Người Cá - A.R.Beljaev

Thảo luận trong 'Anime và Manga' bắt đầu bởi kangta_viet, 5/2/06.

  1. kangta_viet

    kangta_viet Youtube Master Race

    Tham gia ngày:
    27/1/06
    Bài viết:
    12
    Chương I

    CON QUỶ BIỂN XUẤT HIỆN

    Một đêm hè ngột ngạt ở Argentina. Bầu trời đen sẫm lấp lánh ánh sao. Con tàu Medusa lặng lẽ thả neo. Tiếng sóng biển rì rào, tiếng đồ nghề va chạm vẫn không phá vỡ được cảnh tĩnh mịch của đêm khuya. Hình như biển cả đang chìm trong một giấc ngủ say.
    Những người phu mò ngọc nằm ngủ say trên boong tàu. Trong những ngày hè oi bức này, họ làm lụng mệt đến nỗi khi xong công việc thì không còn đủ sức để kéo thuyền lên boong tàu nữa. Và cũng chưa có hiện tượng nào báo hiệu thời tiết khó chịu này sẽ thay đổi. Chiếc thang dùng leo lên cột buồm vẫn ngả nghiêng, dây buồm buông chùng run rẩy trong làn gió biển đang thổi từng cơn nhè nhẹ. Cả khỏang trống giữa mũi và đuôi tàu ngổn ngang những đống trai có ngọc, những mảnh san hô, dây thừng và những cái thùng rỗng. Gần cột buồm có một cái thùng to đựng nước ngọt và một cái gáo sắt có giây buộc. Nước đổ ra xung quanh thùng tạo thành một vũng màu đen.
    Thỉnh thỏang có một vài người thợ lặnh nhỏm dậy, đi lọang chọang về phía cái thùng. Họ múc nước uống mà mắt vẫn nhắm nghiền, rồi gục xuống ngủ ngay ở bất cứ chỗ nào. Những người thợ lặn luôn cảm thấy khác nước. Buổi sáng, họ không giám ăn trước khi đi làm vì sợ nguy hiểm. Công việc dưới nước đòi hỏi phải chịu một áp lực rất cao, do vậy họ phải chịu nhịn đói đến chiều và chỉ có thể ăn trước khi đi ngủ. Hơn nữa thức ăn của họ chỉ tòan là thịt bò muối mặn.
    Đêm nay đến phiên gác của bác thổ dân Bantasas. Bác là cánh tay phải đắc lực nhất của thuyền trưởng Pedro Juritas, chủ con tàu Medusa. Lúc trẻ, Bantasas là một phu mò ngọc nổi tiếng. Bác có thể lặn sâu hơn gấp đôi người khác.
    Bác ta thường nói với các thợ lặn trẻ: “Chắc các anh thắc mắc vì sao tôi lại lặn được sâu như vậy? Chỉ vì ngày ấy người ta biết cách dạy từ khi người học nghề còn rất nhỏ. Năm tôi mười tuổi, cha tôi đã đem tôi đến học nghề ở nhà ông Hoser. Còn cách dạy thì thật đơn giản, ông ta ném một hòn đá hay một vỏ ốc xuống nước rồi ra lệnh cho chúng tôi lặn xuống mò lên. Chỗ ném ngày càng sâu hơn. Không mò lên được là ông ấy lấy dây thừng quất rồi quăng chúng tôi xuống nước.
    Vì thế mà chúng tôi biết lặn. Sau đó, ông ta bắt đầu dạy chúng tôi lặn sâu hơn. Ông lão lặn xuống tận đáy biển rồi buộc một cái sọt hay hay một tấm lước vào neo. Bọn tôi phải lặn xuống và gỡ ra. Chưa gỡ được thì đừng ngoi lên, vì ngoi lên là bị ăn đòn ngay. Chúng tôi bị đòn nhừ tử. Nhiều đứa phải trốn đi vì không chịu nổi. Nhưng còn tôi thì trở thành thợ lặn giỏi nhất vùng và kiếm ăn được.”
    Bantasa mở một cửa hàng nhỏ ở Buenos Aires buôn bán ngọc trai, san hô, vỏ ốc và những hải sãn quý khác. Nhưng ở trên cạn hòai cũng buồn, do vậy thỉnh thỏang bác ta lại theo tàu đi mò ngọc trai. Các chủ tàu rất quý bác, vì không ai am hiểu vịnh La Plata, vùng ven bờ và những chỗ có nhiều ngọc trai như Bantasas. Còn nhóm thợ lặn thì kính nể vì tài năng của bác. Nhưng hơn thế nữa vì Bantasas biết cách làm vừa lòng mọi người.
    Bantasas ngồi trên một cái thùng nhỏ và chậm rãi hút xì gà. Aùnh sáng của chiếc đèn treo trên cột buồm rọi vào mặt bác, một khuôn mặt dài, gân guốc, sống mũi thẳng, đôi mắt to và đẹp, khuôn mặt của người da đỏ bộ lạc Araucan. Mí mắt bác ta thiu thiu ngủ. Nhưng chỉ có con mắt là nhắm, còn đôi tai vẫn tỉnh táo. Gió đưa mùi trai thối từ bờ ra. Ngửi mùi này, người không quen rất dễ buồn nôn, nhưng Bantasas lại hít vào một cách khoan khóai. Đối với bác, mùi trai thối gợi lại những niềm vui của cuộc đời tự do phóng túng và những nỗi hiểm nguy ngòai biển cả. Bantasas vừa thiu thiu ngủ. Điếu xì gà vừa rơi khỏi tay, đầu bác ta gục xuống ngực.
    Nhưng một tiếng vang từ biển khơi đập vào tai bác. Bantasas mở mắt. Hình như có tiếng tù và, sau đó lại có tiếng hú kéo dài và cao vút.
    Những tiếng động này có một cái gì mới lạ lắm, bác chưa từng nghe bao giờ. Bantasas đứng dậy, bước ra mạn tàu và đưa mắt nhìn kỹ mặt biển. Không một bóng người và im lặng. Bantasas lấy chân đẩy một người thợ lặn đang nằm trên boong, khi anh này nhỏm dậy bác khẽ hỏi:
    - Có nghe thấy tiếng hú không? Chắc là nó xuất hiện đấy!
    - Tôi chẳng nghe thấy gì cả. – Người thợ quỳ gối lắng nghe và khẽ đáp lại.
    Tiếng tù và và tiếng hú lại đột nhiên phá tan bầu không khí tĩnh mịch. Nghe tiếng đó, người thợ lặn bỗng sụp xuống.
    - Đúng là nó rồi! – Anh nói với giọng run rẩy và hỏang sợ.
    Đám thợ lặn đã tỉnh giấc. Họ lê tới chỗ có ánh đèn, dường như muốn tìm sự che chở trong những tia sáng vàng vọt của nó. Họ ngồi chen chúc nhau và lắng nghe với vẻ mặt căng thẳng. Tiếng tù và và tiếng người hú từ xa còn vọng lại một lần nữa, sau đó mất hẳn.
    - Nó đấy...
    - Con quỷ biển! – Họ thì thào.
    - Chúng ta không thể ở lại đây được!
    - Cá mập cũng không đáng sợ bằng.
    - Gọi chủ tàu ra đây, anh em ơi!
    Chủ tàu bứơc lên boong, vừa đi vừa ngáp và vuốt đám lông trên ngực. Hắn ở trần, trên người chỉ có một chiếc quần dài bằng vải thô, bao súng lục đeo trước chiếc thắt lưng da to bản. Juritas đi về phía đám thợ lặn. Aùnh đèn bão soi rõ bộ mặt màu đồng hung vì rám nắng, bộ tóc quăn và dày xõa xuống trán, lông mày đen, ria mép rậm, râu cằm ngắn đã đốm bạc của hắn.
    - Chuyện gì mà ồn ào vậy?
    Giọng nói bình tĩnh và điệu bộ tự tin của hắn làm cho đám thợ lặn yên tâm hơn. Họ định giành nhau nói, nhưng Bantasas đã bảo họ im lặng rồi trả lời Juritas:
    - Chúng tôi nghe tiếng con quỷ biển.
    - Thật khéo tưởng tượng! – Juritas nói với giọng còn ngái ngủ.
    - Không phải tưởng tượng đâu! Tất cả chúng tôi đều nghe thấy tiếng hú và tiếng tù và! Đám thợ lặn kêu lên.
    Bantasas lại ra hiệu cho họ im lặng rồi nói tiếp:
    - Chính tôi cũng nghe. Chỉ có Con quỷ biển mới có thể thổi tù và như vậy. Người thường thì không ai thổi tù và và hú như thế đâu. Phải đi khỏi nơi này ngay ông ạ!
    - Chuyện hoang đường!- Giọng Juritas vẫn uể ỏai. Hắn chưa muốn nhổ neo vội nhưng không thuyết phục nổi đám thợ lặn. Họ bồn chồn, kêu la và dọa rằng nếu Juritas không nghe, họ sẽ bỏ lên bờ và đi bộ về Buenos Aires.
    - Thôi được, sáng sớm mai sẽ nhổ neo! Juritas trở về phòng riêng, miệng vẫn làu bàu.
    Hắn không còn buồn ngủ nữa. Hắn thắp đèn, châm lửa hút một điếu xì gà và đi đi lại lại trong căn phòng nhỏ, suy nghĩ đến con quái vật gần đây xuất hiện ở vùng biển này làm dân địa phương khiếp sợ.
    Chưa ai nhìn thấy con quái vật đó, nhưng nó đã nhiều lần để lại dấu vết của mình. Người ta đã thêu dệt rất nhiều chuyện nói về nó. Nhưng khi kể chuyện, mọi người chỉ giám thì thầm vì sợ nó nghe thấy.
    Tất cả những lời đồn đại đó đều bay tới thủ đô Buenos Aires. Và trong suốt mấy tuần lễ, Con quỷ biển là chủ đề của nhiều tờ báo rẻ tiền. Nếu có một chiếc thuyền nào bị đắm, hay lưới bị hỏng, nếu cá đã mắc vào lưới mà tự nhiện biến mất, người ta liền qui tội cho Con quỷ biển. Nhưng có người lại kể rằng đôi lúc Con quỷ biển lại quăng lên thuyền những on cá lớn và có lần đã cứu được một người sắp chết đuối. Thậm chí rằng một người gặp nạn còn quả quyết rằng khi anh ta đang chìm thì có ai đó đỡ lưng anh ta dìu vào tận bờ, rồi trong chớp mắt biến mất lẩn vào sóng biển.
    Nhưng chưa ai tận mắt nhìn thấy Con quỷ biển cả. Không ai có thể miêu tả hình dung con quái vật đó. Nhưng nỗi lo âu ngày càng tăng. Nhiều người không giám ra khơi nữa. Dân chúng thiếu cá ăn. Lúc này, chính quyền địa phương mới quyết định điều ra sự việc. Họ phái mấy chiếc tàu của cảnh sát tuần tra dọc bờ và có nhiệm vụ bắt giữ những kẻ phá rối trật tự trị an và làm dân chúng khiếp sợ.
    Hai tuần liền, cảnh sát sục sạo ở vịnh La Plata và bờ biển, bắt giữ mấy thổ dân về tội phao tin đồn nhảm, gây hoang mang, nhưng vẫn không bắt được Con quỷ biển. Sau đó tình hình có khá hơn trong một thời gian. Nhưng Con quỷ biển vẫn tiếp tục xuất hiện.
    Một hôm giữa đêm khuya, đám dân chài đang ngủ giữa biển chợt giật mình thức giấc vì thấy ai đó đã quẳng một chú dê con lên thuyền.
    Một đám dân chài khác vừa kéo lưới lên thì thấy nó bị cắt tung bởi một lưỡi dao thật sắc.
    Các phóng viên vui mừng khi thấy Con quỷ biển lại xuất hiện. Các nhà khoa học cũng lao vào nghiên cứu để giải thích được vấn đề này. Một số nhà bác học cho rằng dưới đại dương không thể có một lòai quái vật nào hành động được như người mà khoa học chưa biết, trừ trường hợp nó xuất hiện ở độ sâu ít được nghiên cứu. Và dù thế nào đi nữa, họ cũng không thừa nhận rằng quái vật có thể tinh khôn như người.
    Một số khác dựa vào nhà sinh vật học người Đức tên là Condras Hesner, người đã miêu tả quỷ biển trong tác phẩm của mình.
    Một số nhà bác học cao tuổi viết: “Cuối cùng, ta cũng chứng minh đựoc nhiều vấn đề mà các học giả cổ và trung đại viết là đúng, mặc dù khoa học hiện đại không thừa nhận những luận thuyết lỗi thời ấy. Sự sáng tạo của thượng đế là vô tận, và hơn ai hết, các nhà bác học chúng ta cần phải khiêm tốn và thận trọng trong những kết luận của cá nhân”.
    Cuối cùng, để giải quyết cuộc tranh luận nàyngười ta đề cử ra một đòan nghiên cứu. Đòan nghiên cứu này cũng không may mắn gặp được con quỷ biển. Nhưng họ lại tìm hiểu được thêm nhiều hành động mới của nó. Trong các báo cáo đăng trên báo, đòan nghiên cứu khoa học viết:
    1. Ở một số nơi trên bãi cát ven biển, chúng tôi thấy dấu chân người nhưng hẹp hơn về chiều ngang. Những giấu chân đó từ biển vào rồi lại trở ra. Tuy vậy, đó có thể là dấu chân của một người từ biển vào bằng thuyền.
    2. Những tấm lưới chúng tôi được xem có thể đã bị một vật rất sắc cắt đứt. Có thể là lưới đã bị mắc vào mỏm đá ngầm hay những mảnh sắt của tàu thuyền bị đắm.
    3. Theo lời kể của những nhân chứng, một con cá heo bị bão xô dạt vào bờ khá xa, nhưng đêm hôm đó có người đã kéo nó xuống biển. Người ta đã phát hiện ra vết chân có móng dài. Chắc hẳn đã có một người đánh cá nhân từ nào đó cứu sống con cá.
    Ta đều biết là để trả ơn, dân chài thường cứu cá heo khi chúng gặp nạn. Vết móng chân có thể là vết móng tay người được tưởng tượng thêm ra mà thôi.
    4. Con dê có thể do một kẻ tinh nghịch chở đến bằng thuyền và chở sang thuyền khác.





