Resident Evil II - Caliban Cove

Thảo luận trong 'Resident Evil Fans Club' bắt đầu bởi Hoa Thần, 4/6/06.

  1. Hoa Thần

    Hoa Thần Youtube Master Race

    Tham gia ngày:
    18/5/06
    Bài viết:
    41
    Nơi ở:
    Ở đâu?
    Mở đầu
    Raccoon, ngày 24 tháng 7, năm 1998​

    NGỘI BIỆT THỰ SPENCER CHÌM TRONG BIỂN LỬA TẠI THÀNH PHỐ RACCOON - vào khoảng hai giờ sáng. Sáng thứ năm, cư dân vùng hồ Victory bị đánh thức bởi những tiếng nổ ầm ầm xuyên qua cánh rừng phía tây bắc Raccoon, rõ ràng ngọn lửa đã bao trùm cả ngôi biệt thự bỏ hoang Spencer và đốt cháy những tài liệu hoá học được cất giữ trong tầng hầm. Chính vì sự trì hoãn của cảnh sát đã ngăn cản việc thiết lập phạm vi khu rừng (có liên quan đến chuỗi giết người gần đây tại thành phố Raccoon), những người lính cứu hỏa địa phương đã không thể cứu được những gì còn sót lại trên mặt đất. Sau ba tiếng đồng hồ chiến đấu với ngọn lửa dữ dằn, người ta cho rằng căn biệt thự 31 tuổi và những người làm việc của khu này đã hoàn toàn biến mất.
    Được xây dựng bởi Lord Oswell Spencer, một quý tộc Châu âu và là một trong người sáng lập ra công ty dược toàn cầu, Umbrella, sát nhập và trở thành một tổ chức hợp pháp. Ngôi nhà được thiết kế bởi kiến trúc sư tài năng Geogre Trevor với chức năng như một ngôi nhà khách cho những thành viên đặc biệt Umbrella và bị đóng cửa ít lâu sau khi hoàn thành vì một lý do bí ẩn. Theo lời của Amanda Whitney, phát ngôn viên của tập đoàn Umbrella, các phần của ngôi nhà vẫn được dùng làm chỗ ở cho một số người thân tín và có tài năng được Umbrella sử dụng.
    Whitney nói trong một bài tuyên bố ngày hôm qua rằng công ty sẽ nhận đầy đủ trách nhiệm cho biến cố không may này, và cho rằng “Sai sót nghiêm trọng thuộc về phần chúng tôi.Những nhà hóa học đó nên ra khỏi ngôi biệt thự Spencer từ lâu rồi, và chúng tôi cảm ơn rằng là không có ai bị thương.”
    Vào lúc này, nguyên nhân của ngọn lửa vẫn chưa được xác định, nhưng Whitney nói tiếp rằng Umbrella sẽ đưa điều tra viên của họ đến xem xét kỹ đống đổ nát với hy vọng xác định được nguồn gốc của ngọn lửa.
    Nhật báo Raccoon, 29 tháng 7,1998
    S.T.A.R.S SẼ NGƯNG VIỆC ĐIỀU TRA NHỮNG VỤ GIẾT NGƯỜI XẢY RA TẠI THÀNH PHỐ RACCOON VỪA QUA – trong lời tuyên bố làm ngạc nhiên của những viên chức thành phố tại một buổi họp báo ngày hôm qua, S.T.A.R.S được thông báo phải hủy bỏ cuộc điều tra về chín vụ mưu sát dã man và năm vụ mất tích của cư dân thành phố xảy ra vào mười tuần trước. Thành viên hội đồng thành phố Edward Weist phát biểu, chỉ ra một cách kệch cỡm rằng sự thiếu năng lực chính là nguyên nhân chính buộc S.T.A.R.S từ bỏ. Những người đọc có thể nhớ rằng trong lần hành động đầu tiên tìm hiểu những vụ tuần trước, S.T.A.R.S đã thăm dò vào trong cánh rừng phía tây bắc và khẳng định rằng đó là những kẻ sát nhân ăn thịt đồng loại. Weist tuyên bố rằng rõ ràng chính cách xử lý không chuyên nghiệp của họ đã làm cho nhiệm vụ của họ kết thúc trong thảm bại, dẫn chứng là tại nạn của chiếc trực thăng và việc mất đi bảy thành viên của đội họ, bao gồm cả chỉ huy nhóm, đội trưởng Albert Wekser.
    “Sau thất bại của cuộc thăm dò trong khu rừng Raccon [của S.T.A.R.S],” Weist nói,” chúng tôi quyết định để cho RPD tham gia điều tra và đi tới kết luận. Chúng tôi có ly do tin rằng S.T.A.R.S có thể đã sử dụng thuốc kích thích hoặc rượu trước cuộc lục soát, và chúng tôi đã đình chỉ việc làm của họ vô hạn định.”
    Weist tham gia cùng với Sarah Jacobsen( thay mặt Mayor Harris) và ủy viên cảnh sát J.C.Washington thực hiện bài công bố và trả lời các câu hỏi. Cả thủ trưởng Brian Irons lẫn những thành viên S.T.A.R.S còn sống sór đều có thể hiểu thấu lời chỉ trích đó…
    Cityside, ngày 3 tháng 8, 1998
    Nguyên nhân gây ra hỏa hoạn được cho rằng chỉ là một tai nạn ngẫu nhiên ở thành phố Raccoon – sau cuộc điều tra kỹ càng của chính quyền cùng với Umbrella, gọi chung là ISD(Industrial Services Division), nguồn gốc của ngọn lửa tàn phá tài sản ngôi biệt thự Spencer trong cánh rừng Raccoon vào cuối tháng trước đã được xác định là do sự bất cẩn của một bộ phận người hoặc một số người mà không biết rõ tên, trong cuộc họp báo ngày hôm qua. Chỉ huy đội ISD David Bischoff nói, “có vẻ như là một người nào đó đã cố gắng thực hiện một buổi lửa trại tại một căn phòng của ngôi biệt thự và sự việc đã vượt quá tầm kiểm soát. Chúng tôi không tìm ra cái gì cho thấy có sự cố ý hay hành động gian trá ở đây cả.“.Anh ta tiếp tục nói rằng trong khi sự phá hủy là hoàn toàn, thì không có gì chứng tỏ bất cứ ai bị mắc kẹt trong đám cháy hoặc là trong những tiếng nổ sau đó.
    Người đứng đầu sở cảnh sát thành phố Raccoon Brian Irons đã có mặt trong hội nghị, và khi được hỏi rằng ông có tin hay không về việc vụ cháy có liên quan đến những vụ giết người và mất tích bí ẩn gây hoang mang trong thành phố, Irons đã phát biểu rằng không có gì chắc chằn về khả năng đó. Irons nói tiếp, “Vào thời điểm này, những gì tôi nói cũng chỉ là sự suy đoán – mặc dù vậy tui sẽ nói rằng những vụ giết người đã dừng lại kể từ cái đêm xảy ra hỏa hoạn để xin nhấn mạnh có lẽ những tên sát nhân đang trốn đâu đó. Chúng ta chỉ có thể hi vọng hiện nay chúng đã đi khỏi khu vực này và chẳng bao lâu nữa chúng sẽ bị tóm".
    Thủ trưởng Irons từ chối bình luận về những ý kiến phê bình khả năng xử lý kém cỏi của S.T.A.R.S trong kì nhiệm vụ được giao ngắn ngủi của họ về điều tra giết người, chỉ nói rằng ông đồng ý với quyết định của hội đồng thành phố và công việc kỉ luật đang được cân nhắc
    Chương 1
    REBECCA CHAMBERS CỞI TRÊN CHIẾC XE ĐẠP LEO NÚI BĂNG QUA con đường tối ngoằn ngòeo ngoài ngọai ô thành phố, ánh trăng cuối hè nhô lên trong bầu trời quang đãng, ấm áp trên đỉnh đầu. Mặc dù trời còn tương đối sớm, nhưng con đường ngoại ô rất vắng vẻ, lệnh giới nghiêm của thành phố vẫn còn hiệu lực; không ai dưới mười tám tuổi được phép ra ngoài sau khi trời chạng vạng tối cho đến khi những kẻ sát nhân bị tóm và cho chúng ở đằng sau song sắt. Bầu không khí căng thẳng và yên tĩnh của mùa hè bao trùm thành phố Raccoon, ít nhất là ở vẻ bên ngoài.
    Cô đạp xe lướt qua những ngôi nhà yên lặng, ánh sáng yếu ớt của những chiếc ti vi hắt ra những bãi cỏ ven đường, tiếng dế kêu o e ở phía xa và tiếng chó sủa đâu đó, là những thứ âm thanh trong không khí mà cô nghe thấy được. Những cư dân của Racoon đang lo lắng, ngồi sau những cánh cửa khóa kia, chờ đợi lời tuyên bố những kẻ giết người đã bị bắt và thành phố của họ đã an toàn.
    Nếu họ chỉ biết…,
    Trong giây lát, Rebecca căm ghét sự ngu dốt của họ. Đúng hơn là, cô cảm thấy thất vọng với những kết luận trong hai tuần trước điều đó làm cho cô biết rằng sự thật không phải là tất cả, nó sẽ bị bác bỏ khi không một ai tin nó.
    Mười ba ngày dài đằng đẵng kể từ cái đêm ác mộng tại nhà Spencer. Những thành viên sống sót của S.T.A.R.S đã thoát khỏi sự phản bội và cái chết để rồi tiếp tục chống lại một vách tường đầy những ý kiến không tin và khinh bỉ khi họ cố gắng kể về chuyện của họ. Jill, Chris, Barry, và chính cô bị gán cho là những kẻ sử dụng thuốc kích thích và tồi tệ hơn trong những tờ báo điạ phương, không ai nghi ngờ gì về những bằng chứng của Umbrella - và sau sự đình chỉ của họ, kể cả RPD cũng từ chối tin tưởng họ. Hiện giờ, vì Umbrella kiểm soát được cuộc điều tra về vụ cháy, nên chắc chắn rằng họ đã thủ tiêu những chứng cớ cuối cùng… như thể là nếu S.T.A.R.S đến đâu, thì Umbrella sẽ có mặt ở đó trước, đút lót và che đậy dấu vết, bất cứ ai nghe được chuyện của họ là việc không thể. Dù thế nào đi nữa họ cũng không phải là những con người đơn giản. Là một trong những tập đoàn nghiên cứu và sản xuất dược lớn và tốt nhất trên thế giới – không kể đến họ là nguồn thu lợi tức chính của Raccoon – đang thực hiện việc nghiên cứu những loại vũ khí sinh học trong một phòng thí nghiệm bí mật, tạo ra những con quái vật thí nghiệm – Nếu tôi không biết nhiều hơn, thì có lẽ tôi cũng nghĩ là tôi điên.
    (Còn tiếp)
     
  2. Hoa Thần

    Hoa Thần Youtube Master Race

    Tham gia ngày:
    18/5/06
    Bài viết:
    41
    Nơi ở:
    Ở đâu?
    Ít nhất là những điều tồi tệ nhất cũng đã qua. Với việc phòng thí nghiệm bị phá hủy, những vụ tấn công ở Raccoon đã dừng lại – và mặc dù người có trách nhiệm chưa phải giải thích gì, nhưng cô nghĩ rằng đó chỉ là vân đề thời gian. Umbrella đang thí nghiệm với những thứ nguy hiểm, và sẽ không thể che dấu nó khi S.T.A.R.S điều tra. Cô và những người khác buộc phải xem lại khuyết điểm của họ cho đến khi bộ nội vụ gọi lại.
    Cái bao da đựng súng của cô bị lệch. Rebecca chỉnh nó lại đúng chỗ, hi vọng rằng sau buổi tối hôm nay cô sẽ không cần mang theo vũ khí nữa – cô hếch mũi. 38 cây súng lục từ bộ siêu tập của Barry. Cô không thể nói chuyện gì khác , nhưng cô không có đêm nào ngon giấc kể từ lúc họ thoát khỏi ngôi biệt thự Spencer, và đi bộ lòng vòng giết thời gian không phải là một ý tưởng mà cô cho là an toàn. Thở dài lặng lẽ, cô ra khỏi Foster và đạp xe xuyên qua màn đêm đến nhà Barry, nó nhắc cô nhớ rằng có lẽ anh ta gọi là cuộc họp bởi vì anh nghe được tin mới từ bộ nội vụ. Anh chỉ nói rằng có một “sự tiến triển” và xuất hiện ASAP – và mặc dù cô cố gắng không để trí tưởng tượng của mình đi quá xa, nhưng nó không giúp cô bớt hồi hộp hơn, điều đó chỉ làm cho cô thêm đâu đầu, kể từ lúc anh gọi. Có thể họ sẽ bay đến New York tóm tắt tình hình cho đội điều tra, hoặc kể cả sang Châu Âu để tấn công vào đầu não của Umbrella…
    Cho dù họ được gởi đến bất kì đâu, thì nó đều tốt hơn là ở lại Raccoon. Sự căng thẳng của trách nhiệm mà họ chịu bao trùm toàn đội. Chris dường như nghĩ rằng Umbrella đang chờ đợi cho đến khi cộng đồng nhìn S.T.A.R.S với một sự lạnh lùng trước khi họ đi, mặc dù đó chỉ là lý thuyết riêng của anh – và không hoàn toàn là suy nghĩ dễ gây ngủ gật. Anh bạn Vickers thỏ đế đã đi khỏi thành phố chỉ sau đó hai ngày, vì không chịu nổi áp lực – và mặc dù Jill, Chris và Barry đã nhiều lần chỉ trích cái tính hèn nhát của Brad, nhưng bây giờ Rebecca mớ bằt đầu tự hỏi liệu có phải phi công của Alpha đã có một việc làm sai. Không phải là cô muốn Umbrella lộ diện, không có sự nghi ngờ nào cho rằng những thí nghiệm của họ đang tiến hành là đáng bị quở trách về phương diện đạo đức và chắc chắn bất hợp pháp – nhưng cho đến khi S.T.A.R.S gọi giúp đỡ, việc ở lại thành phổ Raccoon là rất nguy hiểm.
    Không phải sau tối hôm nay; mà chỉ một chút nữa thôi, và tất cả mọi chuyện sẽ qua. Không có cảnh bắn giết,, không có thêm những cánh cửa bị khóa – và không còn lo ngại về Umbrella sẽ làm gì họ vì họ biết được sự thật.
    Khi họ thực hiện xong bản thuyết trình, cấp trên của họ ở New York bảo với họ rằng họ được ở lại. Chính trợ lý giám đốc Kurtz hứa sẽ thực hiện vài cuộc điều tra và giữ họ ở lại – nhưng sau mười một ngày, mà vẫn không có tin tức nào. Cô không có ý định chạy trốn như Brad đã làm, nhưng cô thấy ghét cái cảm giác mang súng, trọng lượng của cái thứ chết tiệt đó làm cho hông cô khó chịu mỗi khi thức dậy. Cô coi mình là một nhà hóa học, vì …
    Và một khi có đợt củng cố lại lực lượng, có lẽ họ sẽ đưa tôi đến một trong số những phòng thí nghiệm, điều đó cho phép tôi được nghiên cứu về những con virus. Nói cho đúng, tôi vẫn là thành viên của Bravo; không có lý nào họ lại muốn tôi tham gia chiến tuyến…
    Không có gì hồ nghi đó là cách sử dụng tốt nhất tài năng của cô. Những người khác đã là những lính có kinh nghiệm, nhưng Rebecca chỉ mới vào S.T.A.R.S được năm tuần. Nhiệm vụ đầu tiên của cô là ở cánh rừng Raccoon, nơi đã tiêu diệt hơn nữa đội và những người còn lại đã lần ra được bí mật của Umbrella. Từ lúc ấy, cô phải tốn nhiều thời gian để xem lại cấu tạo phân tử của con virus, cố gắng mô phỏng lại cách thức hoạt động của T – Virus. S.T.A.R.S không cần những bác sĩ chiến trường, vào lúc này, họ cần những nhà khoa học…và nếu cô biết được bất cứ cái gì từ ngôi biệt thự tai ương của Spencer, thì nó chứng tỏ rằng chỗ của cô là ở phòng thí nghiệm. Cô sẽ ở một mình vào cái đêm đó, nhưng cô cũng biết rằng làm việc với T – virus là một sự đóng góp lớn có thể giúp ngăn chặn được Umbrella. Và bạn có thể đối mặt với nó, cô thầm nghĩ, bạn bị mê hoặc bởi nó. Cơ hội nghiên cứu một thứ kì lạ, tìm ra cái làm nó thèm máu – cái thứ mà làm bạn thành kẻ hút máu.
    À, được, không có gì là xấu trong sở thích công việc của cô. Cô mang theo một niềm hi vọng khi tham gia S.T.A.R.S là có một cơ hội – và với bất cứ may mắn nào, sau buổi họp tối nay cô sẽ mang theo một cái cặp và đi khỏi địa ngục của thành phố Raccoon, hướng về bước ngoặt mới trong cuộc đời cô khi là một nhà nghiên cứu hóa sinh của S.T.A.R.S.. Cô dừng tại cuối dãy phố, phía trước là ngôi nhà hai tầng màu vàng nhợt nhạt được tu sửa theo kiểu Victorian, kiểm tra mọi điều bất thường xung quanh trước khi xuống xe. Nhà Burtons sống cạnh một công viên dài ở ngoại ô, cây cối rậm rạp. Cách đây vài tuần, cô có thể đi lang thang trong cái công viên yên lặng, thích thú cái hương vị ban đêm của mùa hè, ngắm sao trên trời; nhưng bây giờ nó là nơi tôi tăm, bí ẩn như để ai đó ẩn nấp. Cô run rẩy yếu ớt và mặc cho không khí ẩm ướt, nóng bức của mùa hè, cô vẫn phóng nhanh về phiá trước.
    Kéo chiếc xe lên hàng hiên, cô lau mồ hôi đang túa ra từ trên cổ và quan sát kiểm tra. Cô hoàn thành trong một khoảng thời gian hoàn hảo, chỉ hai mươi phút kể từ cuộc gọi của Barry. Cô dựa chiếc xe vào tay vịn cầu thang, cầu mong rằng anh ta có tin tốt.
    Trước khi cô gõ cửa, Barry đã mở cửa, anh mặc áo thun và quần jean, thân thể cao lớn của anh choáng cả lối vào. Barry nâng trọng lượng mình, hơi cố sức.
    Anh cười và quay lưng mời cô vào trong, anh nhìn nhanh ra con đường yên tĩnh bên ngoài trước khi theo cô vào tiền sảnh. Cây Colt Python được giắt vào cái bao da đựng súng ngang hông, làm anh trông giống một cao bồi to lớn.
    “Cô có thấy bất kỳ ai không?” anh hỏi nhỏ.Cô lắc đầu “Không. Tôi cũng không thấy ai ở đằng sau”
    Barry gật đầu, và mặc dù anh vẫn còn cuời một lúc, nhưng cô có thể thấy nỗi ám ảnh trong đôi mắt của anh ta, cái nhìn kể từ khi họ thoát khỏi đó. Cô hy vọng có thể nói với anh rằng không ai trách móc anh cả, nhưng biết điều đó thì cũng chẳng có gì khác biệt; Barry vẫn còn nghĩ mình phải có trách nhiệm cho những gì xảy ra tại ngôi biệt thự tối hôm đó. Anh cũng thấy mình đang mất thăng bằng, mặc dù cô hình dung anh có nhiều việc để làm hơn là nhớ đến vợ anh và những đứa trẻ; anh đã đưa họ ra khỏi thành phố ngay sau khi xảy ra biên cố khủng khiếp để đảm bảo an toàn cho họ.
    Sém tí nữa là Umbrella đã phá hoại cuộc sống của chúng tôi…
    Anh dắt cô lên cầu thang, và băng qua những hành lang rộng lớn, những bức tường trang trí những bức tranh màu sáp của con gái anh vẽ. Nhà của Burton nhiều ngõ ngách và rộng lớn, đầy những thứ đồ cũ kỹ là hình ảnh thu nhỏ của một gia đình.
    “Chút nữa Chris và Jill sẽ có mặt ở đây. Cô muốn dùng cà phê chứ?”
    Anh trông có vẻ căng thẳng.
    “Không, cảm ơn. Có lẽ là nước.”
    “Thế à, được thôi.Cô cứ đi tiếp và giới thiệu bản thân nhé. Tôi sẽ quay lại trong một phút.” Anh ta nhanh chóng chạy xuống nhà bếp trước khi cô có thể hỏi anh chuyện gì nữa.
    Giới thiệu bản thân?Tiếp theo là chuyện gì đây?
    Cô đi xuyên qua căn phòng lớn uốn cong dẫn đến căn phòng khách bề bộn, tiện nghi và cô dừng lại, cô hơi giật mình vì nhìn thấy một người đàn ông xa lạ đang ngồi trên một chiếc ghế dựa. Ông ta đứng lên khi cô bước vào phòng, và ông cười – nhưng cô có thể thấy, tiện thể ông ta thu hẹp dần cái nhìn đăm đăm của mình một cách nhẹ nhàng, cái nhìn dò xét giá trị của cô.
    Mặc dù cách đây vài tuần, sự xem xét quá kỹ lưỡng sẽ làm cho cô xấu hổ kinh khủng. Cô là thành viên trẻ nhất của S.T.A.R.S từ trước đến giờ phải chấp nhận những nhiệm vụ phản ứng nhanh, và biết rằng cô chú ý đến nó – nhưng nếu có bất cứ chuyện gì rõ ràng xảy đến từ biến cổ tại phòng nghiên cứu của Umbrella, thì cô không còn lưu ý nhiều đến những việc như sự lúng túng trước xã hội. Giáp mặt với một ngôi nhà với đầy những con quái vật canh giữ để đưa sự việc vào cái viễn cảnh của riêng cô. Ngoài ra, cái ước mơ được thủ vai chính trong cái tiếc mục thú vị kia cũng có từ đó.
    Cô nhìn đáp lại ông ta một cách trầm tĩnh và chăm chú. Quần Jean, một cái áo sơ mi đẹp, đôi giày chạy. Ông cũng mang bao da với cây Beretta chín li ngang hông, hình mẫu chuẩn của một thành viên S.T.A.R.S. Ông ta cao, có lẽ đôi chân của ông cao hơn cái thân hình năm feet ba inch của cô, nhưng mảnh khảnh hơn, với một vóc người của một vận động viên bơi. Ông ta giống một diễn viên điện ảnh điển trai, lông mày cao, trải nhiều sương gió, và đường nét gọt dũa, mái tóc đen ngắn và cái nhìn soi mói sắc sảo với vẻ thông minh.
    “Cô là Rebecca Chambers,” ông nói. Ông có chất giọng của người Anh, những từ ngữ của ông được tỉa gọt và rất tế nhị. “Cô là nhà nghiên cứu hóa sinh, đúng không?” Rebeccca gật đầu. “Làm việc với nó. Và cô là…” Ông cười to hơn, và lắc đầu.” Xin tha thứ cho cách cư xử của tôi. Tôi không mong chờ… đó là, tôi…”. Ông ta bước quanh cái bàn cà phê của Barry và đưa tay ra.”Tôi là David Trapp, thành viên của S.T.A.R.S ở Maine,” ông nói.
    Cô cảm thấy lạnh người, S.T.A.R.S đã gởi người đến thay vì gọi họ tới. Cô bắt tay với ông ta, cười gằn một cách khó chịu, và biết rằng sự xuất hiện của cô đã làm cho ông chú ý. Không ai ngoài một nhà khoa học mười tám tuổi, và trong khi cô đang nhìn một cách ngỡ ngàng, cô vẫn thấy có cái gì đó ở con người này. “Thế, ông có thích một ít rượu scout hay thứ gì khác không?” cô hỏi.
    Ông Trapp tỏ vẻ khó chịu.”Xin lỗi?”
    “Về việc điều tra – đã có nhiều đội khác ở đây, tức là ông đến để xác minh lại sự việc, và tìm những vết nhơ của Umbrella…”
    Cô dừng lại khi ông gật đầu một cách chậm rãi, hoàn toàn chán nản, ánh mắt đen lấp lánh đầy vẻ xúc động của ông, cô không thể hiểu được.
    Nó vụt ra khỏi lời nói của ông ta, đầy sự chán nản và giận dữ – khi những lời nói tắt hẳn, Rebecca cảm thấy đầu gối cô bủn rủn với nỗi sợ hãi kinh hoàng.
    “Tôi xin lỗi vì kể cho cô chuyện này, cô Chambers. Tôi có lý do tin rằng Umbrella đã uy hiếp những thành viên chủ chốt của S.T.A.R.S., bằng cách mua chuộc lẫn hăm dọa. Không có cuộc điều tra nào hết – và sẽ không có ai khác đến.”
    Đôi mắt nâu của cô lộ đầy vẻ bối rối, hỗn loạn và nó nhanh chóng qua đi. Cô thở sâu và cố gắng ghìm nó xuống.
    “Ông chắc chứ? Ý tôi là, có phải Umbrella đã cố gắng uy hiếp ông, tức là… có phải ông quả quyết như thế?
    David lắc đầu. “ Tôi không hòan tòan chác về điều đó, không – nhưng tôi đã không đến đây nếu tôi không… để ý đến việc đó.”
    Tuy thái độ ấp úng, nhưng David vẫn không ngừng dò xét cô là người thế nào, và theo một cách bản năng ông cố gắng không để cô lo sợ hơn nữa. Barry nói rằng cô có nét gì đó của một thiên tài nhỏ tuổi, nhưng anh không thật sự trông đợi ở một đứa bé con. Một nhà hóa sinh mặc cái quần soóc hơn cao và cắt ngang đầu gối, cùng với chiếc áo thun kì lạ.
    Thôi, bỏ qua đi; đứa bé này có thể là nhà khoa học duy nhất mà chúng ta có.
    Ý nghĩ giận dữ đã thiêu rụi ruột gan của David nhiều ngày qua. Câu chuyện đã được phơi bày kể từ cuộc gọi của Barry, nó chứa đầy sự phản bội và giả dối - và điều đó làm S.T.A.R.S, S.T.A.R.S của ông, bị liên lụy…
    Barry bước vào phòng với ly nước và Rebecca vui vẻ lấy nó từ tay anh, uống một hơi nữa ly.
    Barry thoáng nhìn ông và quay sang hỏi Rebecca. “Ông ấy đã kể cho cô nghe, phải không?”
    Cô gái gật đầu. “Jill và Chris biết chuyện này chứ?”
    “Tới lúc này thì chưa. Điều đó giải thích tôi đã gọi,” Barry nói.”Nhìn xem, họ không có ý định để chúng ta đi lần thứ hai. Chúng ta nên chờ chúng lộ diện trước khi chúng ta tìm được gì khác cụ thể hơn.”
    “Đồng ý,” David nói. Ông cố tìm những điểm chung nhất để nói, và nếu như họ làm việc cùng nhau, ông muốn có một cảm nhận gì đó đối với thành viên nữ.
    Cả ba người ngồi xuống, Barry bắt đầu kể cho Rebecca anh ấy và David gặp nhau như thế nào trong cuộc tập luyện của S.T.A.R.S khi cả hai còn trẻ. Barry kể một câu chuyện hay, nhưng dù sao nó cũng chỉ để giết thời gian. David lắng nghe một cách thờ ơ khi Barry thuật lại kỷ niệm vui vẻ về đêm tốt nghiệp của họ, trêu chọc một sĩ quan cảnh sát nghiêm nghị bằng mấy con rắn cao su. Cô gái thư giãn, thậm chí là cô thích câu chuyện nghịch ngợm thời trẻ của họ - cách đây mười bảy năm. Lúc cô tố chức sinh nhật lần đầu tiên.
    Cô vẫn còn đặt những câu hỏi cho Barry, mặc dù vậy David biết cô đang lo lắng về những gì ông kể cho cô. Khả năng chế ngự của cô thật đáng nể, điều mà ông chưa bao giờ kiểm soát được hoàn toàn.
    Ông ít khi nghĩ về việc khác từ khi ông tự nguyện gia nhập S.T.A.R.S . Đối với sự cống hiến của David thì sự phản bội trong tổ chức rõ ràng là một sự thật cay đắng, một cảm giác ghê tởm không thể chịu đựng được. S.T.A.R.S đã lấy đi của David hai mươi năm tuổi xuân, bằng khoảng thời gian ông cần để trưởng thành - một sự trung thành đáng giá, không chút do dự và đầy chân thật.
    Và đúng như vậy, cuộc sống dâng hiến của những người đàn ông và phụ nữ, của tôi và công việc an nhàn đều bị vứt sang một bên như thể chúng không là gì cả. Trả bao nhiêu? Umbrella đã trả bao nhiêu để mua được danh dự của S.T.A.R.S?
    David xúc động giận dữ, tập trung sự chú ý của ông vào Rebecca. Nếu tất cả những gì ông biết là đúng, thì thời gian còn lại là quá ngắn và tài năng của họ cũng chỉ có hạn. Động lực của ông bây giờ không nhiều như cô. Ông có thể dạy cô cách chế ngự bản thân vì cô không thuộc kiểu người nhút nhát và nhu mì, và hiển nhiên cô là con người vui vẻ; ánh mắt lấp lánh của cô nói lên điều đó. Từ những gì Barry nói với ông, cô đã hành động một cách chuyên nghiệp khi ở trong ngôi biệt thự Spencer. Hồ sơ của cô cho thấy cô có thừa khả năng để làm việc với một con virus hóa học, nếu như cô đúng như những gì trong đó viết – và nếu cô muốn đánh cược cuộc sống của mình vào mối nguy hiểm mới.
    Đó là một quan điểm tồi. Cô vào S.T.A.R.S chưa được lâu, và cô biết rằng họ đang nắm giữ cuộc sống của mọi người, điều đó làm cô thêm vững dạ đương đầu với công việc. Thật dễ dàng để cô bước ra khỏi cuộc chơi ngay bây giờ. Trong hoàn cảnh đó, thì nó là sự lựa chọn thông minh cho tất cả bọn họ.
    Có tiếng gõ cữa, có thể là đó là hai thành viên của đội Alpha. Tay David chụp vào báng của khẩu súng chín li trong khi Barry ra mở cửa. Sau đó anh quay lại cùng với thành viên của đội S.T.A.R.S ở phía sau, David thở phào, sau đó ông đứng lên chính thức giới thiệu.
    “Jill Valentine, Chris Redfield – đây là đội trưởng David Trapp, chỉ huy đội S.T.A.R.S ở Maine.”
    Chris là một tay thiện xạ, nếu David nhớ không nhầm, và Jill là chuyên gia về bẻ khóa. Barry nói họ còn một phi công, đó là Brad Vickers, vừa rời khỏi thành phố ít lâu, sau biến cố nhà Spencer. Đó không phải là một sự mất mát lớn, là tất cả những gì ông thu thập được; Barry nói anh ta không đáng tin cậy.
    Ông bắt tay với hai người và bọn họ ngồi xuống, Barry gật đầu với ông.
    “David là đồng nghiệp cũ của tôi. Chúng tôi đã làm việc cùng một đội trong hai năm. Ông ấy đến nhà tôi cách đây một giờ với tin mới, và tôi nghĩ tôi không chờ đợi nữa. David?”
    David lấy giọng, cố gắng tập trung vào việc quan trọng. Sau một hồi yên lặng, ông bắt đầu.
    “Như các bạn đã biết, cách đây 6 ngày, Barry đã gọi đến nhìêu cơ sở S.T.A.R.S khác nhau để biết được tin tức từ bộ nội vụ về bi kịch xảy ra ở đây. Tôi đã nhận được một trong những cuộc gọi đó. Đó là lần đầu tiên tôi nghe được chuyện này, và kể từ khi tôi biết được văn phòng tại New York đã không liên lạc với bất kì ai về sự phát hiện của các bạn. Không lời cảnh báo hay chỉ thị. Không có gì chứng tỏ S.T.A.R.S có liên quan đến tổ chức Umbrella.”
    Chris và Jill nhìn nhau lo lắng.
    “Có lẽ họ đã không thực hiện cuộc điều tra,” Chris chậm rãi nói.
    David lắc đầu. “ Tôi đã nói với người phụ tá của tôi sau khi Barry gọi được một ngày. Tôi đã không kể anh ta nghe về cuộc liên lạc, tôi chỉ nói rằng tôi đã nghe đồn là ở Raccoon có sự cố, và muốn tới đó xem có đúng hay không.”
    Ông nhìn vào bọn họ và khẽ thở dài, giống những lần anh đã từng làm.
    Trong tâm trí tôi, luôn tìm kiếm một câu trả lời khác… và kết quả là không tìm ra.
    “ AD đã không kể cho tôi bất kỳ chuyện gì một cách rõ ràng,” ông nói tiếp, “ và ông ta nói rằng tôi nên giữ yên lặng chuyện đó cho đến khi chỉ thị được gởi xuống. Những gì ông ta nói là có một vụ rơi máy bay ở thành phố Raccoon – và điều ông muốn ám chỉ là những thành viên sống sót của S.T.A.R.S đã cố gắng đổ lỗi cho Umbrella, và việc đó đã gây ra nhiều sự tranh cãi quyết liệt.”
    “ Nhưng đó không phải là sự thật!” Jill nói. “ Chúng tôi đang điều tra về những kẻ sát nhân, và tìm ra…”
    “ Vâng, Barry đã kể cho tôi nghe,” David ngắt ngang. “Các bạn đã tìm ra những kẻ giết người là kết quả của một tai nạn ở phòng thí nghiệm. T-virus mà Umbrella đang thử nghiệm bị phóng thích bằng cách nào đó và nó biến những nhà phát minh thành kẻ giết người điên cuồng.”
    “Đó chính là những đã xảy ra,” Chris nói. “Tôi biết chuyện này có vẻ khó tin, nhưng chúng tôi đã ở đó, chúng tôi đã thấy chúng.”
    David gật đầu. “Tôi tin các bạn. Tôi thừa nhận là, tôi đã hoài nghi sau khi nói chuyện với Barry. Đúng như anh nói, nó thật ‘nực cười ’ – nhưng cuộc gọi của tôi đến New York và những gì xảy ra đã thay đổi tất cả. Tôi biết Barry trong một thời gian dài, và tôi biết rằng anh ấy sẽ không kết tội Umbrella nếu như không phải là họ, đúng hơn là, họ phải chịu trách nhiệm. Anh còn kể cho tôi việc liên quan đến chính mình, chuyện anh phải miễn cưỡng che đậy bộ mặt thật của một kẻ phản bội.”
    “ Nhưng nếu Tom Kurtz nói với ông rằng không có âm mưu nào ở đây cả…” Chris nói.
    David thở dài.” Vâng. Bây giờ chúng ta giả sử rằng cả tổ chức của chúng ta đang giấu chuyện đó - tức là, giống như đội trưởng Wesker của các bạn, các thành viên của S.T.A.R.S đang làm việc cho Umbrella.”
    Một sự yên lặng đáng sợ khi họ lắng nghe thông tin, và David có thể thấy sự giận dữ lẫn hoang mang trên nét mặt của họ. Ông biết là họ cảm thấy thế nào. Điều đó có nghĩa những giám đốc điều hành S.T.A.R.S cũng bị khống chế hay bị mua chuộc bởi Umbrella – hay nói cách khác, Umbrella muốn tiêu diệt những người còn sống sót của S.T.A.R.S tại Raccoon bằng mọi cách có thể được.
    Chúa ơi, nếu được, tôi muốn tin tất cả những chuyện này chỉ là sự nhầm lẫn.
    “ Ba ngày trước, tôi bắt gặp có người theo dõi tôi,” ông nói nhỏ. “ Tôi không thề làm gì chúng, nhưng tôi tin chúng là người của Umbrella và đó là kết quả của việc tôi gọi điện đến New York.”
    “Ông có thử tìm đến Palmieri không?”
    Jill hỏi. David gật đầu. Ông biết tổng giám đốc của S.T.A.R.S sẽ không nhận hối lộ; Marco Palmieri đã gắn bó với S.T.A.R.S từ lúc thành lập, “ Thư ký của ông cho tôi biết ông ta đang chỉ huy một tổ chức mật ở trung đông và sẽ không có mặt trong vài tháng – và đó là lời giải thích cho sự vắng mặt của ông ta dù ông bị mất tích.”
    “Ông nghĩ Umbrella đứng sau vụ này?” Chris hỏi.
    David nhún vai. “ Umbrella đã tài trợ cho S.T.A.R.S nhiều khoản tiền lớn trong những năm qua, cho thấy họ có liên quan với nhau. Nếu họ không muốn S.T.A.R.S điều tra mình, thì việc thủ tiêu tiến sĩ Palmieri có lợi cho họ.”David liếc nhìn quanh phòng, cố gắng cảm nhận sự sẵn sàng của họ trong giây lát. Barry xiết chặt nắm đấm, và anh nhìn chằm chằm vào bọn họ như thể anh chưa từng gặp họ trước đây. Cả Jill và Rebecca dường như đang bối rối, mặc dù anh biết là họ thừa nhận câu chuyện của anh là có thật. Nhưng cần cho họ thời gian, ít nhất là…
    Chris đã đứng lên và bắt đầu đi, nét mặt trẻ trung của anh đầy sự giận dữ.” Về cơ bản, chúng ta không còn tín nhiệm ban lãnh đạo, không có việc quay lại, và chúng ta đã bị họ cho là những kẻ lừa bịp. Cuộc nghiên cứu của Umbrella đầy chết chóc và chúng ta đã bị sốc, nhiêu đó là đủ rồi, được chứ?”
    David có thể thấy được sự giận dữ trong anh, ông cảm giác sự tức giận đó không phải của một thành viên Alpha trẻ tuổi. Nghĩ về những gì Umbrella đã làm, S.T.A.R.S có liên quan như thế nào – nó làm cho ông chán ngán với sự nổi giận, với sự bất lực, ông chưa bao giờ trải qua cảm giác đó khi còn trẻ.
    Hãy dừng suy nghĩ nào các bạn. Nghĩ ngơi chút đi
    David đứng lên và nhìn vào Chris, mặc dù ông nói với tất cả bọn họ. Ông không có cả thời gian nói chuyện với Barry.
    “Thật sự, có gì đó hơn thế nữa. Dường như là có nhiều cơ sở khác của Umbrella ở vùng duyên hải Maine, đang quản lý việc thử nghiệm con virus này của họ - và giống như những đã xảy ra ở đây, họ đã không kiểm sóat được nữa.”
    David quay sang Rebecca, nhìn chằm chằm vào cô một cách lạ lùng và nói.” Tôi đang ở trong một đội khác, nằm ngoài sự ủy quyền của S.T.A.R.S – và tôi muốn cô tham gia với chúng tôi.”
     
  3. Lioncoeur

    Lioncoeur Fire in the hole!

    Tham gia ngày:
    5/5/03
    Bài viết:
    2,645
    CHƯƠNG 2

    MỌI NGƯỜI NHÌN CHẰM CHẶP VÀO DAVID, CHRIS CẢM THẤY ruột gan quặn thắt lại. Anh vẫn còn đang quay cuồng với những thông tin về S.T.A.R.S, với nhận thức rằng họ đang bị cô lập, và bây giờ là một phòng thí nghiệm mới.

    Và anh ta muốn mang Rebecca theo …

    David tiếp tục, ánh mắt đầy bí ẩn của anh vẫn đóng đinh vào thành viên trẻ tuổi của đội Bravo. “Tôi đã nói chuyện với các thành viên đáng tin cậy trong nhóm của tôi, và ba người trong số họ đã đồng ý. Tôi không muốn nói dối với cô – việc này là khá nguy hiểm và không được S.T.A.R.S hỗ trợ. Không có gì bảo đảm là chúng ta có thể đóng cửa hẳn phòng thí nghiệm. Chúng tôi chỉ muốn vào trong, thu thập một số chứng cứ xác thực về T-Virus, rồi quay trở ra trước khi có ai đó biết được chúng tôi ở …”

    Chris ngắt lời trước khi anh ta nói hết.

    ”Tôi cũng đi.”

    ”Tất cả chúng tôi sẽ đi.” Barry nói một cách kiên quyết. Jill gật đầu và choàng tay qua người Rebecca. Cô nàng có vẻ bối rối, hai má ửng đỏ, và khi nhìn vào cô, Chris một lần nữa nghĩ đến Claire. Rebecca không chỉ giống em gái Chris về ngoại hình mà còn cả về tài dí dỏm cũng như sự kết hợp đầy sinh động giữa lòng can đảm và tính chu đáo. Kể từ lúc xảy ra thảm họa ở biệt thự Spencer, Chris thấy mình giống như là vệ sĩ của Rebecca vậy. Có quá nhiều người bạn của anh đã chết. Joseph, Richard, Kenneth, Forest, và Enrico – chưa kể Billy Rabbitson; thi thể anh ấy không bao giờ được tìm thấy, nhưng Chris không chút hoài nghi rằng Umbrella đã giết Billy để diệt khẩu. Tất nhiên như vậy không có nghĩa là Rebacca không tự bảo vệ mình được …

    … nhưng chết tiệt thật, cô bé là một thành viên của đội. Không thể nào cô ta đi mà không có chúng tôi.

    David lắc đầu. “Coi nào, đây không phải là một cuộc hành quân đại quy mô. Năm người đã đủ rồi. Rebecca có những thông tin giúp chúng tôi tìm kiếm dữ liệu về virus, và cô ta biết rõ các triệu chứng của nó.”

    “Thay vì người của anh vào đó,” Chris nói. “Hãy để chúng tôi đi, còn nhóm của anh làm công việc hỗ trợ”.

    David ngồi xuống và nhìn Chris với một khuôn mặt không chút biểu cảm, “Nói cho tôi biết những ai có dính líu đến âm mưu che dấu các nghiên cứu của tập đoàn Umbrella,” anh ta nói.

    Chris nhìn thoáng qua mọi người, rồi chuyển sang David, kiên quyết không để lộ sự bối rối của mình. “Chúng tôi nghi ngờ nhiều người địa phương. Nhân viên văn phòng của Umbrella, tất nhiên. Cảnh sát trưởng, sếp Irons, một số người của anh ta …”

    David gật đầu. “Và bây giờ có vẻ như S.T.A.R.S cũng ở trong số đó, vậy anh đề nghị xem nên làm gì đây?”

    Anh ta định làm cái quái quỉ gì với thông tin này thế cơ chứ?

    Chris thở dài. “Tôi không biết. Tôi .. chúng ta nên liên hệ FBI, có thể sẽ có sự phân chia công việc nội bộ để điều nghiên S.T.A.R.S và RPD …

    Barry nối tiếp “… và chúng ta sẽ bị can thiệp bởi những nhánh khác của S.T.A.R.S. Vẫn còn nhiều người trong sạch làm việc ở đây và họ sẽ rất không hài lòng khi bị tiếp quản bởi Umbrella.

    David lại gật đầu. “Vì vậy các anh cũng đồng ý rằng phải ngăn chặn bàn tay của Umbrella, cho dù việc đó có nguy hiểm đi chăng nữa?”

    “Còn phải nói nữa à,” Chris quắc mắt giận dữ “Chúng tôi không thể nào ngồi trơ mắt ra nhìn được, ai biết được cái gì xảy ra một khi T-Virus xổng ra ngoài nữa!”

    “Vậy anh có thể nói cho tôi biết gì đó về sự phân loại virus không?” David bình thản hỏi.

    Chris há miệng ra để trả lời – và anh ngậm miệng lại, nhìn David trầm ngâm.

    Anh đã định nói, “Hãy hỏi Rebecca” . Và hẳn David cũng biết điều đó.

    David đứng dậy và vừa nhìn mọi người một lượt vừa nói, giọng anh kiên quyết và mạnh mẽ. “Tôi biết phải chặn đứng Umbrella – nhưng đừng có hành động như con nít. Chúng ta đang nói về việc thoát ly S.T.A.R.S và chống lại một tổ chức trị giá hàng tỷ đô la. Giờ đây không còn chỗ nào an toàn cả, và cơ may duy nhất để đánh bại Umbrella là từng người hãy làm việc đúng với sở trường của mình.”

    Tia nhìn lãnh đạm của anh ta dừng lại trên Chris, dường như anh cho rằng Chris cần phải được thuyết phục. “Anh cùng với Jill và Barry biết phải tìm cái gì ở đây, vì các bạn đã gia nhập S.T.A.R.S lâu hơn Rebecca. Các bạn phải ở đây, nằm ngoài sự giám sát, xem liệu có thể khám phá mối liên hệ giữa cảnh sát điạ phương với Umbrella không, và liên lạc với những thành viên S.T.A.R.S nào có thể giúp đỡ chúng ta.”

    David quay lại phía Rebecca. “Và nếu cô đồng ý, chúng ta sẽ khởi hành đến Maine ngay tối nay. Theo tin tôi nhận được, có vẻ như mọi việc đã vượt quá tầm kiểm soát. Đội của tôi đang túc trực, chúng ta có thể vào đó tối mai.”

    Cả phòng lặng đi trong một thoáng, âm thanh duy nhất phát ra lúc này là tiếng quay vù vù của cây quạt trần. Chris vẫn hết sức tức giận, nhưng anh không thể tìm ra một sơ hở nào trong lập luận của David, anh ta nói đúng về vai trò của họ, và bất chấp Chris có thích hay không thì việc đi đến Maine là do Rebecca quyết định.

    “Anh có được những thông tin gì?” Jill thận trọng hỏi. “Làm thế nào mà anh lại biết về phòng thí nghiệm?”

    David với tay lấy cái cặp mòn vẹt kế bên ghế, thọc tay vào trong và lôi ra một tập hồ sơ. “Câu chuyện thật kỳ quái, nhất là với một kẻ lạ mặt. Tôi hy vọng ai đó trong các bạn có thể giải mã được mấy cái này …”

    Anh ta vừa nói vừa đặt lên bàn ba tờ giấy, cái gì đó trông như bản photo các bài báo được cắt rời, và một sơ đồ đơn giản. ”Sau khi tôi nói chuyện với văn phòng chính, một người lạ mặt đến gặp tôi, tự giới thiệu là người quen của S.T.A.R.S.. Ông ta tự xưng là Trent, và đưa cho tôi mấy cái này.”

    “Trent!”. Jill ngắt ngang đầy kích động. Cô trố mắt nhìn Chris, và Chris cảm thấy tim mình nhói lên. Anh gần như đã quên về vị cứu tinh bí ẩn của họ.

    Người đã cảnh báo Jill về tên phản bội, người đã báo cho Brad địa điểm để cứu họ …

    David nhìn Jill chăm chú và đầy nghi hoặc. “Cô biết ông ta ư?”

    “Trước khi chúng tôi làm nhiệm vụ giải cứu nhóm Bravo, một người đàn ông tên Trent đã cho tôi một số thông tin về biệt thự Spencer, và cảnh báo về Wesker,” Jill đáp. ”Trông người đó có vẻ khá khả nghi, ông ta đã không để lộ ra bất cứ điều gì cả. Nhưng ông ta lại biết những chuyện xảy ra với Umbrella, và tất cả những gì ông ấy nói với tôi đều có dụng ý.”

    Barry gật đầu. “Brad Vickers nói rằng Trent đã báo cho anh ta biết tọa độ hạ cánh khi Wesker kích hoạt hệ thống tự hủy. Nếu ông ta không phát tín hiệu, có lẽ chúng tôi đã nổ tung cùng với phần còn lại của tầng hầm”

    Chris thình lình nhận thấy một cơn đau đầu nghiêm trọng kéo đến khi họ tập trung quanh bàn và nhìn vào mấy trang giấy. S.T.A.R.S làm việc cho Umbrella, T-Virus có khả năng đang hoành hành ở Maine – và bây giờ lại là Trent, xuất hiện bất ngờ cứ như là một bà mẹ đỡ đầu kỳ quặc trong tưởng tượng, không thể nào đoán được động cơ của ông ta là gì. Mọi việc cứ như là một trò chơi, thắng tất cả tiền cược hoặc mất tất cả phụ thuộc vào cuộc chiến của họ nhằm vạch trần âm mưu của Umbrella.

    Và chúng ta không còn cách nào khác là phải tham gia trò chơi – nhưng đây là trò chơi kiểu gì? Chúng ta sẽ trả cái giá nào một khi thất bại?

    Chris buồn rầu nhìn Rebecca, một lần nữa anh lại nghĩ tới đứa em gái bé nhỏ của mình và nhủ thầm, không biết là lần thứ mấy rồi, rằng phải chi mà họ chưa từng nghe nói về Umbrella.

    David theo dõi mọi người nghiên cứu các thông tin mà Trent đã đưa, không hiểu sao anh ta không ngạc nhiên gì về việc một người lạ mặt bí ẩn đã liên hệ với S.T.A.R.S trước đây. Người đàn ông này hẳn là một tay chuyên nghiệp, dù vậy David không thể hình dung được điều gì chính xác vào lúc này.

    Tại sao ông ta muốn giúp chúng ta chống lại Umbrella? Ông ta đóng vai trò gì trong việc này?

    David nghĩ lại về cuộc chạm trán ngắn ngủi năm ngày trước, lục lại ký ức để tìm một số manh mối nào đó mà mình có thể đã bỏ quên. Anh đi làm về muộn, trời đang mưa … như trút nước. Cơn dông tố mùa hè đập liên hồi vào cửa sổ, át đi tiếng gõ cửa của người đó …

    oOo

    Bộ phận S.T.A.R.S Exeter đang thưởng thức một mùa hè thoải mái, làm việc giấy tờ nhiều hơn là tay chân. Nhóm Bravo đã cất cánh đến New Hampshire để tham gia một cuộc hội thảo chuyên đề về tội phạm, và David đang lấy làm thú vị với ý nghĩ đóng gói hành lý rồi chờ đến ngày nghĩ – tới khi Barry gọi cho anh ta từ văn phòng chính với ẩn ý về chuyện gì đó không ổn.

    David mất cả ngày kế tiếp để gọi đến bộ phận liên lạc ở các chi nhánh của mình, đặt những câu hỏi dè dặt, lục lọi từ đầu đến cuối những hồ sơ về Umbrella, và chỉ về nhà lúc nửa đêm. Anh lái xe trong cơn mưa về căn nhà tối om lạnh lẽo của mình, bầu không khí lúc này giống y như tâm trạng của anh. Anh rót một ly Scott và quăng mình xuống chiếc trường kỷ, đầu óc quay cuồng với những thông tin đã thu thập được – Hoặc ông bạn Barry đã nói dối, hoặc từ AD cho đến S.T.A.R.S là những kẻ xảo trá.

    Anh không nghe thấy tiếng gõ cửa nhè nhẹ đầu tiên, tiếng mưa đều đều trên mái đã át đi mọi âm thanh. Và rồi tiếng gõ lớn hơn.

    David bực mình nhìn lên đồng hồ và chầm chậm bước ra cửa, tự hỏi cái tên chết giẫm nào lại gõ cửa nhà mình lúc nửa đêm thế này. Anh sống một mình và không gia đình, đây ắt hẳn có liên quan đến công việc, hoặc ai đó bị hư xe chăng …

    Anh hé cửa ra và thấy một người đàn ông khoác áo choàng đen đang đứng trước cổng, từng dòng nước đang chảy xuống khuôn mặt nhăn nheo của ông ta.

    Người lạ mặt mỉm cười với vẻ cởi mở thân thiện, đôi mắt của ông ta sáng lấp lánh đầy dí dỏm. ” Anh David Trapp?”

    David nhìn người đàn ông chăm chú. Ốm và cao, có lẽ lớn hơn David vài tuổi, khoảng 42, 43 tuổi. Mái tóc quanh đầu rối bù vì mưa, ông ta đang cầm một cái phong bì lớn làm bằng giấy Manila trong bàn tay đeo găng.

    “Vâng?”

    Người đàn ông cười toe toét. “Tên tôi là Trent, và tôi mang cái này cho anh”

    Ông ta đưa cái phong bì ra và David thận trọng liếc nhìn nó, không biết có nên nhận hay không. Trent không có vẻ gì là nguy hiểm hay đe doạ, nhưng ông ta vẫn là người lạ, và David thích nhận một món đồ từ người mà mình quen biết hơn.

    “Tôi có biết ông không nhỉ?” David hỏi

    Trent lắc đầu, miệng vẫn nở nụ cười. “Không. Nhưng tôi biết anh, Mr. Trapp. Và tôi biết anh đang đối mặt với cái gì. Tin tôi đi, anh sẽ cần đến mọi sự giúp đỡ mà anh có thể có.”

    “Tôi chẳng biết ông đang nói về cái gì. Chắc là ông nhầm tôi với ai khác.”

    Nụ cười của Trent tắt đi khi ông ta đẩy cái phong bì ra, đôi mắt u ám của ông ta thu nhỏ lại. “Mr. Trapp, trời đang mưa, và cái này là của anh.”

    Bối rối và bực tức, David mở rộng cửa ra để lấy cái phong bì. Ngay khi anh cầm lấy nó, Trent quay mình bỏ đi.

    “Đợi một chút!”

    Trent mặc kệ anh và biến mất vào trong bóng đêm mịt mùng đầy mưa bên ngoài.

    David ngập ngừng đứng trên lối ra vào, tay cầm xấp giấy ẩm ướt và nhìn cơn mưa như trút nước trong màn đêm một lúc trước khi quay vào. Sau khi đã xem xét cẩn thận nội dung, anh ước gì mình đã đuổi theo Trent, nhưng lúc này tất nhiên đã quá muộn.

    Quá muộn và quá rõ ràng về những gì người đó đề cập. Ông ấy biết về Umbrella và S.T.A.R.S, nhưng ông ta làm việc cho ai? Và tại sao ông ta liên hệ với mình?

    oOo

    Jill và Rebecca đang nghiên cứu tấm bản đồ, còn Chris và Barry thì chúi mũi vào mấy bài báo photo. Có tất cả bốn bài, đều cách đây chưa lâu, nội dung xoay quanh thành phố biển nhỏ bé ở vịnh Caliban, Caine. Ba trong số đó đề cập đến sự mất tích của các ngư dân địa phương, được cho là đã chết. Cái thứ tư thì có phần hài hước hơn, nói rằng có hiện tượng “ma” ám ở vịnh. Nhiều thị dân đã nghe thấy những âm thanh kỳ lạ trôi dọc theo dòng nước vào lúc khuya, họ miêu tả nó như là ”tiếng khóc của những linh hồn bị đọa”. Tác giả bài báo đã đưa ra một lời đề nghị hóm hỉnh, rằng các nhân chứng nên ngưng uống nước súc miệng trước khi lên giường ngủ.

    Thật nực cười. Phải chi mà các người cũng biết về Umbrella như chúng tôi.

    Tấm bản đồ là hình ảnh phóng to của bờ biển phía nam thành phố, một phác thảo nhìn từ trên không của vịnh. Sau cuộc gọi của Barry, David đã tìm hiểu một ít chi tiết về khu vực này lúc lục lọi trong thư viện Exeter và lén truy cập máy tính của S.T.A.R.S. Nói đúng ra thì đây là một khu biệt lập thuộc sở hữu tư nhân từ nhiều năm trước, được mua đứt bởi một nhóm nặc danh nào đó. Có một ngọn hải đăng bỏ hoang ở phiá bắc vịnh, nằm trên đỉnh một vách đá có nhiều hang động khá bí ẩn.

    Bản đồ của Trent cho thấy nhiều công trình ở phía sau và bên dưới ngọn hải đăng, kéo dài xuống dưới đến một cái bến tàu nhỏ hình lưỡi liềm rộng mở ở đầu phía nam. Có một đường biên hình chữ V chạy suốt chiều dài vịnh, có lẽ là một cái hàng rào. Chữ VỊNH CALIBAN viết đậm nằm ngang phía trên cùng. Bên dưới có những từ nhỏ hơn: NGHIÊN CỨU VÀ THÍ NGHIỆM CỦA UMBRELLA.

    Tờ giấy thứ ba mà Trent đưa thì David không hiểu. Đó là một danh sách gồm bảy cái tên: LYLE AMMON, ALAN KINNESON, TOM ATHENS, LOUIS THURMAN, NICOLAS GRIFFITH, WILLIAM BIRKIN, TIFFANY CHIN.

    Ngay bên dưới là một danh sách sắp xếp những thứ giống như vần thơ, tập họp ở giữa tờ giấy và được viết bằng những chữ xoăn tít.

    Jill cầm nó lên và đọc một cách cẩn thận. Cô nhìn Chris, cười nhếch mép.

    “Chúng ta chẳng có bất cứ nghi vấn nào về Trent từ đây cả. Người này thật là bí hiểm”

    “Có ai biết gì về mấy cái tên này không?” David lên tiếng.

    Jill thở dài não nuột. “Xem nào, có một cái tên được đề cập trong tài liệu mà Trent đưa cho tôi – William Birkin. Chúng ta có thể đoán rằng một số người này là nhà nghiên cứu ở biệt thự Spencer, và tôi cược là họ cũng làm việc cho Umbrella. Có lẽ Birkin không có mặt trong biệt thự khi nó bị phá hủy. Những người khác thì tôi không nhận ra.”

