Ngày 12/6, Bộ thi công đã ban hành Thông tư 02/2012/TT-BXD về việc hướng dẫn một số nội dung về bảo trì công trình xây dựng dân dụng, công trình công nghiệp chất liệu xây dựng và công trình hạ tầng khoa học đô thị Thông tư này hướng dẫn Điều 26 Nghị định số 114/2010/NĐ-CP về người có trách nhiệm bảo trì ; công trình, bộ phận công trình bắt buộc phải quan trắc trong giai đoạn khai thác, tận dụng ; nhìn xét, quyết định việc tiếp tục dùng đối với công trình hết tuổi thọ sắp đặt ; xử lý đối với công trình xuống cấp về chất lượng, không đảm bảo an toàn khai thác, tận dụng ; giải quyết sự cố trong công đoạn khai thác, sử dụng và kiểm tra việc tiến hành bảo dưỡng công trình. Thông tư áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân có liên quan tới quản lý, khai thác và tận dụng công trình dân dụng (trừ công trình di tích lịch sử văn hóa), công trình công nghiệp nguyên liệu xây dựng và công trình hạ tầng khoa học đô thị trên lãnh thổ đất nước ta . Công tác bảo dưỡng những loại công trình triển khai khác do các Bộ quản lý công trình chuyên ngành hướng dẫn theo quy tắc tại khoản 1 Điều 26 Nghị định số 114/2010/NĐ-CP. Trách nhiệm bảo trì công trình có một chủ sở hữu là các công trình thuộc sở hữu nhà nước thì tổ chức, cá nhân được nhà nước giao quản lý, khai thác công trình có trách nhiệm bảo quản công trình; Đối với công trình thuộc sở hữu khác, chủ sở hữu công trình có trách nhiệm bảo quản công trình. Riêng công trình hạ tầng công nghệ đô thị, chủ đầu tư công trình có trách nhiệm bảo quản công trình cho đến lúc bàn giao cho nhà nước quản lý; Đối với công trình đầu tư theo hình dạng BOT (lắp đặt - marketing - Chuyển giao), người đại diện theo pháp luật của trường học dự án chịu trách nhiệm bảo dưỡng công trình trong thời gian khai thác marketing quy tắc trong hợp đồng dự án; hết thời gian khai thác marketing vô cùng âm cọc khoan nhồi, tổ chức nhận chuyển giao công trình từ Nhà đầu tư có trách nhiệm tiếp tới bảo trì công trình. Trách nhiệm bảo quản công trình có nhiều chủ sở hữu: Đối với nhà ở, những chủ sở hữu có trách nhiệm bảo quản phần sở hữu riêng và thỏa thuận đóng góp kinh phí để bảo trì phần sở hữu chung theo quy định tại Điều 48 và Điều 51 Nghị định số 71/2010/NĐ-CP; Đối với công trình còn lại (trừ nhà ở) thì chủ sở hữu phần riêng của công trình có trách nhiệm bảo dưỡng phần sở hữu riêng của mình và đồng thời phải có trách nhiệm bảo dưỡng phần sở hữu chung của công trình. Việc phân định trách nhiệm bảo trì phần sở hữu chung của công trình phải được những chủ sở hữu hoặc người được ủy quyền thỏa thuận cụ thể bằng văn bản hoặc trong hợp đồng mua bán, thuê sắm tài sản. Chủ sở hữu hoặc người được ủy quyền theo nguyên tắc tại điểm b khoản 1 Điều 5 Nghị định số 114/2010/NĐ-CP khi giao cho tổ chức, cá nhân khác khai thác, dùng công trình phải thỏa thuận với tổ chức, cá nhân này về trách nhiệm bảo dưỡng công trình. Đối với công trình chưa xác định chủ sở hữu thì người đang khai thác, sử dụng công trình có trách nhiệm bảo dưỡng . Việc xử lý đối với công trình, bộ phận công trình không bảo đảm an toàn cho việc khai thác, tận dụng đó là công trình, bộ phận công trình không đảm bảo an toàn cho việc khai thác, dùng là công trình, bộ phận công trình nguy hiểm, có nguy cơ sập đổ biểu hiện qua những dấu hiệu như nứt, võng, lún, nghiêng đến giá trị dừng theo quy định của quy chuẩn, tiêu chuẩn công nghệ có liên quan. khi phát hiện công trình không đảm bảo an toàn cho việc khai thác, tận dụng , người có trách nhiệm bảo dưỡng có trách nhiệm thực hiện những nguyên tắc tại khoản 1 Điều 18 Nghị định số 114/2010/NĐ-CP. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 18 Nghị định số 114/2010/NĐ-CP phải thực hiện các quy tắc tại khoản 3 Điều 18 Nghị định số 114/2010/NĐ-CP đối với công trình không bảo đảm an toàn cho việc khai thác, dùng . ví như công trình có thể sập đổ ngay thì người có trách nhiệm bảo quản phải di dời khẩn cấp toàn bộ người ra khỏi công trình này và các công trình lân cận bị ảnh hưởng, báo cáo Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Ủy ban nhân dân cấp huyện để được góp phần tiến hành các biện pháp đảm bảo an toàn. Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Ủy ban nhân dân cấp huyện lúc phát hiện hoặc được báo cáo về tình huống công trình có thể sập đổ ngay thì phải tổ chức bắt đầu các biện pháp đảm bảo an toàn như ngừng dùng công trình, di dời người và tài sản, phong tỏa công trình và các biện pháp nhu yếu khác. Chủ sở hữu, người sử dụng những công trình lân cận phải có trách nhiệm thực hiện các biện pháp an toàn như quy tắc tại khoản 4 Điều này khi được đề nghị . Công trình bị hư hỏng do tác động của bão, động đất, sóng thần, hỏa hoạn và các tác động khác phải được đánh giá chất lượng trước khi kết luận tiếp đến sử dụng , khai thác. Việc xử lý đối với công trình ngôi nhà cũ nguy hiểm bắt đầu theo quy định của pháp luật về khắc phục chung cư cũ. ví như công trình xảy ra sự cố trong quá trình khai thác, dùng , việc giải quyết sự cố tiến hành theo quy tắc của pháp luật về quản lý chất lượng công trình thi công . Thông tư cũng quy tắc cụ thể về kiểm tra việc thực hiện bảo dưỡng công trình với những nội dung sau đây: Việc lập và phê duyệt quy trình bảo quản của công trình theo quy định của Nghị định số 114/2010/NĐ-CP. Việc tuân thủ quy định bảo trì công trình của chủ sở hữu hoặc người được ủy quyền theo các chế độ kiểm tra được nguyên tắc tại khoản 2 Điều 17 Nghị định số 114/2010/NĐ-CP. Việc báo cáo tiến hành bảo quản công trình của chủ sở hữu hoặc người được ủy quyền theo nguyên tắc tại khoản 1 Điều 17 Nghị định 114/2010/NĐ-CP; Việc tiến hành các quy tắc tại Điều 4 Thông tư này trong giả dụ công trình hết tuổi thọ sắp xếp . Việc bắt đầu quan trắc đối với những công trình, bộ phận công trình nhất thiết phải quan trắc được nguyên tắc tại Điều 3 Thông tư này Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 8 năm 2012.