    Các nhà khoa học còn tìm thên được những nguyên nhân khác cũng đơn giản như thế đã giải thích nguồn gốc những dấu vết do con quỷ để lại. Họ kết luận rằng không một quái vật nào ở biển cả có thể có những hành động phức tạp như vậy.
    Nhưng trong báo cáo, các nhà khoa học đã lờ đi không đá động đến điều chủ yếu. Đó là con quỷ biển đã họat động ở nhiều nơi cách xa nhau trong một thời gian ngắn. Vậy là có thể nó bơi được với tốc độ phi thường hay có một phương tiện gì đặc biệt, hoặc là không chỉ có một con quỷ mà cả một bầy quỷ. Rõ ràng vấn đề này càng trở nên khó hiểu và đáng sợ hơn.
    Juritas vừa đi lại trong phòng vừa nhớ lại câu chuyện bí hiểm đó. Hắm mãi suy nghĩ đến nỗi quên là trời đã hửng sáng. Hắn tắt đèn rồi đi rửa mặt. Juritas đang dội nước lên đầu, bỗng nghe thấy những tiếng kêu kinh hòang từ boong tàu đưa tới. Hắn vội chạy lên.
    Đám thợ lặn đứng yên trên boong tàu vừa vung tay vừa kêu la inh ỏi. Juritas nhìn xuống biển và thấy các chiếc thuyền dưới nước đã bị cắt rời khỏi tàu. Gió đêm đã đẩy chúng ra tít ngòai khơi. Bây giờ gió đổi chiều lại từ từ đưa chúng vào bờ. Juritas ra lệnh cho thợ lặn nhảy xuống nước kéo thuyền về. Nhưng chẳng ai giám rời khỏi boong tàu. Hắn ra lện lần thứ hai có người trả lời:
    - Ông có giỏi thì cứ xuống mà chiu vào miệng quỷ!
    Juritas nắm lấy bao súng ngắn. Đám thợ lặn lùi lại và tập trung ở cột buồm. Họ nhìn Juritas một cách hận thù. Có lẽ khó tránh khỏi một cuộc xung đột. Nhưng Bantasas đã kịp thời can ngăn, bác nói:
    - Người Araucan chẳng sợ con gì cả! Cá mập đã không nuốt trôi được lão già này thì con quỷ cũng chẳng làm gì nổi.
    Nói xong, Bantasas lao mình xuống nước và bơi về phía chiếc thuyền. Đám thợ lặn đứng trên boong dõi theo Bantasas mà lòng hoảng sợ. Mặc dù đã có tuổi và bị đau một chân, bác vẫn bơi rất giỏi. Chỉ mấy sải tay là bác đã bơi đến sát chiếc thuyền. Bác kêu lên:
    - Thừng bị dao cắt rất gọn! Dao này sắc tựa dao cạo râu.
    Thấy Bantasas bình yên vô sự, mấy người thợ lặn cũng nhảy xuống theo bác.





    Mặt trời mới lên mà đã oi bức. Bầu trời trong xanh không mộ gợn mây. Theo lời khuyên của Bantasas, tàu Medusa thả neo trong một vịnh nhỏ. Những chiếc thuyền nhỏ tản ra trong vịnh. Mỗi thuyền có 2 người, một người lặn một người kéo dây. Sau đó họ đổi phiên cho nhau.
    Một chiếc thuyền tiến sát vào bờ. Môt người thợ lặn chân quặp một tảng đá to buộc vào một đầu dây, hụp nhanh xuống đáy biển. Nước rất ấm và trong suốt, nhìn thấy rất rõ từng viên đá dưới đáy.
    Người thợ lặn xuống tới đáy và nhặt trai vào cái rọ đeo ở thắt lưng. Anh bạn trên thuyền cầm một đầu dây, khom mình qua mạn thuyền và nhìn xuôn đáy nước. Anh ta bỗng thấy người bạn đang lặn rướn lên hết sức nhanh, tay vẫy vùng rồi nắm lấy giây thừng giật mạnh đến nỗi suýt kéo anh ta ngã nhào xuống nước. Thuyền tròng trành. Anh vội kéo bạn lên thuyền. Người bạn há miệng thở hồng hộc, mắt trợn tròng, khuôn mặt vốn ngăm đen nay trở thành xám ngóet.
    - Cá mập à?
    Nhưng người bạn không thể trả lời được và ngã vật xuống thuyền. Anh nhìn xuống nước. Rõ ràng có chuyện bất thường xảy ra. Anh ta bỗng thấy một thứ giống như khói màu đỏ sẫm xuất hiện từ sau một tảng đá ngầm, rồi từ từ lan ra nhuộm nước biển thành màu hồng. Lúc ấy lại xuất hiện xác một con cá mập, từ từ quay lại và biến mất sau mỏm đá. Đám khói màu đỏ sẫm kia chỉ có thể là máu phun ra dưới đáy biển. Chuyện gì đã xảy ra vậy? Anh ta nhìn người bạn đang nằm sóng sòai, miệng thở hồng hộc với đôi mắt ngây dại nhìn lên trời. Anh ta vội chèo thuyền đưa bạn mình về tàu Medusa.
    Một lát sau người thợ lặn tỉnh lại, nhưng anh ta bỗng kêu rống lên, lắc lắc đầu, thở phì phì, môi trề ra. Đám thợ lặn trên tàu xúm quanh và nóng lòng chờ người bạn kể lại đầu đuôi câu chuyện. Một anh trẻ tuổi lay người bị nạn và hét to:
    - Cậu nói đi! Nếu cậu không muốn cho cái hồn vía nhút nhát của cậu lìa khỏi xác!
    Người bị nạn quay đầu lại và nói giọng khàn khà:
    - Gặp...Quỷ biển.
    - Thế thì nói đi, nói ngay đi! – Đám thợ lặn sốt ruột cùng kêu lên.
    - Có một con cá mập đang lao tới. Mình nghĩ nụng “thôi đứt rồi!” Nó há miệng và sắp nuốt chửng mình. Nhưng lại có...
    - Cá mập nữa à?
    - Không, Con quỷ biển!
    - Nó thế nào? Nó có đầu không?
    - Có. Hai mắt to như hai cái cốc.
    - Đã có mắt thì phải có đầu. – Anh thổ dân trẻ tuổi khẳng định. – Nó có tay không?
    - Có! Tay nó như chân nhái. Ngón dài màu xanh, có móng và có màng. Tòan thân nó óng ánh như có vảy bạc. Nó lao về phía con cá moập, giơ tay lên đâm. Phập! Thế là máu ở bụng cá phun ra...
    - Vậy chân nó ra sao?
    - Chân à? – Anh thợ lặn cố nhớ lại. – Hòan tòan không có chân mà chỉ có một cái đuôi thật lớn.
    - Vậy cậu sợ cá mập hay sợ quái vật?
    - Sợ quái vật hơn, mặc dù nó cứu mình thóat chết. – Anh thợ lặn trả lời không chút lưỡng lự.
    - Chính là nó!
    - Con quỷ biển đấy!
    - Thần Biển đến giúp người nghèo khổ đấy! – Bác thổ dân đính chính.
    Sự việc vừa xảy ra truyền đi rất nhanh. Đám thợ lặn vội trở về tàu ngay và kéo thuyền lên boong. Mọi người xúm quanh anh thợ lặn vừa được Con quỷ biển cứu mạng. Anh ta kể đi kể lại câu huyện và thêm dần những chi tiết mới.
    Thuyền trưởng Juritas vừa đi lại trên boong vừa lắng nghe câu chuyện. Anh thợ lặn càng kể say sưa thì Juritas càng thấy rõ là tất cả những điều đó do anh ta quá khiếp sợ ma tưởng tượng thêm ra. “Nhưng không phải là bịa đặt tất cả. Phải có người đâm con cá mập thì nước biển mới loang đỏ chứ! Tên da đỏ này nói láo nhưng vẫn có một, hai phần thật. Chuyện này lạ quá!”
    Đến đây, những ý nghĩ của Juritas bị cắt ngang bởi tiếng tù và từ sau mỏm đá vọng lại. Tiếng tù và làm thủy thủ tàu Medusa kinh hòang như một tiếng sét. Họ hỏang hốt nhìn về phía phát ra tiếng động.
    Gần mỏm đá có một đàn cá heo đang nô đùa trên mặt biển. Một con tách ra khỏi đàn, vừa phun phì phì tựa như trả lời tiếng tù và gọi, vừa bơi về hướng mỏm đá rồi khuất hẳn. Mấy giây sau mọi người bỗng thấy con cá heo từ trong mỏm đá bơi ra, trên lưng nó là Con quỷ biển mà người thợ lặn kia vừa kể. Con quái vật này hình người, hai mắt to long lanh trong ánh nắng mặt trời như hai đèn pha xe hơi. Da ánh lên một màu trắng bạc, bàn tay màu xanh thẫm và có màng giống như bàn chân nhái. Hai chân từ đầu gối xuống chìm dứơi nước nên không rõ tận cùng bằng đuôi cá hay chân người. Quái vật cầm trong tay một vỏ ốc dài đưa lên miệng thổi, nó cất tiếng cười rồi bỗng nói to rất rõ bằng tiếng Tây Ban Nha: “Leading, bơi nhanh lên, phía trước!” Quái vật lấy tay vỗ xuống lưng của con cá heo. Leading liền tăng tốc độ như một con tuấn mã.
    Đám thợ bất giác cùng kêu lên. Quái vật quay mình lại và khi nhìn thấy người bèn tụt xuống nước thật nhanh. Từ phía sau lưng con ca heo, người ta thấy một bàn tay màu xanh vỗ vỗ vào lưng nó. Con cá ngoan ngõan lặn xuống cùng với con quái vật rồi khuất hẳn sau mỏm đá ngầm.
    Sự việc kỳ lạ đó diễn ra trong mộ khỏang thời gian ngắn nhưng người xem thì mãi vẫn chưa hết đàng hoàng. Đám thợ lặn tay ôm đầu kêu la chạy đi chạy lại trên boong tàu. Người da đỏ già quỳ xuống và cầu xin thần biển rủ lòng thương. Một người Mexico sợ quá đến nỗi trèo lên cột buồm và kêu ầm ĩ lên. Thợ lặn người da đen thì trốn xuống hầm tàu.
    Juritas và Bantasas chật vật lắm mới lật lại được trật tự trên tàu. Chiếc Medusa nhổ neo và hướng về phía bắc
    Chương II

