Toàn cảnh World war II

Thảo luận trong 'Thảo luận chung' bắt đầu bởi NapoleonBonapart, 1/12/06.

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. NapoleonBonapart

    NapoleonBonapart Mr & Ms Pac-Man

    Tham gia ngày:
    16/11/06
    Bài viết:
    161
    Nơi ở:
    đảo Corsica
    Tôi rất đam mê về chiến trang thế giới (I&II) nhưng tài liệu về cuộc chiến này của tôi rất ít, mấy huynh ai có nhiều tài liệu gửi lên cho mọi người cùng tìm hiểu về WWII_ cuộc chiến đẫm màu nhất của nhân loại nhé.

    Đệ nhị thế chiến (1939-1945) đã diễn ra trên nhiều mặt trận: mặt trận Tây Âu (mặt trận phía Tây); mặt trận Xô- Đức (mặt trận phía Đông); mặt trận Bắc phi; mặt trận châu Á – Thái Bình Dương và mặt trận trong lòng địch của nhân dân các nước bị phát xít chiếm đóng, trong đó, mặt trận chủ yếu, quyết định đối với toàn bộ tiến trình của Đệ nhị thế chiến là Mặt trận Xô - Đức.


    Mặt trận chủ yếu, quyết định đối với toàn bộ tiến trình của Đệ nhị thế chiến là Mặt trận Xô - Đức.

    Chiến trường châu Âu

    Đức bành trướng và sự ngăn chặn của Liên Xô
    Ngày 1/9/1939, chỉ một tuần sau khi Hiệp ước Molotov-Ribbentrop được ký kết, Đức xâm lược Ba Lan, khiến Anh và Pháp phải tuyên chiến với Đức để làm tròn bổn phận theo hiệp ước với Ba Lan. Ngày 17/9, lực lượng Liên Xô tiến vào Ba Lan từ phía Đông, với lý do bảo vệ. Sự xâm nhập từ phía Đông của một nước mạnh khiến chính phủ Ba Lan phải ra lệnh quân đội rút khỏi đất nước và tổ chức lại ở Pháp. Đến ngày 6/10, Ba Lan đã bị Đức, Liên Xô và các đồng minh của các nước này chiếm giữ hoàn toàn.

    Ngay sau đó, lực lượng Liên Xô bắt đầu tiến quân vào nhằm giải phóng các nước cộng hoà gần Biển Ban-tích. Cũng vào lúc này, Đức và các nước Đồng Minh phương Tây đang trải qua một sự yên tĩnh buồn cười, không một phía nào chịu ra tay trước. Sự yên tĩnh này kết thúc khi cả hai bên đều tính giành các nước Scandinavi còn lại và các khu mỏ quặng sắt quý giá ở Thụy Điển.

    Tháng 4/1940, hai phía ngẫu nhiên bắt đầu hành quân cùng lúc và kết quả là Đức chiếm đóng được Đan Mạch trong khi một cuộc xung đột xảy ra tại Na Uy (xung đột đầu tiên giữa quân Đồng Minh phương Tây và các Trục quốc). Cuộc xung đột tại Na Uy cho thấy lực lượng hai phía là cân bằng, diễn biến nghiêng về phía Đức khi nước này khởi sự một cuộc tấn công vào Pháp Ngày 10 tháng 5, bắt buộc các lực lượng Anh và Pháp đang ở Na Uy phải rút lui.

    Cuộc tấn công vào Pháp và các nước Hà Lan, Bỉ và Luxembourg diễn ra rất nhanh chóng và hiệu quả. Trong vòng một tháng lực lượng Anh phải rút khỏi lục địa. Ý, với ý định thâu chiếm lãnh thổ, tuyên chiến với Pháp (nay đã tê liệt). Đến cuối tháng 6/1940, Pháp đã đầu hàng, bị lực lượng Đức chiếm đóng hầu hết phần lớn các lãnh thổ, phần còn lại do chính quyền bù nhìn Vichy điều hành.

    Sau khi Pháp sụp đổ, chỉ còn nước Anh chống lại Đức. Đức khởi đầu một cuộc tấn công hai nhánh vào Anh. Nhánh thứ nhất là những cuộc hải chiến trên Đại Tây Dương giữa các tàu ngầm U-Boot nay có thể sử dụng các cảng Pháp và Hải quân hoàng gia Anh. Các tàu ngầm được dùng để cản trở việc đưa hàng hoá vào theo đường biển. Nhánh thứ hai là một cuộc không chiến trên bầu trời Anh dùng không quân Luftwaffe để tiêu diệt Không quân hoàng gia của Anh, với ý định sử dụng ưu thế không gian để đổ bộ. Đến năm 1941, khi Anh vẫn còn đứng vững và vì một số nỗi lo âu khác nổi lên, Đức rút lực lượng không quân ra khỏi nước Anh.

    Mặt trận phía đông
    Cuộc tấn công kịch liệt nhất trong chiến tranh này xảy ra tháng 6 năm 1941, khi Đức cắt đứt thỏa thuận không xâm lược với Liên Xô và tiến hành chiến dịch Barbarossa, một kế hoạch tấn công khổng lồ để chiếm đóng Moscow trước cuối năm. Các lực lượng Đức tiến lên nhanh chóng, bắt giữ được hàng triệu và tiêu diệt vô số quân Xô Viết. Họ tiến được một khoảng cách khá xa, nhưng cuối cùng không chạy đua được với thời gian, cho nên không hoàn thành mục tiêu. Khi mùa đông đến, Liên Xô phản công, bắt Đức phải dừng lại ngay tại ngoại ô Moscow.