    David gật gù. “Tôi đã kiểm tra tất cả mấy cái tên này trong cơ sở dữ liệu của S.T.A.R.S và nó trống không. Thế còn những cái kia … Một kiểu sắp xếp bí ẩn nào đó chăng?”

    Jill liếc nhìn tờ giấy, vừa đọc lại nó vừa thoáng cau mày:

    Nhận được thông điệp của Ammon/loạt màu xanh/nhập câu trả lời cho chìa khóa/đảo ngược chữ cái và chữ số/cầu vồng thời gian/đừng có đếm/nhuộm xanh để truy nhập.

    Rebecca đón lấy tờ giấy trong lúc Jill thận trọng nhìn David. ”Nhiều thứ Trent đưa cho tôi có vẻ là những món đồ ngẫu nhiên, nhưng một số trong đó lại liên quan đến những bí mật của tầng hầm Spencer. Nó giúp giải những bài toán đố để vượt qua những bẫy rập và khóa trong khu nhà.”

    “Chết tiệt thật”

    Mọi người quay lại và trông thấy Rebecca đang nhìn chăm chú vào đầu trang giấy, mặt biến sắc. Cô nhìn Chris với vẻ thất vọng và lo lắng.

    “Có tên Nicolas Griffith trong danh sách.”

    David khẽ gật đầu. “Cô biết ông ta ư?”

    Cô gái nhìn quanh một lượt, khuôn mặt lo lắng thấy rõ. “Vâng, chỉ trừ việc tôi tưởng là ông ta đã chết. Đó là một trong những người thông minh và vĩ đại nhất trong ngành sinh học.”

    Cô quay lại phía David với ánh mắt thất vọng và khiếp đảm. “Nếu ông ta làm việc cho Umbrella, chúng ta sẽ có nhiều thứ phải lo hơn là việc T-Virus phát tán ra ngoài. Ông ta là một thiên tài trong lĩnh vực siêu vi phân tử, và nếu chuyện này là sự thật thì ông ta hoàn toàn mất trí rồi.”

    Rebecca nhìn lại danh sách, bao tử của cô như bị thắt lại.

    Tiến sĩ Griffith vẫn còn sống .. và có dính líu đến Umbrella. Ngày mai có lẽ sẽ còn tồi tệ hơn thế này nữa.

    ““Cô có thể nói thêm cho mọi người về ông ta không?” David hỏi.

    “Anh biết được những gì về sự phân loại virus?” Cô hỏi.

    Anh ta cười nhẹ. “Không biết gì cả. Vì thế tôi mới ở đây.”

    Rebecca gật đầu, cố nghĩ xem nên bắt đầu từ đâu. “Thế này nhé. Virus được phân loại dựa trên cách nhân bản của chúng và loại acid nucleid bên trong virion – một yếu tố đặc trưng trong con virus cho phép nó chuyển hóa gen vào một tế bào sống khác. Mỗi gen là một tập hợp đơn giản duy nhất của nhiễm sắc thể. Theo Phân lớp Baltimore, có bảy loại virus riêng biệt, mỗi loại nhiễm vào những chủ thể nào đó theo những cách khác nhau.

    Vào đầu thập niên 60, một nhà khoa học trẻ trong một trường đại học tư thục tại California đã phản đối các học thuyết, khăng khăng cho rằng còn có nhóm virus thứ tám – loại này kết cấu một cách lỏng lẻo trên dòng virus dsDNA và ssDNA – có thể lây nhiễm bất cứ thứ gì tiếp xúc với nó. Đó chính là tiến sĩ Griffith. Ông ta công bố điều đó trên nhiều tờ báo, mặc dù sau đó hóa ra là ông ta sai nhưng những lý lẽ của ông vẫn rất xuất sắc. Tôi biết việc đó vì tôi đã đọc chúng. Cộng đồng khoa học nhạo báng lý thuyết của ông ta, nhưng cuộc nghiên cứu của ông ta về những căn bệnh siêu vi với tế bào chất có gen phi tuyến tính gây ra bởi một loại virus xác định …”


    Rebecca ngừng lại khi nhìn thấy vẻ ngơ ngác xuất hiện trên khuôn mặt mọi người. “Ô xin lỗi. Tóm lại là Griffith đã ngưng chứng minh lý thuyết đó, nhưng có nhiều người vẫn rất quan tâm tới tới những thành tựu ông ta đạt được sau này.”

    Jill nghiêm nghị ngắt lời cô. “Cô học những điều này ở đâu thế?”

    “Ở trường. Một trong các giáo sư của em ở đó là người hâm mộ lịch sử khoa học. Những học thuyết thất bại và những vụ bê bối là chuyên môn của ông ấy.”

    “Sau đó chuyện gì xảy ra?” David hỏi.

    “Lần cuối người ta nghe thấy về Griffith là khi ông ta bị đuổi khỏi trường. Giáo sư Vachss nói với chúng em rằng Griffith chính thức bị sa thải do đã sử dụng chất thuốc methamphetamines; nhưng người ta đồn là ông ta đã biến đổi tác dụng của một loại thuốc kích thích thần kinh và thí nghiệm lên một cặp sinh viên. Họ không nói gì, nhưng một người đã vào nhà thương điên và người kia thì đã tự tử. Không có bằng chứng gì cả, nhưng sau đó không ai muốn tuyển dụng ông ta nữa và sự việc rơi vào quên lãng. Đấy là những tin tức cuối cùng về Griffith.”

    “Hẳn là câu chuyện chưa chấm dứt ở đây?” David hỏi.

    Rebecca chầm chậm gật đầu. “Vào giữa thập niên 80, một phòng thí nghiệm tư nhân ở Washington bị cảnh sát khám xét, ba thi thể đàn ông được tìm thấy, họ chết vì nhiễm virus Marburg, một loại virus gây chết người. Họ chết từ nhiều tuần lễ trước đến khi láng giềng phàn nàn vì nghe thấy mùi. Những giấy tờ cảnh sát tìm thấy trong đó ghi lại rằng cả ba là phụ tá nghiên cứu của bác sĩ Nicolas Dunne, họ đã chủ động chấp nhận bị tiêm thứ virus mà họ tin là nó đã bị vô hiệu hóa. Bác sĩ Dunne ắt hẳn sẽ không để chuyện này xảy ra nếu ông ta có thể cứu chữa được.”

    Cô đứng dậy, khoanh chặt hai tay. Cứ theo những tấm hình mà cô thấy về các nạn nhân của virus Marburg thì những người này hẳn đã phải gánh chịu nỗi đau đớn kéo dài.

    Trước tiên là những cơn đau đầu, kế đến cơn đau tăng đến cực độ trong khoảng vài ngày. Sốt, đông cứng người, choáng váng, tổn thương não, xuất huyết toàn thân nghiêm trọng. Họ phải chết trong vũng máu của chính mình.

    “Và giáo sư của cô nghĩ người đó là Griffith?” David khẽ hỏi.

    Rebecca xua những hình ảnh ấy đi và quay về phía Jill, kết thúc câu chuyện của giáo sư Vachss. “Trước khi kết hôn, mẹ của Griffith mang họ Dunne.”

    Barry bật ra một tiếng huýt sáo nhỏ, trong khi Chris và Jill trao cho nhau một cái nhìn lo lắng. David chăm chú quan sát Rebecca với một ánh mắt lạnh lùng khó hiểu. Và cùng lúc đó, cô tin là mình biết anh ta đang nghĩ gì.

    Anh ta đang nghĩ liệu điều này có làm ảnh hưởng đến quyết định của mình không. Mình sẽ đi cùng anh ta đến khu nghiên cứu ở vịnh Caliban, và bây giờ mình lại biết rằng nó được vận hành bởi những người như Griffith.

    Rebecca tránh cái nhìn chăm chú của David và nhận ra những người khác cũng đang dõi theo cô, khuôn mặt của họ lộ rõ vẻ quan tâm. Từ cái đêm kinh hoàng ở biệt thự Spencer, cô đã coi họ như gia đình của mình. Cô không hề muốn rời xa họ để rồi phải trả giá bằng việc không bao giờ gặp lại họ nữa …

    …Nhưng David nói đúng. Không có nơi nào an toàn cho chúng ta một khi không có S.T.A.R.S hỗ trợ. Có lẽ đây là cơ hội cho mình góp sức, để làm công việc đúng với sở trường của mình …

    Cô muốn tin rằng đó là lý do duy nhất để mình chiến đấu một trận cho ra trò. Nhưng cô không thể ngăn một cơn rùng mình đầy phấn khích lan khắp người khi nghĩ đến việc tiếp cận T-Virus. Đây là một cơ hội bằng vàng để cô đi trước mọi người trong việc nghiên cứu những loại gen đột biến, để phân loại các hiệu ứng và chọn lọc đến từng thành phần nhỏ nhất của các virion.

    Rebecca hít một hơi thật sâu rồi thở ra, quyết định.

    “Em sẽ đi.” Cô nói. “Khi nào thì chúng ta lên đường?”
     
  4. Hoa Thần

    Hoa Thần Youtube Master Race

    Tham gia ngày:
    18/5/06
    Bài viết:
    41
    Nơi ở:
    Ở đâu?
    Chương 3
    Jill cảm thấy tim cô đập nhanh theo những lời nói của Rebecca, cô cảm giác như mọi việc đang diễn ra quá nhanh và rõ ràng là họ chưa chuẩn bị. Những quyết định của Rebecca dường như quá đột ngột, mặc dù Jill thật sự không chắc là cô ấy tình nguyện; nhưng Rebecca là người mạnh mẽ hơn cô tưởng.
    Cô liếc quanh căn phòng khách rộng thênh thang trong nhà Barry, cẩn trọng quan sát phản ứng những người đồng đội của mình. Khuôn mặt của Chris đầy vẻ căng thẳng, và nhăn nhó khi anh nhìn chằm chằm một cách vô hồn vào tấm bản đồ vịnh Caliban, trong khi Barry bước tới cửa sổ của căn phòng, vén màn và nhìn ra khoảng không bên ngoài trong sự bực tức
    Họ lo lắng cho cô ấy, và có lẽ là họ đúng ; những điều về Griffith cho thấyông ta là kẻ mất trí đáng sợ… nhưng bất kì ai trong chúng tôi đều không do dự nếu chúng ta được yêu cầu lên đường?Chứng tỏ cô cũng được tín nhiệm như họ, và đó không phải là một bất ngờ quá lớn. Nó cho biết rằng cô là một trong số ít người bị chỉ trích trong chuỗi ngày thất bại vừa qua kể từ khi ngôi biệt thự bị phá hủy. Cô luôn luôn lạc quan là họ sẽ có cơ hội chống lại Umbrella kể cả sau khi họ bị đình chỉ công việc, và cô làm việc không biết mệt mỏi để giữ cho tinh thần của họ phấn chấn hơn. Cô cũng là một con người thông minh và cô không bao giờ khoe khoang điều đó, hoặc tỏ vẻ khinh thường khi cố gắng nói về đặc điểm của T-Virus với họ.
    Rebbeca hơi bối rối, nhìn thoáng qua ba người đàn ông ở trong phòng. Kể cả David Trapp dường như cũng hơi khó chịu với quyết định của cô, có lẽ là vì tính trẻ con của Rebecca. Cô là một cô gái trẻ, nhanh nhẹn, và không có gì nghi ngờ là cô thông minh hơn tất cả chúng tôi ngồi ở đây, nhưng sự trẻ trung và nhanh nhẩu đó làm họ không thể yên tâm được. Jill nhìn vào mắt của cô và cười khích lệ. Vào tuổi của Rebecca, Jill là một ăn trộm chuyên nghiệp. Cô cũng lo cho Rebecca, nhưng chỉ vì càng ngày cô càng chú ý đến cô ấy hơn. Thật sự cô không có ý nghĩ coi thường tài năng của Rebecca.
    Rebecca cười đáp lại, và đi đến chỗ ngồi của cô khi David gật đầu lưỡng lự với người đồng đội mới của mình..” Thế này, được rồi. Tốt. Có một chuyến bay đi Bangor vào hai mươi ba giờ, và nó sẽ chờ ở một vùng ngòai địa phận Exeter. Tôi nghĩ chúng ta có thể có một kế họach nhỏ ở đây, và rồi sẽ cho cô ghé qua nhà trên đường đến sân bay vì thế cô có thể mang theo vài thứ.”

    Rebecca gật đầu, và sau đó có tiếng đóng cửa sổ, Barry quay lại tham gia với bọn họ, dựa lưng vào ghế sô pha. Anh vòng tay trước bộ ngực to lớn của mình và rung rung cái cằm về phía David. “Anh là một người giỏi chiến lược đấy,” anh nói, cố không lộ vẻ khó chịu.
    “ Tại sao anh không cho chúng tôi hành động?”
    Mối quan hệ minh bạch giữa hai người bọn họ, làm Jill thích David hơn bất cứ gì. Mặc dù Barry từng lừa cô trong thảm họa ở Spencer, Jill vẫn tin tưởng anh, cô không thể làm mọi thứ một cách dễ dàng và dường như anh rất chắc chắn vào khả năng của David Trapp.
    “Tôi không có ý chỉ huy mọi người” David nói,” nhưng tôi đang suy nghĩ làm thế nào để chúng ta có thể tiến vào chỗ đó. Tôi đã biết sự phản bội của S.T.A.R.S vài ngày nay… tuy vậy tôi nghĩ chúng ta nên có một ít thời gian để suy nghĩ chắc chắn cho hành động lần này. Tôi nhận thức được rằng những gì vừa xảy ra thật sự là một cú sốc rất lớn.”
    Jill tìm thấy điểm chung trong những lời nói chua cay của David, điều mà cô phải nhận ra sớm hơn, bằng từ “phản bội”.Sự kiện S.T.A.R.S rõ ràng có dính líu đến Umbrella làm việc ngồi đợi không phải là ý hay với Trapp… nhưng nó tốt cho cả Chris và Barry. Cả hai người đã có nhiều thời gian đóng góp cho S.T.A.R.S hơn tôi và Becca...

    Jill thất vọng và giận dữ vì S.T.A.R.S đã tự bán rẻ mình, nhưng nó không phải là động lực chính làm cô quyết định phải làm công việc lật đổ Umbrella. Mục tiêu của cô đã được định rõ vào cái ngày chị em nhà McGee bị sát hại một cách dã man. Hai cô gái nhỏ là những nạn nhân vô tội đầu tiên khi T-virus lan ra từ ngôi biệt thự Spencer và hai cô bé đều là bạn của cô. Cô đẩy nhanh dòng suy nghĩ, để tập trung vào việc hành động. Không có S.T.A.R.S, công việc của họ sẽ khó khăn hơn. Không phải không thể, nhưng cô thừa nhận với chính cô là cơ hội thành công của họ gần như là con số không. Sẽ tốt nếu cô không có suy nghĩ bị đánh bại.
    Không thể kiểm soát được mọi chuyện. Umbrella sẽ phải trả giá đắt cho những gì họ làm, cách này hay cách khác…
    Tiếng nói khàn khàn của Barry phá vỡ không khí yên tĩnh của căn phòng, cái nhìn đăm đăm của anh đầy vẻ suy nghĩ.”Có thể chúng ta sẽ đưa lên báo. Không phải là địa phương, mà lớn hơn, quốc gia.”
    David thở dài, và lắc đầu."Tôi đã nghĩ về nó. Đó là một ý kiến hay, nhưng bây giờ chúng ta không có bằng chứng nào chắc chắn.”
    “Vâng, nhưng ít nhất Umbrella sẽ không để cho chúng ta và mọi người đọc được nó.”
    “Chúng ta không thể dựa vào đó,” Jill nói.“ Nếu họ đã thâu tóm được S.T.A.R.S, thì họ sẽ có thể thâu tóm được bất cứ ai. Và nếu không có những bằng chứng… à, các bạn nên thừa nhận rằng những câu chuyện kiểu này kể cả những tờ báo lá cải cũng sẽ không mua."
    Một hồi yên lặng đầy ảm đạm, dường như những lời nói của cô nhắc họ tất cả những điều đó có vẻ như điên rồ, điên rồ với bất cứ kìa ai chưa gặp phải những gì mà họ đã trải qua.
    Một con virus đầy tai họa có thể biến đổi con người thành zombie, nó tạo ra những con quái vật thiếu mất một thứ cần cho sự sống đó là khả năng giao tiếp… một tổ chức đặc biệt đã phát minh và che dấu nó, họ là người thuê những nhà khoa học thí nghiệm trên người. Thứ cần lúc này là một chiến dịch theo kiểu phát xít với một trái bom nguyên tử, chúng ta đang có trong tay cuốn sách bán chạy nhất.
    “À, chúng ta sẽ nói gì trước cuộc họp với những người khác trong S.T.A.R.S.,” Chris nói.
    “ Tôi đã nghĩ đến vài người trong đầu, những người tôi đã từng tập luyện chung. Và tôi biết Barry đã nhận được nhiều cuộc liên lạc.”

    David gật đầu một cách hài lòng. “Vâng, tôi nghĩ điều đó nên được ưu tiên. Điều tôi lo lắng nhất bây giờ là làm thế nào để liên lạc với họ. Những văn phòng ở các chi nhánh khác có thể đã bị gắn thiết bị nghe trộm, và chúng ta muốn Umbrella không biết được kế họach của chúng ta lâu nhất có thể. Thật không may, là chúng ta không thể sử dụng người của S.T.A.R.S nhiều hơn nữa.”
    “ Có thể chúng ta nên sử dụng người trung gian,” Jill chậm rãi nói..” Người nào đó không liên quan đến S.T.A.R.S”
    Chris bổng nhiên cười toe toét..” Tôi biết một người đã từng ở trong lực lượng không quân và bây giờ đang làm việc cho Jack Hamilton, anh ta là một trong những người đứng đầu FBI - tôi không biết nhiều về Hamilton, nhưng Peter là một người thành thật cũng như chúng ta. Và anh ta đã từng mang ơn tôi.”
    “Thông minh lắm,” David nói.” Có lẽ anh nên nhờ anh ta giúp anh quan sát động thái của cảnh sát địa phương thì thật là tốt. Một khi chúng ta có được bằng chứng rõ ràng từ Maine, chúng ta có thể đến chỗ bạn anh, và yêu cầu một cuộc điều tra của cảnh sát liên bang.”

    Nghe như thật ổn, nhưng chính Jill cũng cảm thấy thất vọng vì cuộc nói chuyện này. Cô muốn hành động. Ngồi đợi S.T.A.R.S. liên lạc với họ đã đủ tệ lắm rồi; cô biết rằng Rebecca đang mạo hiểm mạng sống của mình trong khi đó họ phải chờ đợi nhàn rỗi để rồi phải chịu dằn vặt.
    “ Anh nói anh đã suy nghĩ về những điều khác mà chúng tôi có thể làm,” cô nói.
    David gật đầu..”Vâng, tuy nhiên một khi chúng ta có rắc rối với chính phủ, nó sẽ không dẫn đến đâu, quá mạo hiểm. Tôi đã lập ra một kế hoạch tương đối hòan chỉnh để xâm nhập vào cơ quan đầu não của Umbrella, một kế họach vào loại nguy hiểm nhất. Lựa chon không ngoan nhất là bây giờ nên thực hiện ở quy mô nhỏ, ít nhất tôi tin ba người các bạn nên ở ngoài tầm ngắm, càng sớm càng tốt. Tôi cũng nghĩ đó là dịp tốt để các bạn điều tra Mr.Trent, dù vậy tôi có cảm nhận rõ ràng rằng các bạn sẽ không phải đương đầu với nhiều khó khăn, nếu có chuyện gì.”
     
  5. Hoa Thần

    Hoa Thần Youtube Master Race

    Tham gia ngày:
    18/5/06
    Bài viết:
    41
    Nơi ở:
    Ở đâu?
    Anh cười thầm, và anh đã gặp Trent, Jill hoàn toàn hiểu được mối nghi ngờ của anh. Người ân nhân khác thường của họ làm cô nghĩ ông ta là một người chu đáo, kỹ lưỡng.
    “Tôi có cảm nhận rằng chúng ta chỉ tìm được ông ta khi ông ta muốn chúng ta tìm,” David tiếp tục, “nhưng điều đó đáng để chúng ta xem xét. Và chúng ta sẽ cần xếp đặt một chỗ hẹn sau khi chúng ta…”
    Giọng nói mềm mại, du dương của anh thốt ra thình lình khi anh nghiêng đầu sang một bên, chăm chú lắng nghe. Jill nghe nó trong sự bất thần và cảm thấy tim cô thắt lại trong lồng ngực.
    Một tiếng sột xọat ở những bụi cây bên ngoài cái cửa sổ Barry đã mở.
    Umbrella!!!
    “Nằm xuống!” Jill gào lên, ngã lăn ra ghế sô pha, và cô kéo Rebecca theo cô khi cửa sổ vỡ ra từng mảnh, tấm màn che bị gió thổi tung sang một bên trong tiếng đạn nổ phát ra từ khẩu súng trường tự động.
    David nằm xuống sàn khi những viên đạn găm vào cái ghế anh đang ngồi, và vồ lấy khẩu súng của mình. Những chùm lông nệm bay lơ lửng trên không qua mắt anh khi những vệt đen phá hỏng ngang qua bức tường, lớp hồ và gỗ bay tung tóe.
    Thật kinh khủng…
    Sự phá hủy nhanh chóng của một cuộc đột kích, chỉ đủ để họ nghe được tiếng thủy tinh vỡ vang từ ngôi nhà.
    “Barry, đèn!” anh hét lớn, nhưng Barry đã ở con đường đối diện, tiếng ầm ầm của khẩu súng Colt làm cho tiếng của cây súng máy bị ngắt quãng.
    Boom!Boom!
    Căn phòng chìm trong bóng tối khi lọat đạn của Barry trúng mục tiêu, thủy tinh rơi xuống như mưa từ trên cao. Đèn vẫn còn phất phơ trong bóng tối ngoài hành lang, và lại thêm một loạt đạn từ bên ngoài.
    Chris sờ soạng khom người chạy tới hành lang và di chuyển nhẹ nhàng trong tư thế gập lưng, cố gắng phá những chiếc đèn phụ. Căn phòng khách bây giờ hoàn toàn chìm trong bóng tối, và tiếng nổ phát ra từ khẩu súng máy đã dừng lại.
    Tiếng ù ù qua tai của anh, David nghe thấy tiếng giày đạp lên những mảnh thủy tinh phát ra từ nhà bếp. Bước chân nặng nề đã dừng lại, có lẽ kẻ đột nhập đã đứng chờ cho những tên vừa bắn đuổi kịp và hình như là có trên hai tên, đang đứng chặn các lối ra. Cửa nhà bếp, trước hành lang, một vài tên khác đang xem xét ở những cánh cửa sổ…
    Có thêm người đang tiến vào nhà bếp, gấp rút và bước vào, nhưng họ cũng dừng lại. Một cặp đang đứng đợi, hoặc là có thêm người của họ hoặc là một nhóm S.T.A.R.S. đang chuyển động. Những ý nghĩ của David diễn ra độc lập với bản thân anh ; xem xét, loại bỏ những ý tưởng và chọn lựa theo bản năng trong thời gian nhanh như chớp.
    Chúng ta lên lầu, và bắn từng đứa - nếu không chúng cũng sẽ trở thành mồi lửa cho căn nhà- vì thế chúng ta sẽ chạy thẳng ra ngoài, không cần vào đây - trừ khi nếu chúng chịu được lửa, thì có lẽ chúng là quỷ và di chuyển ra khỏi đây là mục tiêu của chúng ta, không bàn cãi gì nữa…
    Tất cả những gì anh biết chắc chắn là họ không thể ở lại nơi đây. Không còn nơi trú ẩn khi bọn sát nhân gây cho họ những chuyện mệt mỏi vì chờ đợi.
    Cái bóng đen nặng nề của Barry đang tiến nhẹ nhàng về phía anh. Đôi mắt của David dễ dàng nhìn thấy Jill và Rebecca ở những góc khác của bàn cà phê, cả hai người bọn họ đang khom mình và cầm chắc khẩu súng lục. Anh không thể thấy Chris ở ngoài, như có lẽ anh vẫn còn ở hành lang. Căn nhà của Barry hầu như đã bị kiểm soát chặt, nhưng bên ngoài công viên rậm rạp không còn ai hết . Nếu họ có thể thoát ra được, thì họ sẽ phải vào trốn những cái cây…
    Ý nghĩ bị mắc kẹt; kể cả một kế hoạch tồi vẫn tốt hơn tất cả, và họ không có thời gian để thực hiện nhiều phương án.
    “Cửa tầng dưới?” David thì thầm.
    Giọng khàn khàn Barry nhỏ xíu và căng thẳng."Được.”
    Không tốt lắm, nó phải được thực hiện nhanh. Họ ra ngoài băng qua tầng hai.
    “Chúng ta sẽ băng qua công viên,” anh thì thầm một cách mau lẹ.
    Jill, tìm Chris và chuẩn bị đến nơi ẩn nấp theo ám hiệu của tôi. Barry, Rebecca, ngay khi chúng ta bắt đầu, phải xuống cầu thang thật nhanh chỗ cửa sổ phía đông, nhẹ nhàng thôi. Chúng ta sẽ theo sát nhau. Sẵn sàng? Chạy.”
    Jill đã chạy vòng qua cái ghế sô pha, lặng lẽ biến mất vào trong bóng tối, Barry và Rebecca ở đằng sau. David dừng lại một chút để có đủ thời gian vớ lấy những trang giấy Trent đưa cho anh. Anh nhét chúng vào trong áo sơ mi, những trang giấy lạnh lẽo và nhàu nát chạm vào làn da đầy mồ hôi của anh. Sẽ không có chuyện gì khác khi cái vali của anh chẳng may bị hỏng.
    Anh bò về phía khoảng tối của hành lang, đi luồn tới chỗ Jill và Chris đang trốn. Cửa vào đối diện phía bên hông cầu thang. Bên trái là cửa trước và phải qua được đó. Bên phải là cái phòng bếp yên tĩnh, nằm cuối hành lang nơi có hai nhân viên Umbrella đứng đợi.
    Chúng bên phải, tôi sẽ đi sang trái, trước khi cuộc săn bắt đầu với những người còn lại của đội đột kích thì tôi nên nhanh chóng qua lối cửa trước.

    David hi vọng. Nếu sự tính toán thời gian không được hoàn hảo, thì họ sẽ chết. Chỗ cái đèn nhỏ yếu ớt phía cửa sổ quá tối để có thể ra hiệu. Anh dựa sát giữa Jill và Chris, và cố gắng nói càng nhỏ càng tốt.
    “Bọn chúng ở bên phải, Jill nhẹ thôi và phía ngoài,”
    anh thều thào. Bọn chúng không có ở tầng dưới, và Chris có thể sử dụng bức vách chỗ cửa vào làm lá chắn.” Tôi sẽ đi ra cửa trước. Hãy làm đúng như thế trong vòng sáu giây, không nhiều hơn. Đếm đến không, các bạn cần phải ở trên cầu thang, phải ra khỏi hành lang. Nghe tôi đếm… ngay bây giờ!”
    Cả ba người vọt nhanh đến địa điểm, Chris và Jill bắn về phía nhà bếp, David chạy nhanh qua trái. Anh chạy tới cửa trước trong tư thế cúi thấp, nhịp đếm vẫn tích tắc trôi qua.
    …năm…bốn…
    Đằng sau anh, Barry và Rebecca chạy nhào tới cầu thang trong khi tiếng đạn nổ ầm ầm. David chỉnh khẩu Beretta trong bóng tối và chỉ còn cách cánh cửa một bước chân khi anh đá nó mở toang.
    Bam!
    Tiếng gào của anh xuyên qua lớp gỗ dày và anh ném chính mình bay đi, sau khi đóng mạnh cánh cửa. Anh ngã lăn xuống sàn vì gót chân của anh bị vướng.
    ...hai…
    Anh bắn về phía cánh cửa ở góc cao, năm phát nhanh nhất có thế. Một tiếng thét nghẹt thở, âm thanh của nó vang khắp cả hành lang, và anh bắn ba phát nữa trước khi đụng đậy cái chân, vào trong căn phòng nhỏ dưới cầu thang và thóat khỏi đường đạn. Thời gian của họ đã hết
    David quay người, thấy Jill và Chris đã ở con đường trên và khi chân anh chạm được bậc thang đầu tiên thì có tiếng gì đó như tiếng nổ đằng sau anh. Trong nháy mắt cánh cửa trước trở thành những mảnh vụn bay tung tóe, một lọat đạn dữ dội xuyên qua lớp gỗ khi Umbrela cố gắng kết thúc trận chiến. Nếu hai thành viên Alphas không giết được mấy tên trong nhà bếp, thì chắc chắn bây giờ họ đã chết rồi.
    Chạy được nữa cầu thang, David xoay người và bắn hai lần nữa xuyên qua cánh cửa bị phá hủy nhanh chóng, anh hi vọng mình mua chuộc được S.T.A.R.S. để có đủ thời gian trốn thoát.
    Mười, có lẽ là hai mươi giây trước khi chúng nhận ra chúng ta đã biến mất.

    Như thế thì chuyện này đã kết thúc.
    Rebecca đứng ở đầu cầu thang, tim cô đập mạnh như muốn lọt ra ngoài vì những phát bắn ầm ĩ vào Jill và Chris ở trên những bậc thang lầu.
    Nhanh nào, nhanh nào…
    Barry dẫn cô sang phải, kết thúc những bậc thang cuối cùng của căn phòng lớn, ánh sáng nghèo nàn của ánh trăng rọi qua cái cửa sổ mở. Jill đang chạy đầu tiên. Rebecca hướng mình chạy sát Barry, Chris đang theo gần ở phía sau.
    Bam!Bam!
    Họng súng trên khẩu chín li của David loé lên giữa bóng tối trên những bậc thang, và sau đó anh là người chạy trước cô, anh xuất hiện trong sự tối tăm, u ám giống như một bóng ma với đầy mồ hôi.
    “Đường này…”
    Rebecca quay người và chạy tới cửa sổ, David đang ở cạnh cô. Jill đã tới đó và Chris cách khỏang nữa đường, Barry nắm chặt một bàn tay của mình khi anh cố gắng giữ thăng bằng,
    Xin Chúa, hãy cho con một vật đệm, một….
    BOOM!
    Tiếng cánh cửa trước bị mở toang theo buớc chân nặng trịch kèm theo tiếng bị ngắt quãng của một người đàn ông, giận dữ và đang ra lệnh. Chris biến mất qua cửa sổ và sau đó Barry đưa tay cho cô, lời nói của ông ta thật đáng sợ. Cô gắn lại khẩu súng lục vào bao súng và tiến về phía cửa sổ.
    Bàn tay ấm của Barry đặt lên lưng cô, Rebecca đi chầm chậm về phía ngạch cửa và nhìn xuống, cỏ mọc dày, tươi tốt và phía dưới cũng không xa lắm. Cô bắt được cái nhìn thoáng của Jill , đang đứng đến sân cỏ, nhắm khẩu súng của mình vào phía trước căn nhà và Chris ngẩng đầu nhìn họ, khuôn mặt đẹp trai của anh đầy sự căng thẳng:
    - đừng nghĩ ngợi nữa nhảy đi –
    Rebecca bay qua cửa sổ, bàn tay của Barry giữ lấy tay cô. Vai cô hơi ê vì sức hút của trái đất, Barry nghiêng sang một bên để khỏi ngã vào cô, cơ thể cô lơ lửng giữa không trung.
    Anh rơi xuống và trước khi cô cảm thấy sợ hãi thật sự, cô đã chạm phải những bụi cây. Cô bị thương nhẹ, những cành cây cào vào chân cô, và sau đó Chris kéo cô ra ngòai, anh dễ dàng đỡ được cô lên ra khỏi những bụi cây leo đó.
    “Lùi lại” anh thở nhẹ, Chris lại tập trung sự chú ý của mình về phía cửa sổ.
    Rebecca rút cây súng lục ra khi cô bước trên sân cỏ, quay người đối diện với vùng tối tăm phía sau nhà. Bên trái cô, là những cái cây sẫm màu cách cô khoảng 20 mét, yên lặng .
    Nhanh lên, nhanh lên…
    Có tiếng đạn nổ lách tách rất to ở trong nhà và tiếng đập mạnh trong những bụi cây phía phải cô, nhưng cô không quay sang đó, ý định phụ thuộc vào công việc được giao của cô. Cái gì đó đang chuyển động, ở góc của ngôi nhà. Rebecca không chút lưỡng lự, bắn hai phát vào chỗ đó, cây súng 38 của Barry làm tay cô giật mạnh. Người đó ngã nhòang về phía trước đủ để cô nhận rạ cô vừa bắn một tên đang cầm cây súng trường và hắn ta đã không cầm nó được nữa.
    - đừng bao giờ bắn bất cứ ai trước khi –
    “Đi nào!” Chris thét lớn, và Rebecca quay đầu nhìn xung quanh, cô thấy Barry đang trèo ra khỏi bụi cây và ngã nhào về phía họ. Có tiếng kêu to từ phía cửa sổ, tiếp theo là tiếng nổ từ một cây súng máy. Rebecca thật sự cảm nhận được những viên đạn bắn xuống dưới đất rất gần chân cô, nó xé thảm cỏ thành những lát đất., làm nó rơi trúng chân cô.
    Shit!
    David và Jill bắn trả khi họ chạy về phía những cái cây, còn Chris đang dẫn đường. Những tay súng vừa cúi đầu vừa bắn; tiếng đục lẻng kẻng của súng trường phá vỡ sự yên lặng. Khi họ đã với được tới chỗ rừng tối thăm thẳm, Rebecca nghe thấy tiếng còi hú gần đó - tiếp theo rất gần là những tiếng nói to và tiếng bước chân chạy về phía trước hiên nhà cũa Barry. Những giây sau đó, lại có tiếng rít lên của những cái lốp xe. Rebecca bị vầp ngã trong cái rừng nhỏ đầy bụi cây, và cô né vào giữa những thân cây xù xì và chật hẹp, cố gắng không để người khác nhìn thấy .Cây súng lục có vẻ quá nặng đối với cô và toàn bộ cơ thể cô dường như trở nên nặng nề, đôi chân của cô đang run rẩy, và hơi thở gấp và không sâu. Mọi việc xảy ra quá nhanh. Cô biết rằng họ đang ở trong tình trạng nguy hiểm, rằng Umbrella không muốn họ can thiệp vào chuyện của họ, nhưng cô cũng biết mọi việc đang diễn ra không giống như cô đã tin, khi biết rằng bọn người lạ hung dữ tấn công vào nhà Bary và cố gắng lấy mạng họ…
    … và tôi phải bắt một tên trong bọn chúng thế chỗ. Ý nghĩ rằng cô có thể giềt một ai đó…
    cô tống suy nghĩ đó ra khỏi đầu trước khi nó có hiệu lực, và tập trung sự chú ý vào cái bóng lờ mờ của Chris ở đằng trước. Lương tâm của cô chờ đợi cho đến khi cô có thời gian suy nghĩ lại nó một cách xuyên suốt.
    Phía trước họ, cánh rừng rậm rạp mở ra một khoảng trống, cái sân chơi phát ra những ánh sáng nhợt nhạt từ ngọn đèn. Chris đi chậm chạp và dừng lại tại hàng cây cuối cùng, anh quay lại tìm chỗ tối để họ nghĩ ngơi.
    Rebecca đuổi kịp anh, Barry và Jill ở đằng sau cô, tất cả bọn họ đều thở nặng nề và nhìn một cách sửng sốt rồi dần điềm tĩnh là những gì Rebecca cảm thấy.
    “David, David đâu?” Chris nói hỗn hển, và khi tất cả họ quay lại, căng thẳng nhìn vào vùng tối vừa đi qua, với tay tới những cành cây, Rebecca thấy một trong những tên theo dõi họ. Một sự ngụy trang, di chuyển nhẹ nhàng.
    Cô ngã xuống đất, kể cả khi cô thét lên, một luồng khí lạnh chạy qua đầu cô…
    …. Và khi tên theo dõi bắn về phía họ, lần thứ hai, phát súng nhỏ hơn so với những tiếng nổ ầm ầm trong nhà. Lại thêm phát súng thứ ba, lớn hơn, gần hơn, tên theo dõi sẫy chân và ngã nhoàng, làm phát ra tiếng gẫy lắc rắc từ cành cây trước khi hắn ngã xuống nền đất bùn yên lặng. Trừ những tiếng rên rĩ của cái còi báo động, thì công viên vẫn còn người.
    Rebecca chậm chạp nâng đầu của cô dậy, nghển cổ nhìn và cô đã thấy David, đứng, vẫn còn nhắm khẩu Beretta vào tay súng nằm dưới đất. Jill và Chris cúi xuống cạnh cô, cả hai bọn họ vẫn còn nhắm khẩu súng, nhìn chằm chằm xung quanh họ, xem xét rộng với cái nhìn đăm đăm…
    …và ở những góc khác của cô, Barry nằm dài trên nền đất, mặt anh hướng về phía vùng thông lá kim và chết lặng một hồi lâu.
     
  6. Lioncoeur

    Lioncoeur Fire in the hole!

    Tham gia ngày:
    5/5/03
    Bài viết:
    2,645
    CHƯƠNG 4

    Màn đêm kéo dài dường như vô tận, hoàn toàn im lặng. Anh thấy mình chìm đắm trong một vực thẳm tối tăm, và rồi một giọng nói lay động ý thức của anh, một giọng nói mà anh không sao xác định được ngay tức thời. Ở xa xa đâu đó, anh nghe thấy những tiếng còi báo động.

    anh ấy trúng đạn rồi
    ôi lạy Chúa
    trông chừng xem có phục kích không
    chờ đã, em không tìm thấy vết thương – Barry? Barry,
    có thể
    “Barry, anh có nghe thấy em không?”


    Rebecca. Barry mở mắt ra và nhắm lại lập tức, khuôn mặt anh nhăn nhúm vì một cơn đau kịch liệt lan khắp đầu. Và lại thêm một cơn đau buốt nữa ở cánh tay trái, nhưng nó hoàn toàn không dữ dội như trên đầu. Trước đây anh đã từng nếm mùi đau đớn như thế này.

    Trúng đạn, đâm đầu vào cây cối … hoặc vào cái mấy cái tên ngu ngốc vẫn hay cầm gậy bóng chày ấy.

    Anh cố gắng mở mắt lần nữa khi một bàn tay nhỏ nhắn áp lên ngực, nhẹ nhàng rà soát. Phải mất vài giây để nhận ra được những khuôn mặt đang nhìn anh lo lắng: Jill và Chris, Rebecca thì trông có vẻ hoảng sợ, tay của cô đang sờ soạng khắp y phục của anh để tìm kiếm vết thương. Tiếng còi báo động nhỏ dần, mặc dù anh có thể nghe thấy tiếng xe cảnh sát dừng phía nhà mình, tiếng động cơ tăng tốc gầm rú vang khắp công viên.

    “Bắp tay trái.” Anh lầm bầm và nhỏm dậy.

    Những thân cây tối om chập chờn nhảy múa trước mắt anh, và rồi Rebecca nhẹ nhàng đẩy anh ngồi xuống.

    “Đừng cử động.” Cô khẽ nói. “Anh hãy nằm yên một lát đã. Anh Chris, cho em mượn cái áo sơmi.”

    “Nhưng Umbrella …” Barry thốt.

    ”Không có ai theo chúng ta nữa.” David ngồi khuỵu xuống bên cạnh mọi người.

    ”Khẽ thôi.”

    Rebecca cẩn thận nhấc cánh tay của anh lên, quan sát cả hai bên. Barry khẽ gập cánh tay và lập tức cau mặt lại vì đau, nhưng như thế cũng đã may rồi, vì phần xương vẫn còn nguyên vẹn.

    “Chạm vào phần cơ Delta.” Rebecca nói. “Tạm thời anh không được mang vác vật nặng đâu đấy.”

    Cô nói một cách nhẹ nhàng, nhưng Barry có thể thấy được ánh mắt lo lắng của cô khi quan sát khuôn mặt của anh. Cô thắt chặt cái áo sơmi quanh cánh tay và nhìn anh chăm chú.

    “Anh bị một cú đập rất mạnh trúng thái dương.” Cô nói. “Anh thấy sao rồi?”

    Cơn đau đớn lúc này đã giảm đi chút ít, dù rằng đầu anh vẫn còn kêu ong ong. Anh thấy khắp người cứ lâng lâng và có cảm giác buồn nôn, nhưng dù sao thì anh vẫn còn nhớ tên của mình và hôm nay là thứ mấy. Nếu đây chỉ là do chấn động thì chắc là anh sẽ không sao.

    Nhưng mà hậu quả của nó thật là tệ hại.

    “Thật phiền toái.” Anh nói, “nhưng không sao, ổn rồi. Chắc là tôi đã đâm sầm vào một cái cây lúc bị ngã.”

    Sau khi Rebecca đã thắt xong dải băng tạm bợ, anh đứng dậy lần nữa, bây giờ có vẻ tốt hơn nhiều. Họ phải đi khỏi đây trước khi cảnh sát bắt đầu lục soát công viên, nhưng đi đâu bây giờ? Umbrella hẳn là không tiến hành đột kích hai lần trong một đêm, nhưng giả thiết này không đáng để thử chút nào. Nhà của họ lúc này chắc chắn không an toàn để trú ngụ. Ít ra gia đình anh đã không bị tổn hại gì vì đã dời về ông bà ngoại ở Florida. Thật tồi tệ khi nghĩ đến cảnh họ vừa đến nơi, mấy đứa trẻ đang chơi đùa trong phòng thì tiếng súng vang lên.

    Anh cố lấy lại sức trong lúc lắc lư hai chân, trong lòng trào dâng cơn thịnh nộ mà anh đã trải qua vào cái buổi tối trong ngôi biệt thự. Lúc đó Wesker đã mang Kathy và lũ trẻ ra để đe dọa, buộc anh phải che dấu những bí mật của Umbrella, đồng thời lợi dụng anh để tiến sâu vào phòng thí nghiệm dưới đất.

    Mặc cảm tội lỗi của Barry đã biến thành cơn giận từ lúc đó, một cơn thịnh nộ vượt quá mọi thứ mà anh từng biết.

    “Đồ kinh tởm.” Barry gầm gừ. “Chết tiệt cái lũ Umbrella kinh tởm này.”

    Mọi người cùng đứng lên bên cạnh anh, khuôn ngực trần của Chris nhợt nhạt đi dưới ánh sáng yếu ớt, họ cảm thấy bớt căng thẳng khi thấy Barry không bị thương nặng, ngoại trừ David, Barry chưa bao giờ thấy anh ta rầu rĩ như lúc này. Hai vai David rũ xuống giống như bị trì kéo bởi một vật nặng vô hình, anh tránh ánh mắt của Barry khi lên tiếng.

    “Người bắn anh,” David nói. Anh ta đang cầm một khẩu 9 ly lắp ống giảm thanh, máu vung vãi khắp báng súng. “Đã bị tôi giết. Tôi .. Barry, đó là Jay Shannon.”

    Barry nhìn David chằm chặp. Anh không tin vào tai mình mặc dù đã nghe thấy từng chữ một. Chuyện này không thể xảy ra.

    ”Không đâu. Hẳn là anh đã nhìn nhầm, trời tối quá …”

    David quay người bước về phía lùm cây, dẫn mọi người đến chỗ thi thể của tay súng bị hạ. Barry loạng choạng đằng sau, cảm thấy còn đau đầu hơn lúc đâm sầm vào cái cây đằng kia.

    Không thể nào là Shannon, không lý nào. Chẳng qua David bị đợt tập kích làm cho bối rối nên đã nhầm lẫn, thế thôi.

    … Ngoại trừ một điều là David chưa bao giờ biết bối rối dưới làn đạn, và anh ta không hề dễ dàng nhầm lẫn. Barry nghiến chặt hai chân để chống lại cơn đau và nối bước, một lần nữa anh hy vọng ông bạn của mình đã sai.

    Tay súng đang nằm sóng soài dưới đất, có thể do David đã lật hắn lên. Dù thế nào đi nữa thì giờ đây hắn ta đang nhìn mọi người bằng đôi mắt vô hồn, một bên mắt ngẫu nhiên bị lá thông phủ lên. Khẩu Barreta của David đã khoét một lỗ thủng trên áo của hắn, đúng ngay tim. Barry nhìn xuống khuôn mặt xám ngoét ấy, cảm thấy tim mình như thể hóa đá.

    Lạy Chúa, Shannon, tại sao? Tại sao là anh?

    “Anh ta là ai thế?” Jill khẽ hỏi.

    Barry nhìn xuống tử thi, không sao trả lời nổi. David cất giọng trống rỗng và yếu ớt.

    “Đội trưởng Jay Shannon của cơ quan S.T.A.R.S thành phố Oklahoma. Barry và tôi đã được huấn luyện chung với anh ta.”

    Barry lúc này đã có thể lên tiếng được, trong lúc vẫn nhìn bộ mặt bất động của Jay. “Tuần trước, tôi đã gọi cho anh ta sau khi nói chuyện với David. Anh ta tỏ ra lo lắng cho mọi người, và bảo rằng sẽ chú ý theo dõi Umbrella …”

    Và chúng tôi đã trò chuyện một lúc lâu, hỏi han, ôn lại những chuyện cũ. Tôi nói sẽ gởi cho anh ta xem hình của lũ trẻ, rồi anh ta nói rằng phải gác máy, rằng anh ta không thể nói nói chuyện tiếp vì có một cuộc hẹn …

    Umbrella hẳn đã mua chuộc được anh ta, biến cố này quá đỗi thất vọng, quá đỗi tàn nhẫn và đột ngột, kinh khủng tột bực. Umbrella có thể đứng phía sau cuộc tập kích, nhưng kẻ thi hành chính là S.T.A.R.S. Bọn họ đã đột kích nhà Barry, bản thân Barry thì bị bắn bởi người mà anh ngỡ là bạn bè.

    Không gian yên tĩnh bị phá vỡ bởi tiếng chó sủa, những âm thanh xuyên qua bóng cây. Căn cứ vào bầy chó và phương hướng, có thể biết là đơn vị RPD K-9 đã tiến vào căn nhà. Barry rời mắt khỏi thi thể, hướng tư tưởng của mình về thực tại. Họ phải đi ngay.

    “Chúng ta đi đâu đây?” David hỏi nhanh. “Có chỗ nào mà Umbrella không đoán được không, cabin hay một cao ốc bỏ trống nào đó … một chỗ mà chúng ta đi bộ đến được?”

    Brad!

    “Mấy căn nhà của gã thỏ đế không bán được đã mấy tháng nay,”
    Barry nói. “Chỗ đó bỏ trống và cách đây gần một dặm”

    David gật đầu dứt khoát. “Đi thôi.”

    Barry hướng về khu trò chơi trong công viên, dẫn mọi người băng qua dưới ánh trăng rực rỡ. Có một con đường mòn nhỏ hướng đến hai khu nhà đằng xa, hy vọng đủ xa để tránh bị cảnh sát theo dấu. Barry đã đi qua công viên cả triệu lần rồi, lúc nào cũng có vợ bên cạnh và lũ trẻ ríu rít dưới chân.

    … nhà mình. Chỗ đó đã là nhà mình, và sẽ không bao giờ là của mình nữa.

    Khi mọi người chạy xuyên qua màn đêm ấp áp yên tĩnh, Barry nhận ra vết thương trên tay trái lại bắt đầu rỉ máu. Anh lập tức siết chặt tay phải lên chỗ băng bó tạm, mặc kệ cơn đau bùng phát khi họ vòng qua những lùm cây và tiến về căn nhà của Brad.

    Đủ rồi. Thế này quá đủ rồi. Các con mình sẽ không phải lớn lên trong cái thế giới đầy rẫy những chuyện như thế này, chừng nào mình vẫn còn hơi thở.

    Rất nhiều chuyện đã xảy ra, thế nhưng cuộc chiến của họ chỉ mới bắt đầu thôi. Vẫn còn nhiều người trong S.T.A.R.S mà anh có thể tin tưởng, có thể trông cậy, và anh sẽ không để mọi việc vượt ngoài tầm kiểm soát nữa. Đến lần sau, có lẽ họ sẽ không phải chạy trốn như thế này. Nếu David và Rebecca thành công với điệp vụ Maine, họ sẽ có tất cả những gì cần thiết để khuất phục Umbrella, một lần và mãi mãi.

    Umbrella có đầy rẫy những kẻ xấu xa, và Barry nhận thấy cần phải trù tính đến việc này trong kế hoạch thâm nhập của họ.

    Jill cạy khóa một cách thành thạo, cô dùng một cái ghim băng bẻ cong và bông tai của của Rebecca để mở cửa vào căn hộ nhỏ. Rebecca lập tức kéo Barry về phía tủ thuốc, trong khi Chris tìm một cái áo sơmi cho mình. David và Jill kiểm tra ngôi nhà kỹ lưỡng. David càng lúc càng thấy hài lòng.

    Anh không thể nghĩ ra nơi ẩn nấp nào tốt hơn nữa. Ở đây có đủ yếu tố bảo đảm cho Barry và hai thành viên đội Alpha an toàn. Căn nhà có hai phòng ngủ và một sân sau được thiết kế theo kiểu khá an toàn, ánh đèn bật sáng soi rõ bãi cỏ khi Davis mở cửa sau, và tầm nhìn từ đây cho phép họ thấy được những thứ có kích cỡ của một con chó lớn ở bất cứ đâu trong nhà bên cạnh. Có nhiều căn nhà như vậy xung quanh, và có một cửa sổ đằng trước nhìn ra một sân trường rộng bên kia đường. Hoàn toàn không có chỗ ẩn nấp cho kẻ nào muốn tiếp cận căn nhà.

    Căn nhà trang bị những đồ đạc đơn giàn, sự lộn xộn của nó cho thấy chủ nhân đã hấp tấp đi khỏi trong sự hoang mang. Các vật dụng cá nhân và sách vở vung vãi khắp căn phòng, có vẻ Vickers không biết phải mang cái gì theo trong lúc vội vã trốn khỏi thành phố Raccoon.

    Với những chuyện xảy ra tối nay, thật khó trách anh ta đã chạy trốn.

    Vickers hiển nhiên đã gặp rắc rối với công việc, nhưng cũng chẳng đáng phải coi anh ta là kẻ chết nhát. Không phải ai cũng sẵn sàng liều lĩnh hết ngày sang ngày khác, và cứ theo tình hình gần đây thì việc đào tẩu là hoàn toàn hợp lý với những người như Vickers. Họ vẫn có thể cần đến anh ta giúp sức, nhưng với những điều ít ỏi mà Barry đã tiết lộ thì mọi người quả thật không muốn cộng sự với viên phi công của đội Alpha nữa. Cho dù không bị giết thì anh ta cũng đã đánh mất sự tin tưởng của các đồng nghiệp rồi, và chẳng có gì tệ hơn là làm việc chung mà cứ nghi kỵ nhau.

    David đang ngồi trên chiếc ghế dài xanh trong phòng khách chật hẹp tăm tối, tập trung tư tưởng trong khi Jill lục lọi nhà bếp. Anh tìm thấy một tập giấy trống và một cây bút, rồi bắt đầu viết nguệch ngoạc tên và địa chỉ của các đội viên và những cơ sở liên lạc mà anh có, cũng như số điện thoại của Brad, để mang theo bên mình. Anh nhìn quanh căn phòng, cố gạt bỏ những ý nghĩ bi quan về tình thế lúc này. Anh không muốn bỏ qua bất cứ chi tiết quan trọng nào cần được bàn thảo trước khi khởi hành cùng Rebecca. Nếu thực hiện kế hoạch này, Barry, Jill, và Chris sẽ phải tự đối phó với hậu quả của cuộc tấn công đêm nay.

    S.T.A.R.S, những vần thơ của Trent, các mục tiêu và đầu mối liên lạc.

    Thật khó mà tập trung sau khi liên tiếp trải qua đủ thứ biến cố, chúng chẳng có tác dụng gì ngoài việc khiến anh thấy mệt mỏi. Anh đã không thể ngủ ngon giấc nhiếu ngày nay, ý nghĩ về những thứ đang chờ đợi phía trước càng làm anh khó tập trung hơn. Thông tin của Rebecca về Griffith đã làm đảo lộn mọi tính toán, có thể nói, mặc dù anh không hề giảm quyết tâm trong kế hoạch ở vịnh Caliban, nhưng việc này đã tạo thêm một mối lo lắng vào trong danh sách dài lê thê những thứ tương tự.

    Chris bước vào, mặc trên mình một cái áo vệ sinh màu xanh nhạt với ống tay đã đứt rời và quăng mình xuống cái ghế đối diện David, khuôn mặt khuất trong bóng tối. Một lát sau, anh nghiêng người về phía trước, và David có thể nhìn thấy nét mặt của Chris phơi dưới luồng ánh sáng yếu ớt. Ánh mắt của chàng thanh niên đượm vẻ mệt mỏi, tư lự và hối tiếc.

    “David, anh chắc cũng biết rằng mấy tuần qua chúng tôi gặp toàn là rắc rối? Phải chờ xem động tĩnh của Umbrella, mọi thứ đình trệ, cảm thấy sự hy sinh của đồng đội trở nên vô nghĩa … “ Chris dừng lại một chốc rồi tiếp tục. “Tôi chỉ muốn xin lỗi về sự va chạm trước đây, tôi thực sự hoan hỉ khi anh đứng về phe chúng tôi. Lẽ ra tôi không nên cư xử như một thằng ngốc về việc đó.”

    David ngạc nhiên và cảm kích trước sự chân thành của những lời này; hồi anh ở tuổi hai mươi, anh thích cư xử bằng hành động hơn là biểu lộ cảm xúc, tất nhiên ngoại trừ cơn giận. Anh chẳng gặp khó khăn nào khi thể hiện cơn thịnh nộ.

    Anh đã kế thừa điều đó từ cha mình …

    ”Anh không cần phải xin lỗi đâu,” David nhẹ nhàng nói. “Sự lo lắng của anh là hoàn toàn chính đáng. Tôi – Tôi đã tự làm cho mình bị căng thẳng, và đã tỏ ra độc đoán. Tổ chức S.T.A.R.S có ý nghĩa rất lớn với tôi, và tôi muốn chúng ta … tôi muốn nó có thể trở lại như xưa.

    Jill bước vào từ nhà bếp, giải thoát cho David khỏi bài diễn thuyết lóng ngóng của anh ta. Có vẻ Chris cũng hiểu điều đó; hai người nhìn nhau, gật đầu, biết rằng khoảng cách giữa họ đã bị xóa bỏ. David ngầm thở dài, tự nhủ phải chi mình có thể vượt qua được sự lúng túng khi biểu lộ cảm xúc.

    Anh đã suy nghĩ rất nhiều chuyện từ sau cuộc gọi của Barry, về bản thân anh, về sự phẫn nộ trước hành động trở mặt của S.T.A.R.S, về mối lo lắng khi mà cuộc sống bị xáo trộn. Anh đã chúi đầu vào công việc để chôn vùi những ký ức tồi tệ thời thơ ấu, nhưng giờ đây, khi đối mặt với Umbrella và sự bội bạc của cái tổ chức mà anh đã từng xem như gia đình mình, anh buộc phải suy nghĩ đến việc lựa chọn hướng đi cho mình. Nó đã đào tạo anh thành một quân nhân xuất sắc, nhưng cũng lấy đi của anh những người bạn thân và cộng sự … và việc cái “gia đình” ấy biến chất thành tàn bạo đã khẳng định một sự thật, rằng anh đã chìm đắm quá sâu vào công việc đến mức xa lánh quan hệ cộng đồng.

    Tốt hơn là hãy toan tính những chuyện ấy sau cuộc chơi. Có lẽ mình nên cám ơn Umbrella về việc lần này; nếu họ không giết mình thì ít nhất họ cũng tìm cách để đẩy mình vào viện tâm thần cho mà xem.

    Jill mang ra một bình nước và một mớ ly to nhỏ khác nhau mà cô tìm thấy khi lục lọi xung quanh. Barry và Rebecca cũng đã quay lại. Cánh tay của Barry được băng bó cẩn thận, trông anh nhợt nhạt hẳn đi dưới ánh sánh lờ mờ, nhất là sau cú sốc về Shannon. David thấy hết sức buồn bực về việc bắn Shannon, cho dù anh đã cố tự giải thích rằng đó là sự tàn nhẫn của cuộc chiến; trong chiến tranh, luôn luôn có người chết. Đội trưởng Shannon phải trả giá cho lựa chọn sai lầm của mình.