    ÂM MƯU THÂM ĐỘC CỦA JURITAS

    Thuyền trưởng Juritas về phòng riêng để suy nghĩ về biến cố vừa rồi.
    - Đúng là phát điên lên được! – Hắn vừa đổ bình nước lên đầu vừa nói. – Con quái vật nói tiếng người rất rõ. Như vậy là sao? Chẳng lẽ mình bị quỷ ám? Hay là hóa dại cả lũ rồi? Nhưng chẳng lẽ tất cả tất cả hóa dại cùng một lúc? Hai người khác nhau không thể nằm mơ giống nhau được. Thế mà vừa rồi ai cũng trông thấy Con quỷ biển. Nghĩa là dù muốn hay không con quỷ biển vẫn là có thật. – Juritas lại dội nước lên đầu rồi thò đầu qua ô cửa sổ tròn ra ngòai buồng tàu cho đỡ nóng.
    Hắn nghĩ tiếp:
    - Dù sao con quái vật này cũng có trí khôn và hành động như con người. Rõ ràng là nó có thể vừa ở dưới nước vừa ở trên cạn. Nó lại biết nói tiếng Tây Ban Nha, nghĩa là có thể nói chuyện được với nó. Nếu như bắt được và huấn luyện cho nó biết mò ngọc trai nhỉ! Con quái vật này có thể thay thế hàng chục thợ lặn. Lợi quá chừng! Ngọc trai mò được thì phải chia thợ lặn một phần tư, còn đối với con quái vật này thì chẳng phải tốn kém gì cho nó. Chỉ trong thời gian ngắn ta có thể trở thành triệu phú.
    Juritas đang xây mộng. Cho tới nay, hắn hy vọng làm giàu bằng cách tìm ngọc ở những chỗ chưa ai đến. Vinh Ba Tư, bờ biển phía Tây của Ceylan, biển Đỏ, vùng biển Uùc, tất cả những nơi có ngọc trai đó đều ở xa và được khai thác từ lâu. Còn đi xa hơn nữa thì Juritas không thể đến được vì tàu của hắn quá ọp ẹp và không đủ thợ lặn. Tóm lại hắn muốn kinh doanh một cách quy mô nhưng không đủ vốn. Hắn đành quanh quẩn bên bờ biển Argentina. Nhưng giờ đây nếu bắt được con quỷ biển kia thì chỉ trong vòng một năm hắn có thể giàu to. Hắn sẽ trở thành người giàu nhất Argentina và có lẽ nhất cả Châu Mỹ nữa. Tiền bạc sẽ đưa hắn đến danh vọng. Mọi người sẽ ca tụng hắn. Nhưng phải hết sức thận trọng mới được và phải tuyệt đối giữ bí mật.
    Juritas lên boong và tập hợp toàn bộ thủy thủ, kể cả người đầu bếp, rồi nói:
    - Các người có biết những kẻ phao tin đồn nhảm về Con quỷ biển đã phải chịu số phận như thế nào không? Họ đã bị cảnh sát bắt và đang ngồi tù. Tôi phải báo trước rằng nếu ai ở đây mà hé miệng nói một lời về chuyện gặp Con quỷ biển cũng sẽ bị trừng phạt như thế, hiểu không? Vì vậy, nếu muốn sống yên ổn thì không được bép xép với ai chuyện này.
    Juritas nghĩ bụng: “Dù có nói cũng chẳng ai tin. Chuyện vừa xảy ra giống như một chuyện thần thoại”. Hắn gọi Bantasas đến và bàn bạc riêng với bác kế hoạch của hắn. Bantasas nghe xong, trầm ngâm một lát, rồi nói:
    - Nếu được như vậy thì quá tốt. Con quỷ biển đáng giá bằng cả trăm thợ lặn. Nếu có nó làm việc cho chúng ta thì còn gì bằng. Nhưng bắt nó bằng cách nào?
    - Bằng lưới.
    - Nó sẽ cắt tung lưới như đã đâm thủng bụng con cá mập.
    - Ta có thể đặt làm một tấm lưới thép.
    - Nhưng ai sẽ đi bắt nó? Đám thợ lặn chỉ cần nghe hai tiếng Quỷ biển là đã run lên rồi. Có cho thật nhiều vàng họ cũng không sám làm việc này đâu.
    - Còn bác thì thế nào Bantasas?
    Bantasas nhún vai:
    - Tôi chưa bao giờ đi săn Quỷ biển. Rình bắt nó thật không dễ, nhưng nếu nó cũng giống như mình thì giết cũng chẳng khó. Nhưng ông lại cần bắt sống.
    - Bác không sợ nó sao, Bantasas? Bác nghĩ gì về Con quỷ biển này?
    - Tuy con quái vật này thật đáng sợ, nhưng tôi vẫn thích săn lùng những con thú dữ tợn nhất.
    - Tôi sẽ thưởng cho bác thật nhiều tiền. – Juritas bắt tay Bantasas và nói tiếp về kế hoạch của hắn. – Càng ít người tham gia việc này càng tốt. Bác hãy nói chuyện với bọn Araucan. Họ là nhũng người can đảm và lanh lợi. Bác chỉ cần chọn lấy năm người thôi. Nếu họ từ chối thì ta mướn người ngoài. Con quỷ đang lẩn quất ở vùng bờ biển. Trước hết phải tìm cho ra hang ổ của nó. Sau đó ta sẽ xua nó vào lưới một cách dễ dàng.
    Juritas và Bantasas bắt tay ngay vào việc. Juritas đi mua một tấm lưới thép, hắn cẩn thận đan thêm một lớp lưới gai bên trong để khi mắc vào, Con quỷ biển sẽ lúng túng không gỡ ra được.
    Juritas cho đám thợ lặn cũ nghỉ việc. Bantasas chỉ thuyết phục được hai người da đỏ Araucan ở lại để săn quỷ. Bác ta mướn thêm ba người nữa ở Buenos Aires.
    Juritas và Batasas quyết định theo dõi Con quỷ ở nơi tàu Medusa gặp nó lần đầu. Để làm cho Con quỷ khỏi nghi ngờ, tàu Medusa thả neo cách vịnh vài hải lý. Juritas và những người trên tàu thỉnh thoảng giả bộ đánh cá, làm như đó là mục đích chính của chuyến đi biển này. Đồng thời có ba người thay phiên nhau nấp sau những mỏm đá trên bờ để theo dõi tình hình trong vịnh.
    Đã gần hết hai tuần mà Con quỷ biển vẫn chưa xuất hiện. Bantasas làm quen với những người địa phương và thổ dân da đỏ ở đây, bán cá rẻ cho họ. Trong khi chuyện trò, bác ta đã khéo lái họ vào câu chuyện Con quỷ biển. Nhiều thổ dân gần vịnh cho biết rằng họ đã nghe tiếng tù và và nhìn thấy những vết chân trên cát. Họ khẳng định rằng chân quỷ giống chân người, nhưng ngón chân dài hơn nhiều. Đôi lúc họ còn thấy cả vết hằn trên cát ghi rõ nơi Con quỷ đã nằm nghỉ.
    Con quỷ biển không làm hại gì mọi người nên họ cũng không quan tâm nhiều đến những dấu vết mà nó để lại. Tuy vậy, vẫn chưa có ai trông thấy nó cả.
    Suốt hai tuần liền, Juritas, Bantasas và năm thuỷ thủ không lúc nào ngừng theo dõi mặt vịnh, nhưng Con quỷ vẫn im hơi lặng tiếng. Juritas bồn chồn. Hắn vốn không kiên nhẫn và keo kiệt. Thêm một ngày là mất thêm tiền, mà Quỷ thì chẳng thấy tăm hơi đâu. Juritas bắt đầu nghi ngờ. Nếu Quỷ là một vật siêu nhiên thì có lưới trời cũng không bắt được. Mặt khác nếu dính vào Con quỷ này cũng khá nguy hiểm. Hay là mời một đức cha lên tàu? Lại tốn thêm tiền. Nhưng nếu Con quỷ biển chỉ một anh chàng tinh nghịch, bơi lặn giỏi hoá trang để doạ người khác? Còn con cá heo thì sao? Cá heo cũng giống mọi giống vật khác, có thể huấn luyện thuần thục được. Hay là dẹp cái chuyện này đi?
    Juritas tuyên bố sẽ thưởng cho ai trông thấy Con quỷ đầu tiên và quyết định đợi thêm mấy ngày nữa.
    Thật là may cho hắn, đến đầu tuần lễ thứ ba, Con quỷ xuất hiện.
    Sau những mẻ lưới ban ngày, Bantasas để chiếc thuyền đầy cá ở gần bờ chờ người ra mua. Bác vào trại thăm một người thổ dân quen biết, nhưng khi quay ra thì thuyền đã rỗng. Bác đoán ngay là do bàn tay của Quỷ. Bác ngạc nhiên: “Không lý nào nó có thể ăn hết chừng ấy cá?”
    Cũng trong đêm đó một thuỷ thủ đứng gác đã nghe thấy tiếng tù và ở phía nam. Hai hôm sau, vào lúc sáng sớm, một anh thổ dân trẻ báo tin là anh đã phát hiện được Con quỷ. Lần này nó không cưỡi cá heo như trước mà bơi bên cạnh, tay nắm chiếc vòng bằng da ở cổ con cá. Tới vịnh, Con quỷ tháo chiếc vòng ra, vỗ vào lưng con cá rồi lặn xuống dưới chân mỏm đá ngầm. Con cá heo nổi hẳn lên mặt nước rồi biến mất.
    Nghe anh ta nói xong, Juritas liền hứa thưởng tiền và nói:
    - Hôm nay chưa chắc nó ra khỏi hang. Vì vậy ta hãy xem xét kỹ đáy vịnh. Ai tình nguyện làm việc này?
    Bantasas bước ra:
    - Tôi! – Bác ta trả lời cộc lốc. Bác đã giữ đúng lời hứa.
    Tàu Medusa vẫn thả neo. Trừ những người ở lại gác tàu, còn tất cả đều lên bờ và đi về phía mỏm đá gần vịnh. Bantasas quấn thừng quanh mình để người trên bờ có thể kéo lên trong trường hợp bác bị thương. Bác cầm dao, hai chân kẹp một hòn đá rồi lặn xuống đáy vịnh.
    Đám thợ lặn chăm chú nhìn xuống mặt nước biển và nóng lòng chờ đợi. Hơn một phút trôi qua mà không thấy Bantasas quay lên. Cuối cùng, Bantasas giật dây ra hiệu, người ta kéo bác lên. Bantasas thở dài một cái rồi nói:
    - Có một lối đi hẹp dẫn tới một cái hang. Con quỷ biển chỉ có thể ở trong cái hang đó.
    - Tuyệt lắm! – Juritas reo lên. – Càng tốt, chúng ta sẽ giăng lưới xuống gần cửahang. Bantasas buộc vào dây thừng buộc lưới một số chuông nhỏ để khi có vật gì đụng vào lưới là chúng kêu lên ngay. Juritas, Bantasas và năm người thợ lặn ngồi trên bờ và im lặng chờ đợi.
    Trời tối hẳn. Trăng đã lên soi bóng mặt biển cả. Im lặng. Ai nấy đều bồn chồn một cách lạ thường. Họ sắp được thấy con quái vật đã làm cho biết bao dân chài và thợ mò ngọc trai phải khiếp sợ.
    Thời gian chầm chậm trôi qua. Mọi người đã bắt đầu thiu thiu ngủ. Bỗng có tiếng chuông reo. Tất cả chồm dậy, nhào tới chỗ buộc dây và kéo lưới lên. Lưới rất nặng, có con gì đang quẫy mạnh trong đó.
    Khi lưới được kéo lên tới mặt nước, mọi người thấy một thân hình nửa người nửa thú đang vùng vẫy dưới ánh trăng mờ. Đôi mắt nó to và sáng quắc, vảy trắng như bạc. Con quỷ biển cố hết sức mới rút được bàn tay ra khỏi lưới. Nó rút con dao đeo bên hông ra và bắt đầu cắt lưới.
    - Không ăn thua gì đâu! – Bantasas đang say sưa với cuộc săn bắt, khẽ nói.
    Nhưng thật kỳ lạ, dao đã cắt thủng lưới. Bằng những động tác rất khéo, Con quỷ khoét to lỗ thủng, còn đám thợ lặn thì hết tranh thủ thời gian để kéo lưới lên cho nhanh.
    - Mạnh tay lên nào! – Bantasas hô lớn.
    Nhưng đúng lúc Con quỷ gần lọt vào tay họ thì nó lại trốn thoát qua chỗ lưới thủng, rơi xuống nước, rồi mất hút dưới biển sâu.
    Đám thợ lặn thất vọng buông lưới.
    - Con dao sắc thật! – Bantasas tỏ vẻ thán phục. – Cắt được cả lưới thép.
    Juritas gục đầu nhìn xuống nước, nét mặt đau khổ, dường như toàn bộ gia tài của hắn vừa chìm xuống dưới nước. Một lúc sau, hắn giậm chân kêu lên:
    - Nhất định mày sẽ phải chết rũ trong hang ổ của mày chứ đừng hòng làm tao lùi bước. Tao sẽ không tiếc tiền mướn thợ lặn, sẽ giăng lưới và đặt bẫy khắp vùng biển này. Mày sẽ không thoát khỏi tay tao đâu!
    Juritas là người táo bạo và ương ngạnh. Hơn nữa, hắn còn có mục đích riêng phải đạt cho bằng được.
    Rõ ràng là Con quỷ biển cũng bằng xương bằng thịt như Bantasas đã nói thôi. Như vậy có thể bắt và ép nó đi mò ngọc trai làm giàu cho Juritas. Bantasas nhất định sẽ tóm được Con quỷ, dù thần biển Neptune có che chở cho nó.

    Juritas thực hiện lời hăm doạ của mình. Hắn giăng rất nhiều lưới thép và đặt bẫy khắp nơi. Nhưng nạn nhân của hắn giờ đây chỉ là cá, còn Quỷ biển thì vẫn mất tăm. Con cá heo được thuần dưỡng ngày nào cũng xuất hiện, ngoi lên ngụp xuống dường như muốn mời anh bạn kỳ lạ kia đi dạo chơi. Không thấy bạn, con cá tức giận phun phì phì rồi bơi ra khơi.
    Mặc dù thời tiết ngày càng xấu đi, nhưng Juritas có thể đứng trên bờ hàng giờ để ngắm nhìn những đợt sóng xô tới. Những con sóng nối tiếp nhau tràn vào tới tận chỗ Juritas đứng. “Làm như vầy vẫn không ăn thua. – Juritas nghĩ thầm. – Phải nghĩ kế khác thôi!. Con quỷ sống trong hang dưới đáy biển. Vậy muốn bắt được nó chỉ có cách phải xông vào tận nơi!”
    Rồi hắn nói với Bantasas, lúc đó đang làm một kiểu bẫy mới, phức tạp hơn.
    - Bác đi Buenos Aires ngay và mang về hai bộ quần áo lặn có bình dưỡng khí. Chúng ta phải đích thân xuống dưới đó xem sao. Aø! Mà bác chớ quên mua vài chiếc đèn pin.
    - Ông muốn đến thăm hang quỷ sao?
    - Phải, chúng ta cùng đến thăm hang quỷ. – Juritas trả lời.
    Bantasas gật đầu đồng ý và lên đường ngay. Ngoài mấy bộ quần áo lặn và đèn, bác còn mang về cả hai con dao quắm dài.
    - Bây giờ không ai biết rèn loại dao này nữa. – Bantasas nói. – Đây là dao cổ của người Araucan, tổ tiên của tôi trước kia.
    Juritas rất tán thành việc Bantasas mang hai con dao tới:
    - Bác biết lo xa đấy, Bantasas ạ.
    Rạng sáng hôm sau, Juritas và Bantasas mặc đồ lặn vào và xuống đáy biển. Khó khăn lắm họ mới gỡ được tấm lưới đặt ở cửa hang rồi chui vàomột lối đi hẹp. Sau khi đã đứng vững và rút dao ra cầm tay, họ bật đèn lên.
    Đây là một cái hang khá lớn. Juritas và Bantasas thận trọng tiến lên từng bước. Lòng hang ngày càng hẹp dần. Họ bỗng dừng lại sửng sốt. Ánh đèn vấp phải một hàng rào sắt dày chắn ngang đường.
    Juritas không tin vào mắt mình nữa. Hắn nắm lấy những thanh sắt và lắc mạnh nhưng không thấy nhúc nhích. Juritas soi đèn xem kỹ thì thấy hàng rào sắt gắn rất chặt vào vách đá và được khoá bên trong.
    Đây quả là một điều bí ẩn mới.
    Con quỷ biển không những là một sinh vật có trí tuệ mà còn phải đặc biệt thông minh nữa. Nó biết thuần dưỡng cá heo, biết luyện kim và có thể tạo ra cả chướng ngại vật bằng sắt vững vàng bảo vệ nơi ở của nó. Thật là khó tin! Nó không thể rèn dưới nước được. Vậy nghĩa là không phải nó sống dưới nước hay ít nhất nó phải lên cạn một thời gian khá lâu.
    Juritas ra hiệu cho Bantasas. Hai người ra khỏi hang và ngoi lên mặt nước.
    - Bác thấy thế nào, Bantasas?
    - Tôi cho rằng ta còn phải chờ ở đây khá lâu. Chúng ta không thể lấy cái đói để bắt nó ra khỏi hang đâu. Chỉ còn một cách là dùng thuốc nổ phá hang thôi.
    - Thế bác không nghĩ ra rằng trong hang có thể có một lối lên mặt đất à?
    - Điều đó thì tôi chưa nghĩ tới.
    - Phải nghĩ tới điều đó. Sao trước đây chúng ta lại không tính tới việc xem xét kỹ càng dưới đáy biển nhỉ?
    Thế là họ bắt đầu nghiên cứu bờ biển.
    Juritas vấp phải một bức tường cao vòng quanh một khoảng đất rộng. Hắn đi quanh bức tường và chỉ thấy một cái cổng làm bắng những tấm sắt dày. Xung quanh vắng lặng hoang tàn, chỉ thấy những mỏm đá xám lởm chởm cây có gai nhọn. Phía dưới là vịnh.
    Mấy ngày liền Juritas quanh quẩn dọc bức tường, quan sát chiếc cổng sắt. Nhưng nó không mở ra lần nào, chẳng có ai ra vào và không một tiếng động nào từ phía trong đưa ra.
    Chương III:

    BÁC SĨ SANVATOR

    Buổi tối, sau khi trở về tàu Medusa, Juritas gọi Bantasas đến hỏi:
    - Bác có biết ai sống trong pháo đài trên vịnh không?
    - Tôi có biết. Tôi đã hỏi dân địa phương và họ bảo có ông Sanvator.
    - Sanvator là ai?
    - Là Thánh sống.
    - Bác nói cho đùa hả, Bantasas? – Juritas sửng sốt nhướng mày hỏi.
    - Tôi chỉ kể lại những điều tôi nghe được. Nhiều thổ dân gọi ông Sanvator là Thánh sống, là Đấng cứu thế. Oâng ta cứu mạng cho họ. Họ nói rằng ông ta có nhiều phép lạ và nắm được vận mệnh con người trong tay. Ai bệnh gì ông ta cũng đều chữa lành cả. Thậm chí, người chết, ông ta có thể làm cho sống lại.
    - Quỷ tha ma bắt! – Juritas làu bàu. – Dưới vịnh thì có Quỷ biển, trên vịnh thì có Thánh sống. Bác có nghĩ rằng Quỷ và Thánh có liên quan với nhau không?
    - Tôi nghĩ rằng ta nên rời khỏi nơi này càng nhanh càng tốt, nếu không đầu chúng ta sẽ bị vỡ ra vì những chuyện bí hiểm này.
    - Bác có trực tiếp gặp được người nào được Sanvator chữa khỏi bệnh không ?
    - Có. Tôi được gặp một người trước bị gãy chân. Sau khi được Sanvator chữa, anh ta chạy nhanh như hươu. Cả làng kể rằng khi khiêng anh ta đến chỗ Sanvator, anh ta chỉ là một cái xác không hồn, sọ bị vỡ, óc phọt cả ra ngoài. Ở chỗ Sanvator về, anh ta lại khoẻ mạnh vui vẻ. Rồi lại lấy một cô vợ khá xinh. Tôi còn thấy nhiều người khác nữa....
    - Thế nghĩa là Sanvator có tiếp người lạ tại nhà riêng?
    - Ông ta chỉ tiếp thổ dân thôi.
    Nghe Bantasas nói xong, Juritas quyết định đi Buenos Aries. Ở đó, hắn biết rằng Sanvator thường chữa bệnh cho thổ dân và được ho sùng bái vô cùng. Theo lời các bác sĩ, Sanvator là một nhà phẫu thuật thiên tài, nhưng tính tình kỳ quặc như nhiều người có danh tiếng khác. Tên tuổi Sanvator lừng lẫy khắp năm châu. Ông ta nổi tiếng ở châu Mỹ về những cuộc mổ xẻ táo bạo. Khi người bệnh hết phương cứu chữa và khi các bác sĩ đã lắc đầu không mổ được nữa thì người ta tìm đến Sanvator. Ông ta không bao giờ từ chối. Sự táo bạo và nhanh trí của Sanvator thật vô hạn. Trong chiến tranh, Sanvator phục vụ ở mặt trận Pháp và chuyên mổ sọ. Hàng ngàn người đã chịu ơn cứu mạng ủa ông ta.
    Sau khi đình chiến, Sanvator trở về Argentina. Ông ta mua một lô đất rộng gần thủ đô Buenos Aires, xây tường chung quanh, dọn đến đó nghiên cứu khoa học trong phòng thí nghiệm riêng. Bây giờ ông thường chữa bệnh cho thổ dân. Họ gọi ông là Thánh sống.
    Điều tra xong, Juritas quyết định: “Nếu Sanvator là bác sĩ thì ông ta không có quyền từ chối bệnh nhân. Sao ta lại không bệnh được nhỉ? Ta sẽ lọt vào chỗ Sanvator với danh nghĩa một người bệnh và sẽ rõ mọi việc.”
    Juritas đến trước cái cổng sắt và gõ rất lâu nhưng chẳng ai ra mở. Juritas phát cáu nên lấy một hòn đá to và nện ầm ầm vào cổng. Có tiếng chó sủa ở phía xa, bên trong bức tường, rồi cánh cửa hé mở.
    - Ông cần gì? – Có tiếng người hỏi bằng giọngTây Ban Nha ngọng ngịu.
    - Tôi là bệnh nhân, ông làm ơn mở cổng giùm cho.
    - Người bệnh không thể đập cửa khoẻ như thế được. – Người kia bình tĩnh phản đối và hé mắt nhìn qua khe cửa.- Bác sĩ không tiếp ai cả.
    - Bác sĩ không thể bỏ mặc người bệnh được! – Juritas nổi nóng. Nhưng cánh cửa nhỏ khép chặt lại, tiếng chân xa dần. Riêng đàn chó vẫn sủa ran.
    Juritas chửi bới thậm tệ một lúc rồi quay về tàu. Hắn tức run lên, nhưng mau chóng lấy lại bình tĩnh và bắt đầu suy tính công việc tương lai.

    Trời nắng như thiêu đốt mọi vật. Một ông lão thổ dân tiều tuỵ đi trên con đường đầy bụi. Ông lão bế một đứa trẻ ốm yếu bọc trong một chiếc chăn cũ kỹ để tránh nắng. Mắt đứa trẻ lim dim, lờ đờ. Cổ nó có một cái nhọt to tướng. Mỗi khi ông lão bước hụt, đứa bé lại rên rỉ và hé mắt ra. Ông lão ngừng lại, và hà hơi vào mặt cho nó tỉnh lại đôi chút.
    - Chỉ cần con bé không chết dọc đường là được! – Ông lão thì thầm và rảo bước.
    Khi tới trước cái cổng sắt, ông lão chuyển đứa bé sang tay trái và lấy tay phải đập vào cổng bốn lần. Cánh cửa nhỏ hé mở, có người ghé mắt nhìn ra. Và cánh cổng bắt đầu mở.
    Ông lão e dè bước qua ngưỡng cửa. Trước mặt ông là một người da đen có tuổi mặc áo choàng trắng. Ông lão nói:
    Ông lão e dè bước qua ngưỡng cửa. Trước mặt ông là một người da đen có tuổi mặc áo choàng trắng. Ông lão nói:
    - Tôi xin gặp bác sĩ, cháu nó bị ốm.
    Người da đen gật đầu, ra hiệu mời ông lão đi theo. Họ đi vào giữa một cái sân nhỏ lát bằng những phiến đá lớn. Phía ngoài sân có một bức tường cao che chở, phía trong có một búc tường thấp hơn nữa ngăn giữa sân và nhà. Ơû góc sân, gần cổng vào bức tường thứ hai, ông lão thấy một ngôi nhà quét vôi trắng có nhiều cửa sổ lớn. Gần nhà có nhiều thổ dân ngồi dưới đất. Ông lão khép nép ngồi xuống chỗ bóng râm của ngôi nhà rồi lại hà hơi vào khuôn mặt nhợt nhạt, bất động của đứa bé.
    Một lúc sau, Người da đen mặc áo choàng trắng xem qua tất cả bệnh nhân rồi bảo ông lão mang đứa bé vào. Anh ta đưa ông lão vào một căn phòng lớn. Giữa phòng có một cái bàn dài và hẹp, trải khăn trắng. Khi cánh cửa thứ hai mở ra, bác sĩ Sanvator bước vào phòng. Ông có khổ người lớn, da ngăm đen. Đầu ông không có một sợi tóc, cái mũi khá to, cái cằm nhọn, đôi môi mím chặt làm cho bộ mặt ông có vẻ dữ tợn. Đôi mắt nâu nhìn một cách lạ lùng khiến ông lão lúng túng.
    Ông lão cúi rạp xuống và đưa đứa cháu ra phía trước. Sanvator nhanh nhẹn và thận trọng đỡ lấy con bé. Ông đặt con bé nằm trên bàn và cúi xuống xem xét bệnh tình. Lúc này nhìn nghiêng Sanvator, ông lão chợt cảm giác như Sanvator là một con diều hâu đang sà xuống con chim non. Sanvator nắn cái nhọt ở cổ con bé. Những ngón tay của ông cũng làm cho ông lão ngạc nhiên. Chúng rất dài và nhanh nhẹn lạ thường. Ông lão vốn không nhút nhát lắm mà nay cũng không trấn tĩnh nổi trước con người khó hiểu và đáng sợ này.
    Khám xong, Sanvator quay mặt về phía ông lão và nói:
    -Một tháng nữa ông đến cháu về.
    Sanvator bế đứa bé qua cánh cửa ra vào bằng kính. Trong đó có phòng tắm, phòng mổ và phòng bệnh nhân. Người da đen lại dẫn một người bệnh mới vào phòng khám. Đó là bà cụ bị đau chân.
    Ông lão vái chào cái cửa bằng kính lúc ấy đã đóng lại rồi ra về.
    Đúng hai mươi tám ngày sau, cánh cửa đó lại mở ra. Một cô bé xuất hiện ở ngưỡng cửa. Nó mặc một chiếc váy mới, khoẻ mạnh hồng hào. Oâng lão vội chạy tới chỗ nó đứng, bồng nó lên hôn hít và xem cổ nó. Không còn dấu vết gì của cái nhọt mà chỉ có một vết sẹo nhỏ hơi đỏ phải tinh mắt lắm mới thấy. Sanvator bước ra. Oâng xoa đầu nó, mỉm cười và nói:
    - Ông đón cháu về đi! Oâng mang cháu đến kịp thời đấy. Chỉ chậm vài tiếng nữa là hết cách chữa.
    Mặt ông nhăn nheo lại, môi rung rung, nước mắt ứa ra. Ông lão lại bế cháu lên, ghì nó vào ngực, quỳ xuống trước mặt Sanvator rồi nức nở:
    - Bác sĩ đã cứu sống cháu tôi. Một người da đỏ nghèo khổ như tôi biết lấy gì đền ơn bác sĩ, ngoài cái thân tàn của mình.
    - Tôi cần ông để làm gì? – Bác sĩ Sanvator nhìn ông lão với vẻ ngạc nhiên.
    - Tôi già rồi nhưng còn khoẻ. – Oâng lão vẫn quỳ. – Tôi sẽ trở lại đây. Tôi muốn hiến bác sĩ tất cả quãng đời còn lại của tôi để báo đáp công ơn bác sĩ.
    Sanvator trầm ngâm. Oâng rất không thích mướn người làm công mới, và nếu phải mướn thì rất thận trọng, mặc dù công việc khá nhiều. Một mình ông già Jim làm vườn không xuể. Có thể sắp xếp cho ông lão thổ dân này công việc đó được, tuy bác sĩ vẫn thích người da đen hơn.
    - Thôi được, bao giờ ông đến?
    - Chỉ mấy ngày nữa thôi ạ! – Oâng lão trả lời và cuối xuống hôn vạt áo choàng của Sanvator.
    - Ông tên là gì nhỉ?
    - Tôi tên là Christo.
    - Thôi ông về đi, tôi sẽ chờ ông.
    Con bé khóc. Ông lão vội vàng ra về.

