Lời bạt Hán triều mạt, quần hùng dấy loạn Diệt bạo cường, Nam Việt khởi binh Mùa xuân năm Kiến An thứ nhất thời Hán Hiến Đế, tức năm RTK 11PUK 251, Hán Hiến Đế được Tây Lương Thứ sử Mã Đằng đón về Trường An. Đổng Trác bị Mã Đằng đánh bại, lại sợ chư hầu các trấn không dung cái tội đốt Lạc Dương, đào bới lăng tẩm Hán triều khi trước đành dẫn toàn bộ chư tướng trốn về Hợp Phì theo hàng Lữ Bố. Mã Đằng tôn lập Hán Hiến Đế theo nghĩa Y Đái chiếu khi trước nhưng bọn Vương Tử Phục, Ngô Thạc .vv đều đang ly tán các trấn Quan Đông, chỉ còn Quốc cữu Đổng Thừa ở Trường An theo lao động đường phố. Chính lệnh ban ra không vượt quá Đồng Quan, các trấn chư hầu đều không phục. Lưu Bị vốn vâng mệnh Y đái chiếu khi trước cũng từ chối dẫn quân về phục mạng, đã thế còn tự truyền chỉ dẫn quân đánh bại Đặng Ngãi, Chung Hội, Lưu Chương, Trương Lỗ chiếm cứ cả hai Xuyên mưu chiếm Trường An. Con cả của Mã Đằng là Mã Siêu thấy uy thế của Lưu Bị lớn mạnh, cũng phản cả cha đem quân về hàng với Lưu Bị. Lưu Bị cả mừng phong cho Siêu làm Hán Trung Thái thú, chức Tướng quân mưu đánh Thượng Dung. Bấy giờ các trấn chư hầu đánh giết lẫn nhau, khắp Quan Trung, Hà Bắc, Hoài Nam đều binh lửa loạn lạc, bá tánh kêu than không ngớt. Sau mấy năm loạn lạc chỉ còn Công Tôn Toản và Viên Thiệu tranh hùng ở Hà Bắc, Tư Mã Ý giữ Trần Lưu và Lạc Dương, Lữ Bố đóng quân ở mạn Thanh, Từ, Hoàng Cân Trương Giốc cố thủ Bộc Dương. Trong số các chư hầu chỉ có ba nhà Thục (Lưu Bị), Ngụy (Tào Tháo), Ngô (Tôn Kiên) là lớn mạnh hơn cả. Nhà nào cũng danh nghĩa khuôn lao động đường phố Hán thất mà mưu lập riêng, đồn lương tuyển quân, sắm sửa khí giới, chuẩn bị đao binh. Ngay cả bọn anh hùng Tam Quốc cũng sớm đầu tối đánh, nay theo chủ này, mai bỏ chủ kia như Triệu Vân bỏ Công Tôn Toản về theo Lưu Bị, Trương Cáp lìa Viên Thiệu theo Tào Tháo, Thái Sử Từ bỏ Khổng Dung theo Tôn Kiên. Bá tánh nhà Hán đã khổ vì ly loạn chiến chinh, các tộc Khương, Nhung, Hồ, Địch càng khổ sở vì sưu thuế, cống nạp nên lòng người đều muốn làm phản. Thỉnh thoảng cũng có người phất cờ khởi binh nhưng đều bị các trấn chư hầu thẳng tay đàn áp. Thời bấy giờ phía cực Nam nhà Hán có các tộc người Việt cổ thường được gọi là Bách Việt. Các tộc Bách Việt từ Thương Chu luôn tự xem mình là con cháu Hỏa thần, dòng dõi Ngũ Đế sinh sống ở Lĩnh Nam, bờ nam Dương Tử. Nhưng các tộc người Hán vì thấy mảnh đất phương nam màu mỡ nên cứ tìm cách xâm lấn tranh đoạt. Các tộc Bách Việt vì hòa khí, xuôi dần về phía Nam sinh sống, đến đâu họ cũng trồng lúa nước, săn bắn, đánh cá làm kế sinh nhai. Nhưng nơi dân Bách Việt sinh sống đều trờ nên trù phú, đầy đủ sản vật. Người Hán thấy dân Bách Việt sống hòa