    Mọi người im lặng uống nước, bốn thành viên S.T.A.R.S Raccoon (cựu thành viên, anh tự nhắc mình một lần nữa) trầm ngâm và ủ rũ, chắc là đang nhẩm đếm tiếng đồng hồ tíc tắc. Vào lúc này họ có thể gọi taxi bằng cách sử dụng điện thoại ở cửa hàng tạp hóa cách đây một dãy nhà. David ước mình có thể nói gì đó để khích lệ mọi người, nhưng sự thật là sự thật: họ đang dấn thân vào một nhiệm vụ đầy nguy hiểm, chẳng có gì bảo đảm là mọi người có thể sống sót để mà gặp lại.

    “Các bạn có ý tưởng gì với những điều đã đề cập về cảnh sát địa phương chưa?” Cuối cùng David lên tiếng.

    Barry nhún vai. ”Anh cũng thấy rồi đấy. Ba người bọn tôi đang ở yên trong nhà, rồi một lũ điên xông vào và cố bắn mọi người. Thế là cả bọn vắt giò lên cổ mà chạy.”

    "Irons chắc chắn sẽ ngụy trang chuyện này thành một vụ trộm bất thành,” Chris cười khẩy. “Nếu hắn ta có can dự vào, mà tôi tin chắc như vậy, hắn sẽ không muốn đánh động dư luận về bất kỳ hành động nào của Umbrella.”

    “Vậy các bạn chỉ cần cẩn thận không để lộ về việc đã trông thấy tử thi là được,” David nói. ”Ắt là bọn họ có đủ thời gian để phi tang rồi. Và các bạn nên nói rằng đã bị ai đó truy sát đến nỗi phải chạy vào công viên. Như vậy sẽ giải thích được lý do vắng mặt của mọi người cũng như về thi thể của đội trưởng Shannon.

    Barry cười mệt mỏi. ”Chúng tôi sẽ kiểm soát tình hình. Việc trước tiên tôi sẽ làm vào ngày mai là gọi đến vài chỗ để có phương án dự phòng. Anh chỉ cần chú tâm vào phần việc của mình là được, ok?”

    David gật đầu và đứng dậy cùng với Chris. Anh lần lượt bắt tay mọi người rồi quay về phía Rebecca, hơi cảm thấy không thoải mái khi đã buộc cô xa rời các đồng nghiệp và bạn bè. Cô nhìn mọi người một lượt với vẻ tư lự rồi đột ngột nhoẻn miệng cười ranh mãnh và hồn nhiên.

    “Các anh chị chắc là có thể duy trì được vài ngày chứ? Em ghét cái ý nghĩ là mọi người phải ở lại dò dẫm phương hướng trong khi em và anh David dọn dẹp cái khu nghiên cứu ấy.”

    ”Mọi người sẽ cố duy trì mà không có em.” Chris mỉm cười. “Sẽ không dễ dàng khi mà có nhiều thứ em đã giấu trong đầu và tất cả …”

    Rebecca đẩy nhẹ vào vai anh. ”Em sẽ gởi cho anh một bản hướng dẫn đầy đủ.”

    Cô gật đầu với Barry. ”Coi chừng cánh tay của anh đấy. Hãy giữ cho nó sạch và khô, nếu anh bị sốt hay choáng váng, hãy đến bác sĩ ngay lập tức.”

    Barry cười. ”Vâng, thưa madam.”

    Jill ghì chặt lấy cô. ”Hãy cho bọn chúng biết tay, Becca.”

    Rebecca gật đầu. ”Chị cũng thế. Chúc may mắn với lão Irons.”

    Cô quay lại David, cười. “Chúng ta đi chứ?”

    Cả hai cùng bước ra cửa, David lấy làm lạ về thái độ ung dung của cô gái. Họ vừa mới sống sót sau một đợt tập kích nghiêm trọng, được thực hiện bởi chính những người đã huấn luyện cô ta, và cô đang ra đi với một người vừa mới quen biết để dấn thân vào một công việc có thể mất mạng như chơi. Sự lạc quan đáng kinh ngạc đó có thể là thật mà cũng có thể là cô cố tỏ ra như vậy, và nếu là cô đang vờ như ra vẻ can đảm thì cô thật xứng đáng được tưởng thưởng.

    Anh quan sát cô cẩn thận khi họ bước ra ngoài cái sân nhỏ bé hoang phế của căn nhà, và nhận ra nụ cười của cô đang héo dần đi, thay vào đó là một nỗi buồn mơ hồ, nó giống như vẻ đầy cảm xúc mãnh liệt lúc cô nói với mọi người về Tiến sĩ Griffith và về nghiên cứu của ông ta. Bất kể là cô đang nghĩ gì thì sắc diện của cô cũng cho David thấy, rằng cô hiểu rõ cái giá phải trả nếu thất bại, nhưng cô sẽ tuyệt đối không lùi bước.

    Một minh chứng hoàn hảo cho lòng can đảm … David lấy làm hài lòng vì đã quyết định chọn Rebecca Chambers vào nhiệm vụ lần này. Cô nhanh trí, có tay nghề và tận tụy, trình độ hiểu biết của cô có thể sánh ngang với những tài nghệ khác nhau của các thành viên trong nhóm.

    Anh chỉ hy vọng sự kết hợp các kỹ năng của cả đội sẽ giúp họ ra vào vịnh Caliban an toàn, tìm ra những bằng chứng về thí nghiệm của Umbrella, một mục tiêu sẽ góp phần đánh sập cái tập đoàn đã thao túng S.T.A.R.S, và có lẽ sẽ giúp anh lại được ngủ ngon giấc.

    Anh gật gù, và hai người bắt đầu chuẩn bị cho đợt hành động.

    *
    **​

    Sau khi xem lại các thông tin về vịnh Caliban, Rebecca xếp chúng lại và nhét cẩn thận vào cái túi dưới chỗ David ngồi. Anh ta mang theo ba cái túi đến sân bay, một cái đựng vũ khí và đang đặt ở chỗ để hàng hóa, hai cái kia mang theo bên cạnh, làm như vậy họ sẽ không gây ra sự chú ý. Rebecca ước gì họ đã mua một ít thức ăn lúc ở sân bay. Từ trưa đến giờ cô chưa ăn gì, và cái gói đồ ăn mà cô nuốt vội lúc cất cánh chẳng thấm vào đâu.

    Cô với tay tắt đèn rồi thu mình vào chỗ ngồi, cố gắng tự ru ngủ với tiếng rì rì của động cơ 747. Phần lớn các hành khách trên chuyến bay đầy-một-nửa này đang ngủ. Ánh sáng “ban đêm” lờ mờ và tiếng vo vo của động cơ khiến cho David thiếp đi nãy giờ. Nhưng rồi cô từ bỏ cố gắng ngủ chỉ sau vài phút khi nghĩ đến những biến cố đã trải qua suốt buổi tối. Có quá nhiều thử để suy ngẫm, và cô chắc rằng mình không thể ngủ được chừng nào chưa sắp xếp lại chúng.

    Cứ coi như mình đang trải qua một giấc mơ vậy; nhiều lắm thì nó chỉ là một trò đùa của số phận, một bài tập phụ ngoài lớp học…

    Ba tháng trước, cô tốt nghiệp và được huấn luyện bởi đội Bravo của S.T.A.R.S, chuyển đến căn hộ đầu tiên ở thành phố mới – để rồi trở thành một trong năm người sống sót sau một tai họa nhân tạo dính líu tới vũ khí sinh học và âm mưu của một tập đoàn. Ba giờ trước, cuộc sống của cô đã chuyển sang một bước ngoặt không mong đợi. Cô nghĩ về những mong ước trước đó, cơ hội rời khỏi thành phố Raccoon và nghiên cứu T-Virus, cô vẫn chưa đáng mất tính hài hước trước những tình huống, nhưng quả thật cô không thể nói rằng mình thích thú với chuyện này được.

    Cô quay đầu sang bên cạnh để nhin David, lúc này đang thu mình trong chỗ ngồi, những dấu hiệu mệt lữ hằn lên dưới mi mắt. Sau khi tóm tắt ngắn gọn cho cô biết các chi tiết công việc ngày hôm sau, anh bảo cô nên chợp mắt một lát (nguyên văn anh nói là “have a lie down”) rồi nhanh chóng làm mẫu trước – và ngủ như thể chưa từng được ngủ bao giờ.

    Anh ta thậm chí ngủ rất say, không hề trằn trọc hay lăn lộn …

    Có lẽ anh ta biết rõ cần phải nghĩ ngơi càng nhiều càng tốt khi mà còn có thời gian.

    Dưới cái nhìn của cô, anh là một người cực kỳ thông minh và tài giỏi, nhưng từ việc anh là một kẻ cô độc, thản nhiên đối mặt với áp lực, đến việc anh có vẻ lạnh lùng và ít nói, đã khiến cô phải tự hỏi anh đã trải qua một cuộc sống như thế nào.

    Cô đã rất ấn tượng với cái cách mà David nhanh chóng vạch kế hoạch để thoát ra khỏi nhà Barry, và lấy làm vui mừng khi anh dẫn đầu trong nhiệm vụ ở vịnh Caliban – thật khó nghĩ về anh ta như một đội trưởng được. Anh không có vẻ là một trưởng nhóm đầy quyền uy, và anh cũng không có vẻ gì muốn ra vẻ như vậy, thông qua việc anh cố nài Rebecca gọi mình là David. Thậm chí khi anh đóng vai trò người đi đầu trong nhiệm vụ, thì cái cách anh ra mệnh lệnh chẳng khác gì những lời hướng dẫn vậy.

    Có lẽ là do ngữ điệu. Cách nói chuyện của anh ấy lúc nào cũng lịch sự ...

    Anh ta nhăn mặt khi đang ngủ, hai mắt hấp háy trong một giấc mơ khó chịu. Vài giây sau, anh thốt ra một tiếng kêu khẽ đau đớn như trẻ con. Rebecca thoáng nghĩ đến việc đánh thức anh dậy, nhưng chân mày của anh đã từ từ giãn ra, chắc anh đã vượt qua được rắc rối rồi.

    Thình lình cô cảm thấy mình đang xâm phạm sự riêng tư của anh. Rebecca bèn nhìn đi chỗ khác.

    Có lẽ là mơ thấy cuộc tấn công. Giết ai đó mà anh quen biết …

    Cô tự hỏi nếu mình bị hình bóng của những người mà mình giết ám ảnh thì sao, những thân người trong bóng tối đổ ập xuống nơi căn nhà của Barry chẳng hạn. Cô đã ngỡ là mình sẽ bị ức chế không ít, thế nhưng khi suy nghĩ như vậy, cô ngạc nhiên thấy mình chẳng có gì phải e ngại cả. Có đã bắn ai đó, người đó có thể đã chết, và cô cho là mình làm đúng khi ngăn kẻ đó giết chính cô hay ai đó trong các đồng đội.

    Rebecca nhắm mắt lại, hít một hơi thật sâu cái không khí lành lạnh trong khoang máy bay. Cô có thể ngửi thấy mùi mồ hôi của mình, và quyết định việc đầu tiên cần làm khi đến khách sạn là tắm một cái. David không muốn quay về nhà để rồi phải trả giá nếu có ai đó trong những kẻ tấn công nhận ra anh, vì vậy mà họ đã phải trưng dụng vài phòng ở phi trường trước lúc lên máy bay. Việc tóm lược nhiệm vụ sẽ tiến hành lúc trưa tại nhà của một trong ba thành viên của nhóm, một chuyên gia pháp lý của đội Alpha tên là Karen Driver. David đã nhắc Karen cho cô mượn một bộ đồ sạch, và anh có vẻ bối rối khi lên tiếng.

    Thôi nào, anh ta là một người hay vòng vo mà …
    … và sau khi tóm tắt, chúng tôi sẽ chuẩn bị hành trang để lên đường, thế đấy.


    Những luồng tư tưởng của Rebecca rối loạn và cô cảm thấy ớn lạnh, kết quả của việc mất ngủ. Chỉ hai tuần sau cơn ác mộng Umbrella ở thành phố Raccoon, cô lại đối diện với một cơn ác mộng khác. Ít nhất vào lúc này, cô có một số ý tưởng về việc họ sẽ xâm nhập vào cái gì, và cách ra khỏi đó mà không phải giáp mặt với những sinh vật nhiễm T-Virus, nhưng ký ức về con quái vật Tyrant của Umbrella vẫn còn nguyên trong tâm trí của cô, cái thứ mà họ đã thấy trong toà biệt thự với thân hình đồ sộ vá víu và những móng vuốt chết người. Và ý nghĩ về một kẻ như Nicolas Griffith xuất hiện cùng với những con virus …

    Rebecca quyết định là mình đã suy nghĩ quá nhiều, cô phải ngủ một chút thôi. Cô cố rũ bỏ những luồng tư tưởng và tập trung vào hô hấp của mình, thở chậm lại, đếm lùi từ một trăm. Cô chưa từng thất bại với phương pháp đó, dù cô nghĩ chưa chắc nó hiệu nghiệm lúc này …

    ”Chín mươi chín, chín mươi tám, Griffith, David, S.T.A.R.S, Caliban, …

    Trước khi đếm đến chín mươi, cô đã chìm sâu vào giấc ngủ, mơ màng thấy những bóng đen đang di chuyển ngoài tầm ánh sáng.
     
  7. Lioncoeur

    Lioncoeur Fire in the hole!

    Tham gia ngày:
    5/5/03
    Bài viết:
    2,645
    CHƯƠNG 5

    NICOLAS GRIFFITH ĐANG LÀM CÁI VIỆC MÀ HẮN TA VẪN HAY LÀM PHẦN LỚN NHỮNG BUỔI SÁNG từ khi bắt đầu cuộc nghiên cứu, đó là ngồi trên đỉnh ngọn hải đăng và nhìn bình minh ló dạng phía chân trời. Thật là một quang cảnh ngoạn mục từ đầu đến cuối. Đầu tiên những đợt sóng đen ngòm chuyển dần sang màu xám khi bầu trời được rọi sáng từ từ. Những ghềnh đá hiểm trở ngổn ngang khắp vịnh dần dần lộ rõ khi những cụm sương mù tách khỏi mặt nước. Mặt trời đang dần nhô lên từ phía bên kia đại dương, những tia sáng của nó rụt rè nhuộm khắp mặt biển một màu xanh thẫm, phết nhẹ màu lam nhạt lên đường chân trời, hứa hẹn đem đến sự hồi sinh và sẵn sàng vuốt ve âu yếm vạn vật. Dĩ nhiên, đó chỉ là sự dối trá. Trong vài giờ thôi, những luồng khí nóng có thể làm chảy cả kim loại ấy sẽ ập xuống khắp bờ biển, xuống một nửa bề mặt hành tinh này. Sự dịu dàng chỉ là trò bịp bợm, để làm người ta không chú ý đến những tia bức xạ rò rỉ và những luồng hơi nóng cháy da.

    … Nhưng có gì ngoạn mục cho bằng sự dối trá chứ. Suy cho cùng thì nó chẳng có lỗi gì cả, con người phải tự biết những chuyện đó; bản thân nó chỉ làm cái việc mà nó phải làm thôi.

    Griffith luôn chờ cho đến khi vầng thái dương đã vượt qua khỏi đường chân trời rồi mới bắt dầu công việc. Mặc dù hắn biết việc mình đang làm có phần vượt khỏi khuôn khổ, nhưng có hề gì; Hắn chứng kiến vẻ đẹp của bình minh là để thưởng thức chứ đâu chỉ do thói quen. Đối với hắn, mặt trời mọc là một phần của quá trình vận động, nó minh họa cho sự tiến triển không ngừng của dòng thời gian, và nhắc nhở rằng thế giới này đang di chuyển trong dãy thiên hà với những vòng quay vô tận, bất chấp những giấc mơ ngông cuồng của lũ người cao ngạo nhốn nháo khắp bề mặt hành tinh..

    Giống như chính ta vậy; nhưng có một điểm khác biệt lớn nhất: Ta biết rõ giấc mơ của mình đáng giá như thế nào.

    Khi tinh cầu khổng lồ ấy hoàn toàn nhô lên khỏi mặt biển, Griffith đứng dậy và tựa vào tay vịn. Hắn nghĩ về một ngày làm việc sắp tới. Sau khi đã chấm dứt những công việc máu me với loạt Leviathan, hắn đã có thể thoải mái hơn với bọn bác sĩ. Cả ba đã có phản ứng khá tốt với sự biến đổi, và tỷ lệ tế bào bị hỏng đã giảm đi đáng kể từ khi hắn tiêm chất Enzim cho chúng. Cần thêm thời gian để tập trung vào các phản xạ có điều kiện, giai đoạn cuối của cuộc thí nghiệm. Chỉ trong tuần thôi, hắn sẽ sẵn sàng để triển khai phạm vi ảnh hưởng ra ngoài khu thí nghiệm. Một sự bành trướng. Một cuộc tẩy rửa.

    Một làn gió khô mặn mùi muối thổi tung mái tóc của hắn. Tiếng kêu đòi ăn của những con mòng biển thúc giục hắn vào cuộc. Phải mang bọn Trisquad vào trong trước khi lũ chim thích ăn thịt rữa vào đất liền. Đã khá nhiều đứa mang những vết thẹo kinh khủng rồi, và hắn không muốn có thêm tổn thất trước khi làm xong việc này. Một khi đã mất cặp mắt thì chúng chẳng còn canh chừng được cái gì nữa.

    Có điều, đã khá lâu rồi … không có ai đến. Nếu tiến sĩ Ammon thành công, thì giờ này họ đã phải cử ai đó đến đây rồi. Thật là tệ khi vẫn phải chờ tiếp …

    Tư tưởng quả là một cái gì đó rất khó chịu, nó gợi lên những hình ảnh mông lung đầy sắc đỏ và nóng bức, những cơ thể nằm sóng xoài dưới cái nắng mùa thu oi bức, và tiếng sóng gầm chìm trong bóng đêm. Hắn nhanh chóng gạt đi những ảo tưởng ấy và tự nhắc nhở rằng tất cả đã là quá khứ. Giờ đây, hắn chì làm những gì cần phải làm thôi.

    Griffith lui bước vào trong, vuốt lại mái tóc lòa xòa khi bước xuống cầu thang xoắn ốc. Đôi giày của hắn nện xuống những bậc thang kim loại, tạo nên những tiếng kêu vui tai vang khắp căn phòng cao ngất ngưỡng. Có một khu nghiên cứu đã là một điều hài lòng rồi, huống gì hắn còn có những thú vui nho nhỏ khác để thưởng thức nữa – ăn bất cứ thứ gì hắn thích vào lúc hắn muốn, làm việc vào giờ hắn muốn làm, với những buổi sáng trên đỉnh ngọn hải đăng. Trước đây hắn đã bị quá tải, bị dính chặt vào một lịch làm việc được thiết kế theo cái cách giết chết khả năng sáng tạo. Giờ ăn, giờ làm, giờ ngủ, … thử hỏi làm sao có thể hít thở và phát triển được trong điều kiện như thế chứ? Hắn đã phải chịu đựng quá lâu, phải ngồi chết dính trong những cuộc họp để nghe những câu nói ngớ ngẩn bần tiện từ lũ “đồng nghiệp”, khi chúng ca ngợi T-Virus của gã Birkin. Cả đám làm việc quần quật để tạo ra lũ Trisquad cho Umbrella và sướng như điên trước kết quả có được, cứ như thể đã quên béng đi thất bại với bọn Ma7. Chính sự kiêu ngạo khiến cho bọn họ không thể thấy được xa hơn. Lũ Trisquad đơn giản chỉ là những cái xác biết cầm súng. Làm lính canh cũng tốt, nhưng chúng hoàn toàn ngu muội. Hoàn toàn chẳng có chút gì quan trọng.

    Mặc dù đã quyết định là không để nó len vào tâm trí, nhưng rồi Griffith cũng tự cho phép mình kiêu hãnh một lúc khi tiến đến chân cầu thang và bước ra ngoài. Hắn đã thấy được cái gọi là bản chất của T-Virus – một dạng thức nguyên sơ nhưng là nền tảng đầy hiệu quả cho những bước tiến xa hơn. Hắn đã cô lập các protêin, tái cấu trúc lớp màng của những đơn vị nguyên tử để gia tăng khả năng lây nhiễm, và để tạo ra câu trả lời, câu trả lời cho sự lụi tàn của nhân loại. Một giải pháp không gây bạo lực và đau đớn.

    Hắn mỉm cười bước vào qua cánh cửa, tiến vào bóng tối lành lạnh của ngọn hải đăng, tiếng sóng vỗ ầm ĩ phía sau lưng khi hắn tiến đến khu nhà nghĩ. Hắn đã tổng hợp xong cho chuyến bay rồi, bấy nhiêu đây cũng đủ để lây nhiễm khắp Nam Mỹ. Khi virus được phát tán, chúng sẽ phát triển theo đúng chức năng, và những sự yếu đuối tinh thần của con người sẽ phải nhường chỗ cho những bản năng ưu tiên. Một khi xong chuyện, mặt trời sẽ chiếu rọi lên một thế giới hoàn toàn khác, một thế giới của những người có tính cách và ý thức chuộng hòa bình.

    Lấy đi khả năng tư duy của một gã nào đó, biến tâm trí của gã thành một phiến đá sạch sẽ, tươm tất, thoải mái. Một khi được huấn luyện, anh ta sẽ trở thành thú nuôi; nếu không, anh ta chỉ là một con vật vô hại và hiền lành như chuột. Khắp thế giới sẽ là những con vật như thế, và chỉ những kẻ khỏe nhất mới còn tồn tại …

    Hắn bước về phía phòng nghĩ và bật đèn lên, cười khẽ. Bọn bác sĩ vẫn ở đúng cái chỗ mà hắn đã để họ ngồi, phía trước bàn họp, mắt nhắm nghiền. Theo đúng bài bản thì hắn phải làm cuộc thử nghiệm với những đối tượng chưa được huấn luyện, và ba gã này thoả mãn điều kiện đó. Bọn họ bị lây nhiễm theo đúng phương pháp mà hắn sẽ tiến hành, và mọi việc diễn tiến đúng như cái cách mà thế giới sẽ biến đổi trong vài ngày tới.

    Thú cưng của ta. Lũ trẻ của ta.

    Ngoài phòng thí nghiệm ra, khu nghiên cứu ở vịnh được thiết kế không chỉ để huấn luyện những thứ vũ khí sinh học tương tự như bọn Trisquad và Ma7 – mà còn để đo lường khả năng tư duy của những đối tượng giống người. Trong này có một số món đồ cho hắn sử dụng, từ những cái cọc gỗ đơn giản đến những bài toán phức tạp để năng cao chức năng của các đối tượng thí nghiệm. Hắn không chắc là bọn họ có nắm vững được các dấu hiệu màu đỏ không, nhưng dù sao thì việc quan sát các phản ứng cũng sẽ mang đến một sự hiểu biết đáng giá, đặc biệt là khi cuộc trắc nghiệm đòi hỏi nhiều áp lực.

    Chúng suy nghĩ, nhưng không thể quyết định. Chúng hoạt động, nhưng chỉ khi có mệnh lệnh. Làm sao chúng có thể sống mà không có mình chứ?

    Khi hắn tiến đến cạnh bàn, Athens mở mắt ra, có lẽ để xem có gì đe dọa không. Trong ba người, Tom Athens là kẻ khỏe mạnh nhất, kẻ thích hợp nhất để tự sinh tồn; gã từng là một chuyên gia ứng xử. Thật ra, chính gã đã đề xuất ý kiến nhóm Trisquad ba-đơn-vị, và khăng khăng cho rằng các đối tượng thí nghiệm sẽ hoạt động hiệu quả hơn khi được tổ chức thành đội. Gã quả thật đã đúng.

    Thurman và Kinneson vẫn ngồi y nguyên như trước nhưng Griffith ngửi thấy một mùi hôi hám phát ra từ họ. Hắn cau có nhìn xuống, và đúng y như hắn nghi ngờ, cái quần của Thurman đã ướt nhẹp.

    Nó đi ra quần rồi. Khốn kiếp.

    Griffith bất chợt thấy thương hại Thurman, nhưng rồi nhanh chóng chuyển sang sự ghê tởm. Trước đây Thurman chỉ là một gã đần, một nhà sinh học tương đối tươm tất nhưng cũng thiển cận lố lăng y như lũ còn lại. Gã đã tự tay nuôi bọn Ma7, và khi mất khả năng kiểm soát bọn này thì gã quay sang khiển trách cả bọn, tất nhiên trừ chính mình ra. Nếu có ai đáng bị ném xuống bùn lầy bẩn thỉu hôi thối, người đó phải là Louis Thurman. Thật quá tệ khi một bác sĩ giỏi mà lại không biết mình trở thành cái thứ bị người ta ghê tởm đến mức nào.

    Không có ta, mi sẽ không sống nổi dù chỉ một ngày.

    Griffith thở ra, tiến đến gần cái bàn.

    “Chúc buổi sáng tốt lành, thưa các quý ông,” hắn lên tiếng.

    Ba người quay đầu về phía hắn cùng một lúc, những cặp mắt vô hồn y như khuôn mặt vậy. Trong một chừng mực nào đó, nét mặt uể oải và ánh mắt chậm chạp lơ đễnh khiến bọn họ trông như anh em với nhau.

    “Có vẻ như ngài Thurman vừa mới đại tiện xong,” Griddith nói. “Anh ta đang ngồi trên đống phân kìa. Buồn cười chưa!”

    Cả ba cười toe toét. Thực sự thì Kinneson chì cười lặng lẽ. Gã là người bị nhiễm gần nhất, do vậy các tế bào chưa bị hỏng quá nhiều. Khi nhận những mệnh lệnh thích hợp, Alan vẫn có thể thực hiện được như người.

    Griffith rút cái còi cảnh sát ra khỏi túi và đặt trước mặt Athens.

    “Ngài Athens, tập họp bọn Trisquad lại. Trông chừng mấy nhu cầu sinh lý của tụi nó và đưa chúng vào phòng lạnh. Khi nào xong, vào quầy ăn và chờ ở đó.”

    Athens đứng dậy cầm lấy cái còi rồi đi ra khỏi phòng, đi xuống đai sảnh và hướng về phía lối vào nhà nghĩ. Tiếng còi sẽ giải tán bọn canh gác và tập họp chúng lại. Có bốn đội Trisquad, mười hai tên tất cả. Chúng đang đi loanh quanh khu hàng rào gỗ hoặc rón rén đâu đó trong căn cứ, đơn giản vì đã được huấn luyện để tránh xa khu đông bắc tòa nhà, chỗ ngọn hải đăng và nhà nghĩ. Griffith phải thừa nhận là chúng tỏ ra rất hữu hiệu trong chiến đấu. Umbrella muốn có những quân nhân chỉ biết giết theo mệnh lệnh, và sẵn sàng đánh nhau đến khi tan xương nát thịt. T-Virus đã làm điều này rất tốt, và một khi đã được gia tăng tốc độ lây lan, chúng sẽ chuyển hóa vật chủ trong nhiều giờ, chính xác là vài ngày. Sau khi đã được huấn luyện sử dụng vũ khí, bọn Trisquad thực sự đã biến thành những cỗ máy giết ngiếtr người. Có điều với sóng nhiệt hiện tại, hắn thật không biết chúng có thể sống trong bao lâu nữa …

    Griffith hướng sự chú ý sang Thurman, vẫn đang cười toe toét và bốc mùi hôi thối y như một đứa bé còn đang nằm nôi. Trông gã giống hệt một đứa trẻ, mập mạp và đầu trọc lóc, với một nụ cười ngây thơ chân thật.

    “Ngài Thurman, về phòng và thay đồ ra. Tắm táp và mặc quần áo sạch sẽ, sau đó vào hang nuôi bọn Ma7. Chừng nào xong, đến quầy ăn và chờ ở đó.”

    Thurman đứng dậy, và Griffith thấy cái ghế của gã vừa ướt vừa nhầy nhụa.

    Lạy Chúa.

    “Sẵn tiện xách theo cái ghế,” Griffith thở dài. “và để nó ở trong phòng của anh.”

    Sau khi Thurman đã đi khuất, Griffith ngồi xuống đối diện với Alan, bất chợt hắn cảm thấy mệt mỏi. Sự kiêu hãnh hắn mới vửa trải qua hồi nãy giờ biến đâu mất, chì còn lại một sự trống vắng lạnh lẽo trong tâm hồn.

    Lũ trẻ của ta. Tạo vật của ta …

    Những con virus mới hay ho làm sao, thậm chí hắn đã phát khóc lên khi lần đầu tiên nhìn thấy cơ chế vận hành hoàn hảo của chúng. Hàng tháng trời bí mật nghiên cứu, phân lọc T-Virus và cô lập các hiệu ứng, phóng đại chúng bằng kính hiển vi … và khi mà những kẻ khác đang hả hê với những món đồ chơi chiến tranh, thì hắn đã tìm thấy con đường chân chính hướng đến một sự khởi nguồn hoàn toàn mới.

    Và bọn nó có hiểu cái ta đã làm không? Có ai biết rằng nó có vai trò quyết định đến mức nào không? Chỉ biết ị tại chỗ như một đứa con nít đáng kinh tởm, cái đồ khỉ đột, chỉ giỏi làm hổ thẹn công việc của ta, cuộc sống của ta …

    Griffith nhìn lại Alan Kinneson, chăm chú quan sát nét mặt điển trai và đôi mắt đờ đẫn. Kinneson đang nhìn lại hắn chằm chằm, chờ đợi mệnh lệnh. Gã ta vốn là một bác sĩ thần kinh học. Trong phòng của gã có nhiều tấm hình của vợ và con trai, một đứa bé có nụ cười tươì tắn sáng sủa …

    Sự sáng suốt của Grifiith thình lình trỗi dậy, rồi một cơn dằn vặt kinh khủng làm hắn thấy choáng váng, hàng ngàn tiếng thét không biết từ đâu đến đang đánh động thực tại. Trong phút chốc, hắn thấy dường như mình đang mất trí.

    Bao nhiều người sẽ bị bỏ mặc cho đến chết, bao nhiêu người sẽ ngồi trong những đống phân hôi thối mà chờ đợi trong vô vọng? Hàng triệu? Hay hàng tỉ?

    “Ta đã làm sai chuyện gì?” Grifiith thì thầm. “Alan, hãy nói là ta không làm sai đi, rằng ta làm chuyện này vì những lý do chính đáng.”

    “Ông không làm sai,” Kinneson chậm rãi nói. “Ông làm chuyện này vì những lý do chính đáng.”

    Grifiith nhìn gã chăm chú. “Nói với ta rằng vợ anh chỉ là một con điếm.”

    “Vợ tôi chỉ là một con điếm.” Kinnerson nói. Không ngập ngừng. Không lưỡng lự.

    Griffith mỉm cười, và sự sợ hãi của hắn hoàn toàn tan biến.

    Hãy nhìn xem ta đã làm được gì đây. Một món quà, tạo vật của ta, một món quà cho toàn thế giới. Cơ may để con người trở nên mạnh mẽ hơn, và một cái chết yên lành cho những sự tồn tại giống như Louis Thurman, một cái chết tốt hơn nhiều so với cái bọn nó đáng phải nhận.

    Hắn đã làm việc quá sức rồi, giờ đây hắn đã hết sức mệt mỏi, sự căng thẳng đang nuốt chửng lấy hắn. Nói cho cùng thì hắn cũng chỉ là một con người … nhưng hắn tuyệt đối không cho phép sự mệt nhọc thể xác tác động đến trí não của hắn. Không còn gì để thử nghiệm nữa. Hắn có một ngày để sẵn sàng, để chuẩn bị cho cuộc tẩy rửa.

    Khi mặt trời mọc vào ngày mai, Tiến sĩ Griffith sẽ gởi món quà của hắn đến toàn thế giới.
     
  8. Lioncoeur

    Lioncoeur Fire in the hole!

    Tham gia ngày:
    5/5/03
    Bài viết:
    2,645
    Vì đồng chí PikeMan98 không biết làm sao để bị GameOver rùi, mà cũng không có tin tức phản hồi gì hết, cho nên tui mạn phép làm luôn chương 6 cho mọi người thưởng thức :cool:

    CHƯƠNG 6​


    KAREN DRIVER THẬT RA LÀ MỘT PHỤ NỮ CAO LÊU NGHÊU khoảng hơn ba mươi tuổi, tóc ngắn vàng hoe và bề ngoài trông đứng đắn kiểu doanh nhân. Ngôi nhà của cô được dọn dẹp tươm tất và sạch bóng như thể đã được khử trùng. Bộ đồ cô ta mang cho Rebecca thì rất ư là thích hợp và được gói ghém hoàn hảo: một cái áo thun xanh đậm với quần rất hợp nhãn, đồ lót và vớ bằng vải đen. Ngay cả nhà tắm cũng thể hiện rõ cá tính của chủ nhân: tường trắng với những cái kệ xếp ngay ngắn, cái nào cũng được xếp đặt ngăn nắp theo đúng mục đích sử dụng.

    Đúng kiểu một chuyên gia luật, bị gò ép đến độ ám ảnh …

    Rebecca lập tức cảm thấy mình đáng khiển trách khi nghĩ như vậy. Karen đã tỏ ra khá niềm nở, thậm chí là thân thiện cho dù có chút gì đó sống sượng. Có lẽ cô ta ghét ồn ào.

    Rebecca ngồi lên thành bồn cầu và vén lai quần lên khỏi mắt cá chân, cảm thấy dịu bớt căng thẳng sau khi trút bỏ bộ quần áo cũ và kèm theo là một cảm giác thư thái đến ngạc nhiên, mặc dù cô đã có một giấc ngủ chập chờn. David đã thuê một chiếc xe ở phi trường, vài giờ sau đó họ tìm thấy một nhà nghỉ rẻ tiền và từng người một loạng choạng về phòng của mình. Rebecca mệt đứ đừ, cô chỉ còn làm nổi một việc là tháo giày trước khi nằm lăn ra giường. Cô chỉ thức giấc khi đã gần mười giờ, vào nhà tắm xả vòi sen và thấp thỏm lo lắng khi nghe tiếng David gõ cửa …

    Suy nghĩ của Rebecca bị cắt ngang khi có tiếng cửa mở ra rồi đóng lại, những giọng nói lạ lẫm vang khắp sảnh. Cô khoác vội áo vào và cài nút thật nhanh, cảm thấy lo sốt vó. Cả nhóm đã tập họp. Cái gì phải đến cũng sắp đến rồi, tuy cô đã có chuẩn bị đôi chút sau khi thức dậy, nhưng việc đương đầu với cái sắp tới vẫn khiến cô cảm thây sốc. Cuộc tập kích bất ngờ của Umbrella vào nhà Barry dường như đã xảy ra ở một dòng thời gian khác hay sao ấy, mặc dù chỉ mới cách đây vài giờ thôi …

    … bây giờ thì ổn rồi. Bất quá nó chỉ là một trong những thứ làm mình lo lắng thôi. David và đội của anh ta không ở dó, họ không thấy lũ chó, đám rắn, những sinh vật phi tự nhiên trong đường hầm … hay con Tyrant.

    Rebecca cố xua những hình ảnh ấy đi khi đứng dậy, nhặt bộ đồ bẩn dưới sàn lên và nhét vào cái tũi rỗng cô mang theo trên chuyến bay. Chẳng có lý do để cho rằng khu nghiên cứu vịnh Caliban sẽ giống như thế, hơn nữa lúc này lo lắng cũng bằng thừa. Rebecca dừng lại trước tấm gương, quan sát vẻ bồn chồn của cô gái trẻ trong đó, rồi bước ra cửa.

    Cô hướng về phía sảnh, đi qua căn bếp sáng lấp lánh và vòng qua góc hành lang. Cô nghe thấy tiếng David, dường như anh đang tóm lược những sự kiện tối hôm trước.

    “… nói rắng việc đầu tiên sáng nay là gọi cho những người khác. Một nhóm khác có liên hệ với FBI giữ vai trò cầu nối và xúc tiến cuộc điều tra khi chúng ta nắm được bằng chứng. Họ sẽ ngóng tin chúng ta một khi chiến dịch hôm nay hoàn tất …”

    Anh ta ngưng nói khi Rebecca bước vào, mọi cặp mắt đều đổ dồn về phía cô. Karen đã lôi một mớ ghế vào phòng và hiện đang ngồi cạnh cái bàn nước thấp lè tè lát kiếng. Hai anh chàng khác đang ngồi trên chiếc trường kỷ, đối diện với David. David cười nhẹ với cô, còn hai anh chàng kia thì đứng dậy hướng về phía cô để chờ giới thiệu.

    “Rebecca, đây là Steve Lopez. Steve là thiên tài điện toán và là tay thiện xạ số một của đội…”

    Steve cười nham nhở, một nụ cười phát khiếp nhưng nó lại cực kỳ thích hợp với cái vẻ trẻ con của anh ta. Lúc anh ta bắt tay cô, hàm răng trắng nhởn trông thật tương phản với màu da rám nắng tự nhiên. Anh chàng có cặp mắt đen láy đầy linh lợi, mái tóc cũng màu đen, và chỉ cao hơn cô có vài inch.

    Dù sao thì cũng không già quá…

    Ánh mắt anh ta thân mật và trực diện, đến nỗi bất chấp tình huống hiện tại, Rebecca vẫn ước gì hồi nãy mình chải lại tóc trước khi rời nhà tắm. Nói đơn giản thì anh chàng này có vẻ háo sắc.

    “.. John Andrews, chuyên gia liên lạc và trinh sát chiến trường.”

    John có làn da sẫm màu nâu gụ và không có râu, nhưng anh vẫn làm Rebecca liên tưởng đến Barry. Anh có một thân hình đồ sộ, một vóc người cao sáu foot với những cơ bắp rắn chắc. Anh cười rạng rỡ với cô, một nụ cười ngây thơ đến kinh ngạc.

    “Đây là Rebecca Chambers, chuyên gia hóa sinh và y tá chiến trường của sở S.T.A.R.S thành phố Raccoon,“ David nói.

    John buông tay cô, vẫn còn mỉm cười: “Hóa sinh? Wow, cô bao nhiêu tuổi rồi?”

    Rebecca cười đáp lễ, mắt cô nhấp nháy với vẻ hóm hỉnh. “Mười tám. Và thêm chín tháng.”

    John bật cười khi ngồi xuống, một giọng cười khàn khàn kín đáo. Anh ta liếc qua Steve rồi nhìn lại cô.

    ”Cô nên coi chừng cái gã Lopez.” Anh nói, với một cái giọng vờ như thì thầm. “Hắn mới hai mươi mốt. Và còn độc thân.”

    “Thôi đủ rồi ông anh,” Steve gầm gừ, hai má đỏ lựng lên. Anh ta nhìn cô và lắc đầu.

    “Cô cần thông cảm với John. Anh ta cho là mình có khiếu hài hước và không ai ngăn nổi anh ta nghĩ như vậy.”

    “Mẹ của cậu tin là tôi hài hước đấy nhé.” John phản pháo, và trước khi Steve đáp trả thì David đã xen vào.

    “Thôi đủ rồi,” Anh nhẹ nhàng nói. “Chúng ta chỉ có vài giờ để họp cho công việc hôm nay. Mọi người bắt đầu được chưa?”

    Sự pha trò của John và Steve đã làm tiêu tan mối lo lắng của cô, khiến cô thấy mình hòa nhập vào đội ngay lập tức, nhưng cô càng vui mừng hơn khi chứng kiến mọi người tập trung về phía David với khuôn mặt lộ rõ vẻ chăm chú nghiêm nghị, theo dõi anh lôi ra những thứ được ngài Trent đưa và đặt lên bàn. Thật tốt vì họ là những tay chuyên nghiệp …

    “… Nhưng có nghĩa lý gì chứ?” Tâm trí cô thì thầm. “Đội STARS Raccoon cũng rất chuyên nghiệp đấy thôi. Và cho dù có biết về những gì mà Umbrella làm thì có gì khác biệt đâu? Nếu virus đã biến đổi và vẫn còn lây nhiễm thì sao? Nếu nơi đó lúc nhúc bọn Tyrant … hay những thứ còn tệ hơn nữa thì sao?”

    Rebecca không có thời gian cho những lời thì thầm phản đối yếu ớt ấy. Cô tập trung về phía David, lặng lẽ nhủ thầm rằng những mối lo lắng sẽ không cản trở công việc của mình. Và nhiệm vụ thứ hai của cô sẽ không phải là nhiệm vụ cuối cùng.

    Vì muốn tốt cho Rebecca nên David đã bắt đầu tóm lược những gì anh có với cả nhóm trước đó. Với sự thông minh của cô, với những trải nghiệm mà cô gặp ở khu nghiên cứu Umbrella, anh không mong cô phải cố nén sợ hãi để phát ngôn hết lượt này đến lượt khác.

    “Nhiệm vụ của chúng ta là xâm nhập khu nhà, tập họp các bằng chứng về Umbrella và các cuộc nghiên cứu, rồi quay ra với càng ít rắc rối càng tốt. Tôi sẽ trính bày thấu đáo từng bước hành động, và nếu bất cứ ai có câu hòi hay ý kiến gì, bất kể là vặt vãnh cỡ nào, thì cứ lên tiếng. Rõ chứ?”

    Mọi người đếu gật đầu. David tiếp tục, cảm thấy thoải mái khi quan điểm của anh đã được truyền đạt.

    “Chúng ta đã thảo luận về một vài khả năng có thể xảy ra, và mọi người cũng đã đọc các bài báo rồi. Tôi muốn đề cập đến việc chúng ta có thể đối đầu với những kiểu tai nạn nào đó. Umbrella đang nỗ lực che dấu sự thật, và dù chúng ta cho rằng họ đã bắt cóc hoặc thủ tiêu các ngư dân vô ý xâm nhập vùng cấm, nhưng họ đương nhiên sẽ làm gì đó để đánh lạc hướng chú ý của dư luận.”

    “Sao Umbrella không gởi ai đến đó để dọn dẹp?” John hỏi

    David lắc đầu. “Ai dám chắc là họ không gởi? Rất có khả năng họ đã xóa sạch các bằng chứng rồi – trong trường hợp này, chúng ta chỉ còn nước nhập bọn với những người ở Raccoon và bắt đầu cuộc chơi khác.”

    Mọi người gật đầu lần nữa. Anh không đề cập về chuyện virus có thể vẫn còn lây nhiễm, bởi lẽ mọi người đều biết đến khả năng đó, nhưng lý do chính là vì anh đã chuẩn bị để Rebecca vạch rõ vấn đề này sau khi tóm lược xong.

    David nhìn xuống tấm bản đồ và thầm thở dài trước khi chuyển sang vấn đề kế tiếp.

    “Hãy nhìn lối vào,” anh nói. “Nếu đây là một cuộc hành quân công khai, chúng ta có thể đến bằng trực thăng và xông thẳng vào. Thế nhưng có nhiều người ở đây, nên nếu chúng ta gây báo động thì mọi chuyện sẽ đổ bể trước cả khi bắt đầu. Cách tốt nhất để không bị phát hiện là đi bằng thuyền. Chúng ta có thể sử dụng bè giống như chiến dịch tàu chở dầu hồi năm ngoái.”

    Karen khẽ huýt sáo và hơi cau mày. “Liệu chúng ta có bị phát hiện không nếu tiếp cận bến tàu?”

    David chỉ vào bản đồ, ngón tay của anh rà lên vết cắt chữ V của khu hàng rào, phía nam khu vực. “Sự thật là tôi không muốn sử dụng bến tàu chút nào. Nếu chúng ta vào, chúng ta sẽ bỏ qua bến tàu …” Anh lần ngược lên, dọc theo chiếu dài vịnh. “Chúng ta có thể dựa theo cách bố trí của khu vực để giấu bè vào trong các hang động dưới ngọn hải đăng. Theo những gì tôi đọc được, có một lối đi tự nhiên dẫn từ phía dưới vách đá lên thẳng trên đó. Trong trường hợp nó bị chặn, chúng ta sẽ lui lại sử dụng con đường thay thế khác.”

    “Liệu chiếc bè có gây sự chú ý nếu ai đó nhìn thấy từ ngoài chăng?” Rebecca hòi.

    David lắc đầu. Hồi năm ngoái, đội Exeter STARS đã dùng bè để tiếp cận một tàu chở dầu đang bị chiếm giữ bởi bọn khủng bố, chúng đã đe dọa đánh đắm tàu nếu yêu sách không được thỏa mãn. Lần đó là một nhiệm vụ ban đêm.

    “Nó có màu đen, và động cơ đặt ngầm dưới nước. Chúng ta sẽ hoàn toàn vô hình nếu chỉ đi ngang qua bến tàu. Thuận lợi của cách tiếp cận này là, chúng ta có thể rút lui chờ lần sau nếu thấy khu nghiên cứu có vẻ nguy hiểm.”

    Anh chờ một lúc cho mọi người ngẫm nghĩ, lúc này anh biết không nên hối thúc họ. Mọi thành viên trong nhóm đều là những người lính giỏi, nhưng đây là một nhiệm vụ tình nguyện. Nếu có ai đó thật sự do dự thì bây giờ là lúc tốt nhất để rút lui. Và anh sẽ dựa vào quyết định của họ để đưa ra những gợi ý tiếp theo. Ánh mắt anh quét qua khuôn mặt non trẻ của Rebecca, đủ để nhận thấy sự sẵn sàng đầy kiên định của một đặc vụ STARS tài giỏi đang cháy bỏng trong đôi mắt màu nâu lanh lợi ấy, thể hiện mối quan tâm sâu sắc đến kế hoạch của anh. Anh bắt đầu thấy thích cô, không chỉ vì cô là người hữu dụng cho nhiệm vụ này. Cái kiểu chân thành bất-chấp-thực-tại của cô quả thật đã lôi cuốn anh, nhất là sau những lộn xộn cũng như rắc rối về tinh thần gần đây. Cô ta dường như hoàn toàn thấy thoải mái …

    David xua những ý nghĩ ấy đi, bất chợt nhận ra mình đã gánh vác quá nhiều căng thắng và chịu đúng quá nhiều mệt mỏi; đến nỗi khả năng tập trung của anh đang ngày càng tồi tệ. Thôi nào, cố lên đi chứ, bây giờ đâu phải lúc nghĩ chuyện bao đồng.

    “Nói rõ ra,” anh tiếp tục. “Một khi vào trong, chúng ta sẽ di chuyển thành hàng chữ chi để lách qua bến tàu, lẫn vào bóng đêm. John sẽ đi tiên phong với Karen ngay phía sau, dọ thám khu vực để tìm phòng thí nghiệm và cố tìm hiểu xem chuyện gì đang xảy ra. Steve và Rebecca sẽ nối bước còn tôi đoạn hậu. Khi đã tìm ra phòng thì nghiệm, tất cả cùng vào một lượt. Rebecca biết phải tìm tài liệu gì, nếu họ có hệ thống máy tính thì Steve có thể truy cập các hồ sơ. Những người khác có nhiệm vụ yểm hộ. Một khi lấy được thông tin cần thiết, chúng ta sẽ rút lui theo con đường đã vào.”

    Anh cầm tập thơ của Trent lên và vỗ nhẹ. “Một trong số các đồng đội của Rebecca đã chạm mặt với Trent trước đây. Cô ta nghĩ thứ này có liên hệ với cái mà chúng ta cần tìm. Vì vậy tôi muốn tất cả mọi người xem qua nó trước khi lên đường. Có thể nó rất quan trọng đấy.”

    “Liệu có tin được ông ta không?” Karen hỏi. “Cái người tên Trent này không có vấn đề gì chứ?”

    David cau mày, không biết nên trả lời thế nào.

    “Ồ vâng, có vẻ là với bất cứ lý do gì thì ông ta vẫn ở cùng phe với chúng ta.” Anh chậm rãi nói. “Và Rebecca nhận ra một trong những cái tên trong bản danh sách,trước đây người đó chuyên nghiên cứu về virus. Thông tin này hoàn toàn đáng tin cậy.“ Đây không phải là một câu trả lời trực tiếp, nhưng có lẽ đành phải làm vậy.

    “Chúng ta cần làm gì để tránh bị nhiễm virus?” Steve lặng lẽ lên tiếng.

    David nghiêng đầu về phía Rebecca. “Có lẽ cô nên cung cấp cho mọi người một vài kiến thức nền tảng về cái chúng ta sắp phải đương đầu…”

    Rebecca gật đầu, hướng về phía mọi người. “Thực sự tôi không thể nói chính xác là chúng ta sắp đối phó với cái gì. Lúc nhóm của tôi thoát nạn, tôi đã làm mất những mẫu mô và nước bọt, cho nên tôi không thể làm được các xétr nghiệm. Nhưng căn cứ theo các hiệu ứng, rõ ràng T-Virus là một thực thể đột biến gen, chúng biến đổi cấu trúc nhiễm sắc thể của vật chủ ở cấp độ tế bào. Nó lây nhiễm trên mọi chủng loài, có thể khuyếch tán vào thực vật, thú vật, chim, bò sát, hay bất cứ thứ gì mà ta gọi tên được. Trên một số sinh vật, chúng thúc đẩy sự tăng trưởng đến mức khó tin; và tất cả cá thể bị nhiễm đều có những hành vi hung tợn. Theo những bản báo cáo có được trong khu biệt thự, có thể thấy chúng có tác động đến não bộ, ít nhất là não người – gây ra những hiệu ứng rối loạn tâm thần phân liệt cấp độ cực cao ở cơ quan thần kinh D2. Nó cũng triệu tiêu sự đau đớn. Những nạn nhân đã gặp hầu như không có phản ứng với vết thương gây ra do súng. Chúng không hề cảm thấy đang bị thối rữa từ ngoài vào trong …”

    Nhà hóa học trẻ ngừng nói, có lẽ để lục lại ký ức. Bất chợt trông cô già dặn hẳn đi. “Những gì xảy ra ở khu biệt thự có vẻ là kết quả của một cuộc thí nghiệm hẳn hoi, nhưng tôi không nghĩ đó là cái được mong đợi. Các nhà khoa học gần như chắc chắn đã can thiệp nó khi kết hợp với những thí nghiệm gen. Căn cứ vào việc không ai trong số chúng tôi bị nhiễm và cũng không thấy nó khuyến tán, tôi nghĩ chúng ta không phải lo lắng gì về việc hít thở.”

    “Tất cả những gì chúng ta cần cẩn thận là tránh tiếp xúc với vật chủ, ý tôi là mọi thứ tiếp xúc, mặc dù như vậy vẫn chưa phải là đủ, vì đây là một thứ độc hại khó lường khi nhiễm vào máu, chỉ một giọt máu rơi ra từ vật chủ cũng có thể chứa hàng triệu tế bào vi khuẩn. Chúng ta sẽ cần đuợc trang bị tận răng và những bài học về nhiễm độc virus mới có thể triệt để ngăn chặn mọi dạng thức tái tạo của chúng, dù thế nào đi nữa thì cũng cần những tránh tiếp xúc bằng mọi giá. Nếu may mắn, thì có lẽ giờ này chúng đã chết hết rồi .. hay ít nhất thì khả năng lây lan của chúng cũng đã tàn lụi theo thời gian. Dù sao cũng chỉ là phỏng đoán thôi.”

    Một bầu không khí im lặng căng thẳng bao trùm khi mọi người cân nhắc về những điều cô vừa nói. David có thể cảm thấy họ đang run rẩy, cả anh cũng thế. Biết virus có độc tính khác hẳn với việc lắng nghe những đặc trưng của nó.

    “Lạy Chúa, bọn người đó nghĩ gì thế không biết? Cho lây nhiễm mọi vật một cách có chủ định bằng cái thứ kinh khủng như vậy, bọn chúng có còn lương tâm không chứ?”

    Khi suy nghĩ đến đó, một vấn đề khác lóe lên trong óc anh: Anh sẽ sống thế nào nếu một trong các thành viên bị nhiễm virus? Trước đây anh đã từng dẫn đầu những nhiệm vụ mà các thành viên dưới quyền bị thương; hồi chưa phải là đội trường, anh cũng đã hai lần chứng kiến các đồng đội trong STARS bị giết. Thế nhưng lần này là tự anh đưa cả đội vào một khu vực có nguy cơ bị lây nhiễm bởi những căn bệnh lặng lẽ, khủng khiếp, nơi họ có thể chết bởi móng vuốt của những con quái vật không giống người …

    … và vấn đề là do mình quyết định. Đây không phải là một nhiệm vụ được cho phép, lẽ ra mình chẳng có trách nhiệm gì ở đây cả. Vậy thì làm thế nào mà mình lại muốn họ cùng đi chứ?

    “Ha, nghe như là một nhiệm vụ tồi tệ đây,” cuối cùng John lên tiếng. “Nếu chúng ta muốn đến đó đúng giờ thì phải nhanh lên.”

    Anh ta cười với David, một nụ cười khẽ không giống với cá tính thường ngày, nhưng dù gì đó cũng là cười. “Anh biết tôi rồi đấy. Tôi thích những trận đánh ra trò. Hơn nữa phải có ai đó chặn nhứng thằng điên này phát tán đi khắp nơi chứ, đúng không?”

    Cả Steve và Karen cùng gật đầu, khuôn mặt hai ngưới cũng quả quyết y như John, bất chấp những gì họ sắp phải đối đầu. Rebecca thì đã quyết định từ khi ở Raccoon. Bất chợt David cảm thấy một mối xúc cảm đang lan khắp mọi người, một sự kết hợp kỳ lạ khó hiểu giữa niềm kiêu hành với sự sợ hãi và lòng nhiệt tình, đến nỗi anh không biết phải làm gì bây giờ nữa.

    Sau vai giây ngập ngừng im lặng, anh gật đầu một cách dứt khoát và nhìn lên đồng hồ. Sẽ mất vài giờ để đến được khu vực đổ bộ.

    “Được rồi,” anh nói. ”Tốt nhất chúng ta hãy vào nhà kho và chuẩn bị đạn dược. Chúng ta sẽ cần nó khi lên đường.”

    Khi mọi người đứng dậy và cất bước, David tự nhắc nhở mình rằng họ làm việc này vì sự cần thiết, rằng từng người đều đã cân nhắc khi quyết định tham gia vào một nhiệm vụ nguy hiểm như thế. Họ biết cái giá phải trả. Bằng cách đó, anh sẽ được an ủi đôi chút nếu có gì bất trắc xảy ra.
    *
    **​
    Karen đang ngồi trên lưng toa chở hàng và lôi băng đạn ra, những cụm từ trong mấy thông điệp bí ẩn không ngừng xuất hiện trong đầu khi cô nhét mấy viên đạn chín ly vào từng ổ đạn.

    … Đã nhận thông điệp của Ammon/loạt màu xanh/nhập câu trả lời cho chìa khóa/đảo ngược số và chữ/cầu vồng thời gian/đừng đếm/làm xanh để truy cập.

    Cô nạp xong một băng đạn nữa và đặt nó bên cạnh những cái khác, lơ đễnh chùi ngón tay dính đầy dầu mỡ vào ống quần trước khi làm tiếp. Một làn gió thổi nhẹ qua qua cái toa chở hàng nóng bức, mang theo cái nóng mùa thu và mùi mặn của biển. họ đã tránh xa con đường phía nam của vịnh, và tìm một khoảng đất rộng rãi cách mép nước không đầy ¼ dặm để trú chân. Ngoài kia, mặt trời đang lặn, trải bóng dài lên mặt đất khô cằn. Cách đó không xa, tiếng sóng vỗ lên vào bờ biển nghe thật dễ chịu, một thứ tiếng động làm nền cho những giọng nói thì thầm của mọi người khi họ tiến hành công việc. Steve và David đang kéo bè lên, trong khi John kiểm tra động cơ. Rebecca thì đang thu thập mớ dụng cụ y khoa từ những hành trang “mượn đỡ” trong kho dụng cụ của STARS.

    … số và chữ … mật mã chăng? Nó có liên quan gì đến thời gian không nhỉ? Đếm ở đây phải chăng là tổng số hàng, hay là cái gì khác?

    Tâm trí cô không ngừng bám chặt lấy các cụm từ như thể một con chó đang ngoạm xương vậy. Nó có ý gì đây? Các hàng phải chăng có một mối liên hệ duy nhất, hay mỗi cái lại dẫn tới một bài toán đố lớn hơn? Có phải Ammon đã gởi thông điệp, tại sao anh ta làm việc cho Umbrella?

    Cô đã nạp hết băng đạn và với tay lấy cái túi lớn không thấm nước, tạm gác những suy diễn để tập trung trở lại vào công việc. Cô biết những luồng tư tưởng của mình sẽ lại tiếp tục sau khi hoàn tất mấy việc được giao. Đây là lối tư duy của cô; cô sẽ không nghĩ ngơi chừng nào mọi chuyện còn mập mờ. Luôn luôn có câu trả lời, luôn luôn, tìm ra nó hay không chỉ là vấn đề tập trung và tiến bước chính xác theo đúng trình tự.