    Một tuần sau, Christo đến. Sanvator nhìn thẳng vào mắt ông lão nói:
    - Christo, tôi nhận ông vào làm việc. Ngoài ăn cơm còn có tiền công khá cao...
    - Tôi không lấy tiền đâu. Được hầu hạ bác sĩ là tôi mãn nguyện rồi.
    - Ông sẽ không phải thiếu thốn gì cả. Nhưng tôi chỉ đòi hỏi một điều là ông phải tuyệt đối không được nói với ai về những việc ông sẽ thấy ở đây.
    - Thà tôi tự cắt lưỡi còn hơn hở ra một lời với ai.
    - Ông phải hết sức giữ gìn đừng để xảy ra chuyện chẳng lành. – Sanvator căn dặn, rồi ra lệnh cho người da đen giúp việc dẫn ông ta ra vườn. Giao cho Jim cai quản.
    Người da đen lặng lẽ cúi chào, đưa ông lão ra khỏi ngôi nhà trắng, qua cái sân quen thuộc rồi gõ vào cánh cổng sắt ở bức tường thứ hai. Phía sau tường có tiếng chó sủa, cánh cổng kêu ken két và từ từ mở.
    Người da đen đẩy Christo vào vườn, giọng ồm ồm nói cái gì đó với người da đen khác rồi bỏ đi. Christo sợ quá nép vào tường, một đàn thú bốn chân lông màu vàng pha đỏ có đốm đen xông tới. Christo tưởng chúng là loài báo Iaguar, nhưng chúng lại sủa như chó. Oâng lão vội chạy tới một gốc cây và thoăn thoắt trèo lên. Người da đen không nói gì mà chỉ kêu xì xì như tiếng rắn. Đàn thú ngừng sủa ngay. Chúng nằm xuống đất và ngước nhìn người da đen. Người này lại kêu xì xì vàvẫy tay ra hiệu cho Christo tụt xuống.
    - Sao anh cứ kêu xì xìnhư rắn vậy? – Christo nói. – Bị cắt lưỡi rồi à?
    Người da đen không trả lời mà chỉ rống lên với vẻ giận dữ. “Chắc là hắn câm” - Christo nhớ lại lời đe doạ của Sanvator. Chẳng lẽ ông ta lại cắt lưỡi những người ở đã làm lộ bí mật của ông ta? Có thể là anh da đen này đã bị cắt lưỡi rồi... Christo bỗng thấy rụng rời chân tay, suýt nữa thì ngã nhào xuống đất. Oâng lão muốn thoát khỏi nơi này ngay lập tức bằng bất cứ giá nào. Người da đen tới gốc cây và nắm chân Christo lôi xuống. Christo đành chịu. Oâng lão nhảy xuống, cố mỉm cười cho có vẻ thân thiện, chia tay ra bắt và hỏi:
    - Anh là Jim phải không?
    Người da đen gật đầu .
    - Anh câm à?
    Jim không trả lời.
    Christo nghĩ: “Làm thế nào nhìn được bên trong miệng hắn nhỉ?”. Nhưng rõ ràng là Jim không muốn trò chuyện. Anh ta dắt Christo về chỗ mấy con thú đang nằm và kêu xì xì với chúng. Chúng nhổm dậy, tiến về phía Christo, ngửi quanh người ông ta rồi lặng lẽ bỏ đi. Christo yên lòng hơn một chút. Jim vẫy tay ra hiệu cho Christo theo mình đi vào khu vườn.
    Thật trái ngược với cái sân lát đá, khu vườn này thật rực rỡ muôn màu hoa lá. Khu vườn chạy dài theo hướng đông và thấp dần về phía bờ biển. Những con đường nhỏ trải vỏ ốc xinh xinh màu đỏ nhạt tỏa ra bốn phía. Hai bên đường có những cây xương rồng hình dáng kỳ lạ và cây agavar màu xanh biếc. Từng bụi cây đào và ôliu rủ bóng xuống bãi cỏ xanh rờn điểm hoa sặc sỡ. Giữa đám cỏ xanh lấp lánh những hồ nước lát đá trắng quanh bờ. Mấy giếng phun nước làm không khí mát rượi.
    Trong vườn ríu rít tiếng chim hót, vang rền tiếng kêu, tiếng gầm, tiếng hú của các loài thú vật kỳ lạ như vậy.
    Một con thằn lằn sáu chân có vảy màu xanh lục chạy ngang đường. Một con rắn hai đầu buông thõng mình từ trên cây xuống. Christo hoảng hốt nhảy vội sang bên khi chạm trán với một con trăn hai đầu đang há miệng đỏ lòm. Jim lại kêu xì xì mạnh hơn như để trả lời. Thế là con trăn lắc lư cái đầu, trườn xuống đất rồi mất hút trong đám cây lau sậy. Tiếp đến là một con rắn dài có hai chân đang vội tránh sang mé đường. Một chú lợn con ủn ỉn sau tấm lưới sắt, nó chằm chằm nhìn Christo bằng con mắt lớn nằm giữa trán.
    Hai chú chuột bạch lớn, sườn dính liền nhau, đang chạy trên con đường nhỏ màu hồng nhạt, trông chẳng khác gì một quái vật hai đầu tám chân.
    Cạnh đường có hai chú cừu lông mịn cũng dính liền nhau đang gặm cỏ. Một con chó lớn màu hồng trụi lông khiến Christo hết sức gạc nhiên vì có một chú khỉ con dính liền trên lưng nó. Con chó đi tới chỗ Christo và vẫy đuôi. Còn chú khỉ thì lắc đầu, múa tay rồi vừa vỗ vào lưng con chó vừa nhìn Christo và kêu lên the thé. Christo cho tay vào túi lấy ra một miếng đường và chìa ra cho chú khỉ. Nhưng có người gạt tay lão sang một bên. Lão thấy tiếng xì xì sau lưng. Lão quay lại, đó là tiếng Jim. Jim ra hiệu cho Christo không được cho khỉ ăn. Ngay lúc đó, chú chim sẻ có đầu vẹt cướp miếng đường trong tay Christo bay lẫn vào trong bụi cây. Ở bãi cỏ đằng xa có tiếng hí của một con thú mình ngựa đầu bò. Hai con lạc đà có đuôi ngựa đang phi nhanh trên quãng trống giữa rừng cây. Từ những lùm cỏ, bụi cây đủ loại chim muôn và thú vật kỳ lạ đang chăm chú nhìn Christo: chó đầu mèo, ngỗng có đầu gà trống, lợn có sừng, chim đà điểu có mỏ diều hâu, cừu đực có lông như mèo rừng.
    Christo tưởng mình đang ngủ mê. Oâng lão dụi mắt, vốc nước ở giếng phun dấp lên đầu nhưng chẳng ăn thua. Trong các hồ nước, Christo thấy từng lũ rắn có đầu cá và có mang, hàng đàn cá có chân như chân ếch, những con cóc có thân dài như thằn lằn...
    Christo muốn bỏ chạy. Nhưng Jim lại đưa ông lão ra một khoảng đất nhỏ phủ cát, chính giữa có một biệt thự bằng đá trắng xây theo kiểu Moritani. Xung quanh biệt thự trồng cọ. Qua hàng cọ, Christo thấy những vòm cuốn và cột tròn. Vô số tia nước từ những giếng phun hình cá heo đổ xuống những hồ chứa trong vắt. Từng đàn cá vàng tung tăng trong hồ. Ơû giếng phun lớn nhất trước lối vào chính có hình một thanh niên cưỡi cá heo đang thổi tù và. Phía sau biệt thự là mấy căn nhà phụ, xa nữa là những bụi cây xương rồng chạy tới chân tường.
    Lại một bức tường nữa! – Christo nghĩ.
    Jim dẫn lão vào một căn phòng nhỏ thoáng mát. Anh ta ra hiệu cho biết là phòng này dành cho Christio rồi đi ra, để lão ở lại một mình.
    Christo quen dần với cái thế giới kỳ lạ xung quanh. Tất cả những muông thú ở đây đều đã được thuần dưỡng. Thậm chí có một số con đã bắt đầu thân với ông lão.
    Có tất cả mười hai người da đen trông coi vườn tược và muông thú. Cả mười hai người đều câm lặng. Jim có vẻ là người cai quản chung. Anh ta sắp đặt công việc và kiểm soát họ. Christo hết sức ngạc nhiên khi thấy mình được cử làm phó của Jim.
    Chỉ có một điều làm ông lão lo ngại đó chính là sự im lặng đáng sợ của những người da đen. Christo nghĩ rằng họ đều bị bác sĩ Sanvator cắt lưỡi. Do vậy, mỗi lần Sanvator cho gọi Christo, ông lão lại nghĩ bụng: “Lần này nhất định mình bị cắt luỡi rồi!” .Nhưng ít lâu sau Christo đã bớt sợ chuyện này.
    Một hôm Christo bắt gặp Jim đang nằm ngủ dưới bóng cây ôliu. Jim nằm ngửa, miệng há hốc. Nhân lúc ấy, Christo nhìn trộm vào miệng Jim thì thấy lưỡi anh ta còn nguyên. Lúc đó ông lão mới yên lòng.
    Bác sĩ Sanvator làm việc theo một thời khoá biểu chặt chẽ. Từ 9 giờ sáng ông khám bệnh cho thổ dân. Sau đó ông trở về biệt thự và làm việc trong phòng thí nghiệm. Oâng giải phẫu súc vật và cặm cụi nghiên cứu. Sau khi quan sát, theo dõi chúng rất lâu, Sanvator lại thả chúng về khu vườn. Trong khi dọn dẹp nhà cửa, Christo thỉnh thoảng lọt được vào phòng thí nghiệm. Mọi vật ở đó làm lão kinh hoàng. Trong những lọ thuỷ tinh chứa dung dịch, Christo thấy từng bộ phận cơ thể bị cắt rời ra mà vẫn sống.
    Mặc dù được Sanvator tin cẩn, Christo vẫn chưa dám lọt vào phía bức tường thứ ba kia cho thoả tính tò mò.
    Một hôm vào giữa trưa, khi tất cả mọi người đang nghỉ, Christo chạy về phía bức tường cao, lão nghe nhiều tiếng trẻ con nói chuyện phía sau tường.
    Một hôm Sanvator gặp Christo ở ngoài vườn. Theo thói quen, Sanvator nhìn thẳng vào mắt lão và nói:
    - Ông giúp việc tôi đã được một tháng. Tôi rất hài lòng về ông. Ơû vườn sau, một người làm của tôi bị ốm ông sẽ làm việc thế anh ta. Oâng sẽ thấy nhiều sự việc lạ. Nhưng phải nhớ lời khuyên của tôi, nếu không muốn mất lưỡi.
    - Thưa bác sĩ, sống giữa đám người câm của ông, tôi cũng gần hoá câm rồi ạ.
    - Càng tốt. Im lặng là vàng. Tôi hy vọng trong hai tuần sẽ chữa khỏi bệnh cho anh làm vườn kia. A, ông có biết rõ vùng núi Alpes không nhỉ?
    - Thưa bác sĩ, tôi được sinh ra ở đó ạ.
    - Tốt lắm! Tôi đang cần bổ sung một số chim và thú mới cho vườn thú của tôi. Tôi sẽ mang ông đi theo. Ông hãy chờ ở đây. Jim sẽ đưa ông xuống vườn sau.
    Tuy Christo đã quen với nhiều thứ lạ lùng ở đây. Vậy mà những điều tai nghe mắt thấy ở khu vườn sau còn vượt xa óc tưởng tượng của ông lão. Trên một bãi cỏ rộng đầy nắng, từng đám trẻ con và khỉ đang nô đùa. Bọn trẻ thuộc nhiều bộ lạc da đỏ khác nhau. Đứa nhỏ nhất độ ba tuổi, đứa lớn nhất trạc mười hai tuổi. Đó là những bệnh nhân của Sanvator. Chúng đang phục hồi sức khoẻ, chạy nhảy, đùa giỡn trong vườn. Khi khoẻ hẳn cha mẹ chúng mới đến đón về. Ngoài bọn trẻ, ở đây còn có nhiều khỉ. Điều lạ nhất là bọn chúng đều biết nói ít nhiều. Chúng cãi lộn nhau với bọn trẻ, giọng the thé. Tuy vậy, hai bên vẫn chơi thân với nhau. Christo phân vân không biết đó là khỉ hay là người.
    Christo thấy khu vườn nhỏ này dốc về phía vịnh và dựa vào một vách đá dựng đứng như một bức tường. Chắc sau bức tường này là biển vì có tiếng sóng vỗ rất gần. Sau mấy ngày xem xét kỹ vách đá này, Christo nhận ra nó chỉ là một bức tường giả. Trong một bụi cây rậm lão phát hiện ra một cánh cửa sắt.
    Christo lắng nghe. Không một tiếng động ngoài tiếng sóng rì rầm từ sau bức tường vọng tới. Cánh cửa này dẫn tới đâu? Ra bờ biển ư?
    Bỗng có tiếng trẻ kêu thất thanh. Chúng đang nhìn lên trời. Christo ngẩng đầu lên và thấy một quả bóng đỏ từ từ bay ngang khu vườn ra phía biển. Quả bóng bình thường ấy khiến Christo rất bồn chồn. Khi người làm vườn cũ khỏi bệnh trở về, Christo đến gặp Sanvator và nói:
    - Thưa bác sĩ, chúng ta sắp lên vùng núi Alpes, có lẽ đi lâu. Xin bác sĩ cho phép tôi được về thăm con gái và cháu ngoại tôi.
    Christo nhìn vào mắt Sanvator im lặng chờ đợi.
    Sanvator lạnh lùng nhìn Christo dặn:
    - Ông hãy nhớ lời tôi. Phải thật kín miệng. Hạn chót là ba ngày nữa ông phải có mặt tại đây. Bây giờ ông đợi tôi một chút.
    Sanvator vào phòng lấy ra một cái túi bằng da hươu đựng tiền vàng.
    - Ông cầm lấy, tôi gửi cho cháu ngoại ông. Và thưởng cho ông vì đã biết im lặng.

    Chương IV

    MƯU KẾ XẢO QUYỆT CỦA CHRISTO

    - Bantasas, nếu hôm nay ông ta vẫn chưa về thì tôi sẽ không cần sự giúp đỡ của bác nữa. Tôi sẽ mướn những người tháo vát hơn. – Juritas vừa nói vừa vuốt ria mép.
    Juritas gặp Bantasas ở ngoại ô Buenos Aires, chỗ cánh đồng lúa kết thúc và bắt đầu đồng cỏ. Bantasas ngồi bên đường, bối rối và lặng lẽ rứt từng cọng cỏ vàng cháy. Bác ta bắt đầu hối hận vì đã đưa anh mình là Christo đi dò xét Sanvator.
    Christo hơn Bantasas mười tuổi. Tuy lớn tuổi, nhưng Christo khôn ngoan xảo quyệt như một con cáo. Một người như vậy mà làm gián điệp thì rất hợp, nhưng không thể tin được. Nếu có lợi thì ông ta có thể bán rẻ cả em ruột. Bantasas biết rõ điều đó nên bác nóng lòng hơn cả Juritas.
    - Bác tin chắc rằng Christo đã nhìn thấy quả bóng bác thả à?
    Bantasa nhún vai không trả lời. Bác muốn chất dứt ngay chuyện này để về nhà nhấp tí nước lạnh pha rượu rồi làm một giấc ngủ cho khoẻ.
    - Ông ta kia rồi! – Bantasas giật mình.
    - Phải vậy chứ!
    Christo nhanh nhẹn đi về phía hai người. Hắn không cò giống ông già thổ dân tiều tuỵ như trrước kia. Hắn huýt sáo ra hiệu rồi đến chào Bantasas và Juritas.
    - Thế nào, ông đã làm quen đươcï với con quỷ biển chưa? – Juritas hỏi.
    - Chưa. Nhưng đúng là nó ở đấy rồi. Tôi đã làm được việc chủ yếu là đang giúp việc cho Sanvator và ông ta rất tin tôi, mọi việc rất trôi chảy. – Christo cười, cặp mắt quỷ quyệt nheo lại.
    - Lão Sanvator có một khu vườn thú kỳ diệu. – Christo bắt đầu thuật lại tất cả những điều tai nghe mắt thấy
    Juritas vừa hút xì gà vừa nói:
    - Những điều ông vừa kể đều rất lý thú, nhưng ông có nhìn thấy nhân vật chính là Con quỷ biển không? Oâng định tiếp tục công việc này như thế nào?
    - Tiếp tục à? Tổ chức một cuộc dạo mát vào vùng núi Alpes.
    Rồi Christo thuật lại chuyện Sanvator địng đi săn thú ở đó.
    - Tốt lắm! – Juritas reo lên. – Chỗ ở của Sanvator cách xa khu dân cư. Khi nào lão đi vắng chúng ta sẽ bắt Con quỷ biển mang đi.
    - Chưa tìm thấy Quỷ thì bọn thú đã xe xác ông ra rồi. Ngay cả tôi cũng phải chịu thua. – Christo lắc đầu.
    Juritas ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
    - Thế thì ta sẽ phục kích và bắt cóc Sanvator khi lão đi săn, rồi bắt phải chuộc bằng Con quỷ biển.
    Christo đưa tay rút nhẹ một điếu xì gà trong túi của Juritas.
    - Cảm ơn ông. Phục kích như thế hay đấy. Nhưng sợ rằng Sanvator sẽ lừa ta, lão hứa chuộc nhưng lại trở mặt thì sao? – Christo húng hắng ho
    - Thế ông định thế nào? – Giọng Juritas đã gay gắt.
    - Phải kiên nhẫn, ông Juritas ạ. Sanvator tin tôi, nhưng mới cho tôi tới bức tường thứ tư thôi. Cần làm cho ông ta tin tôi hoàn toàn thì mới cho tôi đến gần Con quỷ biển.
    - Cụ thể ta phải làm gì?
    - Thế này nhé, có một bọn cướp sẽ tấn công Sanvator khi hắn đi săn. – Christo chỉ vào ngực Juritas. – Còn tôi, - Christo vỗ ngực mình, - một người Araucan trung thực, sẽ cứu hắn thoát chết. Sau vụ này thì bí mật trong nhà Sanvator sẽ chẳng có gì là bí mật đối với Christo nữa.
    - Mưu kế đó dùng được đấy.
    - Trước hôm lên đường, tôi sẽ ném một hòn đá đỏ qua hàng rào. Các ông hãy sẵn sàng. – Christo nói.
    Mặc dù kế hoạch tấn công đã được suy tính kỹ càng, nhưng vẫn có một chuyện bất ngờ xảy ra suýt nữa làm hỏng việc.
    Juritas, Bantasas và mười tên côn đồ cải trang thành thổ dân thuộc bộ lạc Gauto trang bị đầy đủ, cưỡi ngựa chờ ở ngoài xa. Trời tối như mực. Bọn cướp lắng nghe xem có tiếng vó ngựa không. Nhưng Christo không ngờ rằng Sanvator lần này đi săn khác mấy năm trước.
    Bọn cướp bỗng thấy tiếng máy nổ vọng đến rất nhanh. Từ sau quả đồi loé sáng hai ngọn đèn pha. Một chiếc xe hơi lớn màu đen lao vút qua chỗ phục kích, nhanh đến nỗi chúng không kịp trở tay.
    Juritas chửi mắng ầm ĩ làm Bantasas bật cười. Bác nói:
    - Đừng buồn ông Juritas. Vì ban ngày oi bức nên họ đi vào ban đêm đó thôi. Đến trưa họ sẽ nghỉ và ta có thể sẽ đuổi kịp họ.
    Nói xong Bantasas thúc ngựa phóng theo chiếc xe. Những người khác theo sau. Đi được hai tiếng, họ bỗng thấy ánh lửa ở phía xa. Bantasas xuống ngựa và trườn đi như một con rắn. Một giờ sau, Bantasas quay lại.
    - Xe bị hư. Họ đang sửa. Christo đang đứng gác. Ta phải hành động ngay.
    Mọi việc sau đó diễn biến rất nhanh. Bọn cướp tấn công. Sanvator chưa kịp trở tay thì đã bị trói nghiến chân tay cùng với Christo và ba người da đen khác.
    Tên thủ lĩnh đám cướp đòi Sanvator phải chuộc mình bằng số tiền khá lớn.
    - Được các ông hãy thả tôi ra, tôi sẽ nộp tiền. – Sanvator trả lời.
    - Đấy là số tiền chuộc riêng cái mạng mày. Nhưng mày phải chuộc cả ba đứa cùng mày bằng một số tiền như vậy nữa.
    Sanvator nghĩ một lát rồi nói:
    - Tôi không thể nộp ngay một số tiền lớn như vậy được.
    - Thế thì giết nó đi. – Bọn phỉ hét lên.
    - Nếu mày không chấp nhận những điều kiện của chúng tao thì sáng sớm mai mày sẽ mất mạng. – Tên thủ lĩnh nói.
    - Tôi không có sẵn trong tay số tiền mà các ông đòi. – Sanvator nhún vai trả lời.
    Thái độ bình tĩnh của Sanvator khiến bọn cướp phải ngạc nhiên. Chúng bỏ mặc mấy người bị trói ở xẽ rồi bắt đầu lục lọi. Tìm thấy một số rượu cồn, chúng liền nốc cạn rồi gục xuống vì say mèm.
    Gần sáng bỗn có một người bí mật mò đến chỗ Sanvator.
    - Tôi đây, Christo đây. Tôi đã cởi dây trói và đã khử được tên thủ lĩnh có súng. Những tên khác còn say khướt cả. Anh lái xe đã sửa xong xe. Chúng ta đi ngay thôi.
    Cả năm người lên xe. Anh lái xe da đen nổ máy và chiếc xe lao nhanh trên đường. Phía sau có tiếng kêu ken két và tiếng súng loạn xạ.
    Sanvator xiết chặt tay Christo.
    Sau khi Sanvator đi thoát, Juritas mới được bọn cướp cho biết là Sanvator đồng ý nộp tiền chuộc. Hắn nghĩ: “ Có lẽ lấy tiền chuộc còn đơn giản hơn là đi bắt Quỷ biển mà ta chưa biết mặt mũi ra sao. Nhưng đã lỡ thời cơ rồi. Bây giờ chỉ còn cách là chờ tin tức của Christo”.