thuận, kinh tế phát triển thì lòng lo sợ bèn đưa quân xâm lấn, mấy phen bắt cống nạp thổ sản vật. Bấy giờ các tộc Bách Việt đều ngại chiến tranh chỉ có tộc Nam Việt là một tộc nhỏ trong Bách Việt vốn là dòng dõi Lạc Hồng chủ chiến. Dân Nam Việt nói: - Chúng ta xem người Hán là anh em, nhưng chúng cứ xua đuổi chúng ta như thú hoang. Hơn mấy ngàn năm từ bờ sông Dương Tử chúng ta đã đi về phương nam đến Châu Nhai, Hợp Phố, rồi lại đến Hồng Hà, Lạc Giang. Nhưng người Hán vẫn cứ đuổi theo chúng ta mãi, lại còn bắt phu lính, cống nạt sản vật. Bọn người ấy cực kỳ tàn ác như Lục Dận, Cung Khải .vv. Tiến thì đến khai hóa mà thực chất là ép buộc con dân, chúng nắm quyền cao, hể ai trái ý là tróc nã, đàn áp đến chết mới thôi. Nay ý trời đã định, nhà Hán điêu linh, các trấn tranh đoạt, thiên hạ đại loạn. Chúng ta hãy thuận theo lòng người, tin nơi mệnh trời mà phất cờ bắc tiến. Trước là phục hồi cố thổ, đảm bảo quyền sống cho dân Nam Việt, hai là dẹp cái họa cường quyền phương Bắc, khiến cho Hán – Việt điêu linh, ba là trả cái nhục ngàn năm Bắc thuộc, khiến cho người Hán thấy đấy là chừa thói bạo cường. Bá tánh Nam Việt đều vui mừng nhảy múa thâu đêm. Các bô lão Nam Việt liền làm lễ tế cáo thiên địa, tổ tông nêu rõ đại nghĩa hưng binh bắc phạt. Lại ra nơi lăng mộ liệt tổ liệt tông các triều mà làm lễ tế bái cầu nguyền cho quân bắc phạt. Thế là nhà nhà tòng quân, thanh niên trai tráng rủ nhau tham gia nghĩa quân. Đến ngày khởi quân, bổng từ thiên thượng giáng thế hơn 100 vị anh hùng khai sơn trấn quốc. Bá tánh Nam Việt cùng toàn quân đều quỳ mọp bái lạy, tung hô vạn tuế. Mọi người nhìn kỹ thì thấy 3 vị đi đầu là Lý Thánh Tông (Hưng Vũ), Trần Thánh Tông (Thiệu Long) và Lê Thái Tổ (Lê Lợi). Phía sau các vị đấy là chư thần, chư tướng, lại có những bậc nữ lưu hùng anh như Trưng Nữ Vương, Triệu Vương, có bậc quốc sắc thiên hương như An Quốc, Huyền Trần …vvv. Rồi Trần Thánh Tông tiến ra trước nói: - Nay phương Bắc đại loạn, chính là thời cơ để Nam Việt hưng binh. Nhưng Trung Nguyên đất rộng người đông, không dể gì đánh một trận mà yên được. Nay hãy phân binh làm ba đạo mà đánh Trung Nguyên. Ba đạo tương trợ, chi viện lẫn nhau để cùng thu phục lại cố thổ, hưng danh Nam Việt. Bá tánh và quân lính đều tung hô. Lý Thánh Tông cùng Thái sư Lý Đạo Thành, Quốc công Thái Úy Lý Thường Kiệt dẫn quân một cánh đánh vào ngã Vân Nam, Trần Thánh Tông cùng Thái sư Trần Thủ Độ, Quốc công Tiết Chế Trần Hưng Đạo dẫn quân Đông A ngược Châu Nhai, Hợp Phố tiến đánh Linh Lăng, Quế Dương, Thái Tổ Lê Lợi cùng Tả tướng quốc, Đại tướng quân Trần Nguyên Hãn, Khu Mật Thừa chỉ Nguyễn Trãi dẫn quân Lam Sơn vượt Đông Hải chiếm Ngô Quận, Cối