    Những khẩu súng bán tự động đã được lau sạch và sẵn sàng sử dụng, đặt nằm gọn gàng bên cạnh thitế bị điện đài. Họ không theo vũ khí gì khác ngoài trang bị thường dùng của đội STARS, khẩu Baretta, ngoài ra còn có đèn nháy, thứ mà David nhấn mạnh là phải có. Mặc dù Karen đồng ý, cô vẫn thấy tiếc khi họ không thể mag theo những khẩu súng trường, chúng có thiết bị nhìn ban đêm. Sau khi đã nghe chi tiết thông tin về đám zombie trông như người có thể xuất hiện dọc đưởng, cô thật sự không biết mình có an toàn nổi với súng lục và đèn nháy không nữa.

    Sự thật là mình đã thấy lo lắng từ khi David truyền đạt tin tức rồi. Sự thật là mọi thứ đều không theo trình tự nào cả, những mẩu thông tin chẳng hề ăn khớp với nhau như chúng ta mong muốn.

    Trớ trêu thay, chính những lý do đã thuyết phục cô bắt tay vào việc chọc thủng bức màn bí ẩn lại cũng khiến cô thấy băn khoăn: Trent, sự cấu kết hiển nhiên của STARS và Umbrella, nguy cơ xảy ra một tai nạn nhiễm độc nguy kịch tại chính thành phố cô cư ngụ. Kẻ nào bị mua chuộc? Chuyện gì xảy ra ở vịnh Caliban? Họ đang che giấu thứ gì? Bài thơ có nghĩa gì?

    Chưa đủ dữ kiện. Chưa đủ.

    Cô vẫn luôn lấy làm tự hào về tính thực dụng của mình, về khả năng lần ra sự thật bằng kinh nghiệm chứ không hồ đồ hấp tấp, phán đoán vô căn cứ. Đó là bí quyết giúp cô thành công ngoài chiến trường, mặc dù cô thừa nhận là có những lúc mình trở nên lãnh đạm thái quá – thậm chí lạnh lùng – nhưng con người cô là vậy, cô luôn quan niệm rằng chỉ có thể hài lòng một khi đã khám phá ra chân tướng. Cho dù có thể phải đánh đổi bằng máu, thì cô vẫn thấy hài lòng khi giải quyết được bài toán, khi biết được nguyên nhân lẫn biện pháp thích hợp cho nó. Câu hỏi chưa có lời đáp về vịnh Caliban là một sự thách thức với tư duy của cô. Nó đi làm cô thấy bực tức và buộc cô phải tập trung mọi giác quan để phán đoán – cô sẽ không khuây khỏa chừng nào chưa trả lờì được những câu hỏi.

    Cô đã chuẩn bị xong vũ khí. Cô cũng kiểm tra lại các thắt lưng chuyên dụng, và ngó chừng xem David có cần cô làm gì nữa không …

    Karen ngập ngừng, cảm thấy từng giọt mồ hôi ấm đang chạy dọc theo sống lưng. Không ai có mắt sau lưng cả, và cô thì cũng đã kiểm tra hai lần các nếp gấp và túi đeo bên thắt lưng rồi. Thế rồi, với một cảm giác gần như tội lỗi, cô cho tay vào túi áo và lôi ra cái bí mật của mình, cảm thấy an ủi với cái sức nặng quen thuộc trong lòng bàn tay.

    Lạy Trời, nếu mấy gã kia biết thì mình có nước chui xuống đất thôi.

    Nó là thứ cha cô đã trao cho cô, một chứng tích mà ông còn giữ trong Thế chiến 2, và là một trong số những món đồ hiếm hoi làm cô nhớ đến ông, một trái lựu đạn cá nhân kiểu cổ, còn gọi là lựu đạn quả dứa do hình dáng của nó. Việc mang nó theo bên mình có vẻ không thích hợp lắm, nó làm cô thấy mình có phần lố bịch. Cô làm việc hăng say để chứng tỏ mình hoàn toàn là người sống theo lý trí, một phụ nữ thông minh, gạt mọi cảm tính sang một bên. Nhưng quả lựu đạn này lại cho thấy một sự mâu thuẫn, cô luôn mang nó bên mình trong mọi nhiệm vụ. Hơn nữa, cô luôn tin chắc là có lúc nó sẽ hữu dụng …

    Phải, phải luôn tự nhủ như thế … STARS đã số hóa lựu đạn cá nhân bằng kíp hẹn giờ, thậm chí kích nổ bằng thiết bị máy tính. Còn chốt của quả lựu đạn này gần như không thể giật ra bằng kìm …

    “Karen, chị có cần giúp gì không?”

    Karen giật mình nhìn lên và bắt gặp dáng vẻ sốt sắng của cô gái trẻ, cô ta bước vào từ phía sau lưng toa chở hàng. Ánh mắt cô dừng lại ở quả lựu đạn, và ánh lên một sự tò mò.

    “Em tưởng chúng ta không được mang theo chất nổ chứ .. ha, có phải nó là loại lựu đạn quả dứa không? En chưa bao giờ thấy nó cả. Nó còn hoạt động chứ?”

    Karen nhanh chóng nhìn quanh, e là có ai khác nghe lỏm được, rồi cười ngượng ngùng với nhà hóa học trẻ tuổi, cảm thấy hết sức lúng túng.

    Thật sự nó đâu phải là chuyện xấu. Cô ta không biết mình, việc quái gì cô ta muốn quan tâm là mình mê tín hay không chứ?

    “Suỵt! Coi chừng họ nghe thấy đấy. Lại đây một chút.” Cô nói, và Rebecca ngoan ngoãn leo vào trong toa, vừa cười cười một cách bí ẩn. Thật sự, Karen thấy một sự hài lòng khó hiểu khi bị Rebecca phát giác. Cô đã làm việc ở STARS bảy năm mà chưa bị ai bắt gặp. Trong thoáng chốc, cô chợt nhận ra là mình thích cô gái này.

    “Coi như nó là một quả dứa đi, và không có chất nổ gì bên trong cả. Em đừng nói với ai nhé? Chị mang theo để cầu may thôi”

    Rebecca nhướng mày. “Chị mang một quả lựu đạn còn sống chỉ để cầu may ư?”

    Karen gật đầu, nhìn cô một cách nghiêm trang. “Phải, nếu Steve và John biết được, họ sẽ cười chị thúi mũi cho xem. Chị biết nó có vẻ ngu ngốc, nhưng nó là một bí mật.”

    “Em không nghĩ là ngu ngốc đâu. Chị bạn Jill của em có một cái mũ lấy hên …” Rebecca vươn tay ra trỏ vào dải băng đeo trên trán. “ … và em thì đã mang cái này suốt trong mấy tuần thực tập. Em cũng mang nó theo lúc vào khu nghiên cứu Spencer.”

    Khuôn mặt trẻ trung của cô thoáng qua một nét yếu ớt, và rồi cô lại cười, đôi mắt màu nâu sáng của cô ánh lên vẻ thẳng thắn và cương quyết. “Em sẽ câm như hến.”

    Lúc này Karen cam đoan là mình thích cô gái này thật. Cô đút quả lựu đạn vào túi, gật đầu với người đối diện. “Cám ơn em nhiều. Mà này, chúng ta sẵn sàng lên đường chưa?”

    Vài nếp nhăn xuất hiện trên mặt Rebecca, biểu lộ sự căng thẳng. “Dạ, chắc là ổn. John muốn kiểm lại cái tai nghe lần nữa, còn mọi thứ đều đã xong.”

    Karen gật đầu, thầm ước mình có thể nói gì đó để xua tan nỗi sợ hãi của Rebecca. Rebecca đã từng đương đầu với Umbrella rồi, nên những gì Karen thốt ra lúc này đều chỉ là rỗng tuếch, không chừng còn mang tiếng dạy khôn nữa. Cô cảm thấy hơi lo lắng, tuy cô không phải là đứa ngốc, nhưng sợ sệt là một cảm giác không mấy quen thuộc với cô. Trong phần lớn các nhiệm vụ, cảm giác cô thường có là cảnh giác, và háo hức muốn khám phá sự thật.

    “Cầm lấy vũ khí đi. Chị sẽ lo phần còn lại.” Cuối cùng Karen lên tiếng. Ít nhất thì cũng có chuyện cho Rebecca làm.

    Rebecca giúp cô dỡ các thiết bị xuống, trong khi mặt trời đang khuất dần dưới lòng biển. Những cơn gió lành lạnh thổi tới và những vì sao mờ ảo đầu tiên bắt đầu xuất hiện trên bầu trời Đại Tây Dương.

    Khi bóng tối ập xuống, họ lăng lẽ di chuyển xuống nước, vũ khí sẵn sàng, triển khai đội hình, chăm chú nhìn về phía làn nước tối tăm như chính những bí mật nó đang nắm giữ.

    Khi những tia sáng cuối cùng khuất hẳn nơi chân trời, mọi người đều đã sẵn sàng tiến lên. John và David lẩn chiếc bè vào trong bóng tối, Karen kéo chiếc mũ chụp màu đen xuống và vỗ nhẹ vào chỗ phồng lên bên dưới áo, thầm hy vọng sẽ không cần phải động tới vật nằm bên dưới.

    Sự thật đang chờ ở phía trước. Bây giờ là lúc khám phá chân tướng của nó.
     
  9. Christie

    Christie Mr & Ms Pac-Man

    Tham gia ngày:
    21/7/06
    Bài viết:
    112
    Nơi ở:
    Liberty city :))
    Ch­ương 7

    Steve & David trèo lên chiếc bè 6 người trong khi Karen cùng Rebecca theo sau .John nhảy lên sau cùng , nhận được hiệu lệnh của David , liền bấm nút khởi động mô tơ . Bao trùm lên tất cả là sự yên ắng , chỉ còn nghe thấy tiếng động cơ gần như bị át đi bởi tiếng sóng .

    " Đi nào " - David nói khẽ . Rebecca hít một hơi thật sâu và thở ra từ từ ,theo mọi người tiến về phương Bắc , hướng tới cái vịnh .

    Không ai nói gì trong khi bờ biển ngày càng lùi xa về bên trái họ ; những hình khối mờ ảo , lởm chởm hiện lên dưới ánh trăng yếu ớt ,vàng vọt ; còn bên phải họ là cả một khoảng không . Bến cảng , mạn phải , tâm trí cô ghi nhớ một cách hoàn toàn ngẫu nhiên .Mũi thuyền , rồi đuôi thuyền ...

    Cô tìm kiếm trong bóng tối một dấu hiệu nào đó để đánh dấu vị trí nhưng rồi cũng chẳng thể hình dung được rõ ràng . Trời tối hơn cô tưởng , và cũng lạnh hơn nữa Sự lạnh lẽo mà Rebecca cảm thấy dường như được pha trộn bởi suy nghĩ về một thế giới thật xa lạ ,vô định cùng lối sống máu lạnh .

    Rebecca chợt nhìn thấy ánh đèn flash loé lên khi David giương chiếc ống nhòm NV lên để tìm đường trên bãi biển . Trong khoảnh khắc trước khi David điều chỉnh được vị trí ống nhòm , ánh hồng ngoại loáng qua khiến cho gương mặt anh trở nên kì lạ và nhầu nhĩ đáng sợ .

    Giờ đây , khi mọi người đã thực sự xác định được lối đi , Rebecca mới thấy nhẹ nhõm hơn . Thế nhưng nỗi khiếp sợ vẫn còn đó , nỗi khiếp sợ về những gì chưa biết cùng những gì họ sắp phải đối đầu . Nhưng cảm giác bất lực và lo sợ đến đứng tim mà cô đã từng trải qua ở Raccoon đã được xoá nhoà , nhường chỗ cho những tia hy vọng .

    Chúng ta đang làm những việc để giành thế chủ động thay vì chờ đợi chúng xảy đến ...

    " Tôi nhìn thấy hàng rào rồi " - David khẽ nói , gương mặt lờ mờ trong bóng tối bập bùng .

    Chúng tôi sẽ phải vượt qua cánh cửa tiếp theo ,qua những toà nhà trên con đường dốc lên ngọn hải , lên những hang động ...Nước ì oạp vỗ vào thân bè , thứ âm thanh thầm lặng của sóng lớn dần mỗi khi chiếc bè nhỏ rung lên khi va phải đá ngầm .Rebecca cảm thấy nhịp tim như đập nhanh hơn . Mặc dù yêu cảnh biển nhưng cô chẳng hề muốn mạo hiểm với nó chút nào , bởi khi còn nhỏ ,cô đã từng xem bộ phim Hàm cá mập .Cô tiếp tục hướng tầm nhìn về phía bờ biển , cố gắng đoán xem họ đã gần bờ tới mức nào , đồng thời , cô cũng cảm nhận thấy mặt đất đang mở ra trước mắt khi chiếc bè nhỏ bé lướt trên những con sóng dập dềnh .Có lẽ khoảng 20 mét nữa , những chiếc bóng cao vót của hàng cây đã giúp cô xác định khoảng cách rõ ràng hơn .Cô đã có thể nghe thấy tiếng nước vỗ nhè nhẹ vào bãi đá , bao quanh họ lúc này là mặt cát phẳng lỳ cùng một không gian rộng mở . Họ đã tiến tới khu vực có các toà nhà bao quanh .

    " Đây là bến tàu " - David nói . " John , bẻ lái sang phải , toạ độ 2 giờ . "

    Rebecca chỉ nhận ra hình dáng mờ nhạt nhân tạo của bến tàu trước mắt : một đường kẻ sẫm trên mặt nước . Một tiếng cót két trống rỗng và đơn độc vang lên bởi sự cọ xát giữa kim loại và gỗ , một cái bến nhỏ nhô lên , kéo căng những chiếc cọc giữ .Cô không nhìn thấy chiếc thuyền nào cả.

    Khi cái bến đã lướt qua , Rebecca nheo mắt nhìn xuyên qua màn đêm . Cô chỉ có thể nhận ra những nét phác của cái công trình xây dựng đằng sau những tảng gỗ nổi ấy . Chắc chắn đó phải là một căn nhà thuyền hoặc một bến tàu chuyên dụng . Cô không thấy bất kỳ toà nhà nào khác từ tấm bản đồ của Trent cả . Cả thảy là 6 toà nhà , ngoài ngọn hải đăng ra ; 5 trong số đó được xây đều đặn dọc theo con vịnh , tạo thành 2 hàng song song với bờ biển , đằng trước 3 , đằng sau 2 . Toà nhà thứ 6 nằm ngay sau ngọn hải đăng , nơi mà họ hy vọng đó chính là phòng thí nghiệm , và có thể lấy thứ mình cần mà không phải rà soát toàn bộ khu vực này ...

    " Nhà thuyền làm bằng gỗ , những cái khác nhìn như bằng bê tông . Tôi không ... Đợi đã ! " - Lời thì thầm của David đột ngột trở nên khẩn cấp " Có ai đó - 2 hay 3 người , vừa mới đi ra phía sau một trong số các toà nhà . "

    Rebecca cảm thấy một sự nhẹ nhõm khác thường : nhẹ nhõm , thất vọng và cả sự hỗn độn bất chợt trong tâm trí . Có người , tức là có lẽ T-virus vẫn chưa bị phát tán. Nhưng điều đó cũng có nghĩa là những toà nhà đang được canh giữ , khu đất được tuần tra , tất cả tạo nên một vỏ bọc cho những hành động nghiên cứu không tưởng .

    Thế thì tại sao nơi này lại u ám đến vậy ? Và cả cảm giác chết chóc , vắng lặng quá đỗi nữa ?

    " Chúng ta bỏ dở giữa chừng sao ? " - Karen thầm thì , và trước khi David kịp trả lời , Steve chợt há hốc mồm , một luồng khí sắc lạnh bỗng đông cứng máu của Rebecca lại , đầu óc cô như quay cuồng điên dại bởi nỗi sợ hãi đang bộc phát .

    " Toạ độ 3 giờ , to lớn , ôi Chúa ơi , nó khổng lồ... "

    BỘP !!!

    Chiếc bè bị tấn công , chao đảo lên xuống trong màn đêm bỗng chốc bị khuấy tung . Rebecca kịp nhìn thấy ánh sáng loé lên trên bầu trời , cùng một thứ chất nhờn mang mùi thối rữa và ớn lạnh . Và cô đang bị nhấn chìm xuống đáy nước hỗn loạn của biển cả . Nước đang bao vây lấy David , mắt mũi anh như bị thiêu cháy bởi nước muối tê cóng , rát bỏng như ngàn mũi kim châm .Anh vùng vẫy chí mạng trong khi hoàn toàn mất phương hướng và ngạt thở .

    - Nó đâu rồi ? -

    Anh đã thấy nó , giống như một tảng thịt rữa khổng lồ trồi lên từ trong bóng tối , ngay trong giây phút bị tấn công .Mặt nước đang cố kéo nạn nhân của nó xuống , David quẫy đạp trước sức ép nặng nề của nước và cả của nỗi sợ hãi cái chết . Cuối cùng anh cũng vùng tới được bầu không khí trên mặt nước , nhưng giờ đây là bầu không khí của sự yên lặng chẳng lành .

    - Toàn đội đâu rồi ? -

    David xoay người trong cơn hổn hển và chợt nghe thấy tiếng ho khạc nước phía bên trái .

    " Mau lên bờ ! " - Anh hổn hển nói , quay một vòng xung quanh ,cố gắng xác định vị trí của họ , và vị trí của sinh vật đó nữa , thầm nguyền rủa sự ngu ngốc của chính mình .

    Lạc đồng đội , vùng vẫy trong thứ nước quỷ ám này , ngu xuẩn ! Thật ngu xuẩn hết sức ! Chiếc bè cách sau anh khoảng 10 mét ,dập dềnh cùng sóng biển .Lực tấn công vô tình đã giúp họ , hay đúng hơn là hất tung toàn đội về phía bờ . Anh nhìn thấy trước mặt hai bóng người nhấp nhô trên mặt nước cũng đang hướng tới bờ , đồng thời nghe tiếng quẫy đạp nhiều hơn khi trông thấy một bóng người khác , cũng đang bơi về phía đó . Anh không thể xác định được cái thứ quái đản nào đã tấn công chiếc bè , nhưng lại hoàn toàn tin vào cảm giác về một vết cắn từ đôi nanh sắc nhọn nào đó , sẵn sàng xé xác nạn nhân ra từng mảnh bất cứ lúc nào .

    " Vào bờ mau ! " - Anh gào lớn lần nữa , tim đập thình thịch , đôi chân cuồng trở nên nặng trĩu , đau nhức .

    Không thể tiếp tục thế này , ba người rồi , người thứ tư đâu ?

    " David ! ....... "

    Tíiếng hét hoảng loạn của John phát ra từ hướng chiếc bè .

    " Ở đây ! John ! Lối này ! Hướng theo giọng tôi ! "

    John tiến về phía anh trong khi David vừa bơi về phía bãi đá vừa gào lớn . Anh đã nhìn thấy đỉnh đầu nhấp nhô của John ,cánh tay vùng vẫy cuống quýt vượt qua làn nước tăm tối .

    " ....bơi theo tôi ! Tôi đây này ! Chúng ta phải vào ... "

    Thình lình , một bóng đen khổng lồ lặng lẽ trồi lên ngay sau người chiến binh , ít nhất là dài đến 3 mét , bắt đầu lượn lờ vòng quanh . Thời gian như đột ngột chậm lại , những sự kiện đang phơi bày trước mắt anh giống như từ một thước phim quay chậm . David nhìn thấy những cái vòi bạch tuộc lớn ở phía gần đỉnh của cái bóng đang trồi lên , một lỗ tròn trên cái thân trơn nhầy màu xác chết của nó - không phải vòi bạch tuộc hay xúc tu - và anh nhận ra rằng mình đang nhìn thấy phần bụng của sinh vật gớm ghiếc ấy , một giống loài mà sự tồn tại của nó chưa bao giờ được biết đến . Phần thân dưới của nó thậm chí còn lớn bằng cả một ngôi nhà .Cái miệng đen ngòm của nó rít lên , để lộ ra hàm răng nhọn hoắt , nghiến lên kin kít , mỗi chiếc nanh đều to như nắm đấm . Nếu như nó vồ xuống lúc này , John chắc chắn sẽ bị nuốt chửng bởi bộ hàm đồ sộ . Hoặc bị nghiền nát . Hoặc bị dìm xuống đáy biển băng giá , chết đuối ,rồi trở thành bữa tối cho sinh vật rùng rợn này . Trong khoảnh khắc đối diện thực tại ấy, anh gào lên :

    " Lặn xuống ! "

    Ngay lúc ấy , con quái vật bổ nhào xuống , uốn éo cái thân dài ngoằng , trông như một con rắn khổng lồ bên chiếc bè nhỏ xíu . Bóng của con vật dưới ánh trăng như nuốt gọn con mồi trong cơn điên loạn kia . David thoáng nhìn thấy những con ngươi to cỡ trái bóng chuyền đang lồi ra , long lên sòng sọc . Khi cái thân hình to lớn ập xuống , một cột nước khổng lồ bắn tung lên như một vụ nổ , dải nước sủi bọt ấy văng lên bầu trời , làm nhuốc bẩn cả những vì sao . Trước khi David kịp lấy hơi , một cơn sóng chấn động đã ập lấy anh , nhấn chìm không thương tiếc vào màn đêm sôi sục . Anh vật lộn với áp lực đang giằng xé tứ chi , cố gắng tìm lấy không khí để thở trong dòng nước xiết đang đổ xuống ào ào . Vùng vẫy điên cuồng , anh đã rướn được tới mặt nước , rùng mình bởi hơi lạnh trong không khí . Một bàn tay ấm áp túm lấy đôi vai .Anh hít lấy hít để không khí ngay khi chân vừa chạm đất , giọng nói gần như đứt hơi của Karen vang ngay sau anh :

    " Thấy anh ấy rồi ... "

    Lảo đảo bước đi trên những phiến đá trơn truội , David mặc cho thân hình bị kéo lê cho đến khi cảm thấy thăng bằng trở lại và ngước nhìn . Từng dáng người đang ướt sũng nước xuất hiện . Steve và Rebecca ...

    Chúa ơi , John ...

    " Tôi ổn " - David hổn hển nói , ngã chúi về phía trước , đầu gối va vào đá đau điếng - " John , có ai thấy anh ấy không ? "

    Không ai trả lời . Anh dụi muối ra khỏi mắt , lảo đảo nhìn trong màn đêm . Chỉ có những cơn sóng lặng lẽ xô chân họ .

    " John ! " - Anh gào to tới mức có thể , dõi tìm nhưng vô vọng . Trái tim như rùng lạnh cùng thân thể , nặng trĩu cùng chiếc áo chống đạn Kevlar đang sũng nước .

    - không thấy một bóng người -

    Anh cất tiếng gọi lần nữa ,niềm hy vọng lụi dần . " John ! "

    " Cái gì ? " -một giọng nói gần như nghẹn lại vang lên từ tảng đá phía bên trái họ .

    David nhẹ cả người , hít một hơi thật sâu ngay khi thấy thân hình lảo đảo của người đồng đội bước ra từ bóng tối . Steve lao tới , túm lấy cánh tay anh chàng cao lớn ấy , dựa anh vào tảng đá .

    " Tôi lặn xuống " - John khẽ thốt lên .

    David đưa mắt nhìn xung quanh ,qua bãi đá ,hướng tới bóng đen của những toà nhà . Họ đang ở một góc cuối bãi biển , trong tầm ngắm .Cú tấn công của con quái cá - có thể coi là như thế - đã khiến cả nhóm có thể bị phát giác , và họ lại đang ở trên bờ lúc này .

    Họ có nghe thấy chúng ta không ? Có nhìn thấy không? Không nên chần chừ thêm nữa , không thể ở lại đây mãi được ...

    " Cái nhà thuyền " - Anh nói khẽ , quay về hướng Nam - " Nhanh lên ! "

    Cả đội liền vội vã di chuyển , Karen dẫn đầu , những người khác theo sau . Không ai bị thương nặng cả , đúng là một điều thần kỳ . David chạy sau John , cố gắng lê đôi chân đau buốt qua bãi đá .

    Nấp vào lùm cây , tập hợp đội hình ,rồi băng qua hàng rào . Khu đất nhô lên trên bờ dốc trước mặt họ , bến tàu lù lù hiện ra . Khi cả nhóm đã trèo lên phía trên những tảng đá , David nghe thấy tiếng va lách cách của kim loại : Rebecca đang ôm trước ngực vật gì màu đen , ướt đẫm trong túi đạn . Anh cảm thấy chút hy vọng cho cơ hội lần này ; nếu cả nhóm có thể lẻn vào bên trong , một nơi nào đó thật an toàn ...

    Toà nhà ở ngay phía bên tay phải , yên lặng và u ám , cánh cửa đóng lại ,đối diện với bến tàu . Không thể biết được nó có hoàn toàn trống rỗng hay không . Dù từ đây đến đó chỉ khoảng 10 mét nhưng không hề có vật gì để che chắn cho bọn họ cả .

    Không còn sự lựa chọn nào khác

    " Cúi thấp xuống " - Anh thì thào . Cuối cùng cả đội cũng tới được toà nhà . Karen ẩn cửa trước tiên . Không một ánh đèn hắt ra , không tiếng chuông báo động . Steve và Rebecca theo sau theo sau , tiếp đến là John , cuối cùng là David , anh dùng vai đẩy cửa đóng lại sau lưng .

    " Tất cả đứng yên đã " - Anh khẽ ra lệnh , dò dẫm tìm cây đèn halogen dưới thắt lưng . Ngoài nhịp thở của các thành viên trong đội ra , căn phòng vẫn yên ắng , nhưng bốc lên một thứ mùi kinh tởm của thịt rữa lâu ngày ...

    Chùm ánh sáng xuyên qua bóng tối , để lộ ra một căn phòng lớn không cửa sổ . Dây thừng , phao cứu sinh treo đầy những móc gỗ , một chiếc bàn lớn nằm dọc theo bức tường , vài cái giá để đồ lộn xộn .

    - Lạy Chúa tôi -

    Ánh đèn dừng lại ở cánh cửa của một căn phòng khác , ngay đối diện cánh cửa mọi người vừa bước vào . Chiếc đèn chiếu vào nguyên nhân của thứ mùi ghê tởm ấy , chiếu sáng một bộ xương trần trong tấm áo thí nghiệm ố vàng . Những thớ thịt chảy mủ thành từng dòng từ khuôn mặt kinh dị. Một thây người bị đóng đinh vào cánh cửa , bàn tay bị ghim lại trong tư thế đang vẫy. Nhìn vào có thể thấy đây là một xác chết đã nhiều tuần .

    Steve như muốn lộn mửa , anh quay đi chỗ khác , nhưng hình ảnh ấy vẫn cứ lù lù trong tâm trí - gương mặt xác chết như bị lột da , nơi từng là đôi mắt giờ chỉ là hai lỗ trống hoác , những ngón tay vẹo vọ bị ghim đính lại với nhau ...

    Chúa ơi ,trò đùa quái quỷ gì thế này ? - Steve cảm thấy choáng váng , một phần bởi chuyến bơi kinh hoàng khi nãy với con quái thú của Umbrella , một phần bởi cái thây hôi thối ,chua rữa trước mặt .

    Không ai nói gì trong vài giây . David đưa tay huơ huơ trước ánh đèn rồi nói thấp giọng nhưng không giấu nổi kinh ngạc :

    " Mọi người kiểm tra lại thắt lưng , đưa hết những thứ mang theo ra . Tôi cần kiểm soát tình hình lúc này , ai bị thương và mang những gì . Tất cả hãy hít một hơi thật sâu trước đã . John đâu rồi ? "

    Giọng nói nghiêm nghị của John vang lên trả lời trong bóng tối , pha lẫn với tiếng bước chân dò dẫm .Karen và Rebecca ở ngay bên David , còn anh thì đứng cạnh cánh cửa .

    " Tôi bị con cá sượt qua nhưng vẫn ổn . Tôi mang vũ khí nhưng đèn hết pin rồi . Còn đây là radio "

    " Rebecca ? "

    Giọng cô hơi ngập ngừng rồi nói nhanh : " Tôi ổn , - ừm , vũ khí vẫn còn , đèn pin , túi cứu thương , ồ , tôi còn cả đạn nữa "

    Trong khi cô nói ,Steve kiểm tra lại đồ đạc của mình , lôi khẩu Beretta khỏi bao súng , tháo băng đạn ướt ra đút vào túi . Thắt lưng anh thiếu mất chiếc đèn pin .

    " Steve ? "

    " À , không bị thương , còn vũ khí nhưng mất đèn "

    " Karen ? "

    " Cũng thế "

    David lấy ngón tay che bớt ánh đèn, chỉ để lọt ra một chút ánh sáng mờ đủ để soi đường . " Không ai bị thương và chúng ta vẫn đầy đủ vũ trang , mọi thứ có thể sẽ tồi tệ hơn thế này rất nhiều . Rebecca , cất đồ đi . Hàng rào chắc không cách xa quá 50 mét về hướng Nam , có đủ cây cối để ẩn náu , miễn là vẫn chưa có ai phát hiện ra chúng ta . Bắt đầu thôi , chúng ta chuẩn bị ra khỏi đây "

    Steve nhận 3 băng đạn từ Rebecca , gật đầu cảm ơn . Anh nạp đạn rồi tự động lên nòng .

    Tốt rồi , tiến lên nào . Con quái thú ấy gần như đã ăn thịt được chúng ta , lúc này bàn tay của Mr.Xác chết kia trông như vẫy chào .

    Steve không phải là kẻ nhát gan nhưng anh hiểu mức độ nghiêm trọng của tình huống khi đối mặt với nó . Anh rất ngưỡng mộ S.T.A.R.S , muốn đi theo để giúp đỡ nhưng bây giờ thuyền của họ đã đi đời , còn kế hoạch vạch trần và tóm cổ lũ Umbrella có thể phải chờ một thời cơ khác .David bước lại gần cái xác đang bị phân huỷ , mặt anh nhăn lên ghê tởm trong ánh đèn . " Karen , Rebecca , lại đây kiểm tra xem sao . John , cầm đèn pin của Rebecca , anh và Steve thử tìm xem có thứ gì hữu ích không " .

    Rebecca đưa cây đèn cho John trong khi anh gật đầu với Steve .Hai người đàn ông bước tới cuối bàn .Một giọng nói khẽ vang lên phá tan bầu không khí yên lặng :

    " T -Virus không phải là nguyên nhân gây ra cái chết " - Rebecca nói . " Lớp mô ngoài đều đã phân huỷ hết ... "

    Lặng thinh một hồi , Karen lên tiếng - " Thấy thế sao ? David , cho ánh đèn vào đây xem nào ... " .

    John cầm đèn rà soát trên nền nhà bẩn thỉu . Một tách cà phê đã vỡ . Một đống bù loong , ốc vít đặt trên tấm bảng giờ thuỷ triều . Một cái máy bắt vít bụi bặm và sứt mẻ , vài thứ đồ đạc lỉnh kỉnh bên trên mớ giẻ ố màu .

    Chẳng có gì hết .Chúng ta nên rời nơi này trước khi bị phát hiện ...

    John lục lọi trong ngăn kéo còn Steve cố tìm xem có gì bên trên giá đựng đồ hay không .Đằng sau họ , Karen nói tiếp :

    " Người này bị đóng đinh trong lúc chưa chết hẳn , ý tôi là suýt chết . Hoàn toàn bất tỉnh . Không có dấu vết kháng cự ... Chỗ này có vài vết trượt , ở đây , cả ở đây nữa : Có thể kết luận rằng : người này bị bắn lén rồi bị kéo lê tới đây " .

    John thôi không lục ngăn kéo nữa , tiến tới chỗ mọi người ,sàn nhà phát ra tiếng lép nhép mỗi bước anh đi .Một bộ cờ lê . Một chiếc radio rẻ tiền ,. Một túi hồ sơ nhàu nát bên cạnh mẩu bút chì . Trong đầu Steve chợt nảy ra một suy nghĩ , anh dừng lại kiểm tra chiếc túi . Cái bút chì ... Anh nhặt được mẩu giấy bị vo viên , vuốt phẳng rồi quay ngang dọc . Có vài dòng chữ ở gần cuối , nguệch ngoạc đứt nét .

    " Này ,chúng tôi tìm thấy một thứ " - John kêu lên , rọi đèn vào hàng chữ .Mọi người nhào tới . Trong ánh đèn đang nhảy nhót , Steve nheo mắt đọc lớn .Không một dấu chấm câu ; anh cố hết sức để tự ngắt dòng .

    " ... 20 tháng Bảy . Thức ăn có lẫn chất gây nghiện .Tôi phát bệnh .Tôi đã giấu tài liệu và gửi nó đi .Thuyền đắm hết , còn hắn thì thả lũ ... "

    Steve cau mày , rặn ra từng chữ . Tris ... tri - squad ?

    " Thuyền đắm hết còn hắn thì thả lũ Trisquad ra ngoài .Trời tối ,chúng sẽ đến , tôi nghĩ hắn định tàn sát tất cả - ngăn hắn lại - có Chúa mới biết hắn định làm gì . Phải phá huỷ phòng thí nghiệm - tìm Krista , nhắn cô ấy tôi xin lỗi , Lyle xin lỗi . Ước gì ... "

    Không còn dòng nào nữa .

    " Bức thư của Ammon " - Karen thì thào - " Lyle Ammon "

    Chẳng khó khăn cho nhà khoa học kia nhận ra ai là kẻ đang bị treo trên cánh cửa .Cái thây đang rỉ thõng đã được nhận diện , một thông tin hết sức đáng giá .Và bức thư mà Trent đưa cho David trước đó cũng rất kỳ lạ , có lẽ bởi cái gã khốn khổ này đang viết trong cơn thiếu thuốc .

    " Cho bộ mặt này một cái tên cũng tốt chứ nhỉ ? " - John đùa , nhưng không hề cười . Những dòng nguệch ngoạc như báo trước một điềm gở ,kể cả có bao gồm những tên giết người hung bạo kia hay không .

    Trisquad là cái gì ? " Hắn " là ai ?

    " Có lẽ chúng ta nên lục soát lại thêm chút nữa " - Rebecca ngập ngừng nói , nhưng David lắc đầu .

    "Tôi nghĩ tốt nhất là nên rời khỏi đây . Chúng ta sẽ ... "

    Anh chợt khựng lại ngay khi nghe thấy tiếng bước chân nặng nề ngoài cửa . Không ai cử động , tất cả đều nín thở lắng nghe . Không chỉ là một , mà là nhiều người . Bất kể là ai đi nữa , chúng cũng không buồn che giấu sự xuất hiện của mình .Chúng dừng lại ở cửa và đứng đó . Không tiếng vặn nắm đấm , không tiếng đạp cửa , không một âm thanh nào khác .Chỉ đợi .

    David ngoắc tay trong không khí , chỉ vào Karen rồi chỉ vào cánh cửa xác chết . Dấu hiệu rút lui . Karen mở đường .Họ lùi dần về phía cái thây . Steve nhăn nhó trước mỗi tiếng cọt kẹt cả nhóm phát ra khi di chuyển , anh thở bằng mồm để tránh hít phải mùi thối rữa .Đúng lúc Karen đẩy cửa , sự yên lặng đột ngột bị phá tan bởi tiếng súng nổ , ngay trước mặt họ về bên trái , phát ra từ hướng rút lui .
     
  10. Christie

    Christie Mr & Ms Pac-Man

    Tham gia ngày:
    21/7/06
    Bài viết:
    112
    Nơi ở:
    Liberty city :))
    Chương 8

    Karen lập tức nhảy lùi về phía sau ngay khi những viên đạn ghim vào cánh cửa .Từng mảng da vữa bong ra từ xác Ammon , cái thây như rùng mình nhảy múa một vũ điệu ma quái . David túm lấy áo ngoài của cái xác ,giật mạnh ,nhưng cánh cửa vẫn đóng chặt .Tiếng nổ ngày càng lớn , lực nổ khiến những mảng thịt cùng mạt gỗ lở ra ngày càng nhiều . Họ đang bị mắc kẹt ở cả 2 phía .

    Rebecca giữ chặt khẩu Beretta trong cánh tay run rẩy ,chờ hiệu lệnh của David .Anh trỏ nhanh về phía tây bắc, hướng những toà nhà ,gào lên ra lệnh trong tiếng súng nổ :


    " Rebecca , cửa kia ! John , Karen ,chuyển sang toà nhà kế bên ! Steve , chúng ta yểm trợ ! Tiến lên ! "

    Ngay lập tức , Steve và David bật dậy bắn trả ,những tiếng đùng đoàng xen lẫn với tiếng súng nổ rát tai .John cùng Karen không hề chần chừ ,biến mất vào bóng đêm .Rebecca quay lại , chĩa súng vào cánh cửa sau , tim như muốn vọt khỏi lồng ngực .Những vách tường rung lên dữ dội .

    " Chết đi ! Chúa ơi ,sao chúng không chết vậy ? " - Steve gào lên phía sau cô , giọng căng thẳng hết mức khiến máu cô như thêm đông cứng lại .

    ... hay đó là những thây ma ?

    Không rời mắt khỏi cánh cửa , Rebecca hét lớn tới mức có thể , át cả tiếng súng một cách không thương tiếc :

    " Bắn vào đầu ! Ngắm vào đầu chúng ! "

    Không biết chúng có nghe thấy giọng cô không , những tay súng tiếp tục tiến gần . Trong đầu cô thoáng lên hình ảnh những nạn nhân của T - Virus . Họ trở nên mất ý thức ,chậm chạp , vô nhân tính và hoạt động trong trạng thái vô thức .

    " Rebecca ! Đi thôi ! "

    Tiếng súng trường tự động vẫn còn nhưng căn nhà thuyền không còn rung lên nữa . Cô liếc nhìn, Steve vẫn đang bắn trả , David ra hiệu bảo cô di chuyển .Cô đi cúi về phía cánh cửa mở , bắt gặp cảnh tượng kinh khủng của cái thây đang lỗ chỗ vết đạn , thế nhưng vẫn treo trên cửa . Cái đầu nghẹo xuống như một trái bí ngô thối nẫu , răng lợi nhe ra lởm chởm . Bàn tay vẫy không còn gắn với cánh tay nữa , xương cốt đều bị bắn vỡ nát .Cái thây treo lủng lẳng như một món đồ trang trí rùng rợn trong tư thế mời gọi ...

    Steve bồi thêm một phát nữa trước khi ngừng lại . Anh giương súng lên , mắt trợn tròn vì shock , miệng há ra định nói điều gì ...Rồi cánh cửa sau tung ra , đạn bay vèo vèo xuyên qua bóng tối trong ánh nổ màu da cam . David đẩy mạnh Rebecca về phía trước để cô chạy , tiếng đạn 9 li bắn trả vang lên ngay sau gáy .

    - tiến tới toà nhà , về phía ẩn nấp -

    Cô chạy hết tốc lức trong màn đêm , đôi giày ướt nện thình thịch xuống con đường đầy đá nham nhở , ánh mắt dõi tìm trong bóng tối hình dáng , đường nét một toà nhà bê tông cùng những hàng cây khẳng khiu xung quanh .

    " Ở đây ! "

    Cô quay theo hướng gọi , trông thấy thân hình cơ bắp của John rọi lên trong ánh sao mờ nhạt , đang đứng ở góc toà nhà .Khi lại gần ,cô thấy cánh cửa mở , Karen đứng ngay lối ra vào ,chĩa súng về phía khu nhà thuyền . Tiếng súng đạn vẫn vang lên trong màn đêm .

    " Vào đi ! " - Karen thét lớn , bước sang một bên nhường chỗ cho Rebecca chạy nhanh vào . Trong bóng tối ,cô va ngay vào gờ một chiếc bàn , đau điếng một bên hông . Quay lại ,cô trông thấy Karen đang bắn , John hét :

    " Lại đây ! Lại đây ! "

    ....Steve nhào qua cánh cửa ,thở không ra hơi , một tay ôm ngực . Anh khựng lại trước khi ngã chúi về phía cô . Rebecca hướng ra cánh cửa ,dõi nhìn xuyên qua bóng đêm dày đặc . Ngay lúc đó, David lăn qua , hét lớn :

    " Karen , John ! "

    Karen quay về phía bóng tối , lăm lăm tay súng . Ba tiếng nổ đanh vang lên từ một khẩu Beretta , John trượt ngã ,hàm răng nghiến chặt ,mũi như căng ra .Rebecca đứng gần cánh cửa ,lục tìm then cài , tiếng khoá khẽ lách cách đủ mình cô nghe thấy .Ngoài kia , súng đã ngừng nổ .Không còn tiếng la hét , không tiếng còi báo động , không tiếng chó sủa hay tiếng người rên rỉ vì bị thương . Không khí câm lặng chợt bị phá tan bởi tiếng thở dốc trong màn đêm oi bức .

    Ánh đèn halogen của David loé lên , soi rõ từng khuôn mặt hãy còn đang shock của cả đội trong khi anh kiểm tra nơi trú ẩn mới .Một căn phòng cỡ vừa , toàn bàn ghế và thiết bị máy tính .Không hề có cửa sổ .

    " Thấy chứ ? " - Steve hổn hển , không biết đang nói với ai . " Chúa ơi ,chúng không chết , thấy không ? "

    Không ai trả lời .Mặc dù đã qua cơn nguy hiểm , Rebecca vẫn cảm thấy ruột gan rối tung , không thể bình tĩnh trước bất cứ cử động bình thường nào . Có vẻ như Umbrella đã tìm ra vật thí nghiệm cho T-Virus . Kể cả có đúng thế hay không ,cả nhóm đang đối mặt với kết quả của nó . Bị kẹt trong vịnh Caliban . Trong căn phòng thiết bị này , cùng những sinh vật có vũ trang .

    David hít một hơi thật sâu và thở ra nặng nhọc , rọi đèn về phía cửa .

    " Chúng ta bị phát giác rồi " - anh nói , cố giấu cảm giác thất vọng " Cũng cần kiểm tra xem chúng ta đang ở đâu đã . Rebecca ,bật đèn giúp tôi "

    Cô gạt công tắc trên tường , căn phòng lập tức sáng loà , ánh sáng của sự sống . Nheo mắt lại vì chói , David kiểm tra lại toàn đội , chợt thấy Steve một tay ôm ngực .

    " Anh trúng đạn à ? "

    " Có áo chống đạn rồi " - anh nói ,nhưng có vẻ thiếu hơi hơn tất thảy những người khác , gương mặt trông còn nhợt nhạt hơn . Rebecca đưa mắt nhìn David , ý dò hỏi . Anh gật đầu .

    Đừng có xuất hiện lúc này để chúng ta còn tìm một nơi khác....

    " Kiểm tra hộ anh ấy xem . Còn ai nữa không ? "

    Không ai trả lời .Rebecca bước tới Steve , giúp anh xoay người cởi lớp áo chống đạn .David quan sát căn phòng , nhẩm tính khoảng cách trong trí nhớ về tấm bản đồ củaTrent cùng những gì vừa thấy ngoài kia . Nửa tá bàn ghế kim loại rẻ tiền , mỗi bộ đều trang bị máy tính cùng một đống lộn xộn trên bàn . Tường xi măng thô kệch không sơn quét . Một cánh cửa khác ở phía tây căn phòng ,dẫn vào sâu bên trong toà nhà .

    " Karen , kiểm tra chỗ đó " - anh nói ,. Họ có thể rà soát được toàn bộ nơi này ngay khi biết chắc phải làm gì .

    Mỗi khi thằng Đội trưởng mày quyết định điều gì đó , có lẽ mày muốn cả nhóm lại phải vật lộn hay sao ? Tình hình sẽ chẳng thể tồi tệ hơn những gì mày vừa làm đâu ...

    Daivid cố lờ giọng nói bên trong mình , hoàn toàn nhận thức được cách anh đánh giá tình huống tồi tệ tới mức nào .Chẳng ích gì khi cho cả đội thấy anh đang tự phân vân .Vấn đề đặt ra là , " Làm gì bây giờ ? "

    " Cùng bàn xem " - Anh nói " Có vẻ như chúng ta không hẳn là đang đối mặt với một tai nạn . Tờ giấy viết gì ? Thức ăn bị thuốc , và điều gì đó về " hắn " ,kẻ đang âm mưu giết hại những người khác ... Chẳng lẽ chúng ta lại bỏ qua vụ lây nhiễm T-Virus sao ? "

    Rebecca kiểm tra vết thương trên ngực Steve ,chàng thiên tài điện toán đang ngồi trên một trong số những chiếc bàn trước mặt cô . Steve nhăn nhó khi ngón tay cô chạm vào vết bầm tím trên ngực phải của anh . Cô mỉm cười đầy ẩn ý , lắc đầu :

    " Anh không sao cả . Không bị gãy cái xương nào hết "

    Rồi cô quay sang David , nụ cười vụt tắt .

    " Ừm . nếu như có vụ phóng thích virus thì gã Ammon trên cửa đã vị nhiễm rồi . Nhưng còn tụi Trisquad - nếu như cũng là kết quả thí nghiệm của T-Virus - thì có lẽ đã phải mục rữa từ lâu . Thời điểm tính từ lúc ổng viết tờ giấy đó cũng phải trên ba tuần , cứ nhìn đống thức ăn đó thì biết . Hoặc một loại virus khác , hoặc ai đó đang cất giữ chúng . Bằng enzyme bảo quản , hay một phương thức lưu giữu nào đó . "

    David chậm rãi gật đầu , đồng ý với lý lẽ của cô .

    " Còn nếu "kẻ đó " phát điên rồi giết tất cả mọi người , tại sao phải lo lắng ? "

    " Cái thây đó vẫy chúng ta " - Karen trầm ngâm nói .

    " Cả loài sinh vật hay những loài sinh vật trong vịnh nữa .Có vẻ như hắn đã đón đầu rồi ... ".

    " ... cũng không có nghĩa là chúng ta được tiến xa hơn " John kết thúc .

    Những dòng chữ như nhảy múa trong đầu David , với lời thỉnh cầu ngăn cản " hắn" lại .

    " Có Chúa mới biết hắn định làm gì ... "

    Steve mặc áo sơ mi vào , rùng mình trong lớp vải ẩm ướt . " Chúng ta làm gì bây giờ ? "

    David không trả lời , bởi không chắc định nói gì .Anh thấy thật mệt mỏi ,đuối sức và thiếu quyết đoán ...

    " Tôi... lựa chọn của chúng ta là ra ngoài hoặc tiến sâu thêm " Anh khẽ nói " Cùng với những gì vừa xảy ra , tôi thực sự chẳng thấy dễ chịu chút nào khi phải đưa ra quyết định . Mọi người muốn thế nào ? "

    David thận trọng nhìn từng khuôn mặt ,chờ đợi sự giận dữ ,khinh miệt . Anh đã khiến họ thất vọng , đẩy mọi người vào những tình huống ngặt nghèo mà không hề có kế hoạch chắc chắn . Tất cả chỉ bởi anh không muốn đứng nhìn S.T.A.R.S bị bôi nhọ . Và ngay lúc này đây , họ lại bị mắc kẹt ,còn anh thì chẳng biết nên làm gì .

    Cả nhóm đều đang trầm tư suy nghĩ . Anh ngạc nhiên thấy Karen thực sự mỉm cười , nói với giọng hăm hở :

    " Từ lúc anh hỏi , tôi đã muốn đi kiểm tra nơi này rồi .Tôi muốn biết chuyện gì đã xảy ra tại đây "

    Rebecca gật đầu . " Đúng , tôi cũng thế . Tôi còn muốn tìm hiểu T -Virus thêm nữa "

    " Tôi thì muốn hạ thêm vài chú Tri - boy nữa " - John nói ,nhăn răng cười . " Gã đàn ông , và lũ thây ma trang bị M -16 , đúng là đêm của đội quân thây sống "

    Steve thở dài ,gạt mái tóc ướt trên trán :

    " Cũng nên coi chừng ; đi ra ngoài lúc này cũng không thực sự an toàn . Mà đó cũng không phải cách tôi muốn , nhưng phanh phui những hành vi bẩn thỉu của Umbrella mới là kế hoạch chính ... Đúng thế , tôi muốn tóm gọn lũ khốn này . "

    David cười , cảm thấy hơi lúng túng . Anh không đánh giá thấp tình huống mà lại đánh giá thấp chính đồng đội của mình .

    " Anh muốn thế nào ? " - Rebecca chợt hỏi .

    " Thực sự ấy à ? "

    Câu hỏi một lần nữa khiến anh ngạc nhiên , không phải bởi cô hỏi mà vì đột nhiên anh chưa thể trả lời .Anh đang nghĩ về S.T.A.R.S , về lý tưởng sự nghiệp của mình và nó thực sự đã bắt họ trả giá . Những gì anh muốn trong sự nghiệp chính là ý nghĩa của công việc , anh không muốn nó phí hoài và tự thuyết phục mình rằng : tìm ra những hành vi gian dối sẽ giúp tâm hồn anh thanh thản , như thể việc lôi ra ánh sáng những điều trái đạo lý sẽ chứng tỏ anh không hề vô dụng .

    Mình đã tôn sùng tổ chức từ lâu... Nhưng chẳng phải đây là lý do , là mục đích thực sự sao ? Ở đây , ngay căn phòng này , đối diện những khuôn mặt này ? "

    Anh chăm chú cái nhìn tò mò sắc bén của Rebecca ,cảm giác toàn đội đang nhìn mình chờ đợi .Anh chân thành nói :

    " Tôi muốn chúng ta sống sót trở về . Tôi muốn chúng ta tìm hiểu nơi này "

    " Ơn Chúa vì điều đó " - John lẩm bẩm .

    David nhớ lại những gì đã nói với đội Raccoon ,về việc mỗi cá nhân đều phải cố gắng hết sức nếu muốn chiến thắng Umbrella . Anh nói vậy để được sự đồng tình từ Chris , nhưng đó cũng là sự thực đối với tất cả mọi người .

    Tiến lên nào , Đội trưởng ...

    " John ,anh cùng Karen đi kiểm tra toà nhà ,các cửa ra vào trong 10 phút . Steve , bật một trong số các máy tính lên , tìm xem có thấy thông tin chi tiết nào về khu vực này không . Rebecca và tôi sẽ kiểm tra các bàn hồ sơ . Chúng ta cần bản đồ , dữ liệu về tụi Trisquad , T-Virus , bất cứ thông tin cá nhân nào về những nghiên cứu viên để tìm ra kẻ nào đứng sau vụ này ."

    David gật đầu với mọi người , nhận ra rằng mình đang tỉnh táo và vững vàng hơn bao giờ hết . " Tiến hành thôi " Anh nói .

    Vì S.T.A.R.S . Họ sẽ lật đổ Umbrella .



    Giáo sư Griffith có lẽ đã không biết vụ đột nhập an ninh nếu như không có lũ Ma7. Có vẻ như chúng rất hữu ích ,mặc dù không đúng theo cách mà chúng được tạo ra .Gã ở trong phòng thí nghiệm cả ngày , mơ màng trước những đường ống áp suất dẫn gas trước lối vào , ánh kim loại loé lên đầy khiêu khích .Từ lúc quyết định phát tán virus , gã đã thấy rằng chẳng cần làm gì tiếp nữa . Từng giờ trôi qua , mỗi lần nhìn vào đồng hồ là một lần ngạc nhiên , tất nhiên đó chẳng phải là cảm giác dễ chịu .Hắn là người đầu tiên ,phải , người đầu tiên thay đổi thế giới này theo một phương thức hoàn toàn mới .Với ý nghĩ ấy , nhiệm vụ duy nhất gã quan tâm lúc này là đưa những ống gas lên tới ngọn hải đăng , cùng những giáo sư kia lặng lẽ , kiên nhẫn chờ đợi mặc dù đã kết trước kết quả . Ngay trước bình minh , hắn đã đưa cho họ bản hướng dẫn cuối cùng , đã tự hào dẫn dắt loài người đến với ánh sáng , tới phép màu của hoà bình .Gã đã yên chí với vị trí của lũ Ma7 , mối quan tâm duy nhất mà hắn chưa coi là đồ bỏ đi .Hắn đã sai lầm với lũ Leviathan . Một lần trong lúc vận hành những thiết bị này , gã đã hạ cửa hang xuống trong cơn bốc đồng , muốn chúng được tự do . Mãi đến hôm sau , gã mới nhận ra rằng Umbrella có thể phát hiện và tới kiểm tra , kết thúc luôn kế hoạch của gã . Hắn tiếp tục gửi báo cáo hàng tuần để giữ vỏ bọc , nhưng cũng chẳng có lý do nào hợp lý cho vụ " trốn thoát " của 4 sinh vật kia cả . Rất may là lũ Leviathan ấy đã tự quay về .

    Tụi Ma7 cũng là một vấn đề . Chúng quá hung bạo ,quá khó kiểm soát để thả ra ngoài . Nhưng để chúng chết đói trong chuồng cũng không phải là ý hay ,nhất là không phải khi chúng đang hưởng ứng món quà của hắn . Chúng không có quyền lựa chọn để tồn tại như những sinh vật huỷ diệt ,thậm chí chỉ là quyền tồn tại không thôi . Và cũng từ lúc đặt ra quy tắc sáng tạo , gã đã tự thấy phải có trách nhiệm đối với chúng .....

    Hắn đứng trước cửa một hồi lâu , suy nghĩ về vấn đề trước mắt ; 5 con vật đã húc đổ cũi sắt ,tiếng tru gào thảm thiết vang lên trong những hang động lộng gió và ẩm ướt . Một ổ khoá rớt ra gần chỗ tường rào ,một cái khác trong phòng thí nghiệm , nhưng không thể nào đánh rơi từ ngọn hải đăng được. Hắn cũng cần chắc chắn được an toàn trước khi thả chúng ra . Gã đã sai một trong số các giáo sư đi làm việc đó ; nhưng loài 7 có vẻ chậm tiêu hơn con người , sẽ rất nguy hiểm nếu chúng vớ được gã trước khi kịp nhận ra chủ nhân . Một tháng trước khi hắn nắm quyền điều hành nơi này , giáo sư Chin cùng hai phụ tá của mụ đã phạm sai lầm chết người . Từ lúc chuyển tới đây , hắn đã quyết định sống với thế giới riêng này lâu tới mức có thể .

    Cuối cùng, Griffith quyết định , chỉ có cái chết không đau đớn mới là sự lựa chọn hợp lý .Tất nhiên đó là miễn cưỡng nhưng gã cũng chẳng còn lựa chọn nào khác . Phòng thí nghiệm rất tối tân nhưng đầu độc lại không phải sở trường của hắn ; thế nên gã quyết định điều tra thông tin tại trung tâm máy tính . Tại đó ,hắn phát hiện ra nơi ẩn náu của mình đã bị đột nhập . Từ một trong những boongke ,gã ngồi shock trước máy tính , chằm chằm nhìn con trỏ nhấp nháy . Không thể nào lầm lẫn được . Trừ phòng máy ra , toàn bộ khu vực này đã bị cắt điện từ nhiều tuần trước .

    Umbrella đã đến .

    Cảm xúc đầu tiên đến sau sự ngạc nhiên của hắn là cơn giận dữ điên cuồng , đột ngột tấn công hắn tựa như một ngọn lửa vô hình .Trong giây lát , hắn như mất trí , thân thể như bị điều khiển bởi thế lực hoang dại ,siết lấy hắn rồi giằng xé . Đầu ngón tay như trở nên bỏng rát , chới với .

    - họ sẽ KHÔNG ,sẽ KHÔNG thể ngăn ta được, KHÔNG bao giờ -

    Khi đôi tay chợt chạm vào lớp vỏ kim loại sắc lạnh của ống gas , ngọn lửa ấy liền tan biến . Bề mặt bóng loáng ấy như dội vào hắn ,đưa hắn trở về với chính mình . Sự tự chủ đã trở về đột ngột như lúc đi vậy , khiến hắn phải vã mồ hôi .

    Tác phẩm của ta . Công việc của ta .

    Trong cơn hổn hển ,gã hấp háy mắt , nhận ra mình đang đứng giữa biển giấy tờ , cửa kính vỡ tung toé , những bảng mạch điện tan tành dưới chân . Hắn đã đập chiếc máy tính ra từng mảnh , chỉ bởi nó báo cho hắn tin xấu . Có lẽ một ngày nào đó ,hắn sẽ xấu hổ vì cơn kích động này . Nhưng lúc này ,hắn tự cho phép bản thân bào chữa cho hành động ấy .

    Thanh minh cho điều đó , có lẽ vậy , nhưng ích gì . Làm sao tránh được việc họ cản trở ta ? Ta cũng không thể thả bọn thú ra ở đây được , không phải lúc này ... Họ định làm gì ? Biết tới đâu rồi ?