    Christo hy vọng Sanvtor sẽ gọi mình đến và nói: “Christo ông đã cứu sống tôi. Từ nay tôi không có điêu gì bí mật phải giấu ông nữa. Tôi sẽ cho ông thấy Con quỷ biển”. Nhưng Sanvator lại không nói như vậy. Oâng chỉ thưởng cho Christo rất hậu hĩnh, rồi vùi đầu vào việc nghiên cứu khoa học.
    Christo tranh thủ thời gian tìm hiểu bức tường thứ tư và cánh cửa bí mật. Cuối cùng hắn cũng khám phá ra. Một lần, hắn vô tình ấn tay vào một chỗ hơi lồi lên, cánh cửa bỗng mở toang ra. Christo vội lẽn vào ngay và rất sửng sốt khi thấy cánh cửa tự động đóng sập lại. Hắn xem xét mặt cửa bên trong và ấn vào các chỗ lồi, nhưng vô hiệu. Hắn nghĩ bụng: “ Thế là mình tự nhốt mình vào bẫy rồi”.
    Nhưng hắn đành chịu thua. Chỉ còn việc là xem xét kỹ khu vườn cuối cùng này của Sanvator thôi. Khu vườn um tùm rậm rạp hình lòng chảo, có vách đá nhân tạo cao sừng sững bao quanh. Cây cối ở đây cũng là những loại thường mọc ở chỗ đất ẩm. Mấy dòng suối lượn quanh những cây to bóng mát. Hàng chục giếng phun nước làm không khí mát dịu. Chính giữa vườn là một ngôi nhà bằng tường có dây leo kín. Cửa sổ màu xnh đóng chặt. Trong nhà hình như không có ai ở.
    Christo đã tới cuối vườn. Gần bức tường ngăn khu vườn này với biển có một hồ nước hình vuông, sâu ít nhất năm mét. Khi Christo tới gần, một con vật lạ hoảng sợ chạy vụt ra khỏi bụi cây và lao xuống hồ nước. Christo đứng sững lại vì hồi hộp. Nó đấy! Con quỷ biển đấy! Christo sắp được gặp nó rồi.
    Hắn đến sát hồ và ngó xuống làn nước trong vắt. Một con khỉ lớn đang ngồi trên phiến đá trắng dưới đáy hồ. Nó vừa sợ hãi vừa tò mò nhìn Christo. Còn Christo thì chưa hết bàng hoàng khi thấy nó thở được dưới nước, hai bên sườn phập phồng.
    Một lúc sau khi đã bớt ngạc nhiên, Christo bật cười: Con quỷ biển đã doạ bao nhiêu người, chẳng qua chỉ là một con khỉ sống được dưới nước. Christo hài lòng vì khám phá ra điều bí mật. Nhưng hắn thất vọng vì con khỉ chẳng giống quái vật được nhiều người miêu tả lại chút nào.
    Nhưng phải tính chuyện trở ra chứ! Christo trở về chỗ cánh cửa, trèo lên một cây cao mọc sát tường rồi nhảy ra ngoài và suýt chút nữa thì gãy chân.
    Hắn vừa nhổm dậy thì có tiếng bác sĩ Sanvator gọi lớn:
    - Christo! Ông Christo đâu?
    Christo vội vớ lấy cái cào vứt trên lối đi và bắt đầu cào lá khô.
    - Thưa bác sĩ, tôi ở đây ạ.
    Sanvator đi về phía cánh cửa sắt và ấn vào cái nút mà Christo đã biết
    - Bác xem cánh mở cửa này.
    Christo nghĩ bụng: “Bác sĩ ơi, ngài đến hơi muộn, tôi đã thấy Con quỷ rồi”.
    Sanvator và Christo ra vườn, nganh qua ngôi nhà nhỏ có dây leo kín và đến hồ nước. Con khỉ vẫn ngồi dưới đáy, mũi sủi bong bóng. Christo vờ ngạc nhiên kêu lên như mới nhìn thấy lần đầu. Nhưng liền sau đó lão phải ngạc nhiên thật.
    Sanvator phẩy tay, con khỉ lập tức ngoi lên và trèo lên cây. Sanvator cúi xuống sờ đám cỏ rồi ấn mạnh vào cái đĩa nhỏ màu xanh. Có tiếng máy chuyển động. Mấy cái nắp ở đáy hồ mở ra, và mấy phút sau hồ cạn hết nước. Nắp lại đóng vào. Một cái thang xuất hiện.
    - Christo ta leo xuống thôi.
    Hai người bước xuống đáy hồ nước. Khi Sanvator giẫm lên một phiến đá thì một cái nắp mở ra, cái nắp này ở chính giữa hồ, rộng chừng một mét vuông. Một cái thang sắt đưa xuống sâu dưới đất.
    Christo xuống theo Sanvator. Họ đi khá lâu. Chỉ có một thứ ánh sáng mờ đục lọt qua nắp hầm, nhưng một lúc sau thì tắt hẳn. Chung quanh bắt đầu tối đen như mực. Chỉ còn nghe tiếng chân bước âm vang trong hành lang này.
    - Chúng ta sắp đến nơi rồi.
    Chương V

    NGƯỜI CÁ ICHTYAN

    Sanvator dừng lại và sờ tay theo bức tường. Có tiếng bật điện, xung quanh bừng sáng. Hai người đang đứng trong một cái hang đá vôi, trước một cái cửa bằng đồng có hai cái đầu sư tử ngậm vòng ở miệng. Sanvator lắc lắc một cái vòng. Cánh cửa nặng nề từ từ mở ra, hai người bước vào một căn phòng tối. Lại có tiếng bật điện. Aùnh đèn soi sáng một cái hang rộng có bức tường bằng kính. Sanvator bấm sang nút khác, hang đá lại chìm vào bóng tối. Mấy ngọn đèn pha cực mạnh bắt đầu rọi vào khoảng không gian ở phía sau bức tường kính. Đó là một hồ nuôi cá lớn, hay đúng hơn là một căn nhà bằng kính dưới đáy biển. Từng đàn cá tung tăng giữa những cây rong và san hô. Christo bỗng thấy một động vật giống người, mắt lồi to, chân nhái, đang bơi ra. Thân nó lấp lánh vảy bạc. Bằng những động tác nhanh nhẹn, và khéo léo, nó bơi tới sát bức tường gật đầu chào Sanvator, bơi vào phòng kính rồi đóng cửa lại. Nước trong phòng rút ra rất nhanh. Con vật kỳ lạ mở cánh cửa thứ hai rồi bước vào trong hang.
    Sanvator nói:
    - Con bỏ kính và găng tay ra.
    Con vật ngoan ngoãn làm theo lời Sanvator. Christo thấy trước mặt mình là một thanh niên tuấn tú và cân đối.
    - Xin giới thiệu đây là Ichtyan, người cá cũng là Quỷ biển. – Sanvator nói.
    Chàng thanh niên mỉm cười, bắt tay Christo và nói bằng tiếng Tây Ban Nha:
    - Chào bác!
    Christo lặng lẽ bắt tay anh. Vì bàng hoàng hắn không nói nên lời.
    - Người phục vụ Ichtyan bị bệnh, - Sanvator nói tiếp, - tôi sẽ để ông ở lại đây giúp Ichtyan mấy hôm. Nếu ông làm tốt việc này, tôi sẽ để ông ở lại đây luôn.
    Christo lặng lẽ gật đầu.