Kế. Nhà nhà đều tải lương giúp cho ba quân mã đáo thành công. Độ một tháng tin chiến trận liên tiếp báo về. Quân Nam Việt liên tiếp công hạ các thành Vân Nam, Linh Lăng, Quế Dương, Ngô Quận, Cối Kê. Các quận phiên trấn mặt nam nhà Hán lo sợ báo tin về Trường An và các trấn chư hầu. Lưu Bị, Tào Tháo, Tôn Quyền đang chia nhau trấn giữ Tứ Xuyên, Kinh Châu, Giang Đông liên tục được tin cấp báo quân Nam Việt liên tục công phá thành trì phía nam, thế quân như thác đổ. Lại thêm Hiến Đế ở Trường An sai sứ giá truyền chỉ ba nhà liên minh dẹp rợ Nam Việt. Tào – Lưu – Tôn ngậm hờn kết đồng minh, cùng sức ra quân đánh Nam Việt. Lại thêm Vương Doãn ở Trường An biên thư cho Lữ Bố ở Từ Châu dặn kết liên với Tôn Kiên ở Giang Đông để tiều trừ quân Nam Việt ở mặt bể Đông Hải. Thế là ngọn cờ các đạo quân Quan Trung lại chỉ xuống phía nam. Chiến sự Trung Nguyên lại bùng cháy lan tận đến dọc bờ nam Trường Giang, Dương Tử> Muốn biết chiến sự ra sao, chơi Nam Việt Ver 2 sẽ rõ! Quảng cáo cái! Sau khi ra Ver2.0 anh em chơi và viết tiếp nhé!
hô hô. mấy cái này ko hiểu sao người khác viết thì tui đọc thây hay gì đâu. bản thân viết ra thì dục cho chó nó cũng ko thèm, thậm chí nó sủa lại dí cắn nát quần ấy chứ.
Ở, cái Musou được đó, mà vẫn lai tạp Tam Quốc Chí ấy nhỉ ... Viết tiếp mấy dòng... Từ thời Thượng Cổ Nhà Hạ cho đến đời hậu Duệ của họ Hậu Tắc Nhà Chu, lãnh thổ của dân Hoa Hạ chưa bao h vượt quá khỏi dòng Trường Giang để đến với miền đất phía Nam Dương Tử màu mỡ, vào thời điểm đó, Từ Hồ Động Đình trở về phía Nam, đâu đâu cũng thấy dân Bách Việt ( Yue, Yueh). Đó là liên minh các tộc Việt nằm ở phía Nam Trường Giang. Tương truyền rằng Đế Minh là cháu 3 đời của Thần Nông, sau khi tuần thú ở Vùng Lĩnh Nam, đã lấy tiên nữ Hồ Động Đình, sinh ra hai người con. Một người tên Đế Khốc, Thủy Tổ của Dân Hoa Hạ ( bao gồm vùng Hoàng Hà vá các tỉnh phía Bắc và các vùng đất cũ của các chư hầu trong thời Xuân Thu Chiến Quốc như Tề, Lỗ, Tấn vv...) Người con thứ hai tên Lộc Tục, hiệu là Kinh Dương Vương, được xem là thủy tổ của Bách Việt, trong quá khứ, liên minh này được gọi là "nước" Xích Quỷ. Lãnh thổ của Xích Quỷ rất rộng lớn, khoảng 2.900.000 Km vuông, Phía Bắc Giáp Hồ Động Đình, Phía Nam giáp Hồ Tôn ( Chiêm Thành), Phía Tây Giáp bể Nam Hải, còn Phía Đông giáp Ba Thục ( Tứ Xuyên). Vùng đất Hoàng Hà là nơi mà nhà Hạ đã lập nghiệp cách đây 4000 năm, đó là một nơi sa mạc cằn cỗi , trái với vùng đất Phương Nam màu mỡ, Do vậy họ quen sống trên lưng Lạc Đà và họ có tinh thần chiến đấu, ý thức mỡ mang bờ cõi từ thời Thượng Cổ... Đó là nơi sinh ra những lý thuyết gia rất tài năng nhưng văn chương lại rất khô khan. To be Continued.