    Hắn đủ thông minh để hiểu ra một cách dễ dàng . Vẫn còn 2 thiết bị nữa trong phòng thí nghiệm . Gã bước tới một trong số đó , nhìn những vị giáo sư đang ngồi lặng đi trước cửa thông gió .Thậm chí nếu có thấy cơn điên vừa rồi của gã , họ cũng chẳng buồn phản ứng . Hắn chợt thấy trào dâng mối căm thù vì họ ,vì đã tạo ra những tên Trisquad vô dụng , một lũ gác cổng " không cách nào ngăn chặn " lại làm hắn thất vọng đúng lúc hắn cần chúng nhất .

    Hắn ngồi xuống ,bật màn hình lên , nôn nóng chờ logo hình cái ô quay của công ty biến mất . Hệ thống an ninh toàn khu vực đều tập trung lại tại phòng thí nghiệm , hắn không cần lộ diện mà vẫn có thể quan sát những vị khách không mời , nếu như hắn vẫn còn nhớ cách nhập thông tin . ...

    Hắn gõ vài phím , chờ đợi ,rồi đánh số truy nhập của mình . Vài giây sau , từng dòng chữ xanh sáng bắt đầu tuôn ra trên màn hình . Hắn đã thành công .

    Kiểm tra ,tìm kiếm , định vị ...

    Hắn nhíu mày nhìn dòng thông tin ,tự hỏi gã quái nào từ Umbrella đang lục soát phòng thí nghiệm , và tại sao lại là ở trung tâm máy tính ? . Những chuyên gia thiết kế hệ thống không phải những gã ngốc , trong dữ liệu sẽ chẳng bao giờ lưu thông tin chi tiết về khu vực này đâu ....

    ... nhưng Umbrella thì biết ... có nghĩa là ....

    Hắn chợt cảm thấy nhẹ nhõm vô cùng , dễ chịu tới mức phá lên cười . Hắn thấy những hành động trẻ con vừa rồi thật ngốc nghếch . Những kẻ tọc mạch này không đến từ Umbrella , đấy mới là tất cả . Thậm chí nếu chúng có tìm ra phòng thí nghiệm đi nữa , thì cũng không thể bước vào mà không có thẻ . Còn Griffith ta thì đã huỷ toàn bộ số thẻ rôi ....

    ...trừ cái của Ammon . Chẳng tìm thấy ở đâu cả .....

    Gã lặng người , rồi lắc đầu cười lo lắng .Không , hắn đã lục tung khắp mọi nơi để tìm cái thẻ , làm sao lũ không mời kia lại tìm ra được ?

    Nhưng sao chúng lại thoát được bọn Trisquad ? Hừm , Còn gã Lyle đang làm gì hàng giờ liền trong khi mình không tài nào tìm ra hắn ? Nhỡ hắn tuồn tin tức gì ra ngoài thì sao ? Hoặc hắn liên lạc với người ngoài , trong khi mình chỉ có thể kiểm soát được thông tin của hắn tới Umbrella mà thôi ?

    Mặc những suy nghĩ đang rối tung trong đầu hắn , chiếc máy tính bắt đầu xử lý thông tin . Theo phương thức tư duy logic dựa trên cơ sở tâm lý xã hội học , thiết kế bởi Ammon .

    Một lần nữa, gã lại mất tự chủ . Siết chặt nắm đấm , gã quyết không đầu hàng . Quá nhiều mối lo , hắn gần như không thể kiểm soát được cảm xúc của mình. Không phải lúc này . Hắn cần tập trung suy nghĩ .

    Ta là nhà khoa học , không phải lính chiến , ta thậm chí còn chẳng biết bắn súng hay chiến đấu ! Hoàn toàn là thằng vô dụng nếu giáp lá cà .... Không tự ổn định được . Không tự kiểm soát được .

    Mặt hắn dần giãn ra một nụ cười .Máu rỉ ra từ nắm đấm ,nơi những cái móng lởm chởm đâm vào lòng bàn tay . Nhưng hắn không thấy đau .Gã đưa mắt nhìn xung quanh căn phòng rộng lớn , yên tĩnh , dừng lại ở cửa thông gió . Rồi hướng tới những khuôn mặt ngu đần ,rỗng tuếch của mấy vị giáo sư kia . Hướng tới những xi lanh khí nén và lũ virus , điều kì diệu của hắn . Cuối cùng ,hắn hướng tới bộ điều khiển cánh cửa lưới sắt rào quanh lũ quái vật . Giáo sư Griffith mỉm cười . Máu nhỏ từng giọt xuống sàn nhà .

    Thả chúng ra.
     
  11. Lioncoeur

    Lioncoeur Fire in the hole!

    Tham gia ngày:
    5/5/03
    Bài viết:
    2,645
    CHƯƠNG 9

    TRONG LÚC STEVE ĐANG ĐỌC TO LÊN, REBECCA THẤY DAVID cứ liên tục nhìn xuống đồng hồ rồi dõi về phía cánh cửa. Cô nghĩ là chưa đến mười phút đâu, nhưng cũng sắp rồi. John và Karen vẫn chưa quay lại.

    “… nơi từng cái được thiết kế để ứng dụng vào việc đo lường khả năng tư duy, cùng với những kỹ thuật ánh xạ theo tỉ lệ kết hợp với độ chính xác xen kẽ …”

    Hoàn toàn khô khan, có vẻ là một biên bản của quá trình học dựa trên việc phân tích một số kiểu trắc nghiệm chỉ số thông minh. Hiển nhiên nó được viết bởi một nhà khoa học, thật sự là vậy, căn cứ theo cái lối nói trùng lắp đơn điệu mà nhiều nhà nghiên cứu có khuynh hướng mắc phải, mỗi khi họ cố diễn tả thứ gì phức tạp hơn cái ghế ngồi. Và đó là những gì có được khi Steve truy xuất thông tin về “dãy xanh dương”. Từ lúc bắt đầu tìm hiểu xem căn phòng có thêm gì khác, Rebecca đã phải tự ép mình tập trung, chống lại nỗi sợ hãi kín đáo đang xâm chiếm lấy cô suốt trong cuộc tìm kiếm vô vọng.

    - chín phút –

    Ai đó đã dọn sạch sẽ căn phòng rồi, và dọn hết sức kỹ lưỡng. Cô có tìm thấy những cuốn sách, dồ dập ghim, bút bi và bút chì, một đống dây cao su và kẹp giấy, nhưng chẳng có lấy một mảnh giấy chứa thông tin cần thiết, không một mẩu thông tin nào làm manh mối. Việc tìm kiếm trên máy tính cũng chẳng khá hơn; không hề có sơ đồ hay bất cứ thứ gì về T-Virus. Dù ai ở đây đi nữa thì có vẻ là họ đã xóa sạch mọi thông tin bọn cô cần tìm.

    Chỉ có hàng đống hầm bà lằng những thứ chẳng liên quan gì tới tâm thần, chẳng thấy cái gì đề cập đến “xanh dương” hết. Làm thế nào mà chúng ta cho là có thể kiếm ra được cái gì đó ở đây cơ chứ?

    Steve ấn một phím, trông anh chợt tươi tỉnh lên. “Mọi người xem này …”

    “Dãy đỏ, đứng trên phương diện tỷ lệ chuẩn hóa, là cơ bản nhất và đơn giản nhất, ứng dụng cho chỉ số thông minh 80. Dãy xanh lá…”

    Anh dừng lại, cau mày. “Màn hình tối thui rồi.”

    Rebecca ngóc đầu lên từ một cái bàn gần như trống trơn mà cô đang kiểm qua, còn David bước lại chỗ Steve.

    “Hệ thống bị hỏng à?” Anh lo lắng hỏi.

    Steve vẫn đang cau mày, gõ gõ lên các phím. “Giống như chương trình bị khóa hơn. Tôi không nghĩ - Hơ, cái gì đây?”

    “Rebecca,” David nói khẽ, ra hiệu cho cô lại gần xem xét.

    Cô đóng cái ngăn kéo chứa đầu các tài liệu hồ sơ lại và tiến đến sau lưng Steve, cúi xuống đọc những thứ đang hiển thị trên màn hình.

    Người làm ra không cần nó. Người mua không muốn nó. Người sử dụng không biết nó.

    “Một câu đố,” David nói. ”Có ai biết câu trả lời không vậy?”

    Chưa ai kịp lên tiếng thì Karen và John đã quay lại, cả hai đều cầm chắc vũ khí. Karen cầm trong tay một mớ giấy rách toạc.

    “Khá chật hẹp.” John nói. “Một nửa trong cả tá văn phòng không hề có cửa sổ, duy nhất một cái có cửa ra ngoài, hướng bắc.”

    Karen gật đầu. “Hầu như phòng nào cũng có tủ hồ sơ, nhưng nó rỗng không. Ngoại trừ cái này, tôi tìm thấy trong một cái quần đùi mắc trong góc kẹt. Ắt là nó bị toạc ra trong lúc chỗ này bị dọn dẹp.”

    Cô đưa mớ giấy cho David. Anh lướt qua vài dòng, bất chợt ánh mắt lộ vẻ hăng hái.

    Anh quay lại Karen. “Không còn gì khác nữa sao?”

    Karen gật đầu. “Phải. Nhưng như vậy chắc cũng đủ cho anh rồi.”

    David cầm mớ giấy và đọc to lên.

    “Các nhóm tiếp tục vận hành độc lập, nhưng đã cho thấy dấu hiệu cải thiện từ khi điều chỉnh tế bào thính giác.”

    “Trong Kịch bản số hai, nếu có nhiều hơn một nhóm Trisquad, nhóm thứ hai (B) không giao chiến nữa khi nhóm đầu tiên (A) đã kết liễu xong (mục tiêu ngừng di chuyển hoặc phát ra tiếng động).”

    “Nếu mục tiêu tiếp tục gây chú ý và (A) ngừng tấn công (hết đạn/các cá thể bị loại khỏi vòng chiến hoặc bị thương), B sẽ bắt đầu chiến đấu. Trong phạm vi cho phép, việc tăng cường tuần tra sẽ dẫn đến sự tấn công và giao chiến liên tiếp.”

    “Vào lúc này, chúng tôi chưa thành công trong việc chế ngự những khả năng mở rộng giác quan để tạo thành cách ứng xử theo mệnh lệnh. Cách kích thích trực quan của Kịch bản số bốn và số bảy có vẻ vô ích, dù vậy chúng tôi vẫn sẽ cho nhiễm các cá thể mới vào ngày mai, và chờ đợi kết quả tương ứng vào cuối tuần. Kế hoạch ưu tiên của chúng tôi là tiếp tục phát triển thêm nữa năng lực thính giác trước khi ghi nhận cảm ứng nhiệt…”

    “Chỗ này bị xé ra…” David nhìn lên và nói. Karen gật đầu. ”Dù vậy nó cũng đã giải thích nhiều chuyện. Tại sao bọn đứng chỗ cửa sau nhà thuyền án binh bất động, còn bọn ở cửa trước vẫn cứ bắn. Tình thế không thay đổi cho tới khi anh cùng Steve dẫn dụ chúng và nhóm thứ hai tiến vào.”

    Rebecca cau mày, bản báo cáo này cho thấy một sự thật hiển nhiên: Umbrella đã tiếp tục những thí nghiệm trên người. Từ những gì cô thấy ở Raccoon, T-Virus mất bảy đến tám ngày để xâm chiếm vật chủ, và vật chủ sau đó bị phân hủy trong vòng một tháng.

    Thế mà ở đây lại lây nhiễm cả nhóm và thu thập dữ liệu chỉ trong một tuần? Phải chăng họ đã cấy ghép và cải biến những giác quan? Không thể có đủ thời gian để làm nhiều thứ như vậy, vì các “cá thể” đáng lẽ phải bị phân hủy rồi, nói chi tới chuyện huấn luyện chúng học cách ứng xử …

    Cô cắn môi lo lắng, bất chợt tự hỏi những nhà nghiên cứu ở vịnh Caliban đã làm gì với virus. Nếu họ đã tìm được cách gia tăng tốc độ lây nhiễm, can thiệp lớp màng kết hợp của virus chẳng hạn, làm tăng độ kết dính của nó.

    … Hoặc bằng cách nào đó gia tăng gấp bội các tế bào, cho phép nó tái tạo theo cấp số nhân ... chúng ta có thể đang chứng kiến một tiến trình diễn ra tính bằng giờ chứ không phải bằng ngày.

    Đây quả là một ý tưởng kinh tởm, có lẽ cô không muốn đề cập tới nó nữa một khi chưa có thông tin cụ thể hơn. Hơn nữa, nó chẳng làm thay đổi tình thế lúc này; dù nói thế nào thì bọn Trisquad cũng hết sức khó đối phó.

    “Dấu hiệu trên cánh cửa phía Bắc cho thấy chúng ta đang ở khu C.” John nói, tiến đến chỗ máy tính. “Cậu có tìm thấy bản đồ không?”

    Steve thở dài. “Không, nhưng nhìn xem. Tôi yêu cầu tìm thông tin về dãy xanh dương, rồi nó cho ra những báo cáo về trắc nghiệm chỉ số thông minh, mã màu đi kèm, và rồi thế này đây. Tôi chẳng làm thêm được gì nữa.”

    John chăm chú nhìn vào màn hình, lẩn nhẩm, “…Người làm ra không cần nó. Người mua không muốn nó. Người sử dụng không biết nó.”

    Karen, đang đọc lại những tài liệu về Trisquad, bất chợt nhìn lên với vẻ hào hứng. “Chờ đã. Tôi biết. Nó là cái quan tài.”

    Không biết sao Rebecca chẳng mấy ngạc nhiên khi Karen giải được câu đố; cô có ấn tượng là người phụ nữ này rất quen thuộc với những trò chơi đố mẹo. Mọi người xúm lại quanh Steve khi anh này gõ chữ “quan tài” vào. Màn hình vẫn trơ trơ.

    “Anh đang dùng tiếng Mỹ. Hãy thử dùng từ quan tài trong tiếng Anh.” Rebecca gợi ý.

    Ngón tay của Steve lại nhảy múa trên bàn phím. Ngay khi anh Enter, câu đố biến mất và thay bởi dòng chữ:

    KÍCH HOẠT CÁC DÃY
    Kế tiếp là:
    BÀI KIỂM TRA SỐ BỐN (KHU A), SỐ BẢY (KHU D), SỐ CHÍN (KHU B)/XANH DƯƠNG ĐỂ TRUY CẬP DỮ LIỆU (KHU E)

    “Xanh dương để … thông điệp của Ammon,” Karen nói nhanh. “Chính là nó – thông điệp có liên quan tới dãy xanh dương, nó còn nói, “nhập câu trả lời cho chìa khóa”. Câu trả lời chính là ‘quan tài’…”

    “Và các bài kiểm tra là chìa khoá.” David nói. “Còn ba dòng nữa trong tập thơ của Trent, và ‘xanh dương để truy cập’. Các dòng đó chính là đáp án cho bài kiểm tra, đảo ngược số và chữ, cầu vồng thời gian, và đừng đếm. Jill nói rất đúng, đây là những gì giúp cho chúng ta tìm kiếm.”

    Rebecca cảm thấy hưng phấn hẳn lên khi David nhặt lấy cây bút trên bàn và lôi mấy trong mớ giấy ra mấy tờ còn dư. Thông tin họ tìm thấy rất có ý nghĩa – Thông điệp của Ammon hẳn phải đề cập đến chuyện gì đó.

    Chúng ta có thể làm được, bây giờ chúng ta đã có những căn cứ vững chắc rồi …

    David vẽ lên năm ô vuông chia làm hai hàng trên dưới, giống như trên bản đồ của Trent, đánh dấu ô dưới cùng là C. Sau khi ngẫm nghĩ, anh thử điền vào những ô khác, cái tận cùng bên trái là A và lần lượt đánh dấu từ phải sang trái số hiệu các bài kiểm tra tiếp theo.

    ”Cứ cho là tất cả chúng nằm cùng dãy,” anh nói. “Và chúng ta cần hoàn tất các bài kiểm tra theo thứ tự; có nghĩa là chúng ta phải di chuyển thành hàng ngang trong khu nhà.”

    ”Và phải tính tới chuyện bọn Trisquad cũng di chuyển được như vậy.” John khẽ nói.

    Rebecca thấy sự hưng phấn của mình teo đi, và cô cho là những người khác cũng giống như cô, căn cứ theo dáng vẻ u ám của họ khi nhìn xuống tờ giấy. Cô đã biết sớm muộn gì họ cũng phải rời chỗ này, nhưng không hiểu sao cô cứ trốn tránh suy nghĩ về việc đó, cứ thoái thác cho tới khi phải đối mặt với nó. Và bây giờ nó đang ở trước mắt cô. Bọn Trsiquad cũng đang chờ sẵn.

    Họ đứng trong bóng tối tại cánh cửa phía bắc, giữa hành lang ẩm thấp, siết lại dây giày, chỉnh lại thắt lưng, lắp đầy đạn vào ổ. David đã chuẩn bị xong, anh quay sang John và gật đầu.

    ”Mang nó về cho tôi nhé.”

    ”Anh, Steve và Rebecca sẽ tiếp cận khu tận cùng bên trái. Chờ khi ba người đến nơi an toàn, tôi và Karen sẽ đi thẳng tới. Nếu anh suy đoán chính xác, bọn tôi sẽ ở trong khu D. Nếu không thì là khu B. Bất kể là khu nào thì bọn tôi cũng sẽ lục soát khu nhà, tìm kiếm bài kiểm tra, rồi chờ đến khi anh lộ diện và phát tín hiệu liên lạc.” John nói.

    ”Và nếu không…”

    Karen tiếp lời. “Nếu không thấy anh sau nửa giờ, bọn tôi sẽ quay lại đây, chờ Steve và Rebecca. Bọn tôi sẽ cố hoàn tất bài kiểm tra nếu có thể…”

    John cười toe toét, một tia sáng giữa màn đêm u ám. “…Và làm luôn phần của anh.”

    ”Phải.” David nói. “Tốt lắm.”

    Tất cả đã sẵn sàng. Có những biến số không lời giải trong phương trình của họ, có thể có những sai sót với một kế hoạch đơn giản như vậy, nhưng họ phải chọn lấy một giải pháp thôi. Không cách nào lường hết mọi biến cố, nhất là ở một chỗ như thế này, và quyết định chia nhỏ ra sẽ giúp họ có cơ may không bị bọn Trisquad phát hiện.

    ”Có ai thắc mắc gì trước khi hành động không?” Rebecca lên tiếng, giọng nói pha chút lo âu. ”Tôi muốn nhắc mọi người một lần nữa về chuyện hết sức cẩn thận khi sờ vào bất cứ thứ gì. Bọn Trisquad mang mầm bệnh trong người, do đó tuyệt đối tránh đến gần chúng, nhất là lỡ có bị thương.”

    David rùng mình, nhớ lại những gì cô đã cảnh báo họ - một giọt máu vật chủ có thể chứa hành triệu con virus. Khó mà hài lòng khi nghĩ đến chuyện đó. Một viên đạn chín ly có thể gây sát thương lớn.

    …Và bọn chúng không gục xuống khi trúng đạn. Như bộ ba đứa chỗ nhà thuyền ấy, chúng cứ lù lù tiến tới, vẫn nổ súng trong khi máu chảy lênh láng …

    Họ đang chờ hiệu lệnh của anh. David xua những ý nghĩ đó đi, anh mở khóa an toàn trên khẩu súng, đặt tay kia lên chốt cửa.

    ”Sẵn sàng chưa? Im lặng, nào, đếm đến ba, một … hai … ba.”

    Anh đẩy cửa ra và lẩn mình vào màn đêm mát mẻ với những tiếng sóng vỗ thì thầm. Bây giờ có vẻ sáng hơn lúc nãy, trăng tròn đã lên cao, rọi một luồng sáng bạc lên khắp khu hàng rào. Không thấy bóng dáng ai khác.

    Thẳng phía trước anh cách chừng hai mươi mét là đích đến của Karen và John, và anh nhẹ nhõm khi thấy cánh cửa trên bức tường bê tông đối diện khu C; vậy là họ sẽ không phải đi vòng để tiến vào trong.

    David rón rén di chuyển về bên trái, nép mình dưới cái bóng nhỏ hẹp của bức tường. Anh nhận thấy phía trước mình là khu A, cao, có ống thông gió bên trái và đằng sau. Có cả một quãng đường tối mù mờ dọc theo chiều dài của nó, một cánh cửa, và không có lấy một chỗ ẩn nấp suốt khoảng cách dài ba mươi mét từ đây đến đó. Họ sẽ rất dễ bị tập kích một khi đã rời khu C.

    Nếu có một bọn chờ sẵn giữa đường…

    Anh ngoái lại, thấy Steve và Rebecca đang bồn chồn và chờ đợi phía sau. Cho dù có phải đi qua một hành lang lửa thì ít nhất anh cũng là người đi đầu, Steve và Rebecca sẽ có đủ thời gian để rút lui.

    Anh hít vào thật sâu, nín thở … và tách khỏi bờ tường, chạy lom khom dưới cái bóng che vuông vức của lối vào khu nhà. Ánh sáng vàng vọt và màn đêm nối tiếp nhau trôi qua. Toàn thân anh căng lên, sẵn sàng đón nhận một tia lửa phát ra từ khẩu súng tự động, một tiếng nổ, một cơn đau thấu xương quật anh ngã xuống, nhưng tứ bề vẫn im ắng, âm thanh duy nhất anh nghe thấy là tiếng tim đập thình thịch và tiếng sôi réo của huyết quản. Thời gian dường như dài vô tận, cánh cửa đã dần dần hiện rõ, gần hơn, lớn hơn,…

    Những ngón tay của anh đã chạm vào chốt cửa và anh đẩy nó, xộc vào trong bóng tối ngột ngạt. Anh quay người lại, dõi theo Steve và Rebecca đang theo sát phía sau.

    David nhanh chóng khép cửa lại thật nhẹ nhàng, anh nhận ra căn phòng trống rỗng, không hề có dấu hiệu của sự sống, và có một cái mùi khó chịu ập đến. Không biết Steve hay Rebecca đã oẹ lên, dấu hiệu của sự kinh hãi ngoài ý muốn. David chộp lấy đèn, biết rõ cái gì đã làm họ khiếp đảm như vậy.

    Họ đã gặp một cái mùi kinh khủng lúc vào nhà thuyền, nhưng ở đây nó còn nặng hơn thế cả trăm lần. Cho dù không có dấu hiệu gì gợi ý, nhưng David vẫn biết cái mùi này. Anh từng gặp nó ở một cánh rừng nhiệt đới Nam Mỹ và trong tế đàn ở Idaho, một lần khác ở căn hầm trong nhà một tên giết người hàng loạt. Không ai quên nổi cái mùi của nhiều xác chết thối rữa, thứ mùi ôi của sữa chua và thịt thiu.

    Có bao nhiêu cái thây không biết?

    Ánh sáng lóe lên, và khi quét qua cái đống lung lay nồng nặc mùi đang chiếm hẳn một góc phòng, David thấy rõ không cách nào đếm được; mấy cái thây vắt vẻo lên nhau, những thớ thịt teo tóp và đen sẫm của những thi thể chồng chất lẫn lộn với nhau, kèn theo một luồng hơi nóng bức ẩm ướt.

    Có lẽ mười lăm hoặc hai mươi …

    Steve loạng choạng bước ra xa và nôn thốc nôn tháo, tạo ra một thứ âm thanh bất lực và khó chịu trong căn phòng vốn đang yên ắng. David rọi đèn ra những chỗ khác, và anh thấy một cánh cửa ở bức tường phía sau với chữ A màu đen trên đó.

    David không nhìn lại cái đống kinh khủng đó nữa, anh đẩy Rebecca về phía cánh cửa đằng sau, kéo Steve theo luôn. Sau khi đã bước qua khỏi cửa, không khí trở nên dễ thở hơn một tí.

    Họ đang đứng trong một hành lang không có cửa sổ. Có một công tắc đèn bên cạnh cửa, nhưng David tạm bỏ qua nó, anh cần điều hòa hô hấp trước đã, và chờ cho hai đồng đội của mình lấy hơi.

    Có vẻ như họ đã tìm thấy những công nhân Umbrella đang làm việc tại vịnh Caliban, không phải tất cả nhưng ít nhất cũng có một người. David hạ quyết tâm rằng nếu tình cờ giáp mặt chúng, anh sẽ bắn ngay lập tức, khỏi hỏi tới hỏi lui gì hết.
    *
    * *​
    Karen và John đứng ở cửa gần cả phút sau khi những người khác đã đi. Tiếng mở cửa đủ lớn để họ nghe thấy. Không khí lành lạnh tràn vào trong, xa xa có tiếng sóng rì rào, tuyệt nhiên không có tiếng súng, tiếng la hét.

    Karen đóng cửa lại và nhìn John, dáng vẻ cô trông nhợt nhạt dưới ánh sáng mù mờ. Giọng cô rất thấp, thậm chí còn có vẻ cực kỳ nghiêm trọng. “Họ vào được rồi. Anh muốn dẫn đầu, hay là muốn tôi đi trước?”

    John không kìm được. “Phụ nữ của tôi luôn được ưu tiên,” anh thì thầm. “Và tôi thích như vậy chỉ khi đi với cô, chắc cô hiểu ý tôi chứ?”

    Karen thở ra nặng nề, dấu hiệu rành rành của sự tức giận. John cười ranh mãnh, nghĩ đến cái tính dễ nổi cáu của cô ta. Anh ta biết mình không nên chọc tức cô, nhưng thật khó cưỡng lại. Karen Driver giỏi sử dụng vũ khí và là chuyên gia trong việc suy luận, nhưng cô ta cũng là một trong những người nghiêm túc nhất anh từng biết.

    Mình có trách nhiệm làm cô ta bớt căng thẳng. Nếu bọn tôi có phải chết thì cũng nên cười một trận trước đã… Một triết lý đơn giản mà anh khắc ghi trong lòng, sau khi trải qua nhiều tình huống khó khăn trong quá khứ.

    ”John, trả lời nghiêm túc nào…”

    ”Tôi đi trước,” anh nhẹ nhàng đáp. ”Đợi khi tôi vào được thì hãy nối gót.”

    Cô ta nhanh nhẹn gật đầu, lùi ra phía sau lưng anh. Anh thoáng nghĩ tới việc nói với cô rằng anh sẽ chờ cô đằng kia với một nụ cười, nhưng rồi thôi. Họ làm việc chung đã gần năm năm, và anh biết mình đừng nên đi quá xa trước khi làm cô nổi điên. Ranh giới như hiện tại cũng tốt rồi, không nên làm hỏng nó.

    Ngay khi đến gần chốt cửa, anh hít một hơi sâu, kìm hãm suy nghĩ hài hước của mình lại để nhường chỗ cho những tư tưởng mà anh hay gọi là “tư tưởng của lính.” Thích hài hước, thích khuất phục đối thủ - anh sở hữu cả hai điều đó, nhưng anh cũng dư biết lúc nào cần phân định rạch ròi chúng với nhau.

    Bây giờ thì hãy là một hồn ma, hãy trườn vào bóng tối như một cái bóng…

    Anh khẽ khàng mở cửa. Không âm thanh, không động tĩnh. Anh thả lỏng khẩu Beretta, rời bước khỏi khu nhà và tiến nhanh vào bóng đêm phủ ánh trăng bạc, nhắm đến cánh cửa cách đó chừng hai mươi bước. Khối óc người lính mách bảo cho anh biết thực tại, gió lạnh, chân anh giẫm lên nền đất tơi, mùi vị của biển, nhưng con tim mách rằng anh là một hồn ma, đang phiêu phưởng như một cái bóng vô hình trong đêm.

    Anh tiếp cận cánh cửa, chạm vào tay nắm kim loại lạnh ngắt. Cánh cửa vẫn trơ trơ. Lối vào đã bị khóa.

    Đừng sợ, đừng lo, anh là một cái bóng không ai trông thấy; anh sẽ tìm lối khác. John giơ tay ra hiệu cho Karen chờ, và nhẹ nhàng lướt sang phải.

    Lặng lẽ và ung dung, một cái bóng vô hình…

    Anh tiếp cận góc nhà và trườn xung quanh nó, mặc cho các giác quan hoạt động và nắm bắt thông tin. Không có động tĩnh trong bóng tối, cảm giác thô nhám của bê tông dưới vai và hông trái, nhịp tim đều đều vững chãi và cơ bắp thả lỏng. Có một cánh cửa khác mở ra phía mặt biển bao la chập chờn, ánh lên tia sáng lành lạnh của kim loại.

    Tạch tạch tạch!

    Một loạt đạn xới tung nền đất dưới chân anh. John xoay người và nhảy lùi lại, ép sát bức tường và nắm lấy chốt cửa. Từ phía nhà thuyền là một hàng ba đứa…

    … John đẩy cửa và lao vào trong, vừa kịp nghe thấy tiếng đạn đập vào lớp kim loại, cách người anh chỉ vài inch và làm cánh cửa kêu lạch cạch.

    Anh giữ cửa mở bằng chân, liếc mắt nhìn qua khe để định vị chỗ khai hỏa, và siết cò trong khi một mảng bê tông lẫn bụi khác rơi từ trên tường xuống. Khẩu súng giật mạnh, giờ đây nó là một phần cánh tay của anh, còn anh chẳng khác nào một con thú, một con thú với những viên đạn sấm sét, hơi thở ngắt quãng, lúc này anh tự thấy mình vừa là người lại vừa là một sứ giả của tử thần.

    Anh nhìn lại và thấy lằn ranh hai bên đã gần hơn, ba cái bóng rõ dần. John bắn thêm một phát nữa và cúi xuống dưới cánh cửa đang mở … khi nhìn ra, anh thấy chỉ còn hai đứa.

    Thình lình.

    Phía sau anh.

    John xoay người và trông thấy chúng, hai tên, cách mười bước về phía đông bắc khu nhà. Cả hai cầm súng trường tự động.

    Nhưng không di chuyển và cũng không nổ súng.

    Anh vô cùng kinh hoảng, giống như có một con quái vật đang rên rỉ gào thét trong ruột gan anh, sẵn sàng nhai anh ngấu nghiến từ trong ra ngoài –

    - chết rồi -

    Tiếng đạn M-16 vẫn đang đến gần, nhưng lúc này anh chỉ thấy có mấy sinh vật phía trước, đang dõi theo anh bằng cặp mắt trống rỗng thất thần, đung đưa trên những cặp chân loạng choạng. Đứa bên trái chỉ có một nửa mặt; dưới mũi nó là một đống mô mềm xèo ướt át, những thớ thịt nhùng nhằng ướt nhẹp đen thui đang treo lủng lẳng từng khúc. Đứa bên phải trông có vẻ nguyên vẹn hơn, chỉ trắng bệch và bẩn thỉu… cho tới khi anh thấy bộ ruột dường như đã tiêu tùng của nó, từng khúc ruột ướt sũng rơi ra từ cái áo dính đầy máu.

    - không tấn công chừng nào nhóm A chưa xong –

    John bước lùi vào trong bóng tối của khu nhà, dùng một tay giữ cửa mở về phía cặp thây sống vẫn đang nhả đạn bên ngoài. Anh cúi người và nhắm cẩn thận hết mức có thể, cố hết sức đè nén nỗi kinh hoàng. Chẳng có đứa nào thèm di chuyển hay tự vệ, chỉ đứng đó, lắc lư trên mấy cái chân đã mục, nhìn về phía anh.

    Bam! Bam!

    Hai phát ngay đầu, tiếng nổ chát chúa xen lẫn tiếng đạn M-16 liên hồi. Trước khi chúng kịp ngã xuống, John ngeh thấy những tiếng nổ của loại đạn chín ly vang trong màn đêm, át đi tiếng súng trường tự động.

    Karen…

    Anh quét mắt về phía cửa và thấy bóng dáng ngã gục của bọn tập kích cách chừng trăm bước, một trong số chúng vẫn bắn khi đã ngã, cánh tay mục nát cầm súng đang chĩa thẳng lên trời. Karen lao ra giữa hai khu nhà, súng lăm lăm chĩa vào những cái thây đang co giật, lưng quay về phía John.

    - các nhóm không tấn công –

    ”Đừng bắn nó! Lại đây, kệ nó đi!”

    Cô quay người lại, động tác vừa uyển chuyển vừa thanh nhã, chạy thẳng về phía anh. Anh đóng sầm cánh cửa ngay khi cô lao qua. Tiếng súng tự động chuyển thành những âm thanh lộp bộp rời rạc.

    John tựa lưng vào cửa trong khi Karen lần tìm lỗ khóa. Trí óc anh vẫn đang gào thét, rằng anh đã thấy những thứ không thể tin nổi, rằng anh vừa giết hai người chết, rằng anh đừng hòng quên đi những hình ảnh đó cho tới khi phát cuồng –

    - không thể nào, không tin nổi, trước đây mình không tin nổi, không biết rằng chúng nó đã CHẾT và ĐANG THỐI RỮA và đang –

    Tiếng thì thầm ngắt ngang của Karen xua tan bóng đêm, phá vỡ chuỗi suy tưởng lẩn quẩn quay cuồng của anh.

    ”Hey, John, anh có ổn không?”

    Anh chớp chớp mắt, chậm chạp nhận ra tiếng nói.

    ”Đi trước,” cô nói tiếp. “Có phải ý anh là mong đợi mọi thứ sẽ như thế này không?”

    Anh có thể cảm nhận sự kinh ngạc đang dần thế chỗ cho những suy nghĩ kinh hoàng lẩn quẩn, cơn bối rối đã qua đi, lý trí đang trở lại với anh.

    ”Không có gì đáng cười đâu nhé.” Anh nói.

    Sau một cuộc rượt đuổi, bây giờ họ đã có thể cười rồi.
     
  12. Lioncoeur

    Lioncoeur Fire in the hole!

    Tham gia ngày:
    5/5/03
    Bài viết:
    2,645
    Chương tiếp theo là của Twiness_nast :cool:
    CHƯƠNG 10


    Khi đã ra xa khỏi dãy bê tông, không khí đã bớt không còn nhiễm độc nữa, và Rebacca thấy vô cùng biết ơn điều đó. Chỉ chút xíu nữa thôi là cô đã “cho chó ăn chè” rồi, cái mùi đó thật kinh khủng – cái mùi hôi thới nhớp nháp đầy dầu mỡ dường như là tồn tại ở đây, như một phần của chính nó vậy.

    Trong khi họ di chuyển lặng lẽ qua căn phòng lớn, cô thấy mình lại nghĩ về Nicolas Griffith, về câu chuyện những nạn nhân ở Marburg, và cho dù không hề có gì chứng tỏ rằng Nicolas Griffith đứng sau cuộc tàn sát hàng loạt của những người trong Umbrella, cô không thể gạt bỏ cái ý nghĩ rằng lão ta chịu trách nhiệm trong chuyện này.

    Hành lang dẫn họ đi qua một vài căn phòng để mở, phòng nào cũng trống trơn, trơ trọi như toà nhà mà họ vừa đi ra. Mọi người đi qua một lối ở phía xa của dãy bê tông, và sau khi lần mò một hồi trong căn phòng lớn, cuối cùng họ cũng đến được cánh cửa đánh dấu chữ A, và phía dưới là 1-4. Có 3 hình tam giác phía dưới những con số với 3 màu khác nhau – đỏ, xanh lục và xanh biển.

    David mở cánh cửa, để lộ ra một căn phòng khác thấp hơn, ánh đèn huỳnh quang ảm đạm lan đến những nơi tối tăm ẩm mốc, có hai cánh cửa ở mỗi bên. Steve tìm thấy công tắc và bật đèn lên, Rebecca nhận thấy là còn có những hình tam giác với màu sắc khác nhau trên cánh cửa ở bên tay phải. Cánh cửa còn lại thì không có gì.

    “Tôi sẽ kiểm tra lối này,” David nói. “Steve, anh và Rebacca kiểm tra phòng còn lại, chúng ta sẽ gặp lại nhau ở đây.”

    Rebecca gật đầu, Steve cũng vậy. Trông mặt anh ta hơi tái, nhưng có lẽ vẫn đủ bình tĩnh, và anh đã lườm Rebecca khi nhận thấy cô đang quan sát mình. Cô cảm thấy một chút day dứt khi thể hiện sự thông cảm với anh, chắc chắn là anh ta cảm thấy khó chịu vì đã nôn ra hết bữa trưa.

    Họ mở cánh cửa không đóng dấu và bước vào trong, lại một căn phòng khác không có cửa sổ, ngột ngạt và nguy hiểm như hầu hết những nơi còn lại trong toà nhà. Rebecca mở đèn lên, một văn phòng làm việc khá lớn với những hàng kệ sách hiện ra trước mắt. Một cái bàn làm việc ở góc phòng cạnh một cái tủ hồ sơ, những ngăn kéo trống rỗng đã mở sẵn. Steve thở dài.

    “Có vẻ như là lại phải có một cuộc lục soát khác đó.” Anh ta lên tiếng, “Em thích cái bàn hay là đống kệ?”

    Rebecca nhún vai, “Em nghĩ là những cái kệ sách sẽ thú vị hơn.”

    Anh ta nhăn mặt một cách ngượng nghịu. “Hm, cũng được. Biết đâu anh sẽ tìm được một chút bánh mì ở một trong những cái ngăn kéo đó.”

    “Nhớ chừa cho em một ít đó, em đã nhịn suốt từ nãy đến giờ rồi. Cú điện thoại gấp quá.”

    Cả hai nhìn nhau mỉm cười, và Rebecca cảm thấy một thoáng rùng mình của sự phấn khích, nhịp tim của cô đập chậm hơn hẳn bình thường.

    Steve quay mặt đi trước, sắc mặt anh ta có vẻ đã bình thường trở lại, khuôn mặt đã bớt xanh lè như lúc nãy. Anh ta đi về phía cái bàn và Rebecca quay mặt lại những hàng sách, cảm thấy hơi xúc động. Có một sự cuốn hút rõ ràng ở đây, có vẻ như hai người đang có cảm tình với nhau.

    - đây là thời điểm và nơi chốn tồi tệ nhất để nghĩ về nó, tư tưởng của cô bị cắt ngang. Phải ngăn những suy nghĩ bậy bạ đó, ngay lập tức.

    Những quyển sách chứa đúng những gì mà cô đã trông chờ, xét đến những gì mà họ đã biết về những cái tên Trisquad và Umbrella. Hoá học, sinh học, và cả một tập tài liệu bằng giấy da ghi chép về những biến đổi hành vi, một số ghi chép y học. Trong khi Steve lục lọi cái bàn phía sau lưng, Rebecca đưa tay dọc theo hàng sách, ấn chúng sâu vào phía trong, sau khi cô đọc qua những tựa sách. Lỡ có cái gì giấu ở phía sau chúng thì sao.

    … xã hôi học, Pavlov, bực thật, rối rắm quá, bệnh lý, …

    Cô dừng lại, cau mày nhìn một quyển sổ nhỏ màu đen bị kẹp giữa hai quyển sách bự chảng. Không có tựa. Cô lôi nó ra và cảm thấy tim mình đập loạn lên khi mở nó ra, nhìn thấy những dòng chữ viết ngoằng ngoèo trên những trang giấy nhăn nhúm. Cô lật về phía trước, và thấy “Tom Athens” được viết một cách ngay ngắn phía trong bìa sách. Cái tên này có ở trong danh sách đó, một trong những nhà nghiên cứu.

    “Này, em tìm thấy một quyển nhật ký.” cô nói, “Nó là của một người trong danh sách của Trent, Tom Athens.”

    Steve ngẩng đầu lên khỏi cái bàn, đôi mắt đen của anh sáng lên. “Hy vọng nó không viết những thứ vô nghĩa chứ? Lật trang cuối ra, ngày cuối cùng ghi trên đó là khi nào vậy?”

    Rebecca lật vội về những trang cuối, đọc lướt qua khi cô lật chúng. “Ngày 18 tháng 7, nhưng có vẻ như ông ta không thường xuyên viết nó lắm. Trang trước đó là ngày 9 tháng 7 …”

    “Cứ đọc trang cuối đi,” Steve nói với cô. “Biết đâu nó sẽ cho chúng ta biết chuyện gì đang diễn ra ở đây.”

    Rebecca đi về phía cái bàn và dựa vào đó, lấy giọng.

    “Thứ 7 ngày 18 tháng 7. Hôm nay là ngày cuối cùng của một tuần lễ dài đằng đẵng và toàn những chuyện nực cười. Thề có Chúa, mình sẽ đập cái thằng Louis đó một trận ra trò nếu nó lại gọi cho mình vì một cuộc họp ngu ngốc nào nữa. Hôm nãy có vẻ điều mà chúng ta sẽ làm là thêm vào một chiến dịch mới cho chương trình Trisquad, bất kể là đúng hay sai. Và tất cả những gì thằng khốn đó thực sự muốn là mọi việc phải được ghi chép chi tiết lên giấy tờ, những thứ còn lại như thường lệ toàn là rác rưởi – sự quan trọng của tính tập thể, sự cần thiết của việc chia sẻ thông tin, để tất cả đều có thể nắm rõ được tiến trình và làm việc đúng kế hoạch. Nghĩa là, mẹ kiếp, thằng khốn đó cứ nghĩ là không có nó thì mọi chuyện sẽ rối tung lên hết vậy. Mà nó có làm cái quái gì đâu sau thảm hoạ với đám Ma7, ngoại trừ việc cố gắng thuyết phục mọi người rằng đó là do lỗi của Chin; người chẳng nói được gì vì đang bệnh sắp chết. Đúng là cái gai đáng kiếp..”

    “Alan và mình đã nói chuyện về những mô cấy ghép hồi hôm qua, mọi chuyện đều tốt đẹp. Anh ta sẽ viết kế hoạch đề xuất trong tuần, và tụi này sẽ KHÔNG để cho Louis đánh hơi được chuyện này. Với một chút may mắn nào đó, chúng tôi có thể sẽ nhận được sự cho phép vào cuối tháng. Alan đang hình dung ra cảnh lũ White boys thèm muốn sử dụng nó để qua mặt Birkin, có Chúa mới biết tại sao. Birkin chẳng cho biết cái khỉ gì mà chúng tôi đang làm ở đây, hắn đã không còn sự sáng suốt nữa rồi. Phải thừa nhận là mình đang chờ đợi một sự tổng hợp mới của hắn; biết đâu chừng lại có thể giải quyết được một vài lỗi kỹ thuật của chương trình Trisquad.”

    “Có một nỗi lo sợ nho nhỏ trong khu D vào thứ tư, phòng 101. Có ai đó đã quên không đóng tủ đông lạnh, và Kim thề rằng một số hoá chất đã biến mất, mặc dù mình đang nghi ngờ rằng có thể cô ta đã lại đếm thiếu chúng. Khó mà tin được là cô ta bị bắt giữ vì sự lây nhiễm. Cô ta là một người cẩu thả tuỳ tiện, đặc biệt là trong những chuyện như như bảo quản thiết bị. Mình khá là ngạc nhiên khi cô ta vẫn chưa làm lây nhiễm toàn bộ khu vực. Ngoài cô ta ra có Chúa mới biết tại sao.”

    “Mình đã phải tự kiểm tra lại khu D để chắc chắn là mọi chuyện sẽ sẵn sàng cho ngày mai. Nhận một đợt vận chuyển mới, và rõ ràng là Griffith đòi quan sát tiến trình làm việc; lần đầu tiên ông ta ra khỏi phòng thí nghiệm trong mấy tuần liền, lần đầu tiên ông ta có vẻ quan tâm đến những gì mà những người chúng tôi đang làm. Mình biết điều này có vẻ ngu xuẩn, nhưng mình vẫn muốn gây ấn tượng với ông ta. Một thiên tài, giống như Birkin vậy, nhưng theo cái kiểu điên rồ của riêng mình. Mình nghĩ là có lẽ ông ta đã từng hăm doạ Birkin, nhưng hắn ta đại khái là quá ngu để mà biết sợ.”

    “Còn nữa.”

    Những trang còn lại đều bỏ trống. Rebecca ngẩng lên nhìn Steve, không rõ là phải nói cái gì nữa, cô đang cố tổng hợp lại các thông tin rời rạc trong đầu mình. Có cái gì đó khiến cô cảm thấy bất an, nhưng cô không rõ đó là cái gì. Những hoá chất bị biến mất, sự lây nhiễm. Một gã thiên tài, bệnh hoạn …

    Cô cảm thấy chắc chắn là Griffith đã giết những người kia, nhưng đó không phải là điều khiến cô cảm thấy lo lắng, đó là …

    “Khu D,” Steve la lên, một cái nhìn khiếp sợ hiện lên trên khuôn mặt của anh, “Nếu chúng ta đang ở trong khu A, thì Karen và John đang ở khu D.”

    Nơi có thừa T-virus để lây nhiễm cho toàn bộ khu vực, nơi mà sự lây nhiễm đã diễn ra.

    “Chúng ta phải gọi David ngay thôi.” Rebecca nói nhanh, Steve gật đầu, cả hai nhanh chóng chạy ra cửa, Rebecca hy vọng là họ sẽ không tìm ra căn phòng 101, và cho dù có tìm ra thì cũng sẽ không động chạm đến bất kỳ thứ gì có thể làm hại họ.
    *
    * *​
    Phòng phân tích rất lớn, ba dãy tường đều là những phòng ngủ nhỏ. Khi đã mở đèn lên, anh nhận thấy là mỗi phòng đều được đánh số cẩn thận và có màu nhất định, các kí hiệu ở trên nền xi-măng trước cửa.
    Tất cả dãy màu đỏ đều ở bên tay phải, gần cái cửa nhất. Anh thấy những vật màu sắc rực rỡ, những khối hình đơn giản trên bàn ở mỗi phòng khi anh đi ngang qua chúng, phía cuối phòng. Những dãy màu xanh ở bức tường đối diện. Dù sao thì anh ta cũng phớt lờ chúng hết. Bức tường phía sau được đánh dấu bằng những tam giác màu xanh. Phòng số 4 nằm ở góc xa bên phải.

    Khi đi gần đến cuối phòng, anh nghe thấy một tiếng ầm ì yếu ớt của năng lượng ở khu kiểm nghiệm màu xanh. Có một cái máy vi tính ở phòng số 2, một bàn phím, một điện đài ở số 3. Như đã hứa, các dãy đều đã được kích hoạt, cho dù là chúng được kết nối với cái gì đi nữa, anh không thể tưởng tượng được.

    Không thể tưởng tượng được, và mình cũng chẳng quan tâm. Một khi đã giải quyết xong bài toán nhỏ này, chúng ta sẽ tìm thấy thứ đã bị giấu, cho dù nó là cái gì đi nữa, và chuồn khỏi cái nơi chết chóc này. Nhưng nó không thể xảy ra sớm như vậy được.

    David đã thấy tất cả những gì mà anh muốn thấy ở vịnh Caliban này rồi. Những xác chết ở hành lang cửa vào thật là kinh khủng, nhưng việc chúng sống lại khiến anh cảm thấy muốn bệnh, muốn ngay lập tức đưa đội của mình ra khỏi cái nơi chết tiệt này càng sớm càng tốt. Lũ Trisquad quá nguy hiểm và chết chóc, lại còn lũ quái vật trong vịnh nữa, chúng đúng là khủng khiếp, nhưng vẫn còn một thứ quái vật không giống bất kỳ thứ gì ẩn náu ở đâu đó, thứ đã giết chết người của anh và chất họ thành đống ở một nơi tối tăm. Nỗi sợ ớn lạnh này còn hơn cả nỗi sợ sự xảo trá của tập đoàn Umbrella, và anh lo rằng không biết một người có thể làm gì khi có cả một đội quân trang bị kỹ càng tìm cách ngăn chặn mình.

    Chúng ta sẽ tìm ra những nguyên liệu, những ghi chép về Umbrella, và có khi là về cả loại T-Virus, sau đó sẽ vượt qua hàng rào an ninh, rời khỏi cái nơi điên loạn này. Để cho Feds lo phần còn lại. Nếu khôn thì họ sẽ cho nổ tung cả khu này, và thu thập tin tức lại trong đống tro tàn.

    Anh dừng lại ở ngăn cuối cùng, sực nhớ ra nhiệm vụ của mình. Nhưng anh không rõ là mình đang hy vọng tìm thấy cái gì. Nhưng dù sao thì bài kiểm tra số 4 cũng chẳng làm anh ngạc nhiên chút nào. Một cái bàn, một cái ghế, bằng kim loại xám. Trên bàn có một tập giấy, một cây bút chì, và một bộ cờ, các quân cờ đều được xếp ở đúng vị trí của nó. Khi bước vào trong, anh nhận thấy có một tấm thẻ bằng kim loại ở trên mặt bàn, một dãy số được khắc trên đó. David ngồi xuống ghế và nhìn ngó chúng.

    9-22-3//14-26-9-16-8//7-19-22//8-11-12-7

    Anh cau mày lại, ngó lên bàn cờ rồi lại nhìn những con số. Chẳng có gì khác nữa cả; chỉ có vậy. Anh sắp xếp lại những manh mối trong thông điệp của Ammon, tự hỏi câu trả lời sẽ là cái gì. Có phải là “Chữ và số đảo ngược lại,” hay là “đừng đếm,”? Khi mà mọi thứ có vẻ chẳng liên can gì đến thời gian, hay cầu vồng thì chắc chắn nó phải là một trong hai gợi ý trên …

    Nếu như những hàng này có cùng một trật tự như câu đố, thì đây sẽ là dãy số và ký tự đảo ngược lại. Nhưng những ký tự nào, chẳng thấy đâu hết …

    Tự nhiên anh mỉm cười, lắc đầu. Những con số trên thẻ không vượt quá số 26; đây là một dạng mật thư, và là một dạng mật thư đơn giản đến khó tin. Anh vớ lây cây bút chì và ghi nhanh lại những chữ cái trong bảng chữ latinh, và sau đó là đánh dấu chúng ngược lại; A là 26, B là 25, cứ thế ngược lại đến chữ chữ cuối cùng Z : 1. Ngó qua ngó lại giữa tờ giấy và tấm thẻ. Anh viết những con số xuống và bắt đầu giải mã thông điệp.

    R…E…X…M…

    Chữ cuối cùng là “T”, anh nhìn xuống tờ giấy, rồi lại nhìn lên bàn cờ. Có vẻ đây là một người khá hài hước.

    REX GHI ĐIỂM.

    “Rex” tiếng la-tinh có nghĩa là “vua”.

    Quân trắng luôn đi trước, vậy thì …

    Anh đưa tay với lấy quân vua trắng. Ngay khi ngón tay anh vừa chạm vào con vua, nó tự xoay tại chỗ, quay ngược ra về cái bảng. Ngay tức khắc, có một âm thanh nhẹ, giống như tiếng chuông ở ngay trên đầu. Anh ngẩng lên nhìn và thấy một loa nhỏ gắn ở trên trần nhà. Chẳng có gì khác xảy ra cả, không ánh đèn chớp hay lối đi bí mật phía sau bức tường nào hết. Có vẻ như anh đã vượt qua được rồi.

    Nhảm nhí thật.

    Có vẻ như đây là một bài kiểm tra tàn nhẫn đối với những thứ hầu như có trí não rỗng tuếch, một con Trisquad zombie chẳng hạn, có vẻ như những người nghiên cứu có kế hoạch cho một thứ gì khác, một thứ gì đó thông minh,… Một ý tưởng chẳng ai có thể nghĩ đến. Anh đứng dậy và đi ngược ra căn phòng ban nãy.

    … ngay lúc đó cánh cửa bật tung ra, Rebecca và Steve vội vã lao vào, cả hai đều mang một nét mặt sợ hãi, lo lắng.

    “Có chuyện gì vậy?”

    Rebecca giơ quyển sách lên, nói nhanh. “Chúng tôi tìm thấy một quyển nhật ký. Nó nói rằng loại virus được dùng để lây nhiễm lũ Trisquads ở trong khu D, trong phòng 101. Có thể sẽ chẳng có gì xảy ra hết, nhưng lỡ như John hay Karen đụng vào bất kỳ thứ gì đã bị nhiễm …”

    Anh đã nghe quá đủ. “Nhanh lên.”

    Họ quay lại và anh sải bước nhanh qua họ, dẫn tất cả theo lối họ vừa đi qua, tâm trí anh đang loạn cả lên. Họ đã đi qua lối ra ở phía cuối toà nhà, và anh bảo Steve và Rebecca đến khu vực tiếp theo trong khi anh đến khu D, theo đúng kế hoạch ban đầu, như thế nhanh hơn. Anh cảm thấy một nỗi sợ hãi tồi tệ cho hai người kia, chẳng may họ đã vô tình tìm thấy T-virus rồi thì sao.

    Nó không thể xảy ra được, họ sẽ rất cẩn thận, khả năng họ bị trầy xước và đụng vào thứ gì đó nguy hiểm trong một nơi đã bị đánh dấu như phòng thí nghiệm là không thể …

    Sự thật chắc chắn này chẳng làm cho anh yên tâm chút nào cả. Họ nhanh chóng đi đến cửa ra, có một nỗi lo sợ nhói lên trong người David.
    *
    * *​
    Họ đứng trong một hành lang sáng trưng ở trung tâm khu D, lắng nghe bất kỳ âm thanh nào có thể cho thấy là David đã đến. Từ vị trí của mình họ có thể nghe thấy âm thanh phát ra từ cả 3 cánh cửa bên ngoài nếu chúng được sử dụng. Sau khi đã kiểm tra hết toà nhà và tìm ra phòng kiểm tra, họ đã chắn hết tất cả các lối dẫn đến cửa ra của dãy hầm. Karen kiểm tra đồng hồ và lấy tay dụi mắt, cô cảm thấy mệt lả đi sau tất cả những sự kiện tối nay, và vẫn thấy ghê tởm những gì họ đã tìm thấy ở phòng 101. Ngay cả John cũng có vẻ thờ ơ, và im lặng hơn hẳn bình thường. Anh không hề nói những câu bông đùa như mọi khi trong lúc họ quay lại chỗ hẹn.

    Có khi là anh ta đang nghĩ đến những cái cán đẩy cứu thương, hay là những ống tiêm, hay là những dụng cụ phẫu thuật chất thành đống trong chậu rửa…

    Họ tìm thấy phòng kiểm tra trước, một căn phòng lớn với một đống bàn nhỏ, mỗi cái được đánh số từ 5 đến 8. Karen tỏ ra hơi thất vọng khi dãy màu xanh số 7 chỉ là một nhúm ngói, với những chữ cái ở bên trên, hơn nửa cái đống đó bị lật úp xuống và không thể đọc được gì hết. Tất cả đều phù hợp với màu của cầu vồng, ngoại trừ 2 mảng màu tím ở cái cột chống cũ rích. Khi mà họ không thể liều lĩnh đảo lộn mọi thứ ở đây cho đến khi David giải quyết xong bài kiển tra đầu tiên, cô miễn cưỡng bỏ đi, tự nhủ là mình nên kiểm tra các nơi còn lại cái đã.

    Họ đi qua một, hai phòng làm việc, chẳng có gì trong đó cả; và một phòng bừa bộn, nơi họ tìm thấy một cái hộp nhỏ xíu, mốc meo một cách kì lạ. Chính phòng thí nghiệm hóa học đã cho họ thấy những nơi mà Umbrella có thể xây nên, và mặc dù Karen không tin vào ma, căn phòng này khiến cô có một cảm giác kì lạ mà mình chưa bao giờ trải qua. Nơi này bị ma ám, điều này thật quá rõ ràng và đơn giản; nó bị ám bởi nỗi sợ hãi cùng cực, bầu không khí ảm đạm lạnh lẽo, sự chính xác của những nhà khoa học đã dẫn đến những hành đồng tàn khốc chống lại chính người của mình.

    “Cô đang nghĩ về căn phòng đó đấy à ?” John nhẹ nhàng hỏi.

    Karen gật đầu, nhưng cô không nói gì. John có lẽ đã nhận thấy là cô thực sự không muốn nhắc đến chuyện đó nữa, và cô rất lấy làm biết ơn vì điều này. Sức nặng của cái bùa may mắn cô đang đeo là thứ duy nhất có thể khiến cô dễ chịu vào lúc này, cô rất muốn tháo nó ra, để có thể nhớ lại những kí ức về cha cô, và về những nhiệm vụ đã qua. Bất kì thứ gì có thể khiến cô không nghĩ đến phòng thí nghiệm đó nữa … Cánh cửa bên ngoài lối vào phòng 101 đã được đánh dấu rõ ràng bởi dấu hiệu “chất độc nguy hiểm”, và họ đã nhanh chóng đồng ý là không thể đi kiểm tra tất cả các cửa được, John thì phản đối quyết liệt việc đi vào một khu vực chắc chắn bị nhiễm khuẩn. Karen đã chỉ ra là không ai trong hai người có bất kì vết cắt, hay trầy xước nào cả, và họ còn có thể tìm thấy thứ gì đó có liên quan đến T-virus để mà mang theo. Sự thật là cô không thể chấp nhận một cơ hội như vậy bị bỏ lỡ, cô muốn biết có thứ gì đằng sau cánh cửa bị khoá đó, chắc chắn là phải có thứ gì đó rồi. Bởi vì cứ để mặc cho nó bị khoá lại khiến cô không chịu được.