    Trời sắp sáng. Không khí ấm áp và ẩm đượm mùi hương ngọt ngào của các loài hoa quý. Ichtyan đi trên con đường nhỏ rải cát trong vườn. Ơû thắt lưng đung đưa một con dao găm, chiếc kính và hai cặp chân nhái. Thỉnh thoảng Ichtyan lại vướng phải một cành cây. Những hạt sương sớm rơi xuống mái tóc và hai má của anh.
    Con đường nhỏ ngoặt sang phải và dốc xuống. Không ngày càng mát hơn và ẩm hơn. Đến chỗ những phiến đá, Ichtyan bước chậm rồi dừng hẳn. Anh đeo lên mặt chiếc kính to có hai mắt đen, xỏ bốn chân nhái vào tay chân. Anh thở hết không khí trong phổi và nhảy xuống hồ nước. Nước mát thấm vào mang làm anh khoan khoái dễ chịu. Những khe mang bắt đầu hạot động nhịp nhàng: thế là con người đã biến thành cá.
    Mấy động tác tay thật mạnh đã đưa Ichtyan xuống tới đáy hồ nước. Anh bơi một cách thoải mái trong bóng tối dày đặc. Anh đưa tay tìm cái móc sắt trên bức tường đá. Thế là anh đã vào được đường hầm đầy nước. Anh đi dưới đáy hầm. Anh đạp chân và ngoi lên. Làn nước ấm ở những hồ nước trong vườn đang theo đường hầm mà xuôi ra biển. Anh chắp tay lên ngực, nằm ngửa ra và cứ thế trôi theo dòng.
    Sắp hết đường hầm. Gần chỗ ra biển có một nguồn nước nóng phun ra từ một kẽ đá. Ichtyan nằm sấp lại và nhìn về phía trước. Tối như mực. Anh đưa tay ra và chạm vào một chấn song sắt. Ichtyan bám vào một cái chấn song để mở một cái khoá phức tạp. Cánh cửa tròn bằng sắt chặn con đường ra biển từ từ mở ra. Ichtyan trườn ra ngoài. Cánh cửa đóng sập lại.
    Người cá bắt đầu bơi ra biển cả. Dưới nước vẫn tối om. Bỗng Ichtyan cảm thấy như có hàng ngàn chiếc kim châm vào mang và rất khó thở. Vậy là anh đang bơi ngang mũi đá nhô ra biển. Sau mũi đá này nước bao giờ cũng bẩn vì phù sa và các thứ rác rưỡi khác. Độ mặn cũng giảm vì gần đó có một con sông đổ vào biển.
    Ichtyan nghĩ thầm: “Lạ thật! Sao lũ cá nước ngọt lại có thể sống ở chỗ nước đục thế này được nhỉ? Chắc là mang của chúng không đau khi thở phải cát và bùn bẩn như mình”.
    Ichtyan bơi rẽ ngoặt sang phải và sau đó lại lặn xuống sâu. Nước ở đây sạch hơn. Ichtyan lọt vào một dòng nước ngầm chảy phía dưới. Dòng nước sẽ đưa anh ra tới biển cả. Có thể chợp mắt một chút, ở đây chưa có gì nguy hiểm cả vì trời còn tối, bọn cá dữ còn ngủ. Trước bình minh, chợp mắt được một chút thật dễ chịu. Da của Ichtyan nhạy cảm với sự thay đổi của nước. Tai anh bắt đầu thấynhiều tiếng lịch kịch nối tiếp nhau. Đó là tiếng tàu đanh cá trong vịnh cách Ichtyan mấy cây số đang kéo neo lên. Sắp sáng rồi. Lại có tiếng ầm ì từ phía xa vọng tới. Đó là tiếng chân vịt và tiếng máy của chiếc tàu biển Horck chạy tuyến đường Buenos Aires – Liverpool.
    Không ngủ được nữa, tiếng máy, tiếng chân vịt bánh lái, ánh sáng đèn trên tàu sẽ đánh thức các loại cá biển dậy. Có lẽ bọn cáheo phát hiện ra tàu Horock đầu tiên. Mấy phút trước đây khi chúng lặn xuống, sóng hơi cồn lên khiến Ichtyan phải cảnh giác. Chắc bây giờ chúng đang lao nhanh về phía con tàu. Tiếng tàu chạy bốn phía vọng tới, thế là cảng và vịnh đã thức dậy rồi. Ichtyan mở mắt, lắc đầu như xua cơn buồn ngủ, rồi ngoi lên mặt nước.
    Anh thận trọng thò đầu lên và nhìn quanh. Gần đấy không một bóng tàu thuyền. Anh nhô hẳn người lên đến thắt lưng và cứ bơi đứng như thế.
    Từng đàn hải âu lượn sát mặt biển và chốc chốc lại sà xuống làn nước phẳng lì tạo nên những gợn sóng tròn lan rộng mãi. Một con chim báo bão lớn bay ngang đầu Ichtyan, đôi cánh đen đập vun vút. Ichtyan nhìn theo nó một cách thèm muốn. Cánh nó đang dang rộng, ít nhất bốn mét. Chà, phải chi mình có được đội cánh ấy nhỉ!
    Một đoàn tàu đánh cá tiến đến. Cha đã dặn là không cho mọi người nhìn thấy mình. Ichtyan lặn xuống sâu tới dòng nước lạnh đưa anh ra khơi. Xung quanh thăm thẳm một màu xanh tím, Ichtyan gặp đủ các loại cá.
    Từ trên vọng xuống tiếng ù ù, nước thẫm lại. Đó là một chiếc thuỷ phi cơ đang bay là là mặt biển. Có lần một chiếc như vậy đậu xuống nước. Ichtyan vô tình nắm lấy chiếc phao của nó và suýt bỏ mạng vì nó thình lình cất cánh. Anh phải nhảy từ trên cao mười mét xuống.
    Ichtyan ngẩng đầu lên. Ánh mặt trời đã tới đỉnh đầu. Sắp trưa rồi. Mặt nước không còn là một tấm gương phản chiếu những hòn đá trên bãi cát, những con cá lớn và bản thân Ichtyan nữa. Bây giờ tấm gương đã cong đi, méo đi và chuyển động không ngừng.
    Ichtyan ngoi lên. Sóng lớn hơn trước. Anh nhìn quanh. Sóng nâng anh lên, dìm xuống, rồi lại nâng lên. Kìa! Sóng gần bờ đã bắt đầu gầm thét và chuyển sang màu vang úa. Gió tây nam thổi mạnh. Nước đổ xuống người Ichtyan làm anh thích thú....
    Từng đàn cá vượt lên khỏi mặt sóng. Từng đàn hải âu vừa bay liệng vừa kêu thất thanh. Mấy con chim báo bão xuất hiện. Sắp có bão. Những tàu đánh cá và du thuyền vội vả dong buồm quay vào bờ.
    Mặc dù trời tối sầm lại, nhưng qua lớp nước dày vẫn có thể biết được mặt trời đang ở đâu. Như vậy là đủ để xác định phương hướng rồi. Phải về tới bãi cát trước khi mây đen che khuất mặt trời, nếu không thì mất ăn sáng! Ichtyan đói bụng lắm rồi. Ichtyan đạp mạnh chân tay. Anh bơi như một con nhái.
    Đôi lúc, anh nằm ngửa để kiểm tra hướng bơi qua ánh sáng mờ lọt vào khoảng tối dày đặc. Thỉnh thoảng anh chú ý về phía trước xem có thấy bãi cát không. Mang và da anh cảm thấy nước thay đổi: gần bãi cát, nước không đặc như ở ngoài khơi, nhưng mặn hơn và nhiều dưỡng khí hơn. Như một thuỷ thủ giàu kinh nghiệm, bằng cách nếm thử nước biển. Ichtyan có thể đoán được là sắp tới đất liền theo những dấu hiệu riêng mình biết.
    Trời sáng dần. Những mỏm đá ngầm quen thuộc in bóng xuống mặt biển. Giữa những hòn đá đó là khoảng đất nhỏ bằng phẳng, phía sau có bức tường bằng đá. Ichtyan gọi chỗ đó là vịnh ngầm. Ơû đây ngay trong bão tố vẫn lặng sóng.
    Bữa sáng đây rồi! Trên chỗ gần khối đá dựng đứng có rất nhiều sò, hến. Ichtyan bơi đến, nằm xuống ngay chỗ đó và bắt đầu ăn. Anh đã quen ăn dưới nước rồi. Anh đưa con sò vào miệng và đẩy nước ở miệng ra ngoài qua kẽ môi hơi mím lại. Anh nuốt phải một ít nước nhưng chẳng sao vì anh cũng đã quen uống nước biển mặn rồi.
    Bữa ăn sáng đã xong, Ichtyan nằm ngửa. Giông tố đã dứt. Xa xa về phía đông, có tiếng sấm. Mưa rào ập xuống như trút. Ichtyan khoan khoái lim dim đôi mắt. Một lúc sau anh mở mắt ra, đứng thẳng người dậy, nửa người chìm dưới nước, và nhìn quanh. Anh đang đứng trên đỉnh một ngọn sóng cao ngất. Quanh anh là biển, trời, gió, mây, mưa và sóng. Tất cả những cái đó quyện với nhau thành một khối quay cuồng, gào thét ầm ầm. Từng đợt sóng chồm lên và giội xuống như thác.
    Cảnh tượng khiến người bình thường sợ hãi nhưng làm Ichtyan thích thú. Tất nhiên cũng phải thận trọng, nếu không sẽ bị những ngọn sóng khổng lồ ập xuống người. Nhưng Ichtyan có thể luồn theo sóng chẳng kém gì cá. Chỉ cần nắm được đặc tính của từng loại sóng.
    Mưa đã tạnh và đã chuyển sang phía đông theo cơn bão. Gió đổi chiều. Gió ấm bắt đầu thổi tới. Từng mảng trời xanh lộ ra qua những đám mây đen. Nắng dọi xuống mặt sóng. Mặt trời! Trong khoảnh khắc, bầu trời và biển cả, bờ biển và những ngọn núi xa đều khác lạ hẳn đi. Sau giông bão , không khí thật dễ thở và tươi mát! Ichtyan khi hít không khí trong lành của biển vào phổi, lúc thì thở mạnh bằng mang. Sau giông bão, những chú cá con từ những đám rong biển, từ những khe đá, những bãi san hô và bọt biển bơi ra. Theo sau là những con cá lớn vứa ẩn náu ở những vũng sâu. Cuối cùng, khi biển đã lặng hẳn mới thấy xuất hiện những con sứa hiền lành, yếu đuối, những con tôm nhỏ trong suốt và nhẹ, cùng các loại tôm cá khác.
    Cách Ichtyan không xa, đàn cá heo bạn thân của anh đang đùa giỡn. Chúng nhìn anh bằng những cặp mắt tươi vui, láu lỉnh và tò mò. Lưng chúng màu đen bóng ẩn hiện giữa những lớp sóng. Chúng vùng vẫy, phun phì phì và rượt đuổi nhau. Ichtyan cười, đuổi bắt chúng, bơi và lặn cùng với chúng. Anh có cảm tưởng rằng cả biển trời này và những con cá heo này là được tạo ra cho riêng anh.

    Ichtyan ngẩng đầu, nheo mắt nhìn mặt trời đang chếch về phía tây. Sắp tối rồi. Hôm nay Ichtyan không muốn quay về nhà sớm. Anh muốn rong chơi cho tới khi bầu trờixanh kia đen lại và lấp lánh sao.
    Tuy vậy, chỉ một lúc sau anh bắt đầu chán cái cảnh nhàn rỗi này. Những chú cá nhỏ ở gần anh bị chết. Ichtyan có thể cứu chúng. Anh nhổm dậy và nhìn về phía bờ xa. Phải bơi ngay vào bãi cát kia! Nơi ấy cần anh giúp đỡ nhiều hơn cả vì sóng đang xô vào bờ rất dữ.
    Sau mỗi cơn bão, loại sóng này đổ lên bờ biển hàng đống rong và đủ thứ cá, sứa, cua, đôi khi cả những chú cá heo dại dột nữa. Bọn sứa chết nhanh nhất. Một vài loại cá cố trườn được tới nước, nhưng phần lớn bị bỏ xác trên bờ. Lũ cua thì hầu như chạy thoát ra biển được cả. Đôi khi tự chúng mò lên bờ để ăn thịt những nạn nhân của sóng biển. Ichtyan thích đến cứu những nạn nhân đó.
    Anh lang thang hàng giờ dọc bờ biển để cứu những con vật còn có thể cứu sống được. Anh sung sướng khi thấy con cá được thả xuống nước mừng rỡ quẫy đuôi bơi đi được ngay. Anh phấn khởi mỗi lần thấy một chú cá sắp chết đã nằm nghiêng hoặc phơi bụng, cuối cùng sống lại được. Trên bờ biển này, Ichtyan là người che chở, là bạn và ân nhân của các loài vật đó.
    Ichtyan có thói quen nương theo những dòng nước biển để trở vào bờ cũng như để ra khơi . nhưng hôm nay anh muốn ở lâu dưới nước vì biển trời rất đẹp. Ichtyan lặn một quãng ngầm dưới nước rồi lại xuất hiện trên mặt nước, hệt như những con chim biển săn mồi.
    Những tia nắng cuối cùng đã tắt. Ở phía tây le lói một vệt màu vàng. Từng lớp sóng âm thầm nối tiếp nhau chạy dài như những bóng đen. Xung quanh tối mịt mùng nhưng không đáng sợ. Chẳng ai làm hại ai vào giờ này. Những con cá dữ kiếm mồi ban ngày thì đã ngủ, những con chuyên ăn đêm thì chưa đi.

    Ichtyan đã tìm thấy dòng nước biển mình cần. Nó ở ngay dưới mặt lớp nước trên và từ phía bắc chảy xuống. Ở dưới sâu, dòng nước lạnh chảy ngược lại. Ichtyan thường lợi dụng hai dòng nước này khi anh cần bơi dọc bờ biển.
    Hôm nay Ichtyan đã bơi quá xa về hướng bắc. Bây giờ dòng nước ấm sẽ đưa anh về tới đường hầm.
    Ichtyan đã tới đường hầm. Anh thò tay qua song sắt mở cửa ra rồi theo đường hầm mà bơi trong bóng tối dày đặc. Lúc về anh phải bơi ở lớp nước lạnh phía dưới chảy từ biển vào những hồ nước trong vườn.
    Một vật gì đó đập vào vai, đánh thức Ichtyan dậy. Anh đã vào đến hồ nước và ngoi lên. Ichtyan bắt đầu thở bằng phổi. Anh thở không khí ngát hương thơm của những loài hoa quen thuộc.
    Theo lệnh cha, mấy phút sau anh ngủ say trên giường.

    Chương VI

    CUỘC GẶP GỠ BẤT NGỜ

    Một hôm, sau cơn giông, Ichtyan đang bơi ngoài biển cả. Khi ngoi lên mặt nước, anh chợt thấy một vật gì giống như một mảnh buồm trắng đang bập bềnh trên sóng. Anh bơi đến và rất ngạc nhiên nhìn ra đó là một cô gái. Cô bị buộc vào một mảnh ván. Cô gái xinh đẹp đã chết rồi sao? Ichtyan xúc động trước cảnh tượng này đến nỗi lần đầu tiên anh thấy thù địch với biển.
    May mắn thay, cô gái chỉ bị ngất. Ichtyan đặt lại đầu cô cho ngay ngắn. Anh bám vào tấm ván rồi bơi vào bờ. Anh cố sức bơi thật nhanh. Ichtyan thì thầm với cô như với một chú cá bị nạn: “Cô hãy cố chịu đựng chút nữa”. Anh muốn cô mở mắt, nhưng lại ngại ngùng. Anh muốn cô tỉnh lại nhưng sợ cô kinh hãi. Hay là anh bỏ kính và chân nhái ra? Làm thế sẽ mất thời gian và khó bơi hơn.
    Anh tiếp tục đẩy nhanh cô gái vào bờ. Khi chân chạm đất, anh bế cô gái lên bờ, cởi dây rồi đặt cô gái nằm xuống bóng mát của một bụi cây trên cồn cát. Anh làm hô hấp nhân tạo cho cô tỉnh dậy. Hình như mí mắt cô động đậy. Ichtyan áp tai xuống ngực cô và thấy tim khẽ đập. Cô còn sống. Anh muốn kêu lên vì sumg sướng.
    Cô gái hé mắt nhìn Ichtyan vẻ hoảng sợ. Cô nhắm mắt lại. Ichtyan vừa buồn vừa vui. Dù sao anh cũng đã cứu sống được cô. Giờ thì anh phải đi cho cô khỏi sợ. Nhưng sao có thể để cô nằm đây khi còn yếu như vậy? Đang suy tính, anh bỗng nghe thấy tiếng chân người chạy tới. Không thể chần chừ được, anh lao xuống nước, bơi về dãy đá ngầm, ngoi lên và nấp sau mỏm đá để quan sát.
    Một người đàn ông da ngăm đen để ria mép, râu lưa thưa, đội mũ rộng vành, từ phía sau cồn cát chạy đến.
    Hắn khẽ nói bằng tiếng Tây Ban Nha: “Nàng đây rồi!”. Gần tới chỗ cô gái, hắn bỗng quay ra nhảy xuống biển cho ướt hết người rồi mới chạy lên làm hô hấp nhân tạo cho cô. Hắn cúi xuống hôn cô, miệng lắp bắp điều gì có vẻ tha thiết lắm, Ichtyan chỉ nghe được lõm bõm: “ Tôi đã nói rồi mà cô cứ ương bướng không nghe... Cũng may là tôi đã buộc cô vào tấm ván...”
    Cô gái mở mắt và nhổm dậy. Nét mặt cô vừa sợ hãi vừa ngạc nhiên và giận dữ. Gã đàn ông vẫn nói thao thao và đỡ cô đứng dậy. Nhưng cô còn mệt lắm nên hắn lại phải đặt cô nằm xuống cát. Nửa giờ sau hai người mới bắt đầu đi được. Họ đi ngang qua những mỏm đá, nơi Ichtyan đang nấp.
    Cô gái cau mày hỏi lão kia:
    - Chính ông đã cứu tôi đấy à? Xin cảm ơn. Cầu thượng đế ban phúc lành cho ông.
    - Không phải thượng đế mà chỉ có cô mới có thể ban phúc cho tôi được thôi.
    Cô gái làm như không nghe thấy câu đó. Cô im lặng một lúc rồi nói:
    - Lạ thật. Tôi có cảm giác hình như lúc nãy có một con quái vật ở cạnh tôi.
    - Tất nhiên đó chỉ là cảm giác. Mà cũng có thể đó là Con quỷ biển. Nó tưởng cô chết rồi nên muốn đến bắt cô đi đấy. Nhưng đi với tôi thì chẳng có ma quỷ nào dám động tới cô.
    Gã đàn ông nọ nói dối với cô gái là chính hắn đã cứu cô. Nhưng Ichtyan không thể vạch trần bộ mặt bịp bợm của hắn ra được. Mặc hắn muốn làm gì thì làm, còn Ichtyan thì đã làm tròn nghĩa vụ của mình.
    Hắn và cô gái đã khuất sau cồn cát mà Ichtyan còn nhìn theo mãi. Sau đó anh quay lại nhìn ra biển. Sao nó mênh mông và hoang vắng quá!
    Sóng vừa quăng lên bãi cát một chú cá xanh bụng trắng bạc. Ichtyan đưa mắt quan sát. Xung quanh không có ai. Anh chạy ra cầm con cá ném xuống biển. Nó bơi đi, nhưng chẳng hiểu vì sao Ichtyan vẫn buồn. Anh thơ thẩn trên bờ biển vắng lặng và nhặt những chú cá thả xuống nước, việc làm này làm anh quên dần nỗi buồn đi. Ichtyan lại tươi tỉnh như xưa. Anh lang thang như vậy cho tới xẩm tối, thỉnh thoảng mới ngâm mình xuống nước khi mang của anh bị ngọn gió ven bờ làm nóng lên và khô đi.

