Việt Nam đã đạt được những kết quả tốt đẹp. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 167nước, có quan hệ buôn bán với trên 100 nước. Các công ty của hơn 70 nước và vùng lãnh thổ đã đầu tư trực tiếp vào Việt Nam.
    Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VIII, tháng 6/1996 đã đánh giá những thành tựu to lớn có ý nghĩa rất quan trọng trong 10 năm Đổi mới (1986-1996) và đề ra mục tiêu phát triển đến năm 2000 và 2020 là : đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng Việt Nam thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất-kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
    Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX, tháng 4/2001, đã thông qua Nghị quyết về những mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế-xã hội trong thời gian tới, cho tới 2010 là: Đưa GDP tăng ít nhất gấp hai lần năm 2000; tích luỹ nội bộ từ nền kinh tế đạt trên 30% GDP; nhịp độ tăng trưởng bình quân năm ít nhất đạt 7%; tỷ trọng nông nghiệp trong GDP là 16-17%; công nghiệp 40-41%; dịch vụ 42-43%; tỷ lệ lao động trong nông nghiệp còn khoảng 50%; tỷ lệ người được đào tạo nghề là 40%; phổ cập bắt buộc trung học cơ sở trong cả nước; hạ tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng còn 20%; tuổi thọ trung bình đạt 71 tuổi; tạo nền tảng để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
     
  15. LordCaocao

    LordCaocao Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    29/12/03
    Bài viết:
    498
    Theo tôi nên bàn luận một đề tài nào đó thì hơn vì post kiểu này ít người tham gia lắm thay vào đó nên bàn về một sự kiện hoặc một nhân vật trong lịch sử VN thì hơn mọi người tham ra vui vẻ hơn
     
  16. Dragon of South

    Dragon of South Red, Pokémon champion

    Tham gia ngày:
    2/9/04
    Bài viết:
    7,105
    Nơi ở:
    Hội Dzườn Đào
    Bác yuna_fan có thể phân tích thêm được không, chứ bài bác post không khá hơn sách giáo khoa là mấy. Ít ra thì cũng như kechienthuat do!
     
  17. kechienthuat

    kechienthuat Donkey Kong

    Tham gia ngày:
    13/5/04
    Bài viết:
    464
    Thì tại trungyht lập ra cái rom này là bàn về lịch sử việt nam với lại tôi cũng hoc theo hắn là cứ lấy ở đâu đó về rồi post lên ,chỉ có cái khác là tôi post liền tù tì nên mọi người thấy khó chịu mà thôi ,nhưng thiết nghĩ việc post này cũng không hẳn là xấu ,tôi post như vậy tuy không khác sách vở là mấy nhưng những điều tôi vừa đưa lên thì dám chắc một điều là không có mấy bác trong hội đã biết về nó.
     
  18. yuna_fan

    yuna_fan Mario & Luigi

    Tham gia ngày:
    3/2/04
    Bài viết:
    800
    Sorry nhe rồng nam, vì dạo này nghèo quá tiền vào net tháng này quá nhiều rồi ổng bả la chết nên không có thời gian phân tích cụ thể như các bác khác khi nào sẻ post cụ thể
     
  19. trungyhth

    trungyhth Mario & Luigi Lão Làng GVN

    Tham gia ngày:
    6/5/04
    Bài viết:
    861
    Nơi ở:
    Trái tim KL
    ai biêt thì post thôi không cần phải câu nệ là lấy ở đâu làm gì cả,có đóng góp cho hội như vậy thì tốt rồi.
     
  20. wiwi

    wiwi The Pride of Hiigara

    Tham gia ngày:
    31/1/04
    Bài viết:
    9,401
    Nơi ở:
    *ADULT CONTENT*
    lịch sử thì chỉ có sự thật, càng chi tiết thì càng tốt nhưng đừng có phân tích để rồi giống như quy kết một chiều
     
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này