    Cuối cùng thì John mới chịu đồng ý đi vào, bước vào một lối đi nhỏ, với những phiến nhựa lớn. Có một bảng chỉ dẫn chẳng có gì đáng chú ý ở ngay trên đầu, một bộ ống dẫn trên sàn, một khu vực khử độc. Cánh cửa thứ hai dẫn họ vào một giấc mơ điên loạn của những nhà khoa học. Thuỷ tinh lạo xạo dưới chân. Một thứ mùi hôi trộn lẫn với mùi thuốc tẩy. John tìm thấy công tắc đèn, nhưng thậm chí ngay cả trước khi mọi thứ trong phòng lọt vào tầm nhìn, Karen cảm thấy tim mình bắt đầu đánh trống trong lồng ngực. Có một sự căng thẳng bao trùm khắp mọi nơi, có cảm giác là mọi chuyện xuất phát từ những bức tường. Nó trông như hàng tá những phòng thí nghiệm mà cô đã từng làm, một số máy tính, vài cái kệ, hai bồn chứa kim loại, một cái tủ đông lạnh bự chảng bằng thép không gỉ ở một góc phòng với một cái khoá ở ngay móc. Nhưng còn một thứ tệ hơn nữa, khung cảnh này quá gần gũi quen thuộc, nơi mà cô luôn cảm thấy như ở nhà.

    Những điểm khác biệt ít ỏi thì quả thật là gây ấn tượng rất mạnh mẽ. Chiếm chỗ gần hết căn phòng là một bàn mổ bằng kim loại không gỉ với những cái khoá dính, có thêm hai cái giường đẩy cũng được trang bị như vậy. Khi đi ngang qua để nhìn chúng, cô để ý thấy có những vệt bẩn đen bầm đã khô ở một đầu, có vẻ như miếng đệm mỏng đã bị thấm máu ở vị trí khớp với cổ chân và mắt cá của một người nào đó.

    Ở cuối phòng có một cái lồng lớn, thậm chí là đủ lớn để một người có thể bước vào nữa, những thanh chắn bự chảng vây quanh một cái ghế dài. Ngay cạnh cái lồng có mấy cái cọc nhỏ dựng ngược vào tường, cái nào cũng dài 1m hay cỡ đó, bị khâu bịt kín đầu lại bằng da. Cái này giống như một loại nhạc cụ nào đó dùng thể thôi miên mấy con thú, cái này giúp cho người mổ không thật sự phải tiếp cận chúng. Karen ngó xuống cái giường đẩy, lấy tay chạm nhẹ vào một vệt bẩn đã khô. Cô thắc mắc là không biết loại người nào lại có thể tình nguyện tham gia vào mấy thí nghiệm kiểu này cơ chứ. Vệt máu đã khô từ lâu, đầy bụi, nó khiến cô thắc mắc không biết những nạn nhân đã phải chịu đựng thứ quái gì nữa, chờ đợi trong một cái lồng đến khi có người đeo găng đi vào và tiêm một thứ chất độc gì đó vào người, đưa virus vào một con người vô phương tự vệ …

    Một nơi vô cùng tồi tệ, dành cho những việc làm mờ ám. Cả hai người đều cảm thấy như vậy, đều bị ám ảnh sau khi nhận ra những việc đã diễn ra ở đây.

    Karen lại bị máy mắt nữa, nó kéo cô ra khỏi những hồi tưởng đáng sợ trở lại với thực tại. Cô dụi mắt rồi lại nhìn đồng hồ. Chỉ mới có 20 phút kể từ lúc họ tách nhóm, mặc dù là nó có vẻ lâu hơn rất nhiều.

    Có tiếng cửa mở, kèm theo tiếng hét kích động của David dọc theo dãy hành lang. Anh ta đã đi vào từ lối phía tây.

    “Karen, John!”

    John nhe răng ra cười với Karen, và cô cảm thấy yên tâm chút ít; David không sao hết.

    “Đây này, cứ đi tiếp đi.” John gọi ngược lại “Rẽ phải ở ngã ba đấy.”

    Tiếng bước chân của David vang vọng khắp đại sảnh, sau vài giây anh ta đã xuất hiện ở góc phòng, và chạy lại chỗ họ, nét mặt anh ta có vẻ lo lắng.

    “Mọi chuyện có … ?” Karen vừa định hỏi thì anh ta đã cắt ngang lời cô.

    “Hai người có tìm thấy phòng thí nghiệm không, phòng 101?”

    John cau mày lại, nụ cười của anh hơi héo đi, “Ờ… nó ở ngược lại lối anh vừa vào đấy.”

    “Có bất kì ai đụng vào thứ gì không? Có ai bị thương hay vết trầy xước nào có thể tiếp xúc với bất cứ thứ gì trong đó không?”

    Sự bối rối của họ hẳn là đã lộ rõ ra. David nói nhanh, ngó nghiêng khắp người họ. “Bọn tôi tìm thấy một cuốn nhật ký, trong đó cho biết nơi mà lũ chúng nó đã lây nhiễm bọn Trisquad.”

    John mỉm cười lại, “Không, chết tiệt thật. Tụi này đã hình dung ra được mọi thứ trong vài giây.”

    Karen giơ tay lên, xoay chúng qua lại cho David thấy, “Không có vết trầy nào cả.”

    David đã thở phào một cách dễ hiểu, vai anh chùng xuống. “Cảm ơn trời, tôi đã có cảm giác tồi tệ nhất suốt đoạn đường đến đây là có thể có chuyện gì đó đã xảy ra với hai người. Chúng tôi đã tìm ra những nhà nghiên cứu ở khu A; Ammon đã đúng, hắn đã giết mọi người, và “hắn” của chúng ta đã có một cái tên rồi. Rebecca có vẻ chắc chắn đó là Nicolas Griffith, người duy nhất cô nhận ra trong danh sách của Trent, và hắn có một lý lịch khá là nhớp nhúa. Cô ta sẽ nói rõ hơn khi chúng ta tập họp lại …” Anh lắc đầu, cười một cách lưỡng lự. “Tôi chỉ … tôi nghĩ là đã để cho trí tưởng tượng của mình đi quá xa trong chốc lát.”

    John cười lớn hơn, “Ui dào, tôi chẳng biết anh lo lắng chuyện gì nữa. Hay anh nghĩ là chúng tôi sẽ chọc mấy cái thứ kinh tởm đó vào người ở một nơi như thế này.”

    David cười lớn, nói một cách yếu ớt, “Tôi thành thật xin lỗi.”

    “Steve và Rebecca đâu rồi?” Karen hỏi anh.

    “Chắc là cả hai đang ở khu thí nghiệm tiếp theo rồi. Tôi thấy họ đã đến khu B một cách an toàn trên đường đến đây … hai người có tìm thấy bài kiểm tra số 7 không?”

    “Lối này.” John nói, và trong khi tất cả đang đi thì anh kể lại vụ rượt đuổi với đám Trisquad, Karen đi theo, dụi mắt liên tục một cách điên tiết khi mà mắt phải cô cứ thấy ngứa. Cô hẳn là đã làm nó sưng tấy lên khi cứ dụi như vậy. Nó có vẻ càng lúc càng tệ hơn. Và có lẽ cuối cùng thì cô cũng bắt đầu cảm thấy một cơn đau đầu sắp đến.

    Cô lau mắt, tự thở dài với mình, cô không bao giờ bị đau đầu cả, trừ khi là sắp có chuyện. Bơi lòng vòng trong biển hằn là đã khiến cô gần bệnh rồi, lại còn những thứ trong toà nhà này nữa, chuyện này chắc rồi sẽ tồi tệ lắm.
     
  13. Lioncoeur

    Lioncoeur Fire in the hole!

    Tham gia ngày:
    5/5/03
    Bài viết:
    2,645
    Một chương của Beautiful_ada :cool:
    Chương 11


    Sau khi dặn dò và phái Athen đi làm nhiệm vụ, hắn chuẩn bị những ống tiêm và chọn một nơi để trú tạm. Chẳng còn gì cho hắn làm ngoài việc chờ đợi. Thay cho cái cảm giác tin tưởng lúc ban đầu, hắn bắt đầu trở lên lo lắng và cứ đi qua di lại trong phòng thí nghiệm không ngừng. Điều gì sẽ xảy ra nếu Athen quên cách nạp đạn cho khẩu Rifle? Nếu bộ phận mở rào chắn không hoạt động, hoặc những kẻ đột nhập có đủ hỏa lực để ngăn chặn tụi Ma7?

    Hắn đã cố chuẩn bị cho mọi tình huống không mong đợi, mọi kế hoạch đều đã có chứa những phương án dự phòng sẵn, nhưng nếu tất cả đều đổ bể thì sao? nếu tất cả chúng đều thất bại hết?

    Tao sẽ giết chúng nó, tao sẽ siết cổ chúng bằng chính đôi tay trần này, chúng không thể ngăn ta làm những việc phải được làm. Chúng không thể, không phải sau tất cả những gì mà ta đã hoàn thành, không phải sau mọi thứ ta đã phải trải qua để tới được vị trí mà ta đang đứng …

    Lần thứ hai trong ngày, trong đầu hắn lóe lên những hình …. Những hình ảnh sống động lạ lùng vào cái ngày nắng rực rỡ cách đây không đầy một tháng. Thay vì cố ngăn cản những ý nghĩ này như trước, hắn để chúng tràn tới, mời mọc chúng gợi lại cho mình về những gì hắn có thể làm một khi hắn muốn. Hắn bất ngờ ngừng đi lại và tiến tới chiếc ghế, đổ người vào nó và nhắm mắt lại.

    cái ngày nắng rực rỡ ấy…

    Cuối cùng, hắn đã nhận ra cần phải làm những gì, và lên kế hoạch cho nó trong suốt hai tuần liền, cân nhắc cẩn thận mỗi chi tiết một cách say sưa cho tới khi hài lòng rằng mọi thứ đều đã được dự kiến. Hắn đã dành nhiều thời gian đọc về Trisquads và rà qua những phần tổng thể, ghi nhớ những công việc hàng ngày trong khu nghiên cứu.

    Hắn đã theo dõi những thói quen của các đồng nghiệp, học thuộc thời gian biểu của họ cho tới khi có thể đọc ngược được những thời gian biểu đó, hắn đã nhìn hàng giờ vào những bức phác họa mà hắn vẽ về mỗi tòa nhà, tập đi lại ở đó trong trí tưởng tượng hàng nghìn lần. Sau khi cân nhắc cẩn thận, hắn chọn ngày hành động và trước đó vài ngày, hắn đã đột nhập vào trong phòng chế tạo Trisquad để lấy trộm vài lọ nhỏ đựng những dược phẩm có tác dụng cực mạnh: Kylosynthesine, Mamesidine, tralphenide - thuốc an thần của sinh vật và ma túy tổng hợp - một trong những sản phẩm tốt nhất của Umbrella.

    Chỉ trong một buổi chiều, hắn đã pha chế xong các thứ thuốc ấy theo đúng cái cách mà hắn muốn. Sau đó là sự chờ đợi, như hắn đang đợi bây giờ …..

    Cái ngày trước khi kế hoạch được tiến hành, hắn đã theo dõi tiến trình tạo Trisquad, sau đó mời Tom Athen tới phòng thí nghiệm sau bữa tối để thảo luận riêng về một vài ý tưởng hắn có, để làm tăng tính hợp lí cho các hệ số kĩ thuật. Athen rất vui mừng chấp nhận và đã hăm hở nghe Griffith nói về giống loài do hắn tạo ra – tất nhiên là diễn tả trên lí thuyết – để rồi sau khi dùng một tách cà phê nóng, Athen trở thành kẻ đầu tiên nếm trải cái phép màu của Griffith.

    Griffith cười và nhớ lại thời khắc huy hoàng đầu tiên đó, thí nghiệm đầu tiên và quan trọng nhất về tính hiệu quả của dòng giống mới. Hắn bảo Athen rằng tiếng nói duy nhất mà anh ta có thể nghe theo là tiếng của Nicolas Griffith, rằng những lời bép xép hay đề xuất này nọ đều là vô nghĩa. Vào cái buổi sáng định mệnh ấy, Griffith đã bật một trong những băng ghi âm bài thuyết giảng của Athen cho vị bác sĩ cả tin nghe, và anh chàng chẳng có phản ứng gì hơn là phát âm lắp bắp. Nếu kế hoạch thất bại thì Griffith có thể ngưng sự tiếp quản này lại, không ai có thể biết. Hắn đã hoạch định sẵn một vụ tai nạn trong trường hợp giống loài mới không vận hành như mong đợi, khi đó xác của Athen sẽ được tìm thấy vào ngày hôm sau, bị giạt vào bãi biển lởm chởm đá. Nhưng sự thành công ngoài tưởng tượng của tạo vật đó đã đánh tan mọi nghi ngại, và hắn chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục …

    … Và kế đến là nhà bếp. Thuốc được bỏ vào trong những tách cà phê, được tẩm cẩn thận vào hoa quả và hòa tan vào trong sữa, nước trái cây … của mười chín người đàn ông và phụ nữ sống ở vịnh Caliban. Chỉ trừ một người thường xuyên bỏ ăn sáng và không uống cà phê, Kim D’Santo, một phụ nữ trẻ lố bịch làm việc với T-Virus, Griffith đã phái Athen tới để cắt cổ cô ta khi đang ngủ, trước khi mặt trời mọc…

    … và đó là một ngày nắng rực rỡ, trời không mây và trong trẻo khi họ ngấu nghiến ăn sáng, uống từng ngụm cà phê, tản bộ ngoài không khí lành lạnh của buổi sáng, rồi quỵ xuống đất, nhiều kẻ còn chẳng kịp bước ra khỏi quầy ăn thì đã lảo đảo và ngã sóng xoài, một số gào lên rằng mình bị đầu độc tới khi không thể nói được nữa và chìm vào giấc ngủ dưới tác dụng của thuốc…

    Griffith nhún vai, cố nhớ lại những gì đã xảy ra tiếp theo. Hắn nhắm vào Thurman, không thể kìm được nỗi khoái trá bệnh hoạn khi trình diễn cho vị bác sĩ tài giỏi này thứ hắn đã sáng chế. Sau đó là Alan Kinneson, trước giờ hắn chưa từng tặng thứ gì cho Alan cả, hy vọng món quà lần này sẽ làm anh ta dịu đi …

    Hắn còn biết thêm nữa: Thurman và Athen đã xắp xếp bọn công nhân và dồn chúng vào khu A. Lyle Amman đã cố xoay xở trốn được một lúc nhưng sau đó vẫn bị phát hiện bởi bọn Trisquad vào xế chiều hôm đó, Griffith ăn bữa ăn nhẹ muộn và đi ngủ, dậy sớm hơn thường lệ vào sáng hôm sau để chuyển tài liệu và phần mềm vào phòng thí nghiệm. Đó là những gì hắn biết, nhưng vì một vài lí do nào đó, diễn tiến đã bị xóa nhòa và hắn thực sự không thể nhớ đã chứng kiến những gì, cái gì đã diễn ra với hắn vào phần còn lại của ngày hôm đó,

    Griffith cố tập trung và lần mò lại những suy tưởng của mình, nhưng rốt cục chỉ có thể tìm được những cảnh tượng mờ nhạt và không rõ ràng : mặt trời giữa trưa nắng chói, những cơ thể ngủ chìm trong máu đỏ. Tiếng kêu rít của mòng biển vang khắp vịnh, chói tai và hoang dại, vang vọng trên những cơn gió nóng bỏng. Một cái mùi nồng nặc của rác bẩn và, và …

    Máu thấm đầy tay ta, trên con dao mổ sắc lẻm ướt sũng, đang cắm sâu vào trong một bộ mặt mềm mềm, và những con mắt, những cái dạ dày, tiếng động ầm ầm đinh tai của sóng biển trong bóng tối và cuộn dây câu, và Amman, Amman, vẫy tay ……

    Đôi mắt hắn mở trợn tròn, và cơn ác mộng biến mất. Griffith lắc lắc đầu, nhìn thấy ánh sáng dìu dịu của phòng thí nghiệm. Ắt hẳn hắn đã ngủ gật được một lúc, đúng thế, phải, chắc chắn như vậy, hắn đã ngủ gật và có một cơn ác mộng thật khủng khiếp.

    Hắn nhìn lên chiếc đồng hồ, thấy rằng đã được một lúc kể từ khi hắn phái hai tay bác sĩ đi làm việc. Hắn cảm thấy nhẹ bớt trong lòng khi nhận ra rằng mình đã không ngủ gật quá lâu, nhưng cái cảm giác thoải mái ấy nhanh chóng biến mất, sự bực dọc đang quay trở lại, hắn không ngừng băn khoăn lo lắng về những kẻ đang đột nhập vào khu nghiên cứu.

    Chúng không thể ngăn ta lại, nó là của ta.

    Griffith đứng dậy và lại tiếp tục đi ra đi vào không ngừng, chờ đợi..
    *
    * *​
    Bài kiểm tra ‘cầu vồng thời gian’, số bảy, chỉ lâu hơn tí chút so với bài kiểm tra số bốn, cái David cho nên gọi là ‘bài kiểm tra quân cờ‘. John và Karen đã chỉ cho anh cái bàn nhỏ ở trong phòng lớn, đứng cạnh khi anh lật đi lật lại những quân đomino nhiều màu. Ngay bên cạnh cái đống gồm chín miếng có màu-của-cầu-vồng là một cái rãnh dài, có lẽ dài độ 1 foot và rộng khoảng 2 inch.

    Rõ ràng là chỉ có thể đặt 7 miếng domino vào đó .

    Cầu vồng có bảy màu, bảy miếng, đơn giản thế thì tại sao lại có tới chín miếng?

    David sắp xếp những miếng domino theo màu sắc của chúng, đặt thành một hàng bên cạnh cái rãnh. Mỗi miếng đều được khoan những chữ cái khác nhau bằng mực đen. Đỏ, cam, vàng, lục, lam, chàm, và ba miếng màu tím với 3 chữ cái khác nhau.

    “Chúng có nghĩa gì đây?“ John hỏi.

    Đi từ trái qua phải, sáu miếng đầu tiên ghi: J, F, M, A, M, J.

    “Không phải tiếng Anh.“ Karen ôn tồn nói. Ba miếng màu tím là: J, M và P.

    David thở dài. “Chúng ta phải đặt một trong số chúng vào vị trí kế tiếp trong cái dãy xắp xếp này, hình như là có liên quan tới thời gian, có ý kiến nào không?“

    John và Karen đều nhìn chăm chăm vào câu đố, ngâm cứu những chữ cái; và anh tự hỏi không biết họ có mệt mỏi như anh đang bắt đầu cảm thấy không? John rõ ràng có vẻ không hoạt bát như thường lệ, còn Karen trông như thể bị ai giáng cho một đòn vậy, da cô tái nhợt, và đang lẩm bẩm một thứ gì đó về khoảng cách.

    Tất nhiên là họ mệt mỏi, nhưng ít nhất là họ đang cố gắng …

    David nhìn vào những miếng đomino nhiều màu và cố tập trung, nhưng không có vẻ gì là anh có thể xoay ra được một ý tưởng cho ra hồn. Hôm nay là một ngày tồi tệ, những thời điểm phải tập trung cao độ xem lẫn với hành động khiến anh có cảm giác máu nóng dồn hết lên đầu. Anh đã trải qua sự sợ hãi, cảm giác tự ngờ vực, quyết tâm rồi lại sợ hãi, và đầy những cảm xúc không rõ ràng khác. Bây giờ anh cảm thấy thật kiệt quệ, chờ đợi cái gì sẽ tiếp tục xảy ra tiếp theo ….

    Đột nhiên John nhe răng cười, một tia sáng chiến thắng hiện lên trong mắt John.

    “Những từ này ám chỉ các tháng: tháng 1 (January ), tháng 2 (February ), tháng 3 (March), tháng 4 (April), tháng 5 (May), tháng 6 (June), tháng 7 (July). Đó là lí do tại sao chữ cuối cùng là J”.

    “Tuyệt vời.“ David kêu lên, anh bắt đầu xếp những miếng đomino vào cái rãnh trong khi John thúc cùi trỏ vào Karen, vẫn nhe răng cười. “Tôi không chỉ giỏi trò khêu gợi như cô nghĩ đâu nhé.”

    Như mọi khi, Karen chẳng buồn trả lời. Tin tưởng là sẽ vượt qua được bài kiểm tra thứ hai thứ hai này, David đặt nốt miếng đomino cuối cùng vào vị trí. Một tiếng Click yếu ớt và cầu vồng hạ xuống một chút, có lẽ chỉ chừng 1 mm. Phía trên họ, tiếng chuông vang lên từ một chiếc loa được che đi bởi một đèn huỳnh quang.

    ”Có vậy thôi à?” John chua cay nói. “Không có màn trình diễn nào khác sao?“

    David đứng dậy cười một cách mệt mỏi. ”Tôi cũng cảm thấy như các bạn vậy, chúng ta nên tiếp tục tiến lên, xem Steve và Rebecca làm ăn thế nào rồi?“

    “Một đề xuất hấp dẫn đó David.“ John tặc lưỡi. “Rất tuyệt.“

    Mất một thoáng David mới nhận ra Karen bất chợt ôm lấy mắt cô, sau đó cào chúng. Khi cô bỏ tay ra, David thấy mắt phải của cô đỏ ngầu. Mắt trái cũng hơi đổi màu, mặc dù không rõ rệt. Cô để ý cái nhìn chăm chú của David, cười với anh và nhún vai. ”Tôi hơi khó chịu, nó ngứa, nhưng không sao đâu.”

    “Đừng dụi mắt, cô sẽ làm nó thêm tệ thôi.“ David nói, tiến ra sau cánh cửa. “Và hãy để cho Rebecca xem xét nó khi chúng ta gặp họ.“

    Họ đi trở ra hành lang và bắt đầu hướng tới cửa sau. David tự lên tinh thần cho mình khi lao qua khu hàng rào. Theo tính toán của anh, họ đã xoay sở xử lí xong được ba nhóm Trisquad, ba tên bên ngoài nhà để thuyền, tên thứ tư khi đang tiến về tòa nhà đầu tiên. Sau đó năm tên của John và Karen hạ khi đang ở giữa khối nhà C và D.

    Phải chi mà mình biết ngay từ đầu là có bao nhiêu nhóm.

    Anh xua tan những lời mỉa mai trong thâm tâm khi họ tới cánh cửa sắt, Karen với tay lên tắt ngọn đèn trên đầu, họ rút vũ khí ra, hít thở thật sâu, chuẩn bị. David nhận ra một cảm giác quen thuộc, cái cảm giác vô danh mà anh hay trải qua trong những tình huống căng thẳng. Không hẳn là lo lắng về sinh tử, và mặc dù không phải là người theo đạo nhưng anh vẫn cho nó là thứ gì đó rất gần gũi với đức tin vào số phận, thứ cảm giác tiêu biểu khi phải chiến đấu trong lĩnh vực ngoài phạm vi chi phối của con người.

    Dú có chuyện gì đã và đang xảy ra thì họ cũng đã bỏ nó lại phía sau rồi – giờ đây mọi nhân tố quyết định có vẻ như đều nằm ở đúng vị trí, ăn khớp vào nhau như các mảnh ghép của trò chơi ô chữ. Anh cảm nhận một cách chắn chắn về điều này. Nó giống một cái bánh xe may rủi khổng lồ đóng vai trò quyết định kết cuộc. Nó có thể lăn đến điểm sống hoặc chết, thành công hoặc thất bại, tất cả đều dồn vào những vòng quay, và lúc này nó đang xoay tròn đến một đoạn kết không thể tránh khỏi – chỉ có điều thay vì chậm đi, thì nó lại nhanh hơn, không ngừng tăng tốc và lộ rõ cho họ thấy một sự xếp đặt từ trước.

    Trong quá khứ, anh thường cảm thấy an ủi mỗi khi bất chợt bắt gặp guồng quay này, một thứ cảm giác không thể định nghĩa được, khi nhận ra kết cuộc đã được định sẵn và tất cả những gì con người có thể làm là chứng kiến nó diễn ra. Khi anh còn bé và bị cha mình trút thịnh nộ lên đầu trong cơn say xỉn, niềm tin vào một viễn cảnh tươi sáng hơn là thứ duy nhất cứu vớt anh khỏi tuyệt vọng hoàn toàn. Lúc này, thế nhưng, …, lúc này mọi thứ thật tồi tệ, họ đã sơ xuất chui vào một mớ hỗn độn tối tăm quay cuồng, không nhận ra sự thật cho tới khi quá muộn, họ không thể quay trở lại nữa, không thể tránh những gì đang ở phía trước.

    Phải kiên định đã, sau đó chúng ta sẽ làm những gì có thể làm.

    David bước tới cửa, bật chốt an toàn của khẩu Barreta. Dù cho họ có thể làm chủ những gì sẽ đến hay không thì Steve và Rebecca cũng đang đợi.
    *
    * *​
    Căn phòng thử nghiệm rất yên lặng ngoại trừ tiếng kêu nhè nhẹ của chiếc máy được đánh dấu bởi những số màu xanh, chín tới mười hai, và tiếng lật giấy thỉnh thoảng sột soạt của Rebecca khi cô xem qua những báo cáo hàng ngày của Athen. Steve ngồi ở mép bàn và nhìn cô đọc, tư tưởng của anh bồn chồn và lo lắng khi phải chờ tín hiệu của những người kia. Ngực anh cứ tưng tức, vừa do mấy viên đạn bắn trúng anh lúc nãy, vừa bởi sự nóng ruột cho John và Karren.

    Sau khi đã xem qua các phòng khác trong tòa nhà, họ đều đồng ý rằng phòng thử nghiệm là nơi để ngồi chờ. Có vẻ tòa nhà B trong khu nghiên cứu Umbrella hầu hết được dành cho những lĩnh vực phẫu thuật của các nghiên cứu hóa sinh về vũ khí sinh học, các phòng đều màu trắng và bọc thép, ảm đạm và không dễ chịu tý nào. Mặc dù tòa nhà cũng ngột ngạt và nóng như những chỗ mà họ đã tìm kiếm, nhưng Steve vẫn cảm thấy một cơn ớn lạnh khắp cơ thể khi họ đi qua những phòng mổ, như thể chúng có những đặc điểm giống các sinh vật nhiễm T-virus vậy. Lạnh lẽo và ko có sự sống, thậm chí tối tăm một cách có chủ đích …

    Rebecca ngẩng lên, trong mắt cô lộ rõ sự thú vị.

    “Nghe này:
    “Họ vẫn đợi sự phản hồi của chúng tôi về phần mở rộng từ khi Griffith tăng thời gian amp, chúng tôi có đủ chỗ cho 20 đơn vị , nhưng tôi sẽ chỉ giữ chắc tối đa là tới 12 thôi, chúng tôi không thể tập trung vào việc huấn luyện nhiều hơn bốn nhóm một lúc. Ammon nói hắn sẽ gọi tôi nếu có bất cứ sự bất thường nào.“

    Steve gật đầu, nửa mất hết can đảm, nửa bị hồi tưởng lại bởi thông tin trên. Họ đã đánh bại một nhóm Trisquad, cộng thêm với việc gây ra thương tích nghiêm trọng hoặc giết một cặp cá thể trong một nhóm khác nữa; thật là tốt. Nhưng mặt khác, điều này có nghĩa là còn hai nhóm khác đang lởn vởn đâu đó ngoài kia - trừ khi chúng hiện đang ‘bận rộn‘ với David và những người khác …

    Anh tự cau có trong lòng, cố gắng nghĩ đến chuyện gì khác.

    “Em có biết ‘tăng thời gian amp‘ có nghĩa gì không?“

    Rebecca chậm rãi gật đầu, sự lo lắng thể hiện rõ trên trán cô.

    “Em chắc chắn hắn ta ám chỉ rằng Griffith đã tăng tốc cho quá trình khuếch đại. Khuếch đại là kỳ hạn cho virus phát tán vào trong cơ thể vật chủ.“

    Đó không có vẻ gì là cái anh muốn nghĩ tới. Bởi vài sự thoả thuận ngầm nào đó mà họ đã không hề nói về khả năng bị nhiễm virus của John và Karen từ khi David bỏ đi.

    “Tuyệt, còn gì khác nữa không?”

    Cô lắc đầu. “Không hẳn, hắn có nhắc tới Ma7 một đôi lần, nhưng không có gì đặc biệt hơn việc chúng là sản phẩm thử nghiệm T-virus không có hiệu quả. Và hắn ta thực sự thuộc loại ngu ngốc.”

    “Loại …?”

    Rebecca cười. ”Được rồi, đó chỉ là một cách nói ám chỉ. hắn là một tên tham tiền, một thằng khốn vô luân lí.”

    Steve gật đầu, nghĩ về những báo cáo mà họ đã tìm thấy về Trisquad, cái quyết định cho sự tồn tại của khu nghiên cứu. Gọi những nạn nhân của T-virus là ‘các đơn vị ‘, tạo nên những phòng mổ và vận hành những bài kiểm tra kỹ năng trên họ, như thể họ là những con chuột trong mê cung vậy –

    - như thể là chúng không biết chúng đang thực hiện các thí nghiệm trên con người vậy, trên những con người thực sự …

    “Làm sao mà chúng có thể làm vậy?“ anh nhẹ nhàng hỏi, như thể là tự hỏi mình nhiều hơn là hỏi Rebecca. “Làm sao chúng có thể ngon giấc vào ban đêm chứ?“

    Rebecca nhìn anh một cách trang trọng, như thể là cô có câu trả lời nhưng không biết làm sao diễn tả nó. Cuối cùng cô thở dài. “Khi người ta quá đi sâu vào một lĩnh vực, cá biệt hơn khi đó là lĩnh vực đòi hỏi sự suy nghĩ sâu sắc và có đặc điểm tập trung vào chỉ một yếu tố bé nhỏ của cái gì đó - thật khó diễn tả, nhưng điều kinh khủng là rất dễ bị lạc lối vào cái yếu tố duy nhất ấy mà quên mất tất cả những thứ ở bên ngoài nó. Một khi dành cả ngày để nhìn vào kính hiển vi, bị bao quanh bởi các con số, những ghi chú và các quá trình … một số người sẽ bị lạc lối. Và khi họ không còn kiên định như lúc ban đầu, tham vọng theo đuổi cái yếu tố ấy sẽ chiếm giữ họ, làm cho mọi thứ khác đều trở nên vô nghĩa …”

    Steve thấy được sự thấu hiểu của cô, và một lần nữa anh bị ấn tượng bởi những tư tưởng của cô, rõ ràng là cô đã tự liên hệ với chính bản thân mình…

    …Tất cả điều đó và một nụ cười thắp sáng căn phòng. Nếu – khi chúng ta thoát khỏi đây, tôi sẽ tới thành phố Racoon, ít nhất để tìm hiểu xem em có cần một người …

    Có âm thanh vang lên đâu đó ở trong tòa nhà, tiếng bước chân. Steve nhảy xuống khỏi chiếc bàn và đi mau về phía cửa.

    Anh thò người ra hành lang và nghe tiếng David gọi qua những khối nhà trống rỗng.

    “Phía sau!“ Steve hét lên, sau đó chờ đợi, nôn nóng dõi về phía góc hành lang, chờ David đi vào trong tầm nhìn, chờ thấy cả John và Karen đều khỏe và cười bên cạnh David. Rebecca chạy ra đứng cạnh Steve, và anh nhìn thấy sự quan tâm và hi vọng hiện rõ trên những nét thanh tú của khuôn mặt cô.

    Theo bản năng, anh lần tìm bàn tay cô, một cảm giác náo nức rộn lên khi những ngón tay họ chạm vào nhau, nửa mong cô giật tay ra, nhưng cô không làm vậy, cô vươn tới gần anh và nhẹ nhàng nắm tay anh, làn da mềm và ấm chạm vào tay anh.

    Cái giọng oang oang của John vọng khắp hành lang, to và đầy hài hước. “Mặc quần áo vào nào, lũ nhóc, chúng ta còn phải tập họp đấy.“

    Cô giật nhanh tay ra, nhưng cái cách cô nhìn trộm anh đã nói lên nhiều thứ – dáng vẻ dịu dàng và nuối tiếc của cô làm tim anh rộn đập, nhưng anh hiểu đó là một biểu hiện của sự chín chắn, sự nhận thức tình huống họ đang mắc phải, sự thấu hiểu cái gì cần được ưu tiên.

    Đừng tiến xa hơn cho tới khi chúng ta ra khỏi đây.

    Anh gật đầu nhẹ, và họ quay lại đợi những người kia.
     
  14. Lioncoeur

    Lioncoeur Fire in the hole!

    Tham gia ngày:
    5/5/03
    Bài viết:
    2,645
    Chương 12
    Người dịch : Beautiful_ada

    REBECCA VẪN CẢM THẤY CHÚT HƠI ẤM của Steve còn vương lại trong bàn tay khi David, John và Karen đi qua góc hành lang, John ngoác miệng cười.

    ”Xin lỗi vì ngắt ngang, nhưng bọn tôi đã tính là cho cậu đi kèm một chốc thôi.” Anh ta nói. “Một mối tình chớm nở thì không thể nhầm vào đâu được, đúng không ta?”

    Rebecca cố che dấu vẻ thẹn thùng khi ba người bước vào phòng, bỗng dưng cô thấy mình cực kỳ thiếu chuyên nghiệp. Mặc dù tất cả những gì họ làm chỉ là nắm tay nhau, và chỉ trong có một giây thôi, nhưng họ đang thi hành nhiệm vụ kia mà, trong cái khu vực nguy hiểm này thì mỗi phút giây mất tập trung đều có thể phải đánh đổi bằng mạng sống.

    John có vẻ như được khích lệ thêm bởi sự bối rối của cô.

    “A, đừng để ý đến tôi.“ John nói, cười đầy giả dối. “Tôi chỉ tính... ơ… bắt chẹt Steve thôi, chẳng có ý gì khác đâu.“

    David ngắt lời, bắn cho John một cái nhìn sắc lẻm.

    “Tôi nghĩ chúng ta có nhiều thứ hơn để bàn tán.“ Anh công bằng nói. “Chúng ta cần cập nhật tình hình, và tôi có vài thứ cần rà soát lại đây.“

    Anh gật gật về phía tập báo cáo hằng ngày mà Rebecca vẫn đang cầm. “Họ đã tìm ra căn phòng, nhưng chưa hề đụng vào cái gì cả. Cô có tìm thấy gì hữu ích không?”

    Cô gật đầu, cảm thấy nhẹ nhõm khi nghe tin mới đó và vui vẻ vì đã chuyển được chủ đề. “Có vẻ ở đây chỉ có bốn nhóm Trisquad, căn cứ theo những ghi chép từ sáu tháng trước.”

    David trông có vẻ khuây khỏa. “Thật là tuyệt vời. John và Karen đã có một cuộc đụng độ ở ngoài khu D, và đã xoay sở hạ được năm đứa – điều đó có nghĩa là chỉ còn lại có một nhóm.“

    Họ kéo ghế từ quanh chiếc bàn nhỏ xếp cạnh tường, xếp thành hình bán nguyệt rời rạc ở giữa phòng. David vẫn đứng, nói chuyện với họ một cách nghiêm nghị.

    “Tôi muốn tóm tắt nhanh tình huống, để chắc chắn rằng chúng ta đều ở cùng một xuất phát điểm trước khi tiếp tục tìm hiểu sâu hơn. Rất ngắn gọn thôi, khu nghiên cứu này được sử dụng cho các thí nghiệm về T-virus và đã bị tiếp quản bởi một trong những nhà nghiên cứu cho một mục đích không rõ ràng. Căn cứ theo dấu vết để lại thì các công nhân đều đã bị giết và những nhân viên thì bị thanh trừng. Rebecca tin rằng nhà sinh học Nicolas Griffith là kẻ chủ mưu mọi chuyện, việc khu đất vẫn được canh giữ nói lên rằng hắn ta vẫn còn sống, ở đâu đó bên trong này – tôi không cảm thấy chúng ta nên tự làm bận tâm tới việc tìm hắn. Chúng ta đã giải quyết hai bài kiểm tra đang chắn lối vào cái Ammon để lại, nhờ có Trent, và tôi hy vọng cái ‘tài liệu’ ông ấy dấu cho chúng ta sẽ là bằng chứng đủ để chính thức buộc tội Umbrella về những hành động vô đạo đức.“

    Anh khoanh tay lại, và chầm chậm vừa đi vừa nói, nhìn vào từng người trong số họ. “Đã có những bằng chứng rõ ràng về những thứ bất hợp pháp diễn ra ở đây; chúng ta có thể rời khỏi đây bây giờ và chuyển những cái đó lên chính quyền liên bang. Nhưng mối lo âu của tôi là ta chưa có những bằng chứng đủ mạnh về sự liên quan của Umbrella, ngoài những dữ liệu máy tính và tập báo cáo do Steve và Rebecca tìm thấy, nên nhớ tên của Umbrella không hề có trong đó, nên cả hai chứng cớ này đều có thể bị giải thích khác đi. Đề xuất của tôi là chúng ta nên tiếp tục các bài kiểm tra, và tìm ra thứ mà bác sĩ Ammon để lại cho ta trước khi rút lui, nhưng tôi muốn nghe ý kiến từng người trước. Nhiệm vụ lần này là không hợp pháp ngay từ đầu, chúng ta vốn không được phép thực hiện nó, cho nên nếu mọi người nghĩ là nên chấm dứt thì chúng ta sẽ đi ngay.“

    Rebecca ngạc nhiên, và cô có thể thấy mọi người cũng giống như cô, căn cứ theo dáng vẻ của họ. Trước đó David có vẻ rất chắc chắn và hăng hái về cơ hội của họ. Còn cái nhìn lúc này của anh lại biểu lộ khác hẳn. Anh trông có vẻ rất hối tiếc vì muốn tiếp tục, cứ như anh muốn ai đó trong số họ có đề nghị khác.

    Sao lại có thay đổi như thế? Chuyện gì đã xảy ra?

    John nói trước tiên, anh nhìn những người còn lại trước khi chuyển sang David. “Xem nào, chúng ta đã tiến quá xa rồi, và nếu chỉ còn một nhóm zombie nữa ngoài kia, tôi cho là chúng ta nên kết liễu nó luôn.”

    Rebecca gật đầu. “Phải, và chúng ta vẫn chưa tìm ra phòng thí nghiệm chính, chúng ta không biết tại sao Griffith lại làm vậy - bởi hắn bị loạn thần kinh hay là đang thực sự giấu diếm thứ gì. Chúng ta có thể không khám phá ra được, nhưng cũng đáng để mắt tới nó lắm chứ. Hơn nữa, nếu hắn thủ tiêu thêm nhiều chứng cớ hơn khi chúng ta đã bỏ đi thì sau?“

    “Tôi đồng ý.“ Steve nói. “Nếu S.T.A.R.S có dính líu sâu xa với Umbrella như đã thấy, chúng ta sẽ không có cơ hội nào nữa đâu. Có thể đây sẽ là cơ hội duy nhất để chặt đứt mối liên kết này. Và chúng ta đã đến rất gần nó rồi, bài kiểm tra số ba ở ngay đâY – chúng ta sẽ làm nó, chúng ta chỉ còn cách đoạn kết một bước chân thôi.”

    “Tôi cũng đang nghĩ thế.“ Karen nhẹ nhàng nói.

    Giọng cô đượm vẻ mệt mỏi, Rebecca quay ra nhìn cô ta, đây là lần đầu tiên cô thấy Karen có vẻ không ổn. Mắt cô ta đỏ ngầu, còn làn da thì gần như tái nhợt.

    “Chị ổn chứ?“ Rebecca hỏi

    Karen gật đầu, thở dài. “Phải, trừ việc đau đầu.”

    Ắt hẳn đây là chứng đau nửa đầu, trông cô ta hết sức khổ sở.

    “Chuyện gì vậy, David?“ John bất ngờ hỏi. “Cái gì làm anh bứt rứt vậy? Hay anh biết gì đó mà không kể cho chúng tôi?“

    David nhìn họ một thoáng, sau đó lắc đầu. “Không, không có gì. Tôi chỉ - tôi có linh cảm xấu. Nói đúng hơn, linh cảm về một chuyện tồi tệ sắp xảy ra.“

    “Giờ này mới linh cảm thì hơì bị muộn.“ John nói, nhe răng cười. “Vậy chứ anh ở đâu lúc chúng ta đi bè?”

    David hơi cười đáp lại, xoa xoa sau gáy. “Cảm ơn John, tôi gần như quên mất. Vậy quyết định xong rồi nhé. Giải quyết câu đố tiếp theo thôi. Ồ, Rebecca, hãy kiểm tra mắt cho Karen trong khi bọn tôi giải đố, coi bộ nó gây nhiều rắc rối cho cô ấy đấy.“

    Họ đứng dậy và đi ra phía sau căn phòng, tới chiếc bàn được đánh số chín màu xanh dương ở góc tây bắc. Steve và Rebecca đã kiểm tra nó khi họ tìm thấy căn phòng, chả có manh mối nào cho biết bài kiểm tra tiếp theo là gì – một màn hình nhỏ trống trơn với mười chiếc khóa được móc vào nó, đặt trên một cái bàn kim loại, một bí ẩn.

    Rebecca ra hiệu cho Karen ngồi xuống chiếc ghế đằng trước bài kiểm tra số mười, mục đích để làm gì cũng chẳng biết – nó gồm có một bảng hình tròn gắn vào một miếng ván, kết nối với thứ gì đó giống như một cặp nhíp thông qua sợi dây sắt đen thui. Cô quì xuống để nhìn cho rõ, cau mày. Mắt phải của Karen trông rất tệ. Niêm mạc màu xanh lục như nổi trên một biển màu đỏ. Mí mắt cô ta có vẻ bị thâm tím và phồng rộp lên.

    Cô quay ra để mượn David chiếc đèn nháy thì thấy anh ta đã ngồi xuống trước bài kiểm tra được chuẩn bị sẵn, màn hình xanh bật sáng, nhiều dòng chữ đánh máy xuất hiện ở giữa màn hình.

    “Một kiểu cảm ứng chuyển động …. “ Steve bắt đầu nói, nhưng David bất ngờ giơ tay cản lại, đọc to những gì xuất hiện trên màn hình rất nhanh với giọng lo lắng.

    “Khi tôi đi đến Saint Ives, tôi gặp một người đàn ông với 7 bà vợ, 7 bà vợ có 7 cái bao tải, 7 bao tải chứa 7 con mèo, 7 con mèo có 7 bộ hành lí; những bộ hành lí, những con mèo, những cái bao tải, những bà vợ, có bao nhiêu tới Saint Ives?“

    Có một dãy số chạy trên màn hình, chỉ 00:49 và đang đếm lùi. Trong lúc David đọc câu hỏi, 11 giây đã được đếm lùi trên chiếc đồng hồ.

    David nhìn vào chiếc màn hình, những ý tưởng cứ lướt qua dữ dội trong lúc mọi người ngẫm nghĩ sau lưng anh. Sự căng thẳng lan tỏa ra từ họ, và David chợt thấy có cảm giác nhói đau như kim châm và mồ hôi túa ra đầy trán.

    Đừng đếm, đó là một manh mối. Nhưng nó có ý nghĩa gì đây?

    “Hai mươi tám.” John nói nhanh. “Không, đợi đã, hai mươi chín, kể cả người đàn ông …”

    Steve cắt lời John, nói nhanh. “Nhưng nếu mỗi bà vợ có 7 con mèo con, nó sẽ là 49 cộng với 21, 70, 71 nếu kể thêm người đàn ông nữa.“

    “Nhưng cái thông điệp kia nói là đừng có đếm,“ Karen nói. “Nếu bạn không định đếm – có nghĩa là không phải làm phép cộng, hoặc … đợi đã, ở đây có người đàn ông với những bà vợ và thêm người đang đọc câu đố, đó là một người nữa …”

    32 giây đã trôi qua. Bàn tay của David cứ khua khua trên cái bàn phím.

    Nghĩ đi nào! Đừng đếm, đừng đếm, đừng …

    “Một.“ Rebecca nói nhanh. “‘Khi tôi đến Saint Ives‘ – nó không hề nói đó là nơi mà người đàn ông và các bà vợ đi tới. Đó chính là ý nghĩa của nó, câu đố - đừng đếm bất cứ ai ngoại trừ người duy nhất đi tới Saint Ives!“

    Đúng rồi, nó dựa vào khả năng phán đoán, một câu đố mẹo…

    Họ chỉ còn hai mươi giây nữa.

    “Có ai phản đối không?“ David hỏi nhanh.

    Không ai trả lời. David lấy chìa khóa, cắm nó vào … và dòng số đếm lùi dừng lại, chỉ còn 16 giây nữa. Màn hình tự động tắt. Ở đâu đó phía trên đầu họ, một tiếng chuông quen thuộc vang lên. David thở dài nhẹ nhõm, dựa người vào chiếc ghế.

    Cám ơn, Rebecca!

    Anh quay ra định nói với cô như vậy, nhưng cô đã cúi xuống xem xét mắt của Karen, dồn mọi chú ý vào bệnh nhân của mình.

    “Em cần chiếc đèn nháy.“ Cô nói, nhìn quanh khi John đưa đèn cho cô. Cô bật nó lên, soi vào mắt của Karen trong khi mọi người còn lại lặng lẽ quan sát. Karen trông không ổn; có những quầng đen ở dưới mắt của cô, và da cô thì đã chuyển từ tái nhợt sang gần như màu xanh tái.

    “Nó sưng tấy lên đáng kể… nào nhìn lên, xuống, sang trái, sang phải. Có phải chị có cảm giác như cái gì chà vào mắt, hoặc như là một vết bỏng không?“

    “Thực sự là giống như một cơn ngứa hơn.“ Karen nói. “Như thể bị một con muỗi đốt tới chục lần vậy. Tôi đã cào nó, vì thế nên nó mới đỏ ối lên.“

    Rebecca tắt đèn, cau mày. “Em không thấy có gì cả. Mắt bên kia cũng tấy lên như vậy … nó tự nhiên bị ngứa à, hay là chị đã sờ vào nó trước?“

    Karen lắc đầu. “Không nhớ rõ lắm. Nó chỉ tự dưng ngứa thôi, chị đoán vậy.“

    Một vẻ nghiêm trọng thấy rõ lóe lên trên khuôn mặt của Rebecca. “Trước hay sau khi chị vào phòng 101?“

    David cảm thấy như có một bàn tay lạnh giá bóp nghẹt tim anh. Karen chợt trông rất lo lắng. “Sau đó.“

    “Chị có chạm vào cái gì lúc ở trong phòng đó không, bất cứ một cái gì?“

    “Chị không … “

    Đôi mắt đỏ của Karen chợt trợn lên đầy vẻ sợ hãi, và khi cô nói, giọng cô như thể không còn hơi, run run, thì thào. “Cái giường đẩy. Có một vệt máu khô ở trên đó và tôi thậm chí chẳng nghĩ gì cả. Tôi đã chạm vào nó. Ôi, lạy Chúa, tôi thậm chí chưa bao giờ nghĩ về nó nữa, nó đã khô và tôi, tay tôi không hề bị trầy và ôi Chúa tôi, tôi bị đau đầu ngay sau khi mắt tôi bắt đầu bị ngứa.”

    Rebecca đặt tay lên vai của Karen, siết chặt lấy. “Karen, hãy thở sâu. Thở sâu nào, được không? Có thể là mắt cô chỉ bị ngứa thôi, và cô bị đau đầu nữa, vì vậy đừng vội vã kết luận vội, chúng ta chẳng biết cái gì chắc chắn ở đây cả.“

    Giọng của cô thật chậm rãi và ấm áp, cử chỉ của cô rất thẳng thắn. Karen thở hắt ra run run và gật đầu.

    “Nếu tay của cô ấy không bị cắt … “ John bắt đầu lo lắng.

    Karen trả lời anh, nét mặt nhợt nhạt của cô có vẻ trấn tĩnh, nhưng giọng nói rõ ràng là đang run. “Virus có thể xâm nhập vào cơ thể thông qua các niêm mạc có chất nhầy. Mũi, tai, … mắt. Tôi cũng biết vậy, tôi biết vậy nhưng tôi đã chẳng nghĩ tới chúng, tôi … không nghĩ tới chúng.“

    Cô nhìn lên Rebecca, và David có thể thấy rằng cô đang vật lộn để giữ được sự điềm tĩnh. “Nếu tôi bị nhiễm, bao lâu? Bao lâu cho tới khi tôi trở nên … mất khả năng kiểm soát?“

    Rebecca lắc đầu. “Em không biết nữa.“ cô nhẹ nhàng nói.

    David cảm thấy một sự tối tăm cùng cực đang trùm lên mình, một áng mây khổng lồ chứa đầy sợ hãi và lo lắng lẫn tội lỗi, nó đe dọa và áp đảo anh đến mức anh không sao cử động nổi, thậm chí suy nghĩ cũng không.

    Lỗi của tôi. Trách nhiệm của tôi.

    “Ở đây có vắc xin chứ, đúng không?“ John hỏi, ánh mắt thất thần của anh hướng đâu đó giữa Rebecca và Karen. “Chắc hẳn có thuốc chữa chứ, họ hẳn phải có một hay cái gì đó phòng khi ai đó bị mắc bệnh do tai nạn? Họ chắc đã có, đúng không?“

    David chợt cảm thấy một tia hi vọng dâng trào. “Có thể như vậy không?“ anh hỏi nhanh Rebecca.

    Nhà sinh học trẻ gật đầu, lúc đầu chậm chạp nhưng sau đó có vẻ hăng hái hơn. “Phải, có thể thế, chắc hẳn như thế rồi, họ đã tạo ra nó mà.“

    Cô nhìn David một cách nghiêm trọng và khẩn cấp. “Chúng ta phải tìm phòng thí nghiệm chính, nơi mà họ tổng hợp virus, phải nhanh lên. Nếu họ đã phát triển thuốc giải, đó sẽ là nơi các thông tin có thể… “

    Rebecca ngập ngừng, và David có thể hiểu phần còn lại của câu nói căn cứ theo ánh mắt băn khoăn của cô; nếu ở đó có thuốc giải, nếu lão Griffith chưa lấy những thông tin đó đi, nếu chúng ta có thể tìm ra chúng kịp thời.

    “Thông điệp của Ammon,“ Steve nói. “Trong cái bản ghi chú đó, anh ta nói chúng ta cần phải phá hủy phòng thí nghiệm chính, có lẽ anh ta muốn để lại cho chúng ta một cái bản đồ, hay những chỉ dẫn.“

    David đứng lên, niềm hi vọng được củng cố thêm. “Karen, cô có cảm thấy đủ khỏe để …“

    “...có,“ cô nói, gạt anh ra, đứng dậy.

    “Phải, đi nào.“

    Đôi mắt đỏ của cô bừng lên một cảm xúc sôi sục mãnh liệt, một sự sự pha trộn giữa nỗi tuyệt vọng và hi vọng hoang dại khiến cho tim David đau nhói.

    Chúa ơi, Karen, tôi rất, rất xin lỗi!

    ”Chúng ta phải nhanh gấp đôi.“ anh nói, quay ra phía cửa. “Đi thôi.“

    Họ tiến nhanh về phía trước khu nhà, hàm răng của John nghiến chặt, thâm tâm anh giờ đây chỉ chứa toàn những ý nghĩ điên cuồng.

    Căn bệnh khốn kiếp, mày đừng hòng hạ gục được Karen. Và nếu tao tìm ra thằng khốn nào đã bày ra cái cơn ác mộng này thì hắn sẽ biến thành một đống thịt Chết, Chết. Không phải Karen, không phải theo cách này …

    Họ tới được cửa trước và nhẹ nhàng rút vũ khí ra, kiểm tra chúng, căng thẳng kiên nhẫn đợi David ra dấu hiệu. Karen, người luôn luôn bình thản và điềm tĩnh trong những lúc căng thẳng, có vẻ đã bị sốc, như thể cô bị giáng một đòn chí tử vào lòng can đảm và vẫn chưa hoàn hồn. Nó trông như cái nhìn mà John thấy trên khuôn mặt của những người sống sót sau một thảm họa – sự hoài nghi hằn lên trong mắt, nét mặt hoàn toàn trống rỗng và uể oải phản ánh đúng những gì đang diễn ra bên trong. Thật đau lòng khi thấy cô trở thành như vậy, đau xót và thịnh nộ. Karen Driver không đáng bị biến thành như vậy.

    “Tôi sẽ dẫn đầu, John sau cùng, thẳng một hàng.“ David nói khẽ.

    John nhìn thấy David trông có vẻ xanh xao như Karen vậy, có điều theo một cách khác. Cảm giác tội lỗi đang gặm nhấm người đội trưởng của họ, anh có thể thấy được nó từ cái nhìn miễn cưỡng của David, từ cặp môi mím chặt của anh ta. John ước gì có thể bảo anh ta rằng không nên tự trách bản thân, nhưng bây giờ không có thời gian và anh cũng không biết phải nói gì. Tốt hơn là David phải tự lo lấy mình, như tất cả mọi người.

    “Sẵn sàng chưa? Tiến lên.“

    David đẩy cánh cửa mở ra, lướt vào trong, lưng quay về phía những con sóng rì rào và ánh sáng trăng màu lục nhạt. David, sau đó là Karen, Steve, Rebecca và cuối cùng là John, khom người chạy xuyên qua bãi đất bẩn thỉu của toà nhà.

    Có bóng tối, mùi của thông, của muối, nhưng lúc này lý trí người lính lại không mách cho John những gì mà anh cần biết trong lúc họ đang chạy huỳnh huỵch qua màn đêm. Chỉ có sự giận dữ và sợ hãi cho Karen … vì vậy mà tiếng nổ bất ngờ của súng M-16 làm anh bị sửng sốt.

    Chết tiệt!

    John quì xuống mặt đất khi những tiếng kêu lạch cạnh vọng lên ngay phía bên phải, nhận ra rằng họ mới đi được nửa đường tới khối nhà E, anh lăn tròn và bắt đầu bắn. Không gian tràn ngập tiếng nổ của đạn cỡ 9 ly, xen lẫn với âm thanh đều đều của súng trường tự động.

    Chả thấy gì cả, không định vị được…

    Anh thấy một nòng súng lóe sáng ở góc ba giờ và xốc khẩu Beretta lên, siết cò sáu, bảy, tám lần. Ánh đèn trắng-cam leo lét đã che khuất tầm nhìn của người bắn, nhưng anh vẫn thấy một trong những vệt sáng lóe ấy biến mất, tiếng loảng xoảng giảm bớt và cơn thịnh nộ của anh bùng lên dữ dội chưa từng thấy, bây giờ không còn ‘lý trí người lính’ gì nữa hết, chỉ còn cơn giận điên cuồng đang lồng lộn gào thét vào những kẻ tấn công bệnh hoạn. Chúng muốn Karen chết, cái lũ lờ đờ, những cơn ác mộng vô ý thức ấy muốn ngăn họ cứu Karen.

    Không phải Karen, KHÔNG PHẢI KAREN.

    Một tiếng gào thét lạ lùng và hoang dại đập vào màng tai khi anh nhổm lên khỏi mặt đất đầy bụi bặm, sau đó đứng dậy, chạy và bắn. Chỉ đến lúc nghe thấy âm thanh của những người khác và những khẩu Beretta, không kể tiếng nổ do anh gây ra, anh mới nhận ra tiếng gào thét ấy là của chính mình.

    John chạy về phía trước, thét lên trong khi vẫn bắn và bắn vào những thứ muốn cản đường họ, để giết chúng, để ngăn Karen biến thành một trong số chúng. Không có từ nào để diễn tả suy nghĩ của anh lúc này, nó chỉ còn là sự cự tuyệt bất tận không ra hình thù gì nữa – ý muốn chối bỏ sự tồn tại của những sinh vật kia và cả cái đã tạo ra chúng.

    Anh xông lên phía trước mà chẳng thèm nhận ra là chúng đã ngừng bắn, chúng đã ngã gục, những bóng ma đó đã nằm im mặc cho tiếng nổ ầm ầm từ khẩu bán tự động và tiếng gào thét phát ra từ cơ thể đang rung lên của anh. Sau đó anh đứng ngay phía trên chúng, khẩu Beretta đã ngừng nổ và giật, mặc dù anh vẫn bóp cò liên tục.

    Ba tên, trắng bệch thay vì đầy máu đỏ, mùi phân hủy xộc lên từ cơ thể đáng kinh tởm và bệnh hoạn của chúng.

    Cạch. Cạch.Cạch.