    Sanvator quyết định không mang theo Christo lên vùng núi lần này. Christo phục vụ Ichtyan rất tốt. Hắn mừng rỡ vì vắng Sanvator, lão có thể gặp Bantasas một cách thoải mái hơn.
    Christo đã kịp báo cho Bantasas biết rằng lão đã tìm ra Con quỷ biển. Chỉ còn việc nghĩ kế bắt Ichtyan đi thôi.
    Christo hiện đang ở trong ngôi nhà nhỏ quét vôi trắng có dây leo và rất thường gặp Ichtyan. Hai người nhanh chóng kết thân với nhau. Vì bị tách rời khỏi xã hội loài người nên Ichtyan quấn quít với Christo và nghe hắn kể những chuyện trên mặt đất. Ichtyan hiểu biết cuộc sống biển cả hơn bất cứ nhà bác học lừng danh nào. Anh thuật lại cho Christo nghe về những bí mật của đại dương. Anh nắm được một số khái niệm về thiên văn học, động vật học. Nhưng anh ít hiểu biết về con người. Anh chỉ biết qua loa về các giống người trên trái đất, về lịch sử các dân tộc. Còn các quan hệ chính trị kinh tế của con người thì anh không biết hơn một đứa trẻ năm tuổi.
    Ban ngày, khí trời oi bức, Ichtyan chui xuống hang đá ngầm rồi bơi ra biển. Anh chỉ trở về khi trời đã đỡ nóng và ở đó tới sáng. Nhưng nếu trời mưa hay có bão biển thì anh ở nhà cả ngày. Khi trời ẩm ướt thì dù ở trên cạn, anh vẫn thấy dễ chịu.
    Ngôi nhà xinh xằn chỉ có bốn phòng, Christo ở một phòng gần bếp. Bên cạnh là phòng ăn, phía ngoài là một thư viện lớn. Ichtyan biết tiếng Tây Ban Nha và tiếng Anh. Phòng cuối cùng lớn nhất là nơi Ichtyan ngủ. Chính giữa phòng là một hồ nước. Giáp tường là một cái giường. Đôi lúc Ichtyan ngủ trên giường, nhưng anh thích ngủ trong hồ nước hơn. Trước khi đi, Sanvator có ra lệnh cho Christo bắt Ichtyan mỗi tuần ngủ ít nhất ba đêm trên giường. Tối đến, Christo vào phòng Ichtyan và làu bàu như một bà vú già nếu anh không chịu ngủ ở giường.
    - Nhưng ngủ dưới nước tôi thấy dễ chịu và tiện hơn nhiều. – Ichtyan phản đối.
    - Bác sĩ ra lệnh cho cậu phải ngủ ở giường. Cậu phải vâng lời chứ!
    Ichtyan gọi Sanvator là cha, nhưng Christo nghi ngờ mối quan hệ cha con này. Da mặt và tay Ichtyan khá trắng có lẽ vì ngâm nước nhiều. Còn khuôn mặt trái xoan, mũi dọc dừa, cặp môi mỏng, đôi mắt to và sáng là đặc điểm của người Araucan. Christo rất muốn xem màu da ở người Ichtyan, nhưng anh lại khoác một bộ áo giáp bên ngoài.
    - Đi ngủ mà cậu không cởi áo ngoài ra à? – Christo hỏi Ichtyan
    - Cởi làm gì? Nó chẳng làm phiền gì tôi, ngược lại có nó rất tiện. Nó không cản trở sự hô hấp của mang và da, mà lại có tác dụng bảo vệ rất tốt. Răng cá mập và dao nhọn cũng không chọc thủng được bộ giáp này.
    - Thế cậu đeo kính và manh bộ chân nhái này làm gì? – Christo xem bộ chân kỳ dị để gần giường. Chúng làm bằng cao su màu xanh lá cây nhạt, ngón được kéo dài ra và có màng nối với nhau. Ngón chân dài hơn ngón tay.
    - Bộ chân này giúp tôi bơi nhanh. Còn kính là để bảo vệ mắt phòng khi sóng to cuốn cát từ đáy biển lên. Không phải lúc nào tôi cũng đeo kính, nhưng dưới nước mà thiếu nó thì xung quanh mù tịt cả. – Ichtyan mỉm cười nói tiếp. – Khi tôi còn bé, đôi lúc cha tôi cho tôi đi chơi với bọn trẻ ở vườn bên. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy chúng bơi bằng chân tay không trong hồ nước. Tôi hỏi: “Sao các cậu có thể bơi mà không cần chân nhái vậy?” Chúng chẳng hiểu chân nhái là cái gì vì tôi không bao giờ bơi trước mặt chúng cả.
    - Thế cậu vẫn bơi ra vịnh đấy à? – Christo tò mò hỏi.
    - Tất nhiên. Nhưng tôi ra bằng con đường ngầm ở phía bên. Có một bọn người độc ác chăng lưới suýt bắt được tôi. Bây giờ tôi phải rất thận trọng.
    - Hừm ... thế có nghĩa là có một đường hầm khác thông ra vịnh?
    - Có đến mấy đường! Rất tiếc là bác không thể bơi ngầm dưới nước cùng với tôi. Tôi sẽ cho bác xem nhiều vật lạ. Vì sao người ta không sống được dưới nước nhỉ? Tôi với bác sẽ dạo chơi dưới biển bằng chú ngựa biển của tôi.
    - Ngựa biển à? Ngựa biển là cái gì?
    - Là cá heo. Tôi đã huấn luyện nó. Con cá tội nghiệp! Một hôm bão biển quăng nó lên bờ, vây nó bị gãy. Tôi vất vả lắm mới kéo được nó xuống nước. Nhưng nó không bơi được nữa. Tôi bắt cá nuôi nó suốt một tháng ròng. Thế là nó quen và quấn quít tôi. Chúng tôi trở thành đôi bạn thân. Những chú cá heo khác cũng biết tôi.Chơi đùa với bọn cá heo ngoài biển thật vui!... Dưới đáy biển cũng thú vị. Mình có cảm tưởng như đang bơi trong bầu không khí đặc, màu xanh biếc và tĩnh mịch. Thân người lâng lâng, thoải mái và ngoan ngoãn vâng theo mỗi động tác của mình... Tôi có rất nhiều bạn dưới biển. Tôi cho chúng ăn cá con. Tôi đi đâu chúng cũng đi theo hàng đàn.
    - Vậy còn kẻ thù thì sao?
    - Kẻ thù cũng có. Đó là cá mập và bạch tuộc. Nhưng tôi không sợ chúng, tôi có dao.
    - Nhưng nếu chúng đến bất ngờ thì cậu làm thế nào?
    - Tôi nghe thấy chúng từ xa.
    - Dưới nước cậu cũng nghe thấy sao? – đến lượt Christo ngạc nhiên. – Khi chúng lặng lẽ lẻn đến cậu cũng biết à?
    - Đúng vậy. Có gì khó hiểu đâu? Tôi nghe bằng tai và bằng cả người. Vì cá làm nước chấn động, và những chấn động đó truyền đi nhanh hơn chúng! Vì vậy chúng chưa tới tôi đã biết mà quay lại.
    - Khi ngủ cậu cũng nghe thấy à?
    -Tất nhiên.
    - Nhưng bọn cá thì sao...
    - Bọn cá chết không phải vì bị tấn công bất ngờ mà vì chúng không đủ sức chống lại kẻ địch mạnh hơn. Còn tôi thì mạnh hơn bất cứ loại cá nào. Bọn cá dữ cũng biết điều đó nên đâu dám bén mảng tới gần tôi.
    Christo nghĩ thầm: “ Juritas có lý, để bắt được Con quỷ biển này thì dù tốn bao nhiêu cũng nên làm. Nhưng bắt được nó dưới nước chẳng dễ chút nào vì nó nghe được bằng toàn thân. Trừ trường hợp nó bị mắc bẫy. Phải báo cho Juritas biết mới được”.
    - Thế giới dưới nước mới đẹp làm sao! – Ichtyan không ngớt lới ca ngợi. – Không, chẳng bao giờ tôi đổi biển cả lấy cái mặt đất ngột ngạt và đầy bụi của các ông đâu!
    - Sao cậu lại nói mặt đất của chúng tôi? Cậu cũng sinh ra trên mặt đất này mà. Mẹ cậu là ai?
    - Tôi không biết. – Ichtyan ngập ngừng. – Cha tôi bảo mẹ mất ngay sau khi sinh tôi.
    - Nhưng nhất định bà là một phụ nữ bình thường chứ không phải cá.
    - Có lẽ thế. – Ichtyan đồng ý.
    - Vậy cậu cho tôi biết vì sao cậu đùa nghịch với đám dân chài, cắt lưới của họ và vứt cá của họ ra khỏi thuyền? – Christo cười lớn, nói.
    - Vì họ bắt nhiều cá, quá mức họ có thể ăn được.
    - Nhưng họ đánh cá để bán mà.
    Ichtyan không hiểu. Christo giải thích
    - Nghĩa là để người khác cũng có cá ăn.
    Ichtyan ngạc nhiên:
    - Người đâu mà đông vậy? Chẳng lẽ chim và thú trên mặt đất không đủ cho họ ăn hay sao mà họ phải mò xuống tận dưới biển?
    - Giải thích cho cậu ngay một lúc rất khó. Thôi, đến giờ ngủ rồi. Cậu nhớ đừng ngủ trong hồ nước mà làm ông phiền lòng.
    Sáng sớm hôm sau, hắn chẳng thấy Ichtyan đâu. Nền đá trong phòng bị ướt.
    - Đêm qua lại ngủ trong hồ nước và bây giờ chắc ra biển rồi. – Hắn làu bàu.
    Ichtyan trở về ăn sáng rất muộn. Dường như có điều gì buồn phiền, anh lấy nĩa chọc chọc miếng thịt bò và nói:
    - Lại thịt rán!
    - Tại sao là “lại”? – Christo nghiêm nghị tả lời. – Bác sĩ ra lệnh như vậy. Cậu ăn cá ngoài biển no rồi chứ gì? Cậu sẽ quên hẳn món thịt rá`n cho mà xem. Rồi lại ngủ trong hồ nước nữa. Nếu cậu không chịu ngủ giường, mang sẽ không quen với không khí trên cạn nữa. Lúc đó cậu lại kêu lên là đau hai bên sườn. Ăn sáng cũng rất muộn. Bác sĩ về tôi sẽ nói lại. Cậu chẳng biết nghe lời tí nào cả.
    - Bác Christo, đừng nói với cha tôi! Tôi không muốn cha tôi buồn. – Ichtyan cúi đầu suy nghĩ. Anh ngước đôi mắt buồ lên nhìn Christo và nói tiếp. – Tôi vừa gặp một người con gái. Tôi chưa hề gặp ai đẹp hơn cô ta, ngay cả dưới đáy biển.
    - Sao cậu cứ chê bai mãi cái mặt đất của chúng tôi? – Christo nói.
    - Tôi đang cưỡi cá heo đi dọc bờ biển. Đến gần Buenos Aires thì gặp cô ta. Mắt cô ta xanh biếc, tóc vàng óng. Nhưng khi thấy tôi thì cô ta hoảng sợ bỏ chạy.
    Ichtyan im lặng một lát rồi nói thêm:
    - Có lần tôi đã cứu một cô gái sắp chết đuối ngoài biển. Hình như cô ấy cũng có mái tóc vàng. Tôi nhớ ra rồi... – Ichtyan ngẫm nghĩ rồi đến trước gương. Lần đầu tiên trong đời anh ngắm nghía mình.
    - Thế cậu làm gì sau đấy?
    - Tôi chờ mãi, nhưng cô ta không quay lại nữa. Bác Christo, chẳng lẽ cô ta chẳng bao giờ ra biển nữa sao?
    Christo nghĩ: “Chuyện này có lẽ tốt đây!”. Trước kia, dù Christo có ca ngợi Buenos Aires đến đâu hắn cũng không thuyết phục được Ichtyan vào thành phố, tạo điều kiện cho Juritas bắt sống anh.
    - Cô ta có thể không ra bờ biển nữa, nhưng tôi sẽ giúp cậu tìm. Cậu mặc quần áo vào rồi đi với tôi vào thành phố.
    - Tôi sẽ gặp cô ta? – Ichtyan reo lên
    - Ở đó có rất nhiều các cô gái. Có thể cậu sẽ gặp đúng cô ta đang ngồi ở bờ biển.
    - Ta đi ngay thôi!
    - Giờ thì muộn rồi. Đi bộ vào thành phố đâu phải chuyện dễ.
    - Tôi sẽ cưỡi cá heo, còn bác thì cứ dọc bờ biển mà đi!
    - Sao cậu nóng vậy! Sáng ngày mai chúng ta sẽ lên đường. Cậu sẽ bơi vào vịnh, còn tôi sẽ mang quần áo ra bờ chờ cậu. Thôi nhé, sáng sớm ngày mai.


    __________________________________________
     
  2. SakuragiHanamichi

    SakuragiHanamichi Moderator Moderator

    Tham gia ngày:
    3/8/03
    Bài viết:
    2,499
    Nơi ở:
    Hà Nội
    Cái này là cái gì vậy o.O Truyện tự sáng tác ???
     

Chia sẻ trang này