    Tuy bị nhiều thất bại vào cuối năm 1941 nhưng Đức tái tấn công vào năm 1942, tiến đến sát dãy núi Caucasus, nhưng cũng bị Liên Xô phản công vào mùa đông, làm nhiều quân Đức chết, phản ánh qua việc tập đoàn quân số 6 Đức bị tiêu diệt tại Stalingrad. Trong mùa hè năm 1943, trận chiến vòng cung Kursk đã tiêu diệt nhiều đơn vị Đức không thể thay được, nhất là các đơn vị tăng thiết giáp.

    Từ đó cho đến khi hết chiến tranh, quân Liên Xô có thể hành quân tấn công tại mặt trận phía Đông suốt năm. Đến cuối năm 1944, quân Liên Xô đã giành lại được phần lớn số lãnh thổ bị Đức chiếm đóng và ngày càng đẩy lùi lực lượng ngày càng suy yếu của Đức về phía tây, cho đến khi cuối cùng xuyên qua Đông Âu và ngay cả Đức khi chiến tranh sắp kết thúc. Nhiều đồng minh của Đức bị sụp đổ khi lực lượng Liên Xô tiến vào Rumani, Hungari, và khu vực Balkan. Sau cùng quân Liên Xô đã khống chế được Berlin vào năm 1945.

    Chiến trận tại phía Đông có sự tham gia của nhiều nhân lực và vật lực hơn bất cứ mặt trận nào khác trong chiến tranh. Các cuộc tấn công và phản công bao phủ hàng vạn kílômét vuông, đưa đẩy mặt trận qua hai phía đông tây trong suốt ba năm. Tính hết, Đức dành 80% phí tổn chiến tranh vào mặt trận phía Đông. Hầu hết các lực lượng của Liên Xô cũng như các viện trợ quân sự các nước Đồng Minh gửi đến Liên Xô được dồn vào mặt trận phía Đông.

    Mặt trận phía Tây
    Ngày 6 tháng 6 năm 1944 các lực lượng Đồng Minh phương Tây đổ bộ vào bờ biển Normandy, một lãnh thổ của Pháp đang bị Đức chiếm đóng. Khi chiến dịch này thành công, họ tiến sâu vào Pháp, đuổi quân Đức ra khỏi Pháp, nhưng thường bị thiếu tiếp tế cũng như bị quân Đức đang rút lui cản trở. Các cuộc đổ bộ khác tại miền nam Pháp cuối cùng giải phóng nước này.

    Khi tiến đến ranh giới Đức, lực lượng Đồng Minh phải dừng lại để chờ tiếp tế. Việc này tạo một cơ hội cho lực lượng Đức củng cố phòng thủ chống lại cuộc tấn công kế tiếp. Việc này dẫn đến Chiến thuật Vườn Chợ, khi quân Đồng Minh cố gắng xuyên thủng Hà Lan và qua sông Rhine để kết thúc chiến tranh vào năm 1944. Chiến thuật này bị thất bại và lực lượng Đồng Minh tiến đến Đức chậm hơn đã dự kiến.

    Lực lượng phe Trục thua cuộc tại châu Âu
    Tình hình Đức cuối năm 1944 là vô vọng. Các Đồng Minh phương Tây đang tiến vào biên giới Đức từ phía tây, chỉ tấn công thêm một lần nữa là chiếm được khu vực công nghiệp Rhineland. Liên Xô cũng đang ở một vị trí tương tự ở phía đông, không lâu sẽ vào đến tận Berlin. Các trận đánh bom hàng loạt từ Anh và Mỹ đã biến nhiều khu vực Đức thành gạch vụn, khiến ngành công nghiệp phải giải tán.

    Đang bị bao vây từ các phía đông, tây và trên cao, Hitler đánh canh bạc cuối cùng để hy vọng không thua cuộc. Để tái tạo lại chiến thuật thành công vào năm 1940 đối với các nước Hà Lan, Bỉ và Luxembourg, các lực lượng Đức tấn công vào giữa mùa đông để chia sẻ các lực lượng Đồng Minh ở Bỉ. Phòng tuyến Đồng Minh bị uốn cong, nhưng không bị phá vỡ và cuối cùng phe Đồng Minh giành thắng lợi trong cuộc tấn công Ardennes.

    Tại phía Đông, Đức giành hết mọi nỗ lực cuối cùng để phòng thủ thủ đô. Việc này cũng bị thất bại và lực lượng Liên Xô chiếm đóng Berlin vào cuối tháng 4 năm 1945. Sau khi Berlin sụp đổ và Hitler tự tử, Đức chỉ còn lại là một mảnh đất nhỏ tại châu Âu từ mũi bắc Na Uy cho đến phần trên của Ý. Ngày 8/5/1945, các lực lượng Đức đầu hàng vô điều kiện.

    Chiến trường châu Á-Thái Bình Dương

    Chiến trường châu Á-Thái Bình Dương khác với chiến trường châu Âu rất nhiều. Chiến trường này hầu hết được đánh tại các đảo Nhật Bản đã chiếm đóng trong khu vực Tây Thái Bình Dương và Đông Á cho nên hải chiến và các trận đánh gần biển xảy ra nhiều lần hơn các trận đánh trên đất liền như ở châu Âu.

    Quá trình bành trướng của Nhật Bản
    Chiến tranh Trung-Nhật đã đang tiếp diễn tại Đông Á khi Đệ nhị thế chiến bắt đầu tại châu Âu, cho nên một vài sử gia cho rằng ngày Nhật xâm lăng Trung Quốc (ngày 7/7/1937) là ngày bắt đầu chiến tranh tại chiến trường Thái Bình Dương. Tuy nhiên, nếu tính là một phần của Đệ nhị thế chiến, thì ngày 7/12/1941 thường được nhắc đến như là ngày bắt đầu, khi Nhật tuyên chiến với Mỹ và các nước Đồng Minh bằng cách tấn công bất ngờ vào Trân Châu Cảng (Pearl Harbor), Phillipines và một số thuộc địa của các cường quốc châu Âu tại Đông Á và Tây Thái Bình Dương.

    Nhật hành động nhanh chóng để chiếm các đảo ở Thái Bình Dương có giá trị phòng thủ nhằm làm cạn ý chí chiến đấu của Mỹ. Tại Trung Quốc và Đông Nam Á, Nhật tiếp tục bành trướng các khu vực được nó cai quản nhằm kịp khai thác tài nguyên để sử dụng.

    Sáu tháng sau khi giao chiến, các hạm đội Nhật và Mỹ đánh nhau giữa Thái Bình Dương. Sau Trận chiến Midway, nòng cốt hạm đội tàu sân bay của Nhật đã bị tàn phá, và quân Nhật không tiến được nữa trên Thái Bình Dương. Nhật tiếp tục tìm cách trả đũa, nhưng quân Mỹ dùng biện pháp đánh theo vòng ngoài của Nhật, cùng lúc nhảy từ đảo này qua đảo nọ để đẩy Nhật phải lui lại.

    Nhật Bản thua cuộc
    Khi Nhật bành trướng, họ để lại nhiều tiền đồn phòng thủ tại mỗi hòn đảo họ kiểm soát trên Thái Bình Dương. Kế hoạch của Mỹ để đối phó với các đảo này là chiếm những đảo cốt yếu cho việc tiến đến Nhật, trong khi làm giữ vững các đảo khác không bị chiếm. Hải quân lục chiến Mỹ phải đánh nhiều trận đấu đẫm máu trên những hòn đảo này để chiếm giữ những đảo và sân bay mà quân đội có thể tiến tới.

    Tại phía nam của cuộc bành trướng của quân đội Nhận Bản, trên đảo New Guinea, Nhật đã bị quân Australia chặn lại, không chiếm giữ nổi toàn bộ đảo. Hai lực lượng này đánh nhau trong các khu rừng trong những hoàn cảnh khốc liệt để giành giật đảo này. Trong khi New Guinea không quan trọng lắm, nhưng quân Australia sợ sau khi Nhật chiếm giữ đảo này, họ sẽ bị đe dọa.

    Tại Đông Nam Á, Nhật đã tiến nhanh trong các thuộc địa của Anh cho đến khi bị kháng cự mãnh liệt tại Myanmar. Quân Anh, trong đó có nhiều đơn vị người Ấn Độ, đã đuổi lùi quân Nhật tại trận đánh Kohima-Imphal và vì thế Nhật không đe dọa được Ấn Độ và các đường tiếp tế cần thiết cho quân Trung Quốc đang đánh các lực lượng Nhật tại đó.

    Đến gần cuối chiến tranh, Mỹ chiếm được các căn cứ gần Nhật và bắt đầu ném bom vào các đảo nước này. Tuy không mạnh mẽ như tại Đức, việc ném bom rất có hiệu quả tại vì nhà cửa ở Nhật dễ sập hơn và người Nhật ít chuẩn bị trước hơn với mối đe dọa này. Thêm vào đó, việc mất các thuộc địa và quan trọng hơn là việc mất hàng hải đã làm tê liệt khả năng thu thập tài nguyên cần thiết. Vì thế, ngành công nghiệp Nhật không thể sản xuất bằng mức mà Đức có thể duy trì được vào lúc chiến tranh sắp chấm dứt.

    Quân đội Liên Xô sau khi kết thúc chiến tranh ở Đức đã tuyên bố chiến tranh với Nhật và nhanh chóng đánh bại tập đoàn quân Quan Đông của Nhật đang đóng ở Mãn Châu, Trung Quốc. Quân Đồng Minh có kế hoạch đổ bộ vào Nhật, nhưng sự phát triển bom nguyên tử tại Mỹ đã thay đổi kế hoạch. Hai quả bom này đã được thả xuống hai thành phố Nagasaki và Hiroshima tại Nhật.

    Thấy rõ không thể thắng được, quân Nhật đã phải đầu hàng quân Đồng Minh vào ngày 2/9/1945 - sáu năm và một ngày sau khi Đức xâm lược vào Ba Lan. Tuy nhiên hậu quả của hai vụ ném bom này thì cho đến gần đây, những người dân Nhật vẫn phải gánh chịu.

    Chiến trường Địa Trung Hải

    Trong khi Đức đang tập trung lực lượng đánh Anh thì Ý mở cuộc tấn công Hy Lạp Ngày 28 tháng 10 năm 1940. Cuộc xâm lược này hoàn toàn thất bại: Hy Lạp chẳng những đánh đuổi Ý đến Anbani, mà còn tham chiến theo phía Đồng Minh (trước đó Hy Lạp trung lập), cho phép Anh đổ bộ tại nước này để viện trợ và phòng thủ. Trong khi Ý đang đương đầu với Hy Lạp, nước Nam Tư láng giềng bị một cuộc đảo chính ngày 27/3/1941, đồng thời trục xuất chính quyền đã ký Hiệp ước Ba Bên chỉ ba ngày trước.

    Trong khi bị bất phân thắng bại với Anh trên bầu trời đảo này, Đức cho một số quân đi để làm ổn định khu Balkan. Kế hoạch được đặt ra, và Đức mở cuộc tấn công cả hai nước Nam Tư và Hy Lạp Ngày 6 tháng 4, quét sạnh và chiếm giữ khu vực này sau trận đánh tại Crete.

    Chiến dịch Bắc Phi

    Tháng 8 năm 1940, với lực lượng lớn của Pháp tại Bắc Phi chính thức trung lập trong cuộc chiến, Ý mở một cuộc tấn công vào thuộc địa Somali của Anh tại Đông Phi. Tháng 9 xâm lược vào Ai Cập (cũng đang dưới sự kiểm soát của Anh). Cả hai cuộc xâm lược này đều thất bại sau khi lực lượng Anh đuổi Ý ra khỏi cả hai khu vực và chiếm được nhiều thuộc địa Ý, trong đó có Đông Phi của Ý và Lybia.

    Với sự thất bại của Ý, và thấy phe Trục có nguy cơ bị đuổi khỏi toàn bộ Phi Châu, Đức gửi một số đơn vị của Deutsches Afrikakorps dưới sự chỉ huy của Erwin Rommel đến Lybia để tăng viện cho đồng minh của mình Tháng 2 năm 1941. Đơn vị này, cùng với quân Ý, đã đánh một trận đánh ác liệt ven bờ biển Cyrenaica với lực lượng Anh vào năm 1941 và 1942. Cùng với trận chiến này, Hải quân hoàng gia Anh và Regia Maria của Ý cũng đánh nhau để giành tuyến đường tiếp tế trên Địa Trung Hải, điển hình là trận đấu tại căn cứ quan trọng tại Malta.

    Vào đầu năm 1942, việc Anh thắng lợi trong cuộc đánh bại lực lượng Regia Maria khiến phía Đồng Minh thêm quân nhu và vật chất. Việc này cho phép các lực lượng Anh đẩy mạnh sau Trận chiến El Alamein, chiếm gần hết toàn bộ Lybia và đuổi quân Trục vào Tunisia. Tháng 11 năm 1942, tình trạng càng tệ hơn cho quân Trục khi Mỹ thực hiện Chiến dịch Bó Đuốc, đổ bộ vào Marocco, bao vây các lực lượng phe Trục. Cho đến tháng 5 năm 1943, toàn bộ các lực lượng phe Trục tại Bắc Phi đã bị đánh bại sau Chiến dịch Tunisia.

    Trong lúc đó, tại Trung Đông, lực lượng Đồng Minh tấn công vào Syria và Lebanon, hai khu vực đang dưới sự kiểm soát của Pháp, cũng như Iraq, nơi chính quyền có thiện cảm với Đức. Việc này giúp lực lượng Đồng Minh củng cố quyền lực trong khu vực này.

    Chiến dịch Ý

    Với khu Bắc Phi được củng cố, các lực lượng Anh-Mỹ đổ bộ vào đảo Sicily trong năm 1943, bắt đầu một cuộc tấn công vào phần "bụng mềm phía dưới của châu Âu". Cuộc tấn công vào Sicily thành công, khiến chính quyền của Mussolini sụp đổ và chính phủ mới của Ý ký hiệp định đình chiến với quân Đồng Minh. Các lực lượng Đức can thiệp để quân Đồng Minh không giành được toàn bộ Ý. Sau cuộc đổ bộ tại Salerno, tiến trình hành quân của Đồng Minh bị chậm lại bởi địa thế khó khăn đang được quân Đức có kinh nghiệm hơn chống giữ.


    Các giai đoạn chính của Đệ nhị thế chiến (1939-1945)

    Từ 1939 đến 1945, Đệ nhị thế chiến đại để đã trải qua 5 giai đoạn:
    1- Giai đoạn thứ nhất: từ 1/9/1939 (ngày Đức tấn công Ba Lan, mở đầu đại chiến) đến 22/6/1941 (ngày phát xít Đức tấn công Liên Xô).
    2- Giai đoạn thứ hai: Từ ngày 22/6/1941 đến ngày 19/11/1942 (ngày mở đầu cuộc phản công ở Stalingrad).
    3- Giai đoạn thứ ba: Từ 19/11/1942 đến ngày 24/12/1943 (ngày mở đầu cuộc tổng phản công của Hồng quân Liên Xô trên khắp các mặt trận).
    4- Giai đoạn thứ tư: Từ 24/12/1943 đến ngày 9/5/1945 (ngày phát xít Đức đầu hàng, chiến tranh kết thúc ở châu Âu).
    5- Giai đoạn thứ năm: Từ 9/5/1945 đến ngày 14/8/1945 ( ngày phát xít Nhật đầu hàng, Đệ nhị thế chiến chấm dứt).
     
  2. [Rest In Peace] Panzerklein

    [Rest In Peace] Panzerklein 16 July 2021

    Tham gia ngày:
    27/7/06
    Bài viết:
    8,577
    Nơi ở:
    Inferno
    Chú Napoleon lấy ở đâu thì phải khi nguồn chứ. Cái này của tui lấy bên box Lịch sử văn hóa của 4rum ttvnol, chắc chú smile_candy này chôm từ wikipedia quá.


    Các nước tham chiến và hậu quả

    Tướng Mỹ Douglas McArthur ký nhận đầu hàng vô điều kiện của NhậtTất cả mọi quốc gia trên thế giới đều bị Đệ nhị thế chiến ảnh hưởng ít nhiều. Phần lớn đã tham chiến theo phía Đồng Minh hay phe Trục, và một số đã theo cả hai. Một số nước được thành lập vì chiến tranh, và một số không tồn tại được.

    Một số quốc gia tham chiến quan trọng nhất được liệt kê sau đây:

    Đức: Cường quốc chính của phe Trục tại châu Âu, chiến tranh bắt đầu khi Đức xâm lược Ba Lan, và chiến tranh chấm dứt tại chiến trường châu Âu sau khi Đức đầu hàng.
    Pháp: Lực lượng chính của Đồng Minh tại lục địa châu Âu, Pháp đã tuyên chiến với Đức sau việc xâm lược Ba Lan. Pháp không hăng hái trong việc tham chiến và không chống cự nổi lực lượng Đức sau khi bị xâm lược vào năm 1940. Khi chính quyền Pháp bị sụp đổ, một chính quyền bù nhìn được thành lập, nhưng một số thuộc địa của Pháp vẫn trung thành với phía Đồng Minh và lực lượng Pháp Tự do.
    Anh: Trụ cột của phía Đồng Minh, Anh và các nước trong Liên hiệp Anh như Canada, Cộng hòa Nam Phi, Úc và New Zealand, không chịu thua Đức ngay vào lúc cao điểm của lực lượng Đức. Trong khi Anh không có khả năng sản xuất như Mỹ hay có nhân lực như Liên Xô, họ là một thành phần chính trong việc chiến thắng của lực lượng Đồng Minh trên cả hai chiến trường.
    Ý: Một đồng minh của Đức vào ban đầu, Ý chỉ tham chiến sau khi số phận của Pháp đã an bày. Nỗ lực chiếm Hy Lạp và Ai Cập thất bại, thêm vào đó nhiều thất bại hải quân tại vùng Địa Trung Hải đã cho thấy Ý không đủ chuẩn bị cho cuộc chiến tranh này. Sau khi bị quân Đồng Minh xâm chiếm, Ý bị sụp đổ, với một chính quyền mới theo phía Đồng Minh.
    Liên Xô: Đã ký thỏa thuận không xâm lược với Đức và có ý xâm chiếm Phần Lan. Tuy nhiên, sau khi Đức thình lình tấn công vào năm 1941, Liên Xô theo phía Đồng Minh. Liên Xô bị nhiều tổn thất trước quân đội Đức, nhưng cuối cùng cũng thay đổi chiều hướng và chiếm đóng Berlin để chiến thắng tại châu Âu.
    Nhật Bản: Một trong những cường quốc phe Trục, Nhật Bản có lý do tham chiến riêng. Không đủ tài nguyên, Nhật đã nỗ lực giành tài nguyên từ khu vực tây Thái Bình Dương và Đông Á. Xui thay, họ không đủ nghị lực để đánh quân Đồng Minh, và đã bị đẩy lùi, và cuối cùng bị thả bom nguyên tử, khiến chiến tranh kết thúc.
    Trung Quốc: Không còn nhận dạng là một quốc gia được nữa khi chiến tranh bắt đầu, Trung Quốc đã nhận lãnh đòn chủ nghĩa quân phiệt của Nhật trên một thập kỷ. Cả hai phía Quốc dân đảng, với sự ủng hộ của Hoa Kỳ, và phía Cộng sản, dùng cách đánh du kích đã kháng cự chống Nhật.
    Hoa Kỳ: Đang phân vân về vất đề tham chiến, Hoa Kỳ bị cuốn vào chiến tranh khi Nhật tấn công bất ngờ và Đức tuyên chiến. Hoa Kỳ dùng khu công nghiệp an toàn để tiếp tế tất cả các nước Đồng Minh và đã tạo lực lượng và duy trì nỗ lực tại châu Âu và Thái Bình Dương.
    [sửa]
    Tóm tắt
    Đệ nhị thế chiến là một cuộc xung đột vũ trang lớn nhất lịch sử. Không cuộc xung đột nào trước đó hay sau đó bao gồm số nước tham gia nhiều hơn, ảnh hưởng diện tích đất lớn hơn, hay giết nhiều mạng nguời và phá hoại nhiều hơn. Tuy nhiên, sự lớn lao của cuộc chiến này chỉ là một trong nhiều khía cạnh nổi bật nhất của nó. Một số khía cạnh khác đáng được chú ý là:

    Ảnh hưởng thế giới lâu dài: Hầu hết các quốc gia đã theo phía này hay phía kia trong chiến tranh. Một số quốc gia theo cả hai phía vào các thời điểm khác nhau. Mọi lục địa có người ở, trừ Nam Mỹ, đều có trận chiến. Ngay cả các nước trung lập cũng bị ảnh hưởng sâu sắc trong chiến tranh và sau chiến tranh.
    Phát triển kỹ thuật: Trong nhiều lĩnh vực kỹ thuật, sự tiến triển rất nhanh chóng vì chiến trường có nhu cầu cải tiến kỹ thuật. Diễn tiến này có rất rõ trong trong các lĩnh vực kỹ thuật quân sự, từ máy bay đến xe cộ và máy tính.
    Bom nguyên tử: Đệ nhị thế chiến đã dẫn đến một cuộc cạnh tranh giữa một số nước để khai thác năng lượng nguyên tử và phát triển vũ khí hạt nhân. Nước Mỹ thắng cuộc trong cạnh tranh này và đã sử dụng vũ khí nguyên tử lần đầu tiên trên thế giới để kết thúc chiến tranh một cách nhanh chóng.
    Chiến tranh tổng lực: Chiến tranh này đã trở thành chiến tranh đầu tiên phổ biến cách chiến tranh tổng lực (strategic warfare). Chiến tranh nay không những chỉ là để đánh bại quân địch và chia cắt vật chất, mà còn phải tấn công thẳng vào các khu vực người ở và công nghiệp để phá hủy khả năng sản xuất và ý chí của địch.
    Kháng cự của người dân: Chiến tranh du kích không phải mới, nhưng trong hầu hết các nước bị quân địch chiếm giữ (đặc biệt là bởi Đức và Nhật), có các phong trào kháng chiến được nổi dậy. Trong khi các phong trào này thường không tự giải phóng đất nước, họ đã làm quân đóng chiếm hao tổn công sức và lãnh thổ không bao giờ bị chiếm giữ toàn bộ. Việc này đã chứng minh rằng việc chinh phục và lôi cuốn một giống người không bằng lòng bằng vũ lực là một chuyện không thực tế.
     
  3. [Rest In Peace] Panzerklein

    [Rest In Peace] Panzerklein 16 July 2021

    Tham gia ngày:
    27/7/06
    Bài viết:
    8,577
    Nơi ở:
    Inferno
    Ảnh hưởng đến dân thường
    Đệ nhị thế chiến đem đến cho dân thường nhiều nỗi đau thương chưa từng thấy. Trong hơn 50 triệu người chết vì chiến tranh trên một nửa là thường dân, bị giết bằng nhiều cách khác nhau. Nhiều người bị chết bởi bom đạn và nhiều hơn nữa vì việc thiếu lương thực và không có dịch vụ cần thiết cộng thêm việc phá hoại nhà cửa và các phương tiện cho dân trong chiến tranh. Nhiều hơn nữa bị chết vì các chiến dịch có mục tiêu là dân thường để giảm sự ủng hộ của quần chúng đối với chính quyền và tàn phá khả năng sản xuất vào việc chiến tranh. Thêm vào đó, nhiều người đã bị hành hình vì lý do quốc tịch, dân tộc và tín ngưỡng.

    [sửa]
    Trại tập trung Đức quốc xã (Holocaust)
    Chiến dịch tàn sát thường dân tiêu biểu nhất và có tổ chức nhất là một số chương trình được thành lập bởi Đức quốc xã. Ban đầu chỉ nhắm mục tiêu vào người Do Thái tại nước này, cộng thêm một số nhóm người ít người ưa, chương trình bắt đầu thành lập trại để cách ly các nhóm người này, sau đó dùng lao động cưỡng bách và cuối cùng tiêu diệt hàng loạt. Các nhóm người Do Thái, người đồng tính luyến ái và người có khuyết tật là các mục tiêu đầu tiên, nhưng những người đối lập chính trị như những người theo chủ nghĩa xã hội và các nhân vật tôn giáo (kể cả tín đồ Cơ đốc giáo) lên tiếng cũng bị bắt giữ.

    Một khi chiến tranh bùng nổ và phần đất Đức xâm chiếm tăng lên, các lãnh thổ mới chiếm này cũng bị tính trong nỗ lực đó. Riêng Ba Lan đã bị ảnh hưởng rất nhiều, với gần toàn bộ dân số Do Thái tại nước này và một số đông người Cơ đốc giáo đã bị tiêu diệt. Người Nga và các người Slav bị chinh phục khác cũng bị bỏ vào trại và chết rất nhiều trong tay Đức.

    Tổng số người đã bị giết trong các trại tập trung, trong các chương trình tiêu diệt và trong khi bị chính quyền Đức ngược đãi có lẽ không bao giờ có thể biết chính xác được. Có một số ước đoán cao hơn 10 triệu người, trong đó 5 tới 6 triệu là người Do Thái bị giết trong các chương trình tiêu diệt có mục tiêu.

    [sửa]
    Trại Xô Viết
    Đức không phải là nước duy nhất có tổ chức tàn sát dân thường. Liên Xô dưới thời Stalin cũng có những hành động đó. Tù binh Đức bị ngược đãi rất nhiều, cũng như thường dân trong các khu vực được giải phóng từ Đức, một số bị buộc tội làm tay sai. Tại các nơi có nhiều người cộng tác với quân Đức, giá người dân phải trả càng cao hơn. Nhiều người Nga bị Đức bắt giữ còn may mắn được sống sót đã bị quân Liên Xô xem là kẻ phản bội và cũng bị đối xử tương tự.

    Vì các hành vi này vẫn còn tiếp diễn sau chiến tranh và vì hồ sơ Liên Xô không viết rõ, việc tính số người bị giết dưới sự ngược đãi của Liên Xô rất khó khăn. Số người Nga bị hoàn cảnh này cũng không được rõ.

    [sửa]
    Nhật Bản
    Trong khi Holocaust do Đức gây ra rất có tổ chức và được nhiều người biết đến, số người bị giết có thể sánh được với số thường dân bị lực lượng Nhật Bản tàn sát tại Trung Quốc. Tương tự như cách nhìn của Đức đối với các dân tộc phía đông nước Đức, Nhật Bản xem người Trung Quốc là mọi rợ và giới lãnh đạo chẳng những xem các tội ác chiến tranh là lẽ thường mà còn khuyến khích việc đó. Các ước tính số người bị chết do các hành vi này còn rất thiếu chính xác, nhưng có thể cao hơn 10 triệu. Một số khu vực dưới sự kiểm soát của Nhật bị nạn đói thảm khốc, như Nạn đói Ất Dậu tại miền bắc Việt Nam.

    [sửa]
    Các Đồng Minh Tây phương
    Không chỉ phía Trục và các chế độ độc tài ngược đãi thường dân trong lúc chiến tranh đang diễn biến. Các công dân của các nước Đồng Minh cũng bị đau khổ trong các trường hợp họ là con cháu của những người từ các nước phe Trục. Điển hình là người Mỹ gốc Nhật đã bị tập trung ở các trại giam giữ trong thời kỳ chiến tranh. Tuy nhiên phải nói rằng nước Mỹ chưa bao giờ có ý định giết chết các người này, mặc dù có một số người đã bị chết trong tình cảnh này. Tuy nhiên, các gia đình và cá nhân bị đau khổ triền miên dưới chương trình này khi họ phải bán nhà nhanh với giá rẻ để kịp tản cư đến các trại. Chính phủ Hoa Kỳ đã nhận lỗi về vấn đề này và đã trả tiền bồi thường cho các nạn nhân chương trình này.

    [sửa]
    Chiến tranh tổng lực

    Máy bay Mỹ thả bom xuống Nhật BảnĐược bắt đầu bởi Đức để khủng bố và giảm tinh thần quần chúng trong các vùng thành thị để Đức có thể tiến tới nhanh hơn, chiến tranh chiến lược dùng sức mạnh trên không gian để đánh vào các thành phố địch. Các chiến dịch của Đức có hiệu quả hữu hạn vì mẫu các máy bay ném bom không phù hợp vào việc này và lực lượng không quân còn nhỏ.

    Gần giữa chiến tranh, quân Đồng Minh bắt đầu dùng chiến thuật ném bom hàng loạt vào tận Đức. Để tránh sự chồng chéo nguy hiểm, có sự phân công: máy bay Anh thả bom ban đêm còn máy bay Mỹ đánh phá ban ngày. Với nhiều máy bay oanh tạc có tải trọng lớn và đủ khả năng bay đường dài, các trận ném bom này đã phá hủy nhiều thành phố Đức. Khi chiến tranh chấm dứt, họ có thể biến các khu vực đô thị thành một quầng lửa, làm tan tành thành phố. Số thường dân bị chết khá cao, tại Đức có khoảng 300.000 người. Riêng trong một trận oanh tạc thành phố Dresden, có vài chục ngàn dân thường Đức thiệt mạng. Việc các chiến dịch này có giúp đem đến chiến thắng mau hơn vẫn còn chưa rõ.

    Dân thường tại Nhật Bản còn bị tấn công hơn nữa. Đức có các cơ sở công nghiệp xa nơi dân ở cho nên khu công nghiệp bị tấn công trước khu người ở. Trái lại, người dân Nhật ở đông đúc vào các khu vực thành phố trong các ngôi nhà được xây dựng bằng gỗ (tại Đức nhà cửa phần lớn được xây bằng đá), dễ bị đốt cháy và lan tràn khắp thành phố khi các quả bom được ném xuống. Thêm vào đó, Mỹ cũng sử dụng các máy bay thả bom mới hơn và lớn hơn tại Đức.

    Nếu tính đến cuối cùng, cú đánh mạnh nhất là hai cuộc tấn công bằng bom nguyên tử vào hai thành phố Hiroshima và Nagasaki. Tổng số người Nhật bị thiệt mạng lên đến 400.000 người lúc ban đầu, và thêm nhiều người chết vì di chứng nhiễm phóng xạ trong nhiều năm kế tiếp. Có sự tranh cãi về việc có cần thiết phải thả bom nguyên tử trên đất Nhật hay không. Phía Mỹ vẫn cho rằng việc này đã đẫn đến việc Nhật đầu hàng một cách mau chóng, tránh thương vong cao cho quân Mỹ nếu đánh vào Nhật bằng chiến tranh quy ước (như kinh nghiệm đánh lên hai đảo Iwo Jima và Okinawa đã cho thấy). Nhưng có ý kiến phản bác cho rằng lý do chính là Mỹ muốn "dằn mặt" Nga lúc đó có tin đang bắt đầu chế tạo bom nguyên tử

    [sửa]
    Hậu quả
    Hậu quả trực tiếp của chiến tranh này là sự chiến thắng của phía Đồng Minh. Mỗi nước trong phe Trục đều phải đầu hàng vô điều kiện. Đức bị các lực lượng từ Mỹ, Anh, Liên Xô và Pháp chiếm đóng, trong khi Áo bị chia cắt từ Đức và cũng bị chiếm đóng một cách tương tự. Nhật bị quân Mỹ chiếm đóng trong khi Liên Xô chiếm đóng các nước Đông Âu.

    Trái với Đệ nhất thế chiến, khi các giới hạn làm suy yếu các nước và các nước thua cuộc bị ngăn chặn việc tái hội nhập cộng đồng quốc tế, các nước thua cuộc đã được cung cấp viện trợ để phục hồi và hội nhập cộng đồng thế giới như các quốc gia hoà bình khác. Vì lẽ đó, Đức và Nhật đã trở thành hai nước quan trọng và có nhiều ảnh hưởng mà không cần phải khiêu chiến.

    Sự thất bại của Hội Quốc Liên trong việc ngăn chặn chiến tranh đã dẫn đến việc thành lập Liên Hiệp Quốc, một tổ chức quốc tế mới và có nhiều sửa đổi, cho đến nay vẫn là tổ chức quan trọng nhất trong việc thúc đẩy hoà bình và hợp tác.

    [sửa]
    Hậu quả lâu dài
    Ngay sau chiến tranh, liên minh Đồng Minh đã bị rạn nứt khi có xung đột về tư tưởng. Mỗi phía đã giành một khu vực khác nhau trong các lãnh thổ phe Trục. Tại châu Âu, mỗi phía liên minh với nhau trong khu vực ảnh hưởng. Về phía Tây, các nước Mỹ, Anh và Pháp đã lập ra Liên minh Bắc Đại Tây Dương (NATO). Về phía đông, Liên Xô lập ra liên minh với các nước Đông Âu khác trong Hiệp ước Warszawa. Xung đột giữa hai phái sau này là một trong những di tích của cuộc chiến tranh này.

    Khắp mọi nơi, các phong trào chống thực dân được mạnh hơn khi chiến tranh kết thúc. Một vài cuộc xung đột đã trở thành chiến trường cho các cường quốc trong Chiến tranh Lạnh, nhưng nhiều cuộc khác xảy ra trước cuộc chiến. Hai nước Anh và Pháp đã phải từ bỏ phần lớn các thuộc địa sau chiến tranh. Ấn Độ giành được độc lập từ Anh và Philippines giành độc lập từ Mỹ. Tại Đông Dương và nhiều thuộc địa tại châu Phi, các lực lượng kháng chiến phải chiến đấu mới giành được độc lập.

    Một quốc gia quan trọng đã xuất hiện là Israel. Sau cuộc thảm sát Holocaust, dân Do Thái trên thế giới rất khao khát có được một quốc gia riêng. Nhiều người Do Thái đã có kinh nghiệm chiến đấu trong chiến tranh là việc quan trọng mà quốc gia này luôn phải đương đầu để được độc lập và tồn tại.
     
  4. [Rest In Peace] Panzerklein

    [Rest In Peace] Panzerklein 16 July 2021

    Tham gia ngày:
    27/7/06
    Bài viết:
    8,577
    Nơi ở:
    Inferno
    Đồng Minh:
    Liên Xô
    Khối Thịnh vượng chung Anh
    Hoa Kỳ
    nhiều nước khác

    Phe Trục:
    Đức
    Ý
    Nhật Bản
    nhiều nước khác
    Chỉ huy
    Winston Churchill
    Franklin Roosevelt
    Iosif Stalin Adolf Hitler
    Benito Mussolini
    Hideki Tojo
    Thương vong
    Tử vong quân sự:
    17.000.000
    Tử vong dân sự:
    33.000.000
    Tổng tử vong:
    50.000.000 Tử vong quân sự:
    8.000.000
    Tử vong dân sự:
    4.000.000
    Tổng tử vong:
    12,000,000
    Đệ nhị thế chiến (cũng được nhắc đến với tên gọi Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Thế chiến thứ hai, hay Đại chiến thế giới lần thứ hai,...) là cuộc chiến tranh thế giới thảm khốc bắt đầu từ năm 1937 hoặc 1939 và chấm dứt vào năm 1945 giữa các lực lượng Đồng Minh và Trục (phát-xít). Tất cả mọi lục địa trên thế giới đều bị ảnh hưởng của cuộc chiến này, ngoại trừ châu Nam Cực. Nó là cuộc chiến rộng lớn và tai hại nhất trong lịch sử nhân loại.

    Các nguyên nhân cuộc chiến được nêu ra thì có nhiều và là một đề tài đang được tranh cãi, trong đó có Hòa ước Versailles, khủng hoảng kinh tế toàn cầu, chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa quân phiệt. Cũng chưa có sự thống nhất trong việc tính ngày bắt đầu cuộc chiến: một số người cho rằng đó là khi Đức xâm lược Ba Lan vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, một số người khác tính ngày Nhật Bản xâm lược Trung Quốc vào ngày 7 tháng 7, 1937, còn một số khác thì tính vào một ngày còn sớm hơn nữa: ngày Nhật xâm lăng Mãn Châu vào năm 1931. Cũng một số người khác cho rằng hai thế chiến chỉ là một cuộc chiến được chia ra bởi một cuộc ngừng bắn.

    Các chiến sự đã xảy ra tại Đại Tây Dương, châu Âu, Bắc Phi, Trung Đông, Địa Trung Hải, Thái Bình