    Một trong số chúng có bộ mặt đầy những mô sẹo méo mó, những mẩu da dựng đứng xoắn bết lại mặc cho những lỗ đạn mới đầy máu vừa đục thủng trán chúng. Đứa khác, một con mắt vỡ toét ra trên gò má khô quắt, vũng dịch lỏng nhầy đọng lại trong đôi tai của nó.

    Cạch. Cạch.

    Thằng thứ ba vẫn còn sống. Một nửa cái cổ họng của nó đã bay mất, rách bươm tới tận tủy xương, mồm nó cứ ngáp ngáp không ra tiếng, đóng vào rồi lại mở ra, đôi mắt phủ một lớp màng đen của nó chậm chạp chớp chớp nhìn anh.

    Cạch.

    Anh hết đạn, tiếng thét dần lịm đi trong cổ họng rách nát của nó. Tiếng của cò súng nện vào kim loại một cách vô dụng giải thoát anh khỏi cơn giận dữ - cái thứ đó, và ánh mắt chậm chạp, yếu ớt của sinh vật bất hạnh đang nằm dưới chân anh.

    Nó chẳng biết nó là gì nữa. Nó cũng chẳng biết họ là ai nữa. Đã từng là một con người, và giờ đây nó là một đống rác rưởi đang mục rữa với một khẩu súng và một cái nhiệm vụ mà nó chẳng thể hiểu.
    Bọn chúng đã lấy mất linh hồn của nó …


    “John?“

    Một bàn tay ấm áp đặt lên vai anh, giọng nói suy nhược của Karen cất lên ngay bên cạnh. Steve và David bước vào trong tầm mắt, nhìn xuống cái thứ đội lốt người đang chớp mắt và hác hốc mồm dưới ánh trăng, chứng tích cuối cùng của một thí nghiệm điên rồ.

    “Ừ.“ anh thì thào. “Ừ, tôi đây.“

    David nhắm khẩu Beretta của anh vào sọ của con quái vật, khẽ nói. “Lùi lại.“

    John quay đi và bắt đầu hướng tới đích đến cuối cùng với Karen bên cạnh, phía trước anh là bóng dáng mảnh khảnh của Rebecca. Tiếng súng to tới khó tin, tiếng nổ rền vang như thể làm rung chuyển đất dưới chân họ.

    Không phải Karen, xin làm ơn không phải một trong chúng ta. Không thể thoát khỏi, không thể chết …

    Sau đó David và Steve bắt kịp họ, không nói lời nào, tiến thẳng tới khu nhà E, di chuyển nhanh qua sự trống rỗng phủ đầy bóng tối. Không còn bọn Trisquad nào nữa, nhưng cái dịch bệnh tạo nên chúng đang diễn ra trong người Karen, biến cô thành một sinh vật không có ý thức, không có linh hồn, bắt cô phải chịu số phận còn tồi tệ hơn là chết. John chạy nhanh hơn, thầm thề với mình rằng nếu tìm ra Griffith, họ sẽ làm cho lão phải vô cùng khốn khổ.
     
  15. Lioncoeur

    Lioncoeur Fire in the hole!

    Tham gia ngày:
    5/5/03
    Bài viết:
    2,645
    CHƯƠNG 13
    Người dịch : Machinator

    KHU E CHẲNG KHÁC GÌ bốn khu nhà kia, cũng nhạt nhẽo, cũ kỹ và rập khuôn, tiềm ẩn những điều bất thường trong khối kiến trúc bê tông. Họ di chuyển nhanh qua các hành lang ngột ngạt, bật điện trên đường đi, tìm kiếm căn phòng mang manh mối sau cùng cho điều bí ẩn của tiến sĩ Ammon. Không mất nhiều thời gian do gần phân nửa công trình được sử dụng làm sân tập bắn trong nhà, tại đó, David tìm thấy nhiều băng đạn M-16 được cất trong thùng nhưng lại không có một khẩu súng nào đi kèm. John đề nghị sử dụng lại vũ khí của Trisquad nhưng Rebecca ngay tức thì gạt đi. Số súng đó mới được sử dụng, và rất có thể nhung nhúc virus.

    Tựa như máu của Karen lúc này, từng dòng nhân bản virus bùng nổ từ vô số tế bào, tìm kiếm tế bào khác để lây lan rồi khống chế và phá hủy…

    “Ở đây!” Steve gọi từ xa bên dưới khúc quanh hành lang, Rebecca nhanh chóng chạy lại, không xa phía sau là Karen và John. David đã đứng kề Steve trước cánh cửa đóng, bộ ba tam giác màu đỏ, xanh lá và xanh đậm là dấu hiệu cho thấy họ đã đến đúng phòng.

    Ánh mắt của Steve hướng về phía cô, nhưng chẳng lộ ra chút tình cảm nào ngoài sự lo lắng. Rebecca không lấy đó làm phiền lòng, cô nhìn thoáng qua một cách lơ đễnh. Karen nhiễm khuẩn, John chạy như điên về phía lũ Trisquad… Chẳng còn tâm trí đâu mà nghĩ tới chuyện khác nữa, giờ cô chỉ mong tìm được phòng thì nghiệm, tìm thuốc chữa cho Karen.

    Steve mở cánh cửa và họ đi vào trong từng người một. Rebecca quan sát Karen cẩn thận để có thể phát hiện kịp thời những dấu hiệu tiến triển của virus, tự hỏi cô phải làm gì với thông tin đã biết về thời gian khuếch đại. Cô không chút nghi ngờ rằng Karen đang trong tình trạng nguy kịch, và biết rằng chưa ai khác biết điều đó, nhưng cô nên nói gì bây giờ?

    “Mình có nên nói cho cô ấy biết là tiến trình lây nhiễm chỉ tính bằng giờ? Có nên kéo David sang một bên? Nếu có thuốc giải, cô ta phải có nó trước khi thiệt hại do sự nhiễm trùng gây ra quá lớn, trước khi nó thiêu cháy não cô ta – trước khi nó đầu độc cô ấy, khiến cô không còn là Karen Driver nữa và trở thành… một thứ gì đó”

    Rebecca không biết làm sao để kiểm soát nó nữa. Họ đã làm tất cả những gì có thể, nhanh nhất có thể, và cô vẫn chưa biết rõ về T-virus để phán đoán bất cứ điều gì. Cô cũng không muốn thấy Karen chuyển biến tệ hơn. Karen đã cố hết sức để kiểm soát nó, nhưng rõ ràng là cô đang ở trên bờ vực của sự suy sụp, từ nét tuyệt vọng trong con mắt ngầu đỏ đến cơn run rẩy của đôi tay. Bọn Trisquad chắc chắn đã được tiêm một liều lớn hơn nhiều so với Karen, có thể cô ấy còn nhiều ngày…

    …Với triệu chứng đầu tiên xuất hiện trong chưa đầy một giờ ư? Đừng tự lừa dối mình. Sớm muộn gì mày cũng phải nói với cô ta, cảnh báo cô ta và mọi người khác về điều có thể xảy ra.

    Cô đẩy ý nghĩ đó sang một bên để quan sát xung quanh căn phòng họ mới tiến vào. Nó hơi nhỏ so với mấy căn phòng có các bài kiểm tra, và trống trải hơn. Có một bàn họp kéo dài về phía sau và nửa tá ghế đằng sau nó. Trước phòng là một cái kệ tách khỏi bức tường, chỉ vài feet rộng và 1 feet chiều sâu. Có ba nút bấm lớn trên bề mặt, đỏ, xanh dương và xanh lá. Bức tường sau kệ được lát bằng nhiều mảnh màu xám nhạt, có vẻ nó được làm từ một loại nhựa công nghiệp.

    “Nó đấy”. Steve nói. “Xanh dương để truy cập.”

    Sau vài giây ngập ngừng, David bước lại gần và nhấn lên nút xanh dương.

    Một giọng phụ nữ lạnh lùng cất lên từ chiếc loa được giấu bên trên, làm họ giật mình. Nó được ghi âm sẵn, giọng nói dịu dàng đó làm Rebecca nhớ một cách kỳ lạ những khoảng khắc sau cùng tại biệt thự Spencer, cái thông báo hệ thống tự hủy.

    “Mã xanh hoàn tất, cho phép truy cập.”

    Một phiến lớn đằng sau kệ trượt sang một bên, mở ra một hốc lõm vào trong lớp bê tông. Trong khi David với tay vào hốc lõm, Rebecca cảm thấy trào lên cảm giác tức giận và ghê tởm về Umbrella, về những thứ cô nhận ra họ đang làm. Tất cả thật đáng khinh bỉ. Tất cả những bài kiểm tra, tất cả những việc này – sắp xếp để ban bố cho các nạn nhân của T-Virus. Vượt qua dãy đỏ, chó ngoan, xương cho mày đây…. Họ được thưởng gì khi hoàn tất bài kiểm tra? Một miếng thịt? Thuốc để thỏa mãn cơn đói? Hay là một vũ khí mới tinh để luyện tập? Lạy Chúa, họ có hiểu mình đang làm gì không?

    Cô thấy cùng một kiểu nhếch mép gượng gạo biểu lộ sự kinh hoàng, kinh tởm của mọi thành viên khác và biểu hiện mất tinh thần khi họ thấy David lấy ra một vật nhỏ từ chỗ lõm, trông như chiếc thẻ tín dụng với một mẩu giấy kẹp một bên.

    Họ đứng xung quanh David khi anh nâng vật đó lên, ánh mắt anh tối sầm lại trong sự thất vọng tột cùng. Nó là một tấm thẻ màu xanh lá, loại thường dùng để mở các cánh cổng điện tử, hoàn toàn trống trơn ngoại trừ phần từ, dòng chữ trên mẩu giấy nhỏ ghi ngắn gọn:

    Hải Đăng – Số 135- Tây Nam/Đông

    “Nét chữ trùng với nét trên sổ ghi chép của Ammon,” Steve nói đầy hi vọng. “Có thể phòng thí nghiệm ở trên hải đăng…”

    “Chỉ có một cách để tìm ra,” John nói. “Đi thôi.”

    Anh ta trông có vẻ tức giận, y như lúc họ phát hiện ra Karen bị nhiễm virus. Sau khi đã chứng kiến anh trút cơn thịnh nộ lên lũ Trisquad, giờ đây Rebecca thiếu điều muốn John xé xác tiến sĩ Griffin ra khi họ gặp lão ta.

    David gật đầu, nhét chiếc thẻ vào túi áo. Nỗi sợ hãi và cảm giác tội lỗi rõ rệt tràn ngập trong lòng, khiến nét mặt anh co giật không ngừng. “Được chứ, Karen…?”

    Cô gật đầu và Rebecca thấy da cô đã tái xám và đanh lại như sáp, những lớp ngoài cùng chuyển thành mờ đục. Trong khi khi cô đang nhìn, Karen bắt đầu gãi cánh tay một cách lơ đãng. “Ừ, mình khỏe.” Cô nói thều thào.

    Cô ta cần phải biết, cô ta xứng đáng được biết.

    Rebecca biết không thể chờ lâu hơn nữa. Sau khi cân nhắc từ ngữ một cách cẩn thận và nhận thức về sự hạn chế thời gian của họ, cô quay sang nói với Karen một cách nhẹ nhàng, điềm tĩnh nhất có thể. “Em không biết họ đã làm gì với T-virus ở đây, nhưng có nguy cơ là chị đang bắt đầu trải qua những triệu chứng leo thang trong một khoảng thời gian tương đối ngắn. Sẽ tốt hơn nếu chị nói cho em, cho tất cả mọi người biết chị đang cảm thấy thế nào, cả thể xác lẫn tinh thần. Chúng ta cần biết rõ mọi biến chuyển, bất kể là gì, được chứ?”

    Vẫn gãi gãi lên cánh tay, Karen mỉm cười yếu ớt. “Mình trở nên đáng sợ đến mức nào rồi không biết? Và mình ngứa khắp người ...”

    Cô nhìn David rồi đến Steve và John bằng con mắt ngầu đỏ trước khi quay lại Rebecca. “Nếu ... nếu hành động của mình trở nên phi lý, mọi người phải làm gì đó, đúng chứ? Mọi người sẽ không để mình.... hại bất cứ ai chứ?”

    Một giọt lệ lăn dài trên gò má tái xám của cô, nhưng cô không hề quay mặt đi, cái nhìn ươn ướt, đỏ thẫm vẫn cương quyết và mạnh mẽ như thường lệ.

    Rebecca nuốt nước mắt, cố tỏ ra tự tin và bình thản, cô thật sự khâm phục ngọn lửa can đảm đang bừng cháy trong mắt Karen – và tự hỏi liệu sự can đảm ấy còn kềm hãm được tiếng rú của T-virus đang chảy trong huyết quản Karen bao lâu nữa.

    “Chúng ta sẽ tìm được thuốc chữa trước khi quá trễ.” Cô nói, hy vọng mình không dối Karen.

    “Đi thôi.” David gằn giọng.

    Và họ rời nơi đó.

    Khu vực kiến trúc nằm trên một vùng đất nghiêng thoai thoải, vươn dài về phía bắc, nhưng khi họ bỏ khu nhà E và hướng đến công trình màu đen cao ngất vắt ngang qua vịnh, con dốc uốn cong đột ngột. Dải đá sắc cạnh, với độ dốc lên hơn ba mươi độ, khiến cho một nửa chuyến đi bất chợt thành ra cuộc leo dốc nặng nề. David lờ đi cảm giác quá sức trên lưng và chân, Anh quá lo lắng cho Karen và quá bận với việc tự dồn nén cảm giác bất an của mình hơn là lo lắng cho các khó chịu về thể xác.

    Họ đã đến gần mặt nước sáng lung linh hơn, ngọn gió mát lạnh thì thầm trên bề mặt óng ánh bạc hẳn đã rất thú vị vào đêm nào khác, hay nơi khác. Ngọn sóng lắc lư rì rầm mang theo ánh sáng dịu như chế diễu tình trạng tuyệt vọng của họ, sắc thái yên bình của cảnh vật trái ngược hoàn toàn với cảm giác hỗn loạn bên trong David, dường như đầu óc anh muốn thấy bọn Trisquad đang đi dạo vòng quanh.

    Ít nhất thì thế cũng hợp với cơn ác mộng này hơn, và mình có thể làm gì đó, có thể chiến đấu với chúng, bảo vệ họ chống lại những thứ hữu hình...

    Trước mặt họ, dải đất lượn hình cánh cung bao về hướng Đông với mặt biển sủi bọt bên dưới. Cái vịnh này trông thật sự thanh bình nếu không có những cơn sóng dữ dội đập ầm ầm vào bờ, tại nơi đại dương và đá giáp mặt nhau. John vượt lên dẫn đầu, Karen theo sau và kế tiếp là hai thành viên trẻ nhất. David đi sau cùng, hướng sự chú ý của mình về bên trái, phía sau cả nhóm, và khối kiến trúc đen ngòm phía trước.

    Ngay sau lưng của ngọn hải đăng dường như là dãy phòng ngủ, một khối nhà dài gần gấp hai lần kích thước khu nhà bê tông họ vừa đi qua. Họ chưa đi ngang doanh trại dành cho công nhân của Umbrella bao giờ, và chúng trông như nhà nghỉ vậy - được thiết kế cho việc ăn và ngủ, trông chẳng có một chút thẩm mỹ nào. Họ đáng ra nên kiểm tra nó, nhưng David không muốn mất thêm một khắc nào trong cuộc tìm kiếm phòng thí nghiệm.

    Ý nghĩ đó mang lại một đợt lo lắng và cảm giác tội lỗi mới trong anh, thứ mà anh không thể kìm nén lại. Anh cần phải tỏ ra mình là chỗ dựa đáng tin cậy, để đưa họ đến phòng thí nghiệm nhanh nhất có thể mà không bị xao nhãng bởi cảm xúc và sự ngờ vực, nhưng anh vẫn cứ nghĩ, cứ ước rằng phải chi mình bị nhiễm thay cho Karen.

    Nhưng mày đâu có bị, một giọng nói thì thầm trong anh, Karen bị, và thật vô nghĩa khi cứ ước như thế. Nó chả thể chữa lành cho cô ta mà còn che mờ các khả năng lãnh đạo của mày.

    David lờ giọng nói đó đi, ngẫm nghĩ về việc mình đã sắp xếp mọi việc tồi tệ ra sao. Anh là ai, mà dám lãnh đạo một cuộc chiến chống lại Umbrella, làm trong sạch S.T.A.R.S và mang vinh dự trở lại cho công việc? Anh ta còn không giữ an toàn được cho lính của mình, không thể lập ra một kế hoạch đơn giản, không thể tự trấn an hay đè nén cảm giác tội lỗi trong thâm tâm.

    Họ tiến lại gần khu phòng ngủ vắng tanh bóng người, John chạy chậm lại để cả đội có thể theo kịp. David nhận ra cả đội đã mệt mỏi, nhưng ít ra Karen chưa tệ thêm. Trong ánh sáng nhẹ nhàng của mặt trăng đang lên, không biết sao trông cô hết sức nhợt nhạt và mỏng manh. Dưới ánh trăng, cái vẻ xanh xao như người chết khiến cô giống như một thứ đồ sứ mỏng manh dễ vỡ, cái nhìn ngầu đỏ chuyển sang tối sầm. Phải chi anh biết nhiều hơn.....

    A, mày có chứ, bây giờ cần bao lâu để nước da trắng nhợt như sữa đó bắt đầu lột, tróc và bong ra từng miếng? Bao lâu nữa cô ta không còn được cầm vũ khí, trước khi mày phải kiềm chế cô ta...
    Thôi đi!


    Anh để họ xả hơi một chốc, trong khi quay lại để nhìn kĩ hơn ngọn hải đăng từ khoảng cách không đầy 20 mét và càm thấy bao tử thót lại, tim đập nhanh hơn một cách không thể giải thích được. Nó là một ngọn hải đăng cũ, một tòa nhà cao lỗi thời hình ống, đã dầm mưa dãi nắng, mang một vẻ u tối như tất cả phần còn lại của quần thể kiến trúc. Khi nhìn vào nó, anh lại nhận ra cái cảm giác đã nhiều lần trải qua khi một tai họa sắp giáng xuống đầu, khi không còn đường nào để chọn, khi bánh răng hắc ám đang lăn về phía trước.

    “Đi nào,” John lên tiếng, nhưng David đưa tay ra cản anh ta lại, nhè nhẹ lắc đầu. Không an toàn. Một giọng nói nhỏ lại vang lên, nửa quen nửa lạ. Anh đứng trước tòa tháp, cảm thấy lạc lõng, không chắc chắn và mất kiểm soát trong khi ngọn gió lùa qua họ, con sóng đập vào ghềnh đá. Bọn chúng đang chờ. Không an toàn chút nào, nhưng họ lại phải vào đó, họ không thể đứng mãi ở đây được, và thình lình anh nhận ra có điều không ổn trong tinh thần của mình. Thật sự không ổn. Không phải là chuyện năng lực, không phải chuyện suy nghĩ hay lập kế hoạch hoặc chiến đấu. Đó là một điều tệ hơn nhiều, một điều đáng ra anh phải chú ý hơn ngay từ đầu nếu không muốn đầu óc bị bủa vây bởi mặc cảm tội lỗi.

    Mình đã ngừng tin tưởng vào bản năng của chính mình. Không có sự hỗ trợ của S.T.A.R.S phía sau, nên mình đã quên lắng nghe tiếng nói đó – mình sợ mắc sai lầm đến nỗi mất luôn khả năng nghe ngóng, khả năng nhận biết những việc phải làm. Mỗi lần cơn khiếp sợ kéo tới, minh lại đẩy nó ra, làm ngơ nó, và thế là khiến nó trở nên mãnh liệt hơn.

    Ngay khi anh nghĩ về điều đó, đặt niềm tin vào đó, anh lập tức cảm thấy bóng dáng của nỗi nghi ngờ dâng lên trong suy nghĩ kiệt quệ của mình. Cảm giác tội lỗi bị đẩy lui, trả lại sự trong sáng trong ý nghĩ, và tiếng nói bên trong trỗi dậy với một sức mạnh như nó từng có trước đây. Không an toàn, vậy tốt hơn là phá cửa thật nhanh, hai người đi đầu cúi thấp khi mọi người còn lại yểm trợ bên ngoài...

    Mọi thứ lóe sáng trong đầu anh trong một giây. Anh nhìn lại cả nhóm, đang dõi theo anh, chờ anh dẫn dắt. Và lần đầu tiên anh biết chắc chắn mình có thể làm gì.

    “Tôi nghĩ nó là một cái bẫy.” Anh nói. ”John, anh và tôi sẽ vào trong tư thế khom người, tôi sẽ lo cánh phía tây – Rebecca, tôi muốn cô và Steve đứng ở hai bên cánh cửa và bắn bất cứ thứ gì đứng bên trong, tiếp tục bắn tới khi chúng tôi cho biết đã xong. Rất tiếc, Karen, cô phải đứng ngoài việc này.”

    Mọi người gật đầu và tiến vào bóng tối bao quanh ngọn hải đăng. David đi trước, cuối cùng cũng đã nhận ra mình làm được vài điều có ích. Có thể cuộn chỉ số mệnh quá lớn, và đi quá nhanh để có thể ngăn chặn, nhưng anh sẽ không để chúng cuốn đi mà lại không kháng cự.

    Karen xứng đáng với điều đó. Tất cả họ đều xứng đáng.

    Karen lùi lại trong khi cả đội nhanh chóng di chuyển vào vị trí, dựa lưng vào bức vách của kiến trúc to lớn đằng sau ngọn hải đăng để quan sát. Cô cảm thấy mệt đứt hơi sau khi phải leo lên ngọn đồi, mệt đứt hơi, choáng váng và nghe những tiếng kêu vo vo trong đầu, chúng khiến cô không tài nào tập trung được.

    ...Bệnh, nặng hơn, mỗi lúc một nhanh...

    Nó làm cô sợ, nhưng không hiểu sao cô thấy nó không tệ như đã nghĩ. Thực tế, nó không còn thực sự đáng sợ nữa, nỗi kinh hoàng ban đầu đã dịu đi, trong ký ức cô giờ chỉ còn toàn những hình ảnh lộn xộn của cơn ác mộng. Cơn ngứa đã làm cô rối trí, nhưng nó không hẳn là ngứa nữa. Giống như có hàng triệu con bọ đang cắn xé dưới da cô, từng con tách biệt và phân định rõ ràng. Đó là cách diễn tả duy nhất cho cảm giác của cô lúc này. Chúng liên kết với nhau, tạo thành một màng dày phủ ngoằn ngoèo lên lớp da, như thể da cô đang chết đi và tự bong ra. Thật kỳ quái, nhưng không hẳn là khó chịu.

    “Hành động.”

    Giọng nói của David khiến Karen chú ý vào biến cố đột ngột trước mặt, những tiếng kêu vo vo trong đầu cô có vẻ khiến cho sự việc diễn ra hoàn toàn kỳ quặc, nhanh hơn hẳn. Cách cửa của ngọn hải đăng bị phá, David và John nhảy vào trong bóng tối, đạn lóe sáng và rít lên. Có tiếng súng M-16 ở bên trong. Steve và Rebecca, né tránh và bắn trả, lấp ló bên chỗ nấp, thân thể họ mờ đi do tốc độ, khẩu Berette nhảy múa tựa chim sắt đen. Nó xảy ra nhanh chóng đến nỗi dường như phải cần một thời gian dài, thật dài để ngừng lại. Karen nhăn mặt, tự hỏi sao lại thế được...

    … Sau đó cô thấy David và John quay ra, bước vào ánh trăng, cảm thấy vui mừng khi gặp lại họ. Ngay cả khi khuôn mặt họ trông xa lạ và méo mó, cơ thể cao lớn của họ di chuyển quá nhanh…

    ...Mình bị sao thế này...

    Karen lắc đầu, nhưng chỉ khiến cho tiếng kêu vo vo không dứt trở nên to hơn và cô lại sợ, sợ rằng David, John, Steve và Rebecca sẽ bỏ cô lại. Họ để cô lại phía sau và cô chẳng có ai để... làm dịu đầu óc của cô. Thật tệ. David đã ở trước mặt cô, cặp mắt dường như đỏ ngầu nhìn cô chằm chằm. “Karen, cô không sao chứ?”

    Khi nhìn vào gương mặt tròn và sắc sảo của anh, nghe giọng nói nhẹ nhàng của anh, Karen cảm thấy vui trở lại, biết rằng cô phải nói cho anh sự thật. Cố hết sức, cô tìm sức mạnh để nói cho anh điều cần phải nói, giọng nói của cô thoát ra khỏi cơ thể rã rời và tiếng kêu vo vo trong óc, nghe như tiếng gió thoảng.

    “Nó đang tồi hơn,”Cô nói. ”Tôi không nghĩ gì được nữa, David, đừng bỏ tôi.”

    John và Rebecca, bàn tay ấm áp của họ chạm vào cô, dẫn cô đi vào khoảng tối đằng sau cánh cửa. Cơ thể cô vẫn hoạt động, nhưng trí não cô bị tràn ngập những tiếng o o. Có vài thứ cô muốn kể cho họ, những thứ thoáng hiện ra qua làn mây như những bức tranh xinh đẹp, nhưng tòa nhà họ đưa cô vào thì tối và nóng, có một cái xác cầm súng trên nền. Cô có thể thấy gương mặt của hắn, không lạ lẫm gì, trắng bệch và nhăn nheo, một khuôn mặt thật có ý nghĩa.

    “Tôi thấy cánh cửa rồi.” Steve nói, nhìn lên trên, cười toe toét, trắng, răng trắng. “Một – Ba – Năm.” Có một bàn phím bên cạnh cái hố, cầu thang dẫn xuống, và hàm răng của Steve biến đi, còn lại một cái nhăn mặt.

    “Karen…”

    “Chúng ta phải khẩn trương…”

    “Cố lên cưng, cố lên, chúng ta sẽ sớm đến đó.”

    Karen để cho họ giúp cô, tự hỏi tại sao khuôn mặt họ lại trông có vẻ khác thường đến vậy, mùi của họ mới nóng hổi và ngon lành làm sao.
     
  16. Lioncoeur

    Lioncoeur Fire in the hole!

    Tham gia ngày:
    5/5/03
    Bài viết:
    2,645
    Chương 14
    Người dịch : Beautiful_ada

    ATHENS ĐÃ THẤT BẠI.

    Bác sĩ Grifith nhìn lên ánh đèn trắng nhấp nháy trên cánh cửa, nguyền rủa Athens, nguyền rủa Lyle Ammon, nguyền rủa cái vận may của gã. Gã đã quên bảo cho Athens cách trở vào bên trong, điều đó chỉ có thể có nghĩa rằng những kẻ đột nhập đã qua mặt anh ta. Ammon đã để lại hoặc đã gửi cho chúng một cái tin nhắn, nó không thành vấn đề - tất cả vấn đề hiện nay chính là họ đã tới và gã phải thừa nhận rằng họ có chìa khóa. Gã đã xé đi những ghi chép về vài tuần trước, nhưng có thể họ có những chỉ dẫn, có thể họ sẽ tìm thấy gã …

    Đừng sợ hãi, không cần phải sợ hãi. Mày đã chuẩn bị cho cái này rồi mà, đơn giản là chuyển sang kế hoạch kế tiếp. Tách chúng ra trước sẽ mang đến hiệu quả gấp bội - ít dùng hỏa lực, sau đó mắc mồi... Cơ hội để xem Alan trình diễn tốt như thế nào.

    Griffith quay sang tay bác sĩ Kinneson và nói nhanh, cố giữ cho những chỉ dẫn thật rõ ràng và đơn giản, đường đi càng dễ càng tốt. Gã đã tự thảo ra những câu hỏi mà hầu như gã đoan chắc rằng họ sẽ hỏi, vì gã biết đây là cơ hội cho họ tìm kiếm ra nhiều thông tin hơn nữa. Gã đặt ra cho Alan vài cách diễn đạt ngẫu nhiên để tập phản ứng, sau đó đưa cho anh ta một khẩu súng lục bán tự động nhỏ lấy từ ngăn kéo bàn của bác sĩ Chin, nhìn Alan nhét nó vào phía dưới chiếc áo khoác dùng mặc trong phòng thí nghiệm, để chắc chắn là nó được dấu kín. Băng đạn trống rỗng, nhưng gã nghĩ không cần phải nói cho Alan, không cần nếu cò súng bị kéo giật về phía sau. Gã cũng đưa cho Alan cả chiếc chìa khóa của gã, một sự nguy hiểm, nhưng tất cả cái kịch bản này đều nguy hiểm. Với định mệnh của cả thế giới trong tay, gã sẽ chiếm lấy mọi cơ hội có thể.

    Sau khi Alan đã đi khỏi, Griffith ngồi xuống chiếc ghế để đợi, ánh mắt của gã miên man hướng tới sáu chiếc hộp nhỏ bằng thép luôn trong trạng thái hoạt động không ngừng. Kế hoạch của gã không thể thất bại được, sự đúng đắn trong việc làm của gã sẽ được kiểm chứng thông qua sự xâm nhập này. Nếu Alan bị bắt ngoài kia, vẫn còn có bọn Ma7, vẫn còn có Louis, vẫn còn có những ống thuốc và nơi trú ẩn của gã, bảng điều khiển buồng không khí ngay trong tầm với.

    Một khi đã trải qua tất cả, bình minh vẫn sẽ chờ đợi ngoài kia. Bác sĩ Griffith cười mơ màng.
    *
    * *​
    Karen vẫn có thể đi bộ được, ít nhất vẫn có vẻ hiểu được một phần những gì họ nói với cô, nhưng những từ ngữ mà cô cố nói không có vẻ có liên hệ với bất cứ cái gì. Khi họ đi xuống cầu thang từ ngọn hải đăng, cô nói từ “nóng” hai lần. Khi họ tới một đường hầm sâu và tối ở dưới chân của cầu thang, cô nói “Tôi không muốn.“, một biểu hiện hoảng sợ hiện lên trên khuôn mặt thất thần và tái nhợt đầy chết chóc của cô. Rebecca sợ rằng thậm chí họ có tìm ra cách đảo ngược lại quá trình xâm nhập của Virus thì cũng đã quá muộn.

    Mọi thứ đã xảy ra rất đột ngột, quá nhanh khiến cô rất khó khăn mới kịp hiểu. Có một người đàn ông đợi họ trong bóng tối của ngọn hải đăng, một cái bẫy mà David đã cảm thấy bằng trực giác từ trước. Khi họ vừa bước vào, nó đã khai hỏa ngay bằng một khẩu súng trường tự động, oanh tạc về phía cửa từ trong bóng tối bên dưới khúc lượn của cầu thang sắt. Cảm ơn kế hoạch của David, nhờ nó mà mọi chuyện giải quyết xong chỉ trong vài giây. Trong khi Steve khám phá lối vào và nạp mật mã, Rebecca và John nhìn qua kẻ tấn công đang đợi họ, dưới ánh sáng chiếc đèn nháy của John là một người đàn ông bị nhiễm Virus, với khuôn mặt trắng bệch như giấy bị bong ra và nhăn nhúm với những vạch tróc bị khắc bằng axit. Gã có vẻ khác so với những nạn nhân Trisquad khác mà cô đã từng thấy, ít bị phân hủy hơn, đôi mắt mở trợn để nhìn có vẻ gì đó nhiều tính người hơn … nhưng đến khi David chạy tới dìu Karen thì mối quan tâm của Rebecca chuyển sang đó một cách đột ngột và dứt khoát.

    Lúc đi lên đồi, cô đã hạ quyết tâm rồi. Dù biết là có suy nghĩ cũng chẳng tạo ra được điều gì khác biệt, nhưng cô vẫn không thể ngăn mình tưởng tượng đến thứ đã khiến cho quá trình khuếch tán nhanh đến vậy; theo một cách nào đó, T-virus phải có phản ứng trước những thay đổi sinh học của Karen như nhịp tim và quá trình lưu thông mới phải. Nhưng khi họ đưa người phụ nữ bối rối và loạng choạng ấy vào trong ngọn hải đăng, Rebecca nhận ra rằng cô đã thôi không quan tâm tới nguyên nhân nữa, tất cả những gì cô muốn lúc này là vào được trong phòng thí nghiệm, cố gắng chạy chữa cái khiến cho sự minh mẫn của Karen Driver mất đi.

    Đường hầm phía dưới ngọn hải đăng có vẻ dẫn họ quay ngược trở lại khu nhà tổng hợp theo một con đường uốn lượn, được đục xuyên vào trong lớp đá vôi nặng nề của vách đá. Đèn hầm lò được treo dọc theo những bức tường, tạo ra những cái bóng có hình thù kì lạ khi họ tiến về phía trước, lặng lẽ, dứt khoát và lo lắng, John và David kèm sát hai bên Karen. Rebecca đi cuối cùng, một lần nữa cô lại trải qua cái cảm giác ngờ ngợ khi nhìn họ đi xiêu vẹo, nhớ lại cái đường hầm bên dưới biệt thự Spencer. Cũng cái sự ẩm thấp lạnh lẽo phả ra từ đá, cũng cảm giác hoảng hốt về mối nguy hiểm không lường trước, kiệt sức và sợ hãi bởi khả năng xử lý tình huống kém cỏi của mình – không tài nào ngăn được tai họa xảy đến.

    Tai họa đã thực sự xảy ra, cô nghĩ một cách bất lực, nhìn Karen cố vật lộn để tiếp tục đi. Chúng ta đang mất cô ấy. Trong một giờ nữa, có lẽ ít hơn, tình trạng cô ấy sẽ tiến triển quá nặng để có thể cứu chữa.

    Đã như vậy, John và Steve lẽ ra không nên chạm vào cô ấy. Chỉ một cử động dễ dàng, cô ấy có thể chộp tới bất cứ ai trong hai người, cắn họ trước khi họ có cơ hội thoát ra. Cái ý niệm ấy khiến cô gần như phát bệnh với nỗi đau khổ và mất mát đè nặng trong lòng.

    Đường hầm rẽ sang bên trái, và Rebecca nhận ra rằng họ đang ở gần biển một cách không thể tin được; bức vách như rung lắc bởi những tiếng ầm ầm nho nhỏ ở phía trước, đường hầm nồng nặc mùi ẩm ướt và mùi cá biển. Nhiều phần của sàn hầm quá nhẵn so với việc tạo được nên bởi bàn tay con người, và Rebecca ngờ ngợ đoán rằng nếu con đường hầm được mở rộng ra đâu đó phía trước mặt, có thể ở đó sẽ ngập đầy nước biển …

    “Khốn kiếp,“ David thì thầm một cách giận dữ. “Chết tiệt.“

    Rebecca nhìn lên. Khi nhận ra cái đang ở phía trước, cô nhận ra hi vọng le lói cuối cùng cho Karen hoàn toàn tắt ngấm.

    Chúng ta sẽ chẳng bao giờ kịp tìm ra nó.

    Con đường hầm đã mở rộng ra ở một vài mét trước mặt nơi David dừng lại. Nó mở rộng đáng kể, sự thật là nó nối với năm đường hầm nhỏ khác, mỗi nhánh rẽ về một hướng hoàn toàn khác nhau.

    “Đâu là hướng tây nam?“ John lo lắng hỏi. Karen tựa vào người anh, đầu cô lắc lư về phía trước. Giọng của David đầy vẻ giận dữ, những âm tiết trong giọng nói của anh vang vọng khắp năm nhánh đường hầm nhỏ, dội ngược trở lại hang lớn.

    “Tôi không biết nữa, tôi nghĩ chúng ta đang đi về hướng tây nam, và không một cái đường hầm nào hướng thẳng theo hướng ta đã đi, hay cũng chẳng có cái nào hướng thẳng sang phía đông.“

    Họ đang ở trong một cái động tròn, nhìn một cách bất lực về phía những đường hầm bằng phẳng, mỗi đường đều treo những dây đèn tới tận những khúc quanh và chỗ rẽ. Chúng rõ ràng là đã được tạo nên bởi nước biển, có thể là một trong số chúng nối ra những cái hang ngoài biển mà David đã có ý muốn họ tìm từ đầu. Những đường hầm này không rộng bằng đường hầm mà họ đang đứng, nhưng vẫn đủ rộng để thích hợp làm một con đường thoải mái cho người đi, và ít nhất là cao ba mét. Chẳng có cách nào để đoán được lối nào đẫn tới phòng thí nghiệm – nếu có cái đường nào dẫn tới phòng thí nghiệm thì chúng ta cũng thậm chí không biết nó có xuống tới đây không …

    “Nếu không có cái nào dẫn về hướng đông, thì chúng ta cứ chọn đại một cái trông có vẻ dẫn theo hướng tây nam,“ Steve nói nhỏ. “Hơn nữa, hướng đông chính là phía biển.“

    Karen lảm nhảm những từ gì đó vô nghĩa, khiến Rebecca lo lắng bước tới trước để xem xét tình trạng của cô ta. Mặc cho John và Steve vẫn đang giữ chắc cô, nhưng cô ấy trông có vẻ không gặp khó khăn gì trong việc tự đứng vững. Rebecca sờ vào cái trán nhớt đẫm mồ hôi của cô, và Karen mở mắt ra nhìn Rebecca, đôi mắt đỏ và vô hồn, đồng tử dãn rộng.

    “Karen, chị cảm thấy thế nào rồi?“ cô nhẹ nhàng hỏi.

    Karen chầm chậm nhắm mắt. “Khát,“ cô thì thào, giọng cô có vẻ trong trẻo.

    Vẫn có phản ứng, cảm ơn chúa …

    Rebecca nhẹ nhàng sờ vào cổ cô ta, cảm thấy nhịp đập nhanh và mạnh của Karen cạnh ngón tay mình. Rõ ràng là nó nhanh hơn so với lúc trước, lúc ở trên ngọn hải đăng. Cho dù tác động của virus lên Karen là gì đi nữa, thì cơ thế cô ấy cũng sắp đến mức giới hạn chịu đựng rồi.

    Rebecca quay ra, cảm thấy một sự tuyệt vọng và giận dữ, muốn hét lên bảo ai đó hãy làm cái gì đi, và nghe thấy tiếng bước chân nện thình thịch, vang vọng trong một đường hầm. Cô chộp lấy khẩu Beretta của mình, nhận thấy John và David cũng làm vậy trong khi Steve đỡ lấy Karen.

    Cái gì, nó từ đâu đến? Griffith? Có phải là Griffith không đây?

    Tiếng động có vẻ vang vọng tới từ khắp mọi hướng, và sau đó Rebecca nhìn thấy một người đàn ông xuất hiện ở khúc rẽ trong hành lang thứ hai từ phía bên phải. Một dáng người liêu xiêu, áo khoác bụi bặm bay phần phật, và gã nhìn thấy họ, và mặc dù còn cách gã cả mười lăm mét, nhưng Rebecca vẫn nhận thấy được cái vẻ mặt sửng sốt và nỗi vui mừng điên cuồng hiện lên khuôn mặt người đàn ông. Gã ta chạy về phía họ, mái tóc nâu rối bù xõa ra, đôi mắt sáng bừng và môi thì cứ mấp máy.

    Gã ta không hề mang bất cứ một loại vũ khí nào nhưng Rebecca vẫn giương cao súng của mình.

    “Ôi, cảm ơn chúa, cảm ơn chúa! Các bạn phải giúp tôi! Lão bác sĩ Thurman, hắn điên rồi, chúng ta phải ra khỏi đây mau!“

    Gã ta lảo đảo đi ra khỏi đường hầm, và gần như lao vào David, dường như không biết tới những khẩu súng lục đang hướng về phía gã khi gã lảm nhảm nói.

    “Chúng ta phải đi ngay thôi, có một con thuyền có thể dùng được, chúng ta phải rời khỏi đây trước khi gã giết hết chúng ta... “

    David nhìn về phía sau, thấy Rebecca và John vẫn đang yểm hộ anh. Anh đút khẩu Beretta vào bao súng và bước lên phía trước, nắm lấy tay người đàn ông.

    “Thoải mái, bình tĩnh nào, ông là ai, ông làm việc ở đây à?“

    “Alan Kinneson,“ người đàn ông hổn hển nói. “Thurman nhốt tôi ở trong phòng thí nghiệm nhưng gã nghe thấy các bạn đang tới và tôi đã xoay xở để thoát ra được. Nhưng gã ta là một thằng điên, các bạn phải giúp tôi ra tới chiếc thuyền! Ở đó có điện đài, chúng ta có thể gọi giúp đỡ!“

    Phòng thí nghiệm!

    “Đường nào dẫn tới phòng thí nghiệm?“ David hỏi nhanh.

    Kinneson dường như không nghe thấy anh hỏi, quá sợ hãi khi nghĩ đến những thứ mà gã nghĩ Thurman có thể làm với họ. “Điện đài trên thuyền, chúng ta có thể gọi cứu viện và sau đó rời khỏi đây!”

    “Phòng thí nghiệm,“ David nhắc lại. “Hãy nghe tôi, có phải ông vừa ở đó ra không?”

    Kinneson quay lại, chỉ vào đường hầm cạnh cái mà gã vừa đi ra, cái ở giữa.

    “Phòng thí nghiệm đường đó …”

    Gã ta chỉ cái đường hầm mà gã vừa ra khỏi. “ … và con thuyền ở dưới kia. Những hang động này như là mê cung vậy.”

    Mặc dù có phần bình tĩnh khi chỉ những đường hầm, nhưng lúc quay lại nhìn họ, trông gã lại kích động y như lúc nãy. Nhìn lần đầu tiên, gã ta có vẻ ngoài ba mươi tuổi, nhưng David nhận thấy gã có những vệt sâu khắc ở cạnh mắt và miệng, và nhận ra là gã ta phải đã có tuổi rồi. Bất kể là ai hay là già bao nhiêu tuổi, hẳn là gã ta đã bị giam giữ và ở tình trạng gần như mất trí vì sợ hãi.

    “Điện đài ở trên thuyền, chúng ta có thể gọi giúp đỡ và rời khỏi đây!“

    David suy nghĩ không ngừng trong khi tim đập thình thịch. Nó đây rồi, đây là cơ hội của họ - chúng ta sẽ tới phòng thí nghiệm, bắt tên Thurman này đưa cho chúng ta cách chữa bệnh, và sau đó rời khỏi đây, trước khi bất cứ ai khác bị tổn thương.

    Anh quay lại nhìn mọi người, nhận ra một niềm hy vọng đang cháy bỏng trong ánh mắt của họ y như của anh, John và Steve dứt khoát gật đầu. Rebecca không trông có vẻ vui mừng. Cô gật mạnh đầu về phía sau, ám chỉ cho David hãy đi ra khỏi tầm nghe của Kinneson.

    “Xin chờ một tý.” David nói, cố gắng giữ vẻ lịch sự mà anh không thích tí nào. Kinneson là một trong những nhà nghiên cứu trong danh sách của Trent.

    “Chúng ta phải mau lên thôi!” Gã đàn ông lải nhải, nhưng gã ta không đi theo khi David bước về phía những người khác, bốn người rướn lại gần nhau để bàn bạc, Karen vẫn đang dựa vào tay của Steve.

    Giọng của Rebecca nhỏ và đầy lo lắng. “David, chúng ta không thể đưa Karen tới phòng thí nghiệm nếu Thurman hay Griffith đang ở đó, điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta phải đánh nhau?“

    John gật đầu, nhìn vào đôi mắt hoang dại của Kinneson. “Và tôi không nghĩ rằng chúng ta nên để tay này một mình, gã có vẻ như sẽ chuồn lên đường mà không cần chúng ta vậy.”

    David cau mày suy nghĩ. Steve là một tay súng giỏi, nhưng John lại khỏe hơn. Nếu họ phải buộc Thurman đưa thuốc giải T-Virus, thì John chắc sẽ đe dọa gã dễ hơn.

    “Chúng ta chia nhỏ ra, Steve, cậu hãy đưa Karen ra thuyền, nhớ để ý tới Kennison. Chúng tôi sẽ đi tới phòng thí nghiệm, lấy cái chúng ta cần và sau đó sẽ gặp lại cậu sau. Đồng ý chứ?”

    Mọi người gật đầu một cách khó khăn, và sau đó David quay lại, nói với Kinneson.

    “Chúng tôi phải tới phòng thí nghiệm, nhưng bạn của chúng tôi Karen không được khỏe lắm. Chúng tôi muốn ông đưa cô ấy cùng người hộ tống này ra thuyền và đợi chúng tôi.“

    Đôi mắt của Kinneson có vẻ như trống rỗng trong một giây, cái nhìn lạ lùng và vô hồn ấy biến đi một cách nhanh chóng khiến cho David không chắc là mình đã nhìn thấy nó.

    “Chúng ta phải nhanh lên thôi.“ Gã ta nói nhanh, sau đó quay lưng và bắt đầu đi vào cái hành lang mà gã đã xuất hiện trước đó, với những bước chân thoăn thoắt.

    David chợt cảm thấy thật lo lắng, nhìn vào cái lưng đang khuất dạng đằng xa, cái áo khoác phòng thí nghiệm bẩn thỉu bay bay sau gã.

    Gã thậm chí còn chưa hỏi chúng ta là ai …

    Khi Steve và Karen bắt đầu đi vào trong đường hầm, David nắm lấy tay Steve, nói nhỏ “Cẩn thận với gã đó, Steve. Chúng tôi sẽ tới nơi sớm nhất có thể.“

    Steve gật đầu và đi theo tay bác sĩ Kinneson kỳ quặc, Karen loạng choạng bên cạnh anh. John và Rebecca đã đứng sẵn sàng trước lối đi ở giữa, vũ khí vẫn nắm chắc trên tay. Không gian rung chuyển khi tiếng sấm rền vang ngoài trời. Không nói lời nào, cả ba bắt đầu đi xuống lối đi tối tăm một cách mệt mỏi, nhưng với những bước chân dứt khoát, sẵn sàng đối mặt với những quái nhân đứng sau những bi kịch ở vịnh Caliban này.
    *
    * *​
    Họ rẽ ở ngã rẽ đầu tiên, Karen bám vào vai anh bằng một đôi tay lạnh giá đẫm mồ hôi còn nhà nghiên cứu kia đã đi xa hơn ở phía trước, cách chừng 100 mét. Steve chỉ kịp thấy cái bóng trắng dao động và gót chân đen đen, sau đó gã biến mất khỏi tầm nhìn của anh, những tiếng bước chân lóc cóc dần xa.

    Hay thật. Lạc trong một mê cung các hang động dười biển chỉ vì ngài bác sĩ Thích-Lập-Dị tuân thủ theo đúng tác phong làm việc …

    Karen rên to lên, tiếng rên rỉ của sự đau đớn, và Steve cảm thấy ớn lạnh, một cơn quặn đau siết chặt lấy dạ dày anh, nỗi sợ hãi của anh không đáng gì so với sự sợ hãi mà anh dành cho Karen. Cô ấy đang dựa lên anh càng ngày càng nặng, chân cô kéo lê trên sàn đá vôi lạnh lẽo.

    David, John,Rebecca, làm ơn hãy mau lên, làm ơn đừng để Karen thêm tệ …

    Anh kéo cô đi nhanh nhất có thể, băn khoăn về việc bắt kịp Kinneson, lo lắng cho những người khác đang dấn thân vào chỗ nguy hiểm, sợ hãi cho người phụ nữ ốm yếu một cách tuyệt vọng đang ở ngay cạnh anh. Ngoại trừ việc gặp được Rebecca, hôm nay chính là ngày tệ nhất trong cuộc đời của anh. Anh đã ở trong đội S.T.A.R.S được một năm rưỡi, và ngay cả khi anh ở trong những tình huống nguy hiểm trước đây, họ cũng chưa từng giáp mặt những thứ mà anh đã trải qua trong vài giờ ngắn ngủi từ lúc họ bị hất khỏi bè.

    Quái vật biển, những con zombie có súng và bây giờ là Karen. Một Karen đau đớn nghiêm trọng, mất ý thức, có thể trở thành một trong những thứ đó. Chúng ta đã rất gần tới việc thoát khỏi đây, có thể nó đã quá muộn …

    Khi họ đi qua chỗ quanh của đường hầm, Steve nhận ra anh không thể nghe thấy tiếng bước chân của Kinneson nữa. Anh loạng choạng đi qua góc rẽ, nghĩ rằng mình nên gọi gã đợi họ, không nên đi quá xa về phía trước và anh sững lại ớn lạnh, ruột anh như tụt xuống nơi nào đó tận đầu gối. Kinneson đứng trước họ hai mét, cầm trong tay một khẩu .25 bán tự động, khuôn mặt và đôi mắt của gã ta vô hồn và trống rỗng một cách lạ lùng như một hình nộm vậy.

    Gã bước về phía trước và ấn mạnh nòng súng nhỏ vào bụng Steve, chộp và rút khẩu Beretta ra khỏi bao đựng của anh rồi bước giật lùi trở lại. Tên bác sĩ di chuyển sang một bên, chĩa cả hai khẩu súng về phía họ, khi gã ra dấu cho Steve tiến về phía trước mặt gã.

    “Cẩn thận gã này, Steve...”

    Steve để Karen dựa sang một bên, lục lọi trong trí óc của mình cách thức để nói lẽ phải với Kinneson, cơ thể anh căng như dây đàn trong khi tâm trí anh hét lên rằng hãy tiến lên, đừng để bị bắn –

    - điều gì sẽ xảy ra với Karen?

    “Mày sẽ tới phòng thí nghiệm,“ Kinneson nói đều đều. “Hoặc tao sẽ giết mày.“

    Đó là cái giọng nói đều đều của một cái máy tính, tới từ một khuôn mặt trống rỗng không thương xót của người đàn ông bỗng trở nên không giống một con người, không giống một chút nào.

    “Chúng tôi biết ông làm gì ở đây,“ Steve quát lên. “Chúng tôi biết tất cả về bọn Trisquad khốn kiếp, chúng tôi biết về T-virus, và nếu ông muốn rời khỏi đây mà không …”

    “Mày đến phòng thí nghiệm hoặc tao sẽ giết mày.“

    Steve cảm thấy một cơn rùng mình bất lực chạy qua người mình. Giọng của Kinneson không hề thay đổi, cái nhìn vẫn thế và sự vô cảm trong giọng nói của gã. Steve nhận thấy những đường vạch, sau đó, những vạch sâu hình mạng nhện kéo dài trong đôi mắt nâu lạnh lùng, và đôi môi không chút biểu cảm.

    Lạy Chúa…

    “Mày tới phòng thí nghiệm hoặc tao sẽ giết mày.“ Gã lặp lại, và lần này gã giơ cả hai khẩu súng lên cách cái đầu cúi xuống của Karen vài inch. Steve biết cô đang chết dần, biết rằng đây là một cơ hội tốt để giải thoát cô khỏi virus và khỏi bị trở thành một sinh vật bạo lực điên cuồng trước khi buổi đêm đi qua – nhưng mình phải bảo vệ cô ấy bằng hết sức lực mình có thể. Nếu mình hi sinh cô ấy để tự cứu mình thì thậm chí cô ấy chẳng có tới cơ hội để được chữa trị …

    Steve sẽ không, không thể làm như vậy. Cho dù có phải đánh đổi bằng mạng sống của chính anh.

    Giữ chặt Karen, anh tiến về phía trước gã và bắt đầu cất bước.
    *
    * *​
    Thời gian cần thiết đã trôi qua. Nếu những kẻ đột nhập làm theo những gì ta mong đợi chúng làm, chúng đã chia ra, một số đang tiến một cách sai lầm tới chuồng nhốt. Số còn lại đang đi cùng tên bác sĩ về phía phòng thí nghiệm. Cho dù Alan có thất bại thì ít nhất gã cũng giữ chân những tên đột nhập đủ lâu ngoài đó. Dù là đường nào thì cũng đến lúc rồi.

    Griffith vỗ vào bảng điều khiển khu rào của bọn Ma7, tiếc nuối nghĩ tới sẽ vui thế nào nếu có thể chứng kiến nét mặt của bọn người kia. Đèn đỏ chuyển sang màu xanh, dấu hiệu chứng tỏ rằng chiếc cổng đã mở hoàn toàn. Cũng không sao. Dù gì thì bọn họ cũng sẽ chết trong một khoảng thời gian kéo dài.
     
  17. Lioncoeur

    Lioncoeur Fire in the hole!

    Tham gia ngày:
    5/5/03
    Bài viết:
    2,645
    Chương 15
    Người dịch : Beautiful_ada

    CON ĐƯỜNG HẦM LỘNG GIÓ DƯỜNG NHƯ CỨ KÉO DÀI VÔ TẬN. Cứ mỗi lần họ đi qua một chỗ rẽ, Rebecca lại mong nhìn thấy một cánh cửa khép kín, một cái rãnh nhỏ cạnh cửa để dùng cái thẻ khóa mà David đang giữ. Đến khi những ngã rẽ cứ tiếp tục, dây đèn treo lại kéo dài mãi theo những nhánh đường dài của đường hầm, mỗi quãng đều trống rỗng và hệt như quãng đường trước, thì cô ngừng ước ao về một cánh cửa. Một dấu hiệu là đủ rồi, một mũi tên chỉ đường trên tường thôi, hay là một dấu hiệu bằng phấn - bất cứ thứ gì có thể làm dịu đi nỗi nghi ngờ đang dâng lên trong cô rằng họ đã đi lạc đường.

    Bị lừa bởi một nhà khoa học của Umbrella? Bỏ mạng vì …

    Gạt lời mỉa mai sang một bên, Kinneson trông thật kì lạ, nhưng rõ ràng là có vẻ sợ hãi tới độ cuồng điên. Có thể nào là ông ta đã bị bối rối trong cơn sợ hãi mà chỉ sai hành lang không? Hoặc phòng thí nghiệm được dấu kín hơn họ nghĩ ?

    Hay hắn ta dụ chúng ta tới chỗ một tên săn người lẩn khuất đâu đó, một cái hang cụt - hoặc thậm chí là một cái bẫy, thứ gì đó nguy hiểm, để giữ chúng ra xa con đường đó trong khi hắn …
    …trong khi hắn làm gì đó với Steve và Karen.


    Ý nghĩ ấy khiến cho cô sợ hãi hơn cả cái ý niệm rằng mình đang tiến vào một cái bẫy. Karen đang ốm yếu một cách tuyệt vọng, cô ấy không thể tự vệ, và Steve…

    …không, Steve sẽ ổn thôi. Anh ấy có thể khiến cho Kinneson lên cơn đau tim ấy chứ …
    Ngoại trừ việc Karen đang đi với anh ấy. Một Karen ốm yếu, vật lộn để có thể đứng vững.


    Nhịp chân của họ bắt đầu chậm lại, David và John đều thở gấp, những cái cau mày hiện rõ trên nét mặt. David giơ tay lên, bảo họ dừng lại.

    “Tôi không nghĩ đây là lối đi đúng,“ David thở hổn hển. “Lẽ ra chúng ta phải thấy thứ gì đó rồi. Mà những mẩu giấy gắn cùng với chiếc thẻ khóa nói về hướng tây nam, đông – Tôi không chắc lắm, nhưng tôi nghĩ sau lần rẽ cuối cùng vừa rồi, chúng ta đang đi về hướng tây.“

    John vỗ nhẹ vào đầu mình, máy tóc ngắn và dày của anh ướt đẫm mồ hôi. “Tôi không biết chúng ta nên đi theo hướng nào, nhưng tôi biết tôi nghĩ rằng Kinneson là một thằng xỏ lá. Cái tên làm việc cho Umbrella, quỷ tha ma bắt.”

    “Em đồng ý như thế,“ Rebecca nói, thở mạnh. “Em nghĩ chúng ta nên quay lại. Chúng ta phải tới phòng thí nghiệm nhanh lên. Em không nghĩ …”

    Clank!

    Họ cứng người, nhìn lẫn nhau. Ở đâu đó xa xa phía trước con đường hầm dài vô tận này, cái gì đó làm bằng kim loại đã dịch chuyển.

    “Phòng thí nghiệm?“ Rebecca nói đầy hi vọng. “Có phải nó …”

    Một tiếng động trầm lạ lùng cắt ngang lời cô, lời nói tắc nghẹn ở cổ họng khi âm thanh đó lớn dần. Nó không giống như bất cứ một âm thanh nào mà cô đã nghe thấy – một tiếng chó tru lên, kết hợp với tiếng rít rên rỉ lạc điệu, và tiếng thét gào tuyệt vọng của một đứa trẻ mới sinh. Nó là một âm thanh cô độc, kinh khủng, rít lên rồi lại lặng đi xuyên qua con đường hầm, cuối cùng tạo nên một tiếng gào thét thê lương – sau đó vài tiếng động như vậy cùng hòa thêm vào. Cô chợt thực sự chắc chắn rằng mình không hề muốn nhìn thấy cái gì đã gây ra tiếng động này, ngay cả David cũng bắt đầu giật lùi lại, mặt anh tái nhợt và mắt trợn tròn.

    “Chạy!“ anh nói, giương khẩu Beretta của mình vào cái hành lang trống rỗng phía trước mặt, đợi tới khi họ lập cập chạy qua mình rồi mới quay lại chạy theo.

    Rebecca cảm thấy một nguồn sức mạnh không thể tin nổi khi nỗi kinh hoàng tràn ngập trong cơ thể cô, khiến cô chạy hết tốc lực trên cái đường hầm tối, chạy trốn những tiếng gào thét đang vang to dần của cái thứ quái quỉ đang ở sau họ. John ở ngay trước mặt cô, đôi tay và đôi chân cuồn cuộn cơ bắp của anh giật giật điên cuồng, và cô có thể nghe thấy tiếng chân lộp cộp của David sau gót mình.

    Tiếng hú ngày càng to thêm, và Rebecca có thể cảm thấy đá rung lên dưới những bước chân chạy như bay của cô, bước chạy như ngựa của những con quái thú gào thét đang ầm ầm ngay sau họ.

    - mình sẽ không thoát được …

    Ngay khi cô nhận ra rằng họ sắp bị bắt kịp, cô nghe thấy David hổn hển. “Ngã rẽ tới...”

    …và họ tới được đoạn cuối một quãng đường thẳng nơi mà đường hầm lại quanh lần nữa, Rebecca chạy qua chỗ quanh thật nhanh, giương cao khẩu Beretta trong bàn tay run rẩy đẫm mồ hôi của cô, quay súng về ngã rẽ mà họ vừa đi qua. John và David đứng ngay bên cạnh cô, khẩu súng 9 ly hờm sẵn trong tay. Hai mươi mét hành lang trống rỗng trước mặt họ ngập tràn tiếng gào thét điếc tai của những kẻ truy đuổi bí ẩn.

    Ngay khi chúng xuất hiện trong tầm ngắm của họ, cả ba cùng nổ súng, những viên đạn xuyên thẳng vào sinh vật chạy đầu tiên. Nhìn thoáng qua, Rebecca nghĩ rằng nó gần giống một con sư tử - sau đó là giống một con thằn lằn khổng lồ - sau đó là giống như một con chó. Cô bắt gặp một hình ảnh điên rồ được chắp vá từ những thứ không thể tin được, nhìn thấy những phần của nó mà cô không nghĩ nổi có thể lắp vào một cơ thể - những cái đồng tử xẻ rãnh như của mèo vậy. Cái đầu rắn khổng lồ, cặp hàm hổn hển nhớp nháp chứa đầy những cái răng nhọn như dao. Thân hình mập lùn và ngực tròn to như thùng phi đầy sức mạnh, có màu giống như cát, đôi chân to bè quạt về phía trước, cái hông đầy cơ bắp nhún nhảy đẩy chúng tiến về phía họ với một tốc độ nhanh tới khó tin …

    … và cho dù những viên đạn đã ghim vào lớp da bò sát kì lạ, thì vẫn còn một con nữa ngay đằng sau…

    … và loạt đạn đầu tiên đâm vào cơ thể lực lưỡng của con quái vật đến gần nhất khiến nó bật ngửa trên những chiếc chân đầy móng vuốt, hất tung nó ra phía sau và làm máu phọt tung tóe lên tường thành hình những bông hoa màu đỏ …

    … và, nó lắc mạnh đầu, gào lên một tiếng kêu đau đớn hung tợn, tiếp tục phóng mình về phía họ.

    - Ôi chết tiệt –

    Rebecca siết mạnh cò súng lần nữa, bốn, năm, sáu, trí óc cô gào lên to khi những con vật kì quái đang chạy về phía họ, tám, chín, mười …

    …con đầu tiên ngã sụp xuống, nhưng vẫn còn con thứ hai và bây giờ là con thứ ba đang giận dữ chạy xuống đường hầm, mà khẩu Beretta chỉ có mười lăm viên đạn.

    Chúng ta sẽ chết mất …

    David nhảy lùi lại, về phía sau những tia lửa đạn. Một băng đạn trống trơn văng xuống sàn, và sau đó, anh lại đứng ngay cạnh cô, giương lên và bóp cò, khẩu Beretta rung nhẹ trong đôi tay thành thạo của anh. Rebecca đếm tới viên đạn cuối cùng của mình, giật lùi lại phía sau, cầu mong rằng cô có thể nhanh như David, và nhìn thấy con vật thứ ba đang lồm cồm chạy ngược lại phía sau, bộ ngực rộng của nó phọt ra đầy những vệt máu nhỏ màu đỏ. Nó đổ rầm xuống vũng chất lỏng nhớt mà nó đã tạo ra và nằm yên đó.

    Không một ai trong đường hầm di chuyển, nhưng vẫn còn ít nhất hai con quái vật ở chỗ rẽ kia. Tiếng kêu đau đớn của chúng tiếp tục rền rĩ lúc to lúc nhỏ trong đường hầm, nhưng chúng ở yên phía sau, ngoài tầm nhìn – như thể chúng biết được cái gì đã xảy ra với đồng bọn của chúng, và quá liều lĩnh nếu chúng nhảy bổ vào cái chết đã chờ sẵn.

    “Lùi lại.” David nói khàn khàn, và vẫn giương cao súng vào cái chỗ rẽ, họ bắt đầu từ từ lùi về phía sau, tiếng gào thét của những sinh vật lai tạo ấy rền vang đuổi theo họ thành những làn sóng cô độc, khủng khiếp.
    *
    * *​
    Griffith lùi nhanh ra xa cánh cửa khi nghe thấy tiếng khóa lạch cạch trong ổ, hắn không muốn ở gần bất cứ ai mà Alan dẫn về. Hắn đã có Thurman đứng sẵn sàng, đề phòng trường hợp có bất cứ hành động bất ngờ nào, nhưng khi hắn nhìn thấy người đàn ông trẻ và người bạn đồng hành thụ động bước vào trong phòng thí nghiệm, hắn tự hỏi không biết mình có gặp rắc rối nào không.

    Cái gì thế này? Ai đó uống nhiều quá chăng? Hay một vết thương nghiêm trọng bên trong chăng?

    Griffith cười, đợi Steve hoặc người phụ nữ đi cùng nói hay di chuyển, trong tim hắn tràn đầy những ý nghĩ hài hước. Đã từ lâu lắm rồi hắn không nói chuyện với ai đó có thể phản ứng lại mà không phải thúc giục, và sự thật là kế hoạch tốt đẹp của hắn khiến hắn càng ngày càng thấy vui vẻ. Bên cạnh hắn, Alan đóng cửa lại và đứng yên, cầm trong tay hai loại vũ khí khác nhau chẳng hợp đôi chút nào.

    Người đàn ông trẻ tròn mắt nhìn quanh phòng thí nghiệm, ánh mắt u ám của anh ta dừng lại ở trên cái buồng điều áp, trông hơi sợ hãi. Đầu người phụ nữ gục xuống, cuộn trên ngực.

    Anh ta có màu da xạm đen đậm tự nhiên của người Hispanic (người vùng địa trung hải), hoặc có thể là ai đó đến từ Ấn Độ. Không cao lắm, nhưng cường tráng. Đúng vậy, anh ta thực sự rất tuyệt… Và vì có thể anh ta là một trong những người đã hủy diệt Athens, nên đây chắc chắn là phần thưởng xứng đáng cho hắn.

    Ánh mắt nhanh nhẹn của người thanh niên cuối cùng cũng nhìn vào Griffith, tò mò và không hoàn toàn sợ hãi như là Griffith đã mong đợi.

    Để rồi xem …

    “Chúng tôi đang ở đâu?“ người thanh niên bình thản hỏi.

    “Anh đang ở trong phòng thí nghiệm nghiên cứu hóa học, xấp xỉ hai mươi mét dưới mặt nước của vịnh Caliban,“ Griffith nói. “Thú vị chứ hả? Những nhà thiết kể thông minh thậm chí còn xây dựng nó ở trong một xác tàu đắm, hay là họ xây một xác tàu đắm xung quanh phòng thí nghiệm, tôi không nhớ rõ …”

    “Ông là Thurman?“

    Thật là cách cư xử thô lỗ!

    Griffith lại cười, lắc đầu. “Không, cái sinh vật béo mập và không hi vọng đứng bên trái cậu là bác sĩ Thurman, tôi là Nicolas Griffith, và cậu là ...?”

    Trước khi người thanh niên kịp trả lời, người phụ nữ ngẩng đầu lên, khuôn mặt trắng bệch lảo đảo nhìn quanh trong cơn đói bất lực.

    Một người bị nhiễm!

    “Thurman, ra tóm lấy người phụ nữ và giữ chặt cô ta,” Griffith nói nhanh. Hắn không thể để cô ta hủy hoại mẫu vật tốt mà Alan đã xoay xở kiếm được. Nhưng khi Thurman lập cập vồ lấy người phụ nữ, người thanh niên đã kháng cự lại, đẩy Louis bằng một đôi tay nhanh nhẹn và giận dữ, nụ cười ngạo mạn khinh bỉ hiện rõ trên mặt anh.

    Griffith cảm thấy sự lo lắng rộn lên. “Alan, đấm anh ta!”

    Tay bác sĩ Kinneson giơ nhanh tay lên, giáng cho người thanh niên đang kháng cự một cú đánh ác liệt sượt qua phần phía sau đầu; hắn dừng đánh để cho Thurman kéo người phụ nữ ra ngoài.

    “Cô ta xong rồi.” Griffith mạnh mẽ nói, tự hỏi làm sao lại có thứ người nào trên thế gian này muốn ở cạnh một trong những thứ như vậy. “Nhìn cô ta đi, cậu không thấy cô ta không còn là con người nữa sao? Cô ta đã là một con rối của Birkin rồi, một trong những kẻ đói khát cồn cào thảm hại. Một zombie. Một đơn vị Trisquad không qua đào tạo.”

    Ngay khi Griffith nói, một bước ngoặt hấp dẫn của các sự kiện xảy ra. Người phụ nữ quằn quại trong vòng tay ôm chặt của Thurman và với một chuyển động nhanh, đã lao về trước và cắn vào mặt Louis. Cô ta giật ra đầy một miệng ngập máu chiếc má của Thurman và bắt đầu nhai nó một cách sung sướng.

    “Karen, ôi Chúa ơi, không…”

    Tiếng kêu bàng hoàng của người thanh niên cất lên, anh không tài nào di chuyển hay làm gì nổi nữa. Louis cũng vậy. Tay bác sĩ vẫn điềm tĩnh đứng đó, máu rớt đầy trên khuôn mặt hắn, nhìn vật chủ của T-virus ngấu nghiến nuốt những miếng thịt tươi mềm mại. Griffith sững sờ.

    “Nhìn xem,” hắn nhẹ nhàng nói. ”Không một sự nhăn nhó vì đau đớn, không hề có một chút cảm xúc nào … cười đi, Louis!”

    Thurman nhe răng cười ngay cả khi người phụ nữ lại nhào về phía trước, cố gắng giật đứt môi dưới đang trề ra của hắn. Với một tiếng rách toạc ướt át, cái lưỡi tét ra, phô bày một nụ cười rộng ngoác. Máu phọt ra. Người phụ nữ nhai nhồm nhoàm.

    Ngạc nhiên làm sao. Ngoạn mục không chê vào đâu được.

    Người thanh niên run rẩy, làn da xám đen của anh chuyển dần sang màu tái nhợt bệnh tật. Anh có vẻ không màng thưởng thức chuyện đang diễn ra trước mắt, và Griffith nhận thấy chắc chắc như vậy; người phụ nữ đó hẳn là một người bạn.

    Tệ quá. Chẳng khác nào đem hạt ngọc cho ngâu vầy …

    “Alan, ôm lấy gã thanh niên, và ôm chặt anh ta.”

    Người thanh niên không hề kháng cự, anh ta đang chìm ngập trong nỗi ghê rợn rành rành thứ mà anh đang phải trải qua. Người phụ nữ lại tiếp tục cắn thêm một miếng má khác, và nụ cười của Louis phần phật, chắc chắn do những vết thương ở cơ.

    Griffith muốn tiếp tục theo dõi thêm nữa, nhưng hắn còn có việc phải làm. Bạn bè của gã thanh niên này vẫn đang xoay xở để hạ bọn Ma7, và nếu chúng thành công, chúng nhất định sẽ tìm kiếm anh thanh niên đáng giá này.
    Nhưng khi đó, anh ta sẽ là gã thanh niên đáng giá của ta …


    Griffith đi tới một chiếc quầy, cầm lấy một ống thuốc, đập đập một bên nó bằng một ngón tay. Hắn quay ra phía vị khách im lặng, tự hỏi có nên kể lại cái mưu kế hoàn hảo dành để bắt các người bạn của anh ta không. Đó có phải là những thứ mà các “nhân vật phản diện” thường làm trong phim không nhỉ? Hắn cân nhắc nó cẩn thận, sau đó quyết định ngược lại; vì hắn luôn đánh giá đó là một điểm ngu ngốc trong kế hoạch. Hắn đâu phải một tên hung ác. Đó là tại vì họ đã tự xâm nhập vào nơi linh thiêng của hắn, đe dọa kế hoạch tạo nên một thế giới thanh bình của hắn. Ở đây không hề có một câu hỏi nào về việc ai là quỉ dữ trong câu chuyện này.

    Người thanh niên vùng Hispanic vẫn nhìn vào bữa tiệc trưa kì lạ, mồm anh vẫn há hốc trong sự mất tinh thần; Karen đang nuốt cái mũi của Thurman, khiến cho nó trong thật đúng như một đống bầy nhầy.

    Bước nhanh về phía trước, Griffith thọc mạnh đầu kim vào trong cánh tay vạm vỡ của người thanh niên và ấn mạnh pít tông.

    Ngay sau đó anh ta liền phản ứng, cái nhìn còn sốc của anh hướng thẳng vào Grifffth, cơ thể anh rung lên và cố đấm hắn. Một cánh tay của Alan có vẻ hơi dịch chuyển nhưng hắn ta vẫn ôm chặt chàng Hispanic trẻ tuổi.

    Grifith cười vào mặt anh, lắc lắc đầu.

    “Thư giãn nào,” hắn nhẹ nhàng nói. “Chỉ một chút nữa thôi, cậu sẽ không còn cảm thấy gì.”
    *
    * *​
    Chậm chạp, rất chậm, họ lùi dần về phía cái hang nơi mà họ đã xuất phát, những sinh vật giống thằn lằn ấy vẫn tiếp tục lần theo, cẩn thận không xuất hiện trong tầm nhìn của họ, gào thét bản nhạc kinh dị của chúng. John vẫn nghĩ về Karen và Steve, chỉ có Chúa mới biết tay bác sĩ Umbrella đang ở đâu, và tuyệt vọng cầu cho bọn quái vật kia tấn công, mỗi khoảnh khắc bây giờ đều có thể phải trả giá bằng cơ hội của Karen, những khoảnh khắc này có thể là lúc Steve đang phải chiến đấu giành giật mạng sống …

    Tới đây mau, bọn đần độn, đồ khốn! Chúng tao ở ngay đây này, bữa trưa miễn phí đây! Tới đây mau!

    Họ đã thử la hét, thử bắn và giậm mạnh chân, nhưng những sinh vật đó vẫn không mắc bẫy. David đã thử lừa chúng lộ mặt, cả ba người cùng lẻn quay trở lại một khúc rẽ và khi những con thằn lằn bự đó vừa trườn qua đoạn hầm thẳng sau họ, chúng đã nhảy ngược trở lại và bắt đầu chạy trốn. John chỉ bắn trúng có một viên đạn vào một trong hai con, và họ thấy rằng chỉ còn có hai con quái thú, nhưng cả hai đều mang những vết thương nghiêm trọng, có lẽ vậy nên chúng không mắc mưu thêm lần nào nữa.

    “Lũ khốn kiếp quỉ quyệt,” John cằn nhằn dễ tới hai mươi lần, đi giật lùi nhanh hết mức anh có thể. “Chúng còn đợi cái quái gì nhỉ?”

    Cả Rebecca và David đều không trả lời, họ đã bàn về việc này rồi, đã nói chuyện trong những tiếng gào thét kinh dị của những con quái vật đang lén đi theo. Chúng đang đợi ba người họ rẽ qua khúc quanh.

    Thời gian kéo dài gần như vô tận khi họ đi lùi qua con đường hầm trống rỗng từng bước, từng bước một, và rồi họ nghe thấy ở xa xa, âm thanh quen thuộc của cái hang lớn mà họ đã xuất phát từ đó – tiếng sóng biển âm âm và rung rầm rầm như thể đất dưới chân vang dội những tiếng hú.

    Cám ơn chúa, cám ơn chúa, bao lâu nữa? 15, 20 phút?

    “Khi chúng ta ra tới cửa đường hầm, hãy đứng ở hai bên sườn đường hầm,” David nói khẽ. “Tôi sẽ quay ra và chạy, dụ chúng ra…”

    Rebecca lắc lắc đầu, nét mặt cô hằn rõ sự lo lắng. “Anh bắn tốt hơn em, và em lại chạy nhanh hơn anh. Em có thể làm việc đó.”

    Họ gần như đã tới hang lớn. John bắn một cái nhìn về phía David, nhìn thấy anh đang khó khăn quyết định và cuối cùng anh cũng gật đầu, ra hiệu.

    “Được rồi. Hãy chạy nhanh hết mức có thể, quay lại hướng cầu thang dẫn lên ngọn hải đăng. Chúng tôi sẽ hạ chúng khi chúng đã chạy đủ xa để không thể quay lại chỗ rẽ.”

    Rebecca thở hắt ra. “Em hiểu, chỉ cần nói khi nào thôi.”

    John cảm thấy rõ sự thay đổi của không khí ngay bên cạnh anh, gió hút cuồn cuộn xoáy trong hang. Chỉ một lùi thêm một bước nữa là họ sẽ bị bao quanh bởi không gian của hang lớn. John nhanh chóng bước sang một bên, đứng giữa cái đường hầm mà anh vừa đi ra và đường hầm bên cạnh nó. Anh thấy David cũng đã vào vị trí của mình, Rebecca đứng ngay giữa miệng hành lang …

    “Chạy!”

    Rebecca lấy đà chạy hết tốc lực ra xa, và John trở nên căng thẳng, khẩu Beretta giơ ngay cạnh mặt anh, lắng nghe tiếng gào thét đang vang lớn lên, tiếng bước chân thình thịch …

    “Hành động!” David hét to, và cả hai cùng xoay người thẳng vào trong đường hầm, bóp cò.

    Rắc-Rắc-Rắc-Rắc!

    Tiếng gào rú của hai con quái vật cách họ không tới sáu mét trước mặt và những viên đạn to đâm thẳng vào chúng, đục những lỗ lớn đầy máu xuyên qua lớp da như cao su của chúng, qua xương và dịch màu đỏ bắn tung tóe điên cuồng.

    Những tiếng gào thét tắt dần bên cạnh những tiếng đạn nổ ầm ầm, những bộ phận như của bò sát giúp chúng di chuyển ra tới tận cửa đường hầm. Hai cơ thể kì lạ ấy đổ sụp xuống sàn đá thành một đống thịt rách nát.

    Ngay khi họ dừng bắn, Rebecca chạy trở lại hang lớn, má cô đỏ ửng, đôi mắt ánh lên vẻ khẩn trương.

    “Đi thôi.” David nói, và sau đó cả ba người cùng chạy vào hành lang mà Kinneson đã đi vào trước đó, thời gian đã mất khiến cho họ chạy như bay trong nỗi tuyệt vọng.

    Cơn giận dữ thất vọng mà John đã trải qua lúc trước đã bị bỏ lại sau lưng, bây giờ anh chỉ hoàn toàn cảm thấy một nỗi sợ hãi tràn ngập trong người.

    Karen, làm ơn đừng có làm sao. Làm ơn, xin đừng để cái gì xảy ra với cô ấy, Lopez…

    Đường hầm lại tiếp tục rẽ, vòng nghiêng xuống, cả ba người họ chạy quành qua nó, nỗi lo sợ cho bạn và đồng đội khiến cho họ ngày càng chạy nhanh. John tự nhủ với bản thân mình rằng nếu họ vẫn ổn, nếu vẫn còn thời gian cho Karen, nếu tất cả họ đều có thể sống sót thoát khỏi đây, anh có thể hi sinh bất cứ cái gì.

    Xe của tôi, nhà của tôi, tiền của tôi, tôi sẽ không bắt nạt ai nữa cho tới khi tôi làm đám cưới, tôi sẽ sửa lại thái độ của mình, sẽ cư xử tỉ mỉ và thẳng thắn.

    Thế vẫn là chưa đủ, và anh không biết có ai muốn nó không, nhưng anh sẽ hi sinh bất cứ thứ gì, làm bất cứ cái gì cần thiết.

    Đường hầm lại bất ngờ đổi hướng lần nữa, vẫn vòng nghiêng xuống dưới và chúng bị khoét một lỗ tròn ở góc đường …

    …Ở đó có nhiều cánh cửa mở rộng, một hành lang nhỏ.

    Một căn phòng lớn được chiếu sáng lờ mờ phía trong nó. Steve dựa vào khung cửa, nắm trong tay khẩu Beretta, khuôn mặt anh tái nhợt và trống rỗng.

    “Steve! Chuyện gì xảy ra vậy, chuyện gì …” David bắt đầu, nhưng khi nhìn thấy ánh mắt trên khuôn mặt của Steve khi anh quay ra nhìn họ đi tới, với một sự trống rỗng khủng khiếp ở đó, tất cả họ dừng lại ngay lập tức. Cho dù lý trí của anh cố từ chối nó, trái tim của John vẫn ngập đầy sự kinh hoàng và nỗi đau mất mát.

    “Karen chết rồi.” Steve nhẹ nhàng nói, sau đó quay đi và bước vào trong phòng.
     
  18. Lioncoeur

    Lioncoeur Fire in the hole!

    Tham gia ngày:
    5/5/03
    Bài viết:
    2,645
    Chương 16
    Người dịch : Machinator

    ÔI KHÔNG....

    Rebecca thấy như đang ở trong đáy sâu tuyệt vọng, cô nhìn chằm chằm vào Steve, cả John lẫn David điếng người và thẫn thờ bên cạnh cô. Vẻ vô hồn trên gương mặt Steve trước khi anh quay đi đủ để họ biết chuyện gì đã xảy ra.

    Karen tội nghiệp, và còn Steve, có cái gì giống như...

    Họ tìm thấy phòng thí nghiệm quá muộn. Cô liếc xuống rãnh khóa điện tử bên cánh cửa khi bước vào cặp dấu niêm lồng nhau, cảm giác vô vọng và vô nghĩa hoàn toàn. Họ đến đây để tìm thông tin, để rồi chỉ thấy các thí nghiệm, chỉ để Karen bị lây nhiễm và quay sang chống lại Steve ngay khi họ chạm tay vào cơ hội hiếm hoi có thể chữa trị cho Karen...

    ....nhưng Kinnesson. Thurman...

    Cô bước vào cánh cửa thứ hai, chau mày. Phòng thí nghiệm thật khổng lồ, thiết bị xếp thành hàng dài, những chiếc bàn cao ngất chất đầy tài liệu, nhưng điều đầu tiên làm cô chú ý là buồng điều áp phía đối diện với chúng, ánh mắt cô bị hút vào phiến kính dày được gia cố áp vào cánh cửa.

    Nó là một buồng điều áp, cánh cửa phía trong đang mở. Và đằng sau cánh cửa thứ hai, cùng với tấm lưới thép, là đại dương đen ngòm cuồn cuộn sóng. Phòng thí nghiệm được đặt dưới mặt biển. Điều thứ hai mà cô chú ý tới là máu, một vệt dày đỏ thẫm vắt ngang qua sàn đọng thành vũng lớn, nhưng có vết trượt kéo dài.

    Steve hẳn đã phải kéo cái xác đi –
    - quá nhiều! Lạy chúa, không phải của Karen chứ...


    Steve đi tới buồng điều áp và quay lại, có vẻ như chờ họ đi ngang căn phòng. Rebecca đi về phía anh, cố giữ chặt trong cổ họng những giọt nước mắt đồng cảm. John và David ở ngay sau cô, yên lặng và quan sát xung quanh căn phòng rộng lớn –
    - ngay lúc đó, cánh cổng sau lưng họ đóng sầm lại. Kinnesson đứng ngay tại đó, cầm một khẩu súng bán tự động .25, chĩa thẳng vào họ với gương mặt lạnh băng.

    “Bỏ vũ khí xuống.”

    Giọng nói thấp trầm là của Steve. Rebecca bối rối quay lại, thấy Steve đang chĩa cây Berreta vào họ, gương mặt lạnh băng y như Kinnesson. Bây giờ, khi đã ở gần buồng điều áp, cô có thể thấy thây người nằm trên sàn. Karen, máu kéo thành từng vệt trên gương mặt trắng bệch, và nơi mà trước kia từng là con mắt trái, bây giờ chỉ còn một lỗ đen ngòm.

    Ôi, lạy chúa, chuyện gì đang xảy ra vậy...

    David bước lại gần Steve, cầm súng một cách lỏng lẻo, vẻ bối rối và hoài nghi trong giọng nói của anh. “Steve, anh đang làm gì vậy? Đã xảy ra chuyện gì?”

    “Bỏ vũ khí xuống,” Steve lập lại, vẫn với giọng đều đều vô cảm.

    “Mày đã làm gì anh ta?”

    John gầm lên, quay lại và bắn vào Kinnesson. Viên đạn khoét một lỗ tròn gần thái dương hắn. Kinnesson đổ sụp xuống...

    Đoàng!

    Phát bắn thứ hai đến từ khẩu Beretta của Steve, găm vào phần dưới lưng John. Máu trào ra từ vết thương và anh cong người, gục về phía trước. Rebecca thấy máu đen trào ra khỏi miệng, ánh nhìn kinh ngạc trong mắt anh....

    … và John gục xuống nền xi măng, co thắt một lần nữa trước khi hoàn toàn bất động. Tất cả mọi việc diễn ra chỉ trong vài giây đồng hồ.

    “Bỏ vũ khí xuống.”

    Steve nói nhẹ nhàng, chỉ khẩu bán tự động về phía Rebecca. Trong một thoáng, Rebecca chưa thể làm gì. Kinh hoàng nhìn vào Steve, cảm thấy nước mắt chảy dài trên má, không thể hiểu một cách thấu đáo việc gì đã xảy ra.

    “Giải giới!” David lặng lẽ nói, buông cho khẩu súng trượt khỏi tay rơi xuống sàn.

    Rebecca buông cây Beretta, khẩu súng nặng trịch rời khỏi những ngón tay rã rời của cô.

    “Lui lại.” Steve nói, vẫn hướng súng vào ngực cô.

    “Hãy làm những gì hắn nói.” David yếu ớt nói, trong giọng anh có một chút gì run sợ.

    Họ lui từng bước chậm chạp, Rebecca không thể rời mắt khỏi mặt Steve, gương mặt đẹp trai như trẻ con mà cô vẫn hay quan tâm đến, giờ đây nó chỉ còn là một lớp mặt nạ, được đeo bởi một…

    … một con Zombie.

    Họ lùi tới sát bàn và ngừng lại, bất lực nhìn Steve nhặt lấy vũ khí của họ, tâm trí Rebecca quay cuồng với nhiều câu hỏi, hơn hẳn cảm giác kinh hoàng và nỗi đau mất mát. Một con Zombie có thể đi và nói chuyện như một người. Như Kinnesson, như Steve.

    Làm cách nào? Nó xảy ra khi nào?

    Khi Steve bước sang một bên, một giọng đàn ông nhã nhặn vang lên ở góc phòng, đằng sau bàn giấy. “Thế là xong, hử? Chúa ơi, đúng kiểu thảm kịch Hy Lạp.”

    Một bóng người xuất hiện ngay sau giọng nói. Một người đàn ông mảnh khảnh, tóc xám đứng dậy và đi vòng quanh chiếc bàn, di chuyển gần như ngẫu nhiên đến cạnh Steve. Khoảng ngũ tuần, tóc dài đến cổ áo khoác, loại áo mặc trong phòng thí nghiệm, trên gương mặt góc cạnh trưng ra một nụ cười tươi tỉnh.

    “Tôi lập lại các chỉ thị - cho lợi ích của chính những vị khách của chúng ta.” Hắn nói vui vẻ. “Nếu bất cứ ai trong chúng có một hành động đặc biệt nào, bắn ngay.”

    Rebecca ngay lập tức nhận ra hắn là ai, cuối cùng cô biết mình không thể nào sai được.

    “Tiến sĩ Griffith.” Cô nói điềm tĩnh.

    Griffith nhướng mày, có vẻ hãnh diện. “Danh tiếng đã đi trước ta! Làm cách nào cô biết?"

    “Tôi có nghe về ông.” Cô nói lạnh lùng. “Hay Nicolas Dunne, gì gì đó.”

    Nụ cười của hắn cứng lại trong giây lát, rồi lại mở rộng. “Tất cả đã là quá khứ,” hắn đáp trả, vung tay trong không khí. “Và cô sẽ không có cơ hội để nói cho bất cứ ai về hiểu biết thú vị đó, ta e rằng vậy.”

    Nụ cười của Griffith héo đi, đôi mắt xám chuyển thành lạnh lùng. “Các người đã cản trở ta đủ lâu rồi. Ta phát chán với trò chơi này, vì thế ta nghĩ rằng mình sẽ bảo anh chàng đẹp trai này giết các người...”

    Ánh mắt hắn đột ngột sáng lên, và Rebecca nhận thấy tia nhìn điên loạn trong mắt hắn, một kẻ mất trí hoàn toàn.

    “Nào, để ta xem, sao lại phải làm bẩn thỉu thêm nhỉ? Steve, nói các bạn của chúng ta đi vào buồng điều áp, nếu anh còn có lòng tốt.”

    Steve hướng súng vào tim cô. “Đi vào buồng điều áp.” Anh nói điềm tĩnh.

    Trước khi David kịp bước, Rebecca bắt đầu nói, nhanh và cực kỳ nghiêm túc.

    “Có phải đó là T-Virus? Có phải ông đã dùng nó làm cơ sở cho mọi chuyện này? Tôi biết ông là kẻ chịu trách nhiệm làm tăng thời gian khuếch đại, nhưng đây là một thứ mới, thứ mà Umbrella chưa từng biết qua. Nó là một gen đột biến với lớp màng kết hợp ngay tức thời, đúng không?”

    Griffith mở to mắt. “Steve, khoan đã... cô biết gì về màng kết hợp, cô bé?”

    “Tôi biết ông đã hoàn bị nó. Tôi biết ông bằng cách nào đó đã xoay sở tạo ra một virus lây nhiễm đủ nhanh để thâm nhập não trong chưa đầy một giờ... ”

    “Dưới 10 phút,” Griffith nói, tác phong hoàn toàn thay đổi, từ một lão già vui tươi thành một tên cuồng tín, ánh mắt của hắn thu hẹp một cách dữ dội và nguy hiểm khác thường, răng nghiến chặt và đôi môi mím lại.

    “Lũ súc vật ngu đần, ngu xuẩn với con T-virus lố bịch của bọn nó! Birkin có thể thông minh, nhưng lũ còn lại là một lũ đần, chỉ ưa trò chơi chiến tranh trong khi ta thì đã tạo nên một phép màu!”

    Hắn quay đi, chỉ tay vào những thùng chứa sáng loáng xếp thành hàng nối tiếp nhau đến cửa phòng thí nghiệm. “Các ngươi có biết chúng là gì không? Ngươi có biết ta đang tạo ra cái gì không? Hòa Bình! Hòa bình và tự do cho toàn nhân loại.”

    Daivd cảm thấy tim mình đập thình thịch, toàn thân anh rung lên và toát mồ hôi lạnh. Griffith đang đứng trước mặt họ, đôi mắt bừng cháy của gã bác học điên.

    “Giống loài của ta, tạo vật của ta trong các thùng này đủ lây nhiễm hàng tỷ người trong vòng không đầy 24 giờ! Ta đã xoay sở và tìm ra câu trả lời, câu trả lời cho sự đáng khinh, ích kỷ, và tầm quan trọng của gây giống trong tâm khảm loài người - Khi quà tặng của ta lan đi trong gió, thế giới sẽ lại tự do, sẽ tái sinh, một nơi tuyệt vời cho mọi tạo vật, nhỏ và lớn, sống sót chỉ dựa trên bản năng!

    “Mày điên rồi.” David thì thào, biết rằng Griffith có thể giết họ, chắc chắn sẽ giết họ, nhưng anh không thể ngăn mình nói lên điều đó. “Mày mất trí rồi.”

    Đó là lý do tại sao nhóm của mình bị chết, lý do những người này chết. Hắn muốn biến thế giới thành những “thứ” như Kinneson. Như Steve.

    Griffith gầm gừ, nước bọt phun phèo phèo khỏi miệng. “Và các người sẽ chết, các người sẽ không có mặt khi phép lạ của ta ban vinh dự cho trái đất này, ta, ta không cho phép hai ngươi được hưởng món quà đó! Khi mặt trời mọc sáng mai, sẽ có hòa bình vĩnh cửu, và cả hai ngươi đừng hòng được tận hưởng nó.”

    Hắn quay qua Steve. “Đẩy chúng vào buống điều áp, ngay bây giờ!”

    Steve nâng khẩu Beretta lên, chĩa vào cánh cửa mở, nơi có thi thể bất động của Karen và máu vương vãi trên sàn.

    Anh ta ở ngoài tầm với, còn mình thì không thể chụp kịp vũ khí...

    “Ngay, Steve! Giết nếu chúng không đi.”

    David và Rebecca bước qua lỗ khóa, cơ thể David căng ra và lạnh toát, anh phải làm gì đó nếu không cả thế giới sẽ bị đầu độc bởi giấc mơ điên loạn của một thằng gàn...

    Steve đóng sầm cánh cửa. Họ đã mắc bẫy.
     
  19. Lioncoeur

    Lioncoeur Fire in the hole!

    Tham gia ngày:
    5/5/03
    Bài viết:
    2,645
    Chương 17
    Người dịch : Machinator

    Griffith GIẬN RUN NGƯỜI khi cánh cửa của buồng điều áp đóng sầm lại.

    Chúng không thấy sao, chúng không thấy gì ngoài cuộc sống ngu dốt, nhỏ nhặt của chúng ư?

    Hắn nhìn vào Steve, cơn giận trào ra làm hắn trở nên điên loạn, làm hắn nôn mửa, khát máu...

    “Chĩa súng vào bản mặt khó ưa của mày và bóp cò, chết , chết, chết đi...”

    Steve nâng súng lên.

    Rebecca hét lớn, đập tay một cách vô vọng vào mặt cửa kim loại dày.

    Không không không không không.

    ĐOÀNG!

    Tiếng súng nổ như sấm cắt ngang tiếng hét của cô, Steve ngã ra khỏi chân đế của cánh cửa hầm, thoát khỏi tầm nhìn.

    Không còn là Steve nữa, anh ta đã chết rồi, đã chết rồi ...

    “Lạy Chúa...” David thì thầm, và Rebecca nhìn thẳng vào đôi mắt mở to nóng nảy của Griffith, hắn đang ngó cô chằm chằm xuyên qua cánh cửa, và, Griffith đột nhiên mỉm cười, nụ cười chiến thắng hiểm độc đầy khó chịu. Một nụ cười khiến cô cảm nhận rõ hơn sự mất mát và nỗi kinh hoàng tột bực. Rebecca nhìn chòng chọc vào đôi mắt xanh ấy và phát hiện ra rằng cô chưa bao giờ thấy căm thù hắn như lúc này.

    Đồ con hoang khốn kiếp.

    Hắn đã nói cho họ biết kế hoạch của hắn, nhưng vào ngay lúc đó, ý tưởng đó quá khủng khiếp để cô hiểu, quá rộng và điên rồ để cô có thể chấp nhận. Tất cả việc cô có thể nghĩ tới là hắn đã giết Karen và John, và cả Steve, cô không muốn gì hơn là tiêu diệt hắn, thấy hắn thất bại, thấy hắn chịu đau khổ, đau đớn và…

    ...Và nếu chúng ta không làm gì đó, thì sự điên rồ của hắn sẽ được thực thi, chúng ta phải ngăn nó, ngăn hắn nhảy múa trên mộ phần của cả thế giới.

    Griffith di chuyển tới bảng điều khiển kế bên cánh cửa và nhấn nút, vẫn còn mỉm cười. Có một tiếng động lớn từ nền và nước bắt đầu ùng ục tràn vào, lấy từ dòng nước đen ngòm, lạnh như đá của vịnh đang đè vào cửa ngoài căn buồng. Phòng điều áp đủ rộng để cô và David không phải đứng trên thân xác đầy máu, biến dạng của Karen. Nước đã biến thành màu đỏ, sủi bọt thông qua một lỗ thông hơi khuất, vỗ nhẹ vào chân họ, trùm lên các ngón tay trắng bệch của Karen.

    Một phút, có thể ít hơn...

    Trong phòng thí nghiệm, Griffith dựa ngang lưng vào chiếc bàn, đôi tay khoanh lại tự mãn, quan sát. Đằng sau hắn, bức tranh về cái chết – Kinneson, John, và những ống hình trụ bằng thép sáng bóng chất đầy tạo vật của hắn – thiên tài quỷ quái.

    Chúng ta phải làm gì đó!

    Rebecca quay lại David, cầu nguyện rằng anh có sẵn một kế hoạch thiên tài nào đó, và, chỉ nhìn thấy sự nhẫn nhục và nỗi đau trong đôi mắt khi anh nhìn xuống xác của Karen, vai chùng xuống với nỗi đau thất bại.

    “David...”

    Anh nhìn lên, chán chường, vô vọng. “Tôi rất tiếc,” anh thì thầm. “Tất cả là lỗi của tôi.”.

    Bàn tay Karen nổi lềnh bềnh, những lọn tóc vàng ngắn bao quanh gương mặt đáng thương của cô. Rebecca giật chốt cửa trong vô vọng, cảm nhận được sức mạnh không gì lay chuyển được của nó, bị đóng chặt bởi Griffith. Nước lạnh thấm qua giày, vào mắt cá chân, mùi muối, mùi bóng tối và máu khiến cô càng hoảng sợ hơn, trong khi David thì thầm vô vọng.

    “Nếu tôi không ích kỉ như vậy... Rebecca, tôi xin lỗi, cô hãy tin là tôi không bao giờ có ý ...”

    Cô lay mạnh vai anh, hét lớn trong nỗi khiếp sợ gần như hoảng loạn “Được, đồng ý, anh là một thằng khốn, nhưng nếu Griffith phóng thích lũ virus, hàng triệu người sẽ chết!”

    Trong một giây, cô không nghĩ anh sẽ nghe cô, và cảm thấy nước đang từ từ dâng lên đến bắp chân, tim đập loạn xạ, và rồi đôi mắt tối sầm của anh bừng sáng, thế chỗ cho nét đờ đẫn. David nhanh chóng quan sát xung quanh căn phòng kín, và cô có thể thấy chất xám của anh đang làm việc, ánh mắt sắc bén dương như đã nói lên mọi chi tiết. Thép, cửa hầm kín, hàng rào dạng mắt lưới bên ngoài cánh cửa ngoài, như một chiếc lồng cá mập mòng, sâu 2 feet, nước lạnh sủi bọt, đã dâng cao hơn đầu gối, đầu và tay Karen đang nổi lên, dập dềnh ...

    “Cửa làm bằng thép, cửa sổ dày 2 inch làm bằng kính plexi, một khi cửa ngoài mở ra, vẫn còn một cái lồng....” Anh nhìn thẳng vào mắt cô, lộ vẻ tức giận, bị sốc, hối hận và lắc đầu. Cô thả tay xuống, toàn thân cô bắt đầu run lên vì lạnh, nhưng tâm trí cô tối sầm trong tuyệt vọng. David bì bõm lội lại gần cô, quàng tay quanh cô.

    “Vận may đưa cô đến gặp tôi,” Anh khẽ nói, chà xát tay cô trong khi răng cô bắt đầu đánh bò cạp, trong khi nước đã cuộn lên đến hông, trong khi bàn tay Karen quét vào chân cô....

    May mắn, Karen.

    Trái tim Rebecca dường như đông cứng lại. David vẫn giữ chặt cô, thì thầm cả triệu điều ước, anh biết đã quá trễ cho họ. Anh liếc vào phòng thí nghiệm và thấy Griffith vẫn đang quan sát họ, vẫn còn mỉm cười. Anh quay đi, lòng tràn ngập sự căm thù ảm đạm và vô dụng, trong khi làn nước lạnh cóng ngập quang thắt lưng.

    Quân sát nhân khát máu ...

    Rebecca thình lình đẩy mạnh ngực anh, lướt ra xa, chụp lấy xác Karen, ngón tay cô điên cuồng tìm kiếm bên trong áo lót của xác chết. Cô cười, tiếng cười khanh khách đầy kích động, vui mừng.

    - Cô ta điên rồi –

    - và cô lôi mạnh một vật tròn sẫm màu từ một trong các túi của Karen. Ngay khi thấy nó, David cảm nhận một sự kinh ngạc hoàn toàn quét ngang anh.

    “Chị ấy mang nó để cầu may,” Rebecca nói lập bập. “Nó còn xài được.”

    David cầm lấy trái lựu đạn và giữ nó sau lưng, tâm trí anh chạy đua lần nữa, đánh giá, Nước đã dâng đến thắt lưng anh và gần như tới ngực Rebecca

    – Cửa ngoài bật ra, kéo chốt và đi vào cái lồng, kéo cửa đóng lại-

    Họ có thể vẫn mất mạng, nhưng nếu làm trọn vẹn, họ sẽ không chết một mình.

    Griffith quan sát nước dâng lên, quan sát hai người diễn màn kịch thống thiết một cách lơ đãng - hắn đã nghĩ tới bình minh, và về vấn đề mang các hộp thiếc nặng lên trên gác. Hắn nghĩ việc này đang để thưởng thức, và làm tiêu tan cơn giận của hắn…

    Hai người đang có một màn kịch đẹp mắt. Cô gái, giận dữ vì sự hờ hững của Brit, tìm kiếm lối ra một cách tuyệt vọng – đương nhiên thôi. Một cái ôm sau cùng, và rồi hoảng sợ - cô ta giằng xé cái xác mang ký sinh T-virus, Brit an ủi cô ta, nhăn mặt, lo lắng cho cô ngay cả khi giòng nước tối đen cuối cùng đã dâng lên đến ngực. Buồn, quả là buồn. Đáng lẽ chúng không bao giờ nên đến đây, không bao giờ nên thử tìm đến ta...

    Bây giờ, người đàn ông nâng cô ta lên, làm việc một cách lâm ly để ngăn cản điều tất yếu, nước dâng lên ngang mặt kính của cửa hầm. Một khi chúng đã chết, hắn sẽ mở cái lồng, cho lũ Leviathan ăn bữa cuối trước khi trả tự do cho chúng, tự do bơi đến những vùng biển không tên và sống cuộc đời còn lại trong yên bình.

    Đại dương và đất liền là một, hắn rì rầm như mê sảng. Phản chiếu sự đơn giản, bản năng...

    Một thân xác nổi lờ đờ ngang qua mặt kính, và hắn thấy hai kẻ xâm nhập nâng mình lên khoảng giữa hai cánh cửa, cố gắng đoạt lấy những mẩu không khí cuối cùng. Một cặp đần độn thấy rõ. Thình lình hắn phát hiện ra mình chưa bao giờ quan tâm tìm hiểu chúng là ai, ai đã cử chúng đến đây ....

    Và nó chẳng còn là vấn đề nữa, đúng không nào?

    Buồng điều áp đã ngập đầy nước. Đèn báo trên bảng điều khiển thông báo cánh cửa ngoài đã được rút chốt. Xong rồi –

    -ngoại trừ việc họ đang vật lộn để trườn vào cái lồng, và một vật gì nho nhỏ rơi đập vào cửa sổ khi họ đóng cánh cửa lại sau lưng-

    Griffith nhăn mặt và...

    BÙM.

    Hắn chỉ còn đủ thời gian để biểu lộ nét hoài nghi trước khi cửa hầm sập lên người và dòng thác nước lạnh tựa băng đè bẹp hơi thở của hắn.
     
  20. Lioncoeur

    Lioncoeur Fire in the hole!

    Tham gia ngày:
    5/5/03
    Bài viết:
    2,645
    Chương 18
    Người dịch : Lioncoeur

    KHI LỰU ĐẠN NỔ, mọi thứ diễn ra nhanh tới mức Rebecca không kịp suy nghĩ. Chỉ có một cảm giác kinh hoàng bao trùm lên tất cả. Ánh lửa rực sáng và tiếng nổ vang dội khi cánh cửa rắn chắc sau lưng cô bắn tung đi, gây ra một tiếng thét uất nghẹn, hàng tỷ bong bóng nước sủi bọt trông như những hạt đậu, một áp lực phi thường xuất hiện trong sự lạnh giá và tăm tối. Nó diễn ra nhanh hơn bất cứ thứ gì, với một âm thanh tắc nghẽn kỳ dị.

    Bóng tối đen ngòm đang che phủ tâm trí của cô, quét sạch mọi thứ với những ánh chớp chói lòa và ép chặt lấy lồng ngực của Rebecca, buồng phổi của cô gần như bị nuốt chửng. Rebecca quẫy đạp liên hồi, và khi hai chân cô đã đuối sức thì những tia sáng chập chờn xuất hiện phía trên – không khí, không khí thuần khiết đến lạ thường đang táp vào khuôn mặt đã hết hơi của cô. Rebecca không kịp nghĩ gì nữa, cô há miệng ra nuốt lấy nuốt để đầy một họng dưỡng khí. Cơ thể cô khao khát níu lấy sự sống. Vị mặn của nước, những đợt sóng ấm áp đang rung chuyển, có tiếng vù vù lạo xạo phía trên cao, …

    ẦM!

    Một đợt sóng với sức đẩy kinh hồn làm Rebecca bắn ra phía sau, nước ngập qua mũi và đổ xuống đầu cô như mưa.

    Rebecca hớp không khí, quay lộn vòng, bây giờ cô mới thực sự hoàn hồn.

    David! Chuyện gì …

    “Rebecca!” Một tiếng kêu tắc nghẹn vang lên đâu đó trong bóng tối. Tiếng vù vù bây giờ nghe rõ hơn, chính là …

    ẦM!

    Một đợt sóng nữa, một dòng nước xiết nữa trùm lên Rebecca, tìm cách nhấn chìm cô như đã làm với Griffith, và cô nhìn thấy có ánh sáng xuyên qua màn nước – một chùm sáng to lớn xé toang không gian tối tăm hoang dã của vịnh. Một chiếc tàu với động cơ mạnh mẽ đang lướt về phía cô trên mặt biển dậy sóng.

    ”Rebecca!” Tiếng gọi tuyệt vọng của David phát ra từ bên trái cô.

    ”Em đây …”

    ẦM!

    Lần này Rebecca có thể nhìn thấy vụ nổ, nhìn thấy cột nước khổng lồ in bóng dưới luồng ánh sáng trước khi đợt sóng đẩy cô lùi lại, che khuất tầm nhìn với những bọt nước trắng xóa. Cô nuốt nhanh một hơi dưỡng khí trước khi cột nước đổ ập xuống người, nước bắn tung tóe trên mặt biển động dữ dội.

    Đạn dược ở phía dưới, chúng bị kích nổ phía bên dưới …
    Có phải Umbrella đến chăng?


    Con tàu đến cách đó hơn ba mươi mét thì dừng lại, ánh đèn soi rọi ngang qua mặt nước. Một luồng sáng di chuyển đến nơi nước bắn tung tóe gần chỗ cô và phát hiện thấy David, đang kiệt sức và khuôn mặt ướt đẫm nước.

    Một giọng nam cất lên từ phía con tàu và hướng về phía họ. “Đây là Đội trưởng Blake của sở S.T.A.R.S Philadelphia! Nghe rõ trả lời!”

    S.T.A.R.S?

    Blake tiến tới, giọng anh ta lớn hơn khi chiếc tài đến gần hơn. ”Dưới nước không an toàn! Chúng tôi đến để đưa các bạn ra!”

    David lên tiếng, giọng anh gần như nghẹt thở và sắp đứt hơi. ”Trap, David Trapp đội Exeter, và Rebecca Chambers…”

    Khi Blake đáp lại, anh ta nói những điều tuyệt vời, hết sức tuyệt vời mà Rebecca từng được nghe.

    “Burton gởi chúng tôi đến để tìm các bạn! Giữ chắc nhé!”

    Barry. Cảm ơn Chúa, Barry!

    Sau khi bị vắt kiệt sức và suy sụp tinh thần bởi những mất mát cũng như sợ hãi sau một đêm dài kinh khủng, giờ đây Rebecca chỉ còn đủ sức để mỉm cười.

    Chính lúc đó cô nghe thấy một tiếng rên rỉ nghèn nghẹn từ phía sau.

    Chỉ có bóng tối, nhuốm một màu đỏ rực kèm theo sự đau đớn. Trong bóng tối, không có niềm vui cũng không có hòa bình; anh hoàn toàn cô độc và đang chiến đấu, đang vùng vẫy điên cuồng để tìm tới đích đến tại một nơi xa xăm đầy ánh sáng. Anh biết phải tìm tới đó càng nhanh càng tốt, nhưng những mê lộ kỳ dị và những hình hài khủng khiếp đã chắn mất lối đi, không cho phép anh nhanh hơn. Một bóng ma, một người lính, một cơn thịnh nộ. Tiếng cười trong trẻo của người phụ nữ mà anh biết giờ không còn nữa, và những cặp mắt chết chóc biến đi theo ánh chớp của một vụ nổ tóe lửa vang rền. Những cặp mắt anh biết rõ nhưng không dám nhớ tới …

    Mê lộ đang vẫy gọi anh, mời mọc anh thám hiểm sâu hơn để tìm tới tận cùng bóng tối – nhưng con đường ấy càng khiến cho cơn đau dữ dội hơn – và khi anh đã quyết định ngừng tranh đấu, mặc cho bóng tối bao phủ thì một ánh chớp soi rọi lên anh trong tiếng sét nổ đinh tai.

    Anh bị bao phủ giữa giá lạnh và biển nước đen ngòm, rồi bị dựng dậy bởi một cơn đau thấu xương – cơn đau mà anh đã trải qua khi phải chống chọi lại thế lực hắc ám. Anh thấy mình quay cuồng trong không khí còn buồng phổi gần như bị đóng băng vì lạnh, lạnh đến nỗi anh không còn thấy đau nữa, nhưng rồi anh lại thở được, những mảnh gỗ bập bềnh lởm chởm dưới những ngón tay mang đến cho anh một luồng sinh khí. Anh vẫn còn sống và hít thở một cách nặng nhọc, mặc dù anh ước gì mình chết đi cho rồi, sau lưng thì đau như dần và tiếng của David vang vang đâu đó xen lẫn tiếng nước bì bõm. Dẫu sao thì anh cũng cảm nhận được rằng sinh mệnh chính là thứ đáng giá nhất.

    Anh cố la to lên, nhưng chỉ thốt ra được những tiếng rên rỉ kiệt sức. Có ánh sáng chập chờn lóe lên đột ngột và rồi lại tối đen, nhưng cũng đú để anh kịp hiểu chuyện gì đang xảy ra. Đau đớn và có sự chuyển động, cảm giác bồng bềnh và thứ gì đó rắn chắc áp lên mặt. Lạnh lẽo và lại có chuyển động, có tiếng lột vải và xé giấy.

    Nhiều giọng nói kích động đang yêu cầu giữ trật tự, và còn có tiếng kêu khóc. Khi nhìn ra xung quanh, anh thấy bóng dáng chiếc áo S.T.A.R.S cúi xuống phía anh, một tay cầm túi IV còn tay kia cầm kim.

    Hy vọng đó là thuốc giảm đau, anh cố lên tiếng, nhưng một lần nữa anh chỉ phát ra tiếng rên rỉ.

    Một giây sau đó, anh thấy hai cái bóng nhợt nhạt lượn quanh, trong khi bóng áo S.T.A.R.S tiếp tục hồi sức bằng đôi tay nhẹ nhàng và ấm áp. Những cái bóng kia chính là David và Rebecca, mắt họ đầy vẻ u ám, nước chảy nhỏ giọt xuống từ trên tóc, khuôn mặt lộ vẻ mệt mỏi và thất trận.

    ”Anh sẽ ổn thôi, John.” David khẽ nói.

    ”Cứ yên tâm nghĩ ngơi. Mọi chuyện đã xong.”

    Một luồng hơi ấm thoái mái dễ chịu bắt đầu chạy khắp thân thể anh, đẩy cơn đau đi thật xa. Trước khi chìm vào bóng tối quen thuộc, anh nhìn vào mắt David và cố gắng thốt ra những từ mà anh bất chợt nghĩ là mình nên nói. Tốn rất nhiều sức lực, nhưng cần phải nói.

    ”Hai người thật là khắc tinh của những bọn vô lại,” anh lầm bầm. “Thật đấy…”

    Rồi John mơ màng thiếp đi trong tiếng cười khoan khoái.

    Người y tá trung niên của S.T.A.R.S mang John vào trong cabin cùa chiếc tàu dài ba mươi foot, sau đó chỉ quay ra một lần để cho họ biết mọi việc đều ổn. Gãy hai cái xương sườn, một vài vết thương sâu và phổi bị thủng, nhưng họ đã sơ cứu John kịp lúc để tình hình không xấu thêm, và anh ta đang ngon giấc. Trực thăng cứu hộ đã được triệu tập và sẽ đến nơi nhanh chóng, người y tá cam đoan John sẽ hồi phục hoàn toàn. David đã khóc một ít khi được tin này mà chẳng hề tỏ ra ngượng ngùng.

    David choàng tay qua người Rebecca, còn cô gái đang tựa vào ngực của anh khi bầu trời tối mịt dần dần rực lên một màu xanh thẫm thanh tao. Không ai lên tiếng, họ đã quá mệt mỏi tới mức chẳng làm được gì khác ngoài việc nhìn những người kia làm việc, khuân đồ đạc và tìm kiếm các kết quả, đi ra đằng sau rồi ra đằng trước và lại ra sau nữa. Blake đã hứa sẽ gởi thợ lặn xuống tìm kiếm những thùng chứa của Griffith khi nào biển lặng và John lấy lại sức. Có hai bộ đồ lặn để sẵn trên bong, được chuẩn bị cẩn thận bởi một thành viên Alpha trẻ mà David quên mất tên gọi. Anh ta làm David và Rebecca nhớ đến …

    Bằng cách nào đó, suy tưởng về Steve không làm David đau khổ như anh đã tưởng. Đó là một sự tổn hại nặng nề - Karen và Steve đã mất, nhưng khi nghĩ đến những gì họ đã nỗ lực ngăn cản, những gì có phần của họ trong đó …

    …Không phải hoàn toàn vô nghĩa. Chúng ta đã chặn đứng cơn điên loạn của Griffith, ngăn hắn giết hàng triệu người vô tội. Vì Chúa, chắc họ cũng rất hãnh diện…

    Nỗi đau thật khó nguôi ngoai, nhưng ít ra anh không bị tội lỗi dằn vặt như đã nghĩ. Anh biết mình sẽ phải chịu trách nhiệm về cái chết của họ trong một thời gian dài, nhưng anh cũng biết rằng rốt cuộc mình sẽ có thể chấp nhận được điều đó. Anh không chắc bằng cách nào, nhưng những giọt nước mắt rơi ra trước lời bộc bạch của John chính là một một bước tiến theo chiều hướng đó.

    Ý nghĩ mệt mỏi của David quay sang Umbrella, về vai trò của họ đối với sự điên rồ của Griffith. Cho dù họ không định để cho các nhà nghiên cứu hóa điên, nhưng họ đã gây ra tình huống dẫn tới điều đó; hàng động bất chấp mạng sống con người đã tạo ra những tên gàn như Griffith. Và nên nhớ nếu không có Umbrella, các nhà khoa học đã không tiếp cận với T-Virus…

    …Trước sau gì, họ cũng phải trả giá cho hành động đó. Không phải hôm nay hay ngày mai, nhưng sớm thôi…

    Có lẽ Trent sẽ lại giúp họ. Có lẽ Barry và Jill cùng Chris sẽ khám phá nhiều thứ ở Raccoon. Có lẽ…

    Rebecca ép người sát vào David, hơi thở cô làm y phục của anh ấp lên, thậm chí khô đi. David thả lỏng tư tưởng và không suy nghĩ thêm nữa. Anh đã rất, rất mệt mỏi.

    Khi những tia sáng đầu tiên của vầng thái dương ló dạng phía chân trời, Blake thông báo biển đã lặng, nhưng Rebecca và David đều không nghe thấy; cả hai đã chìm vào giấc ngủ mơ màng dưới ánh sáng chập chờn của một ngày mới.
     

Chia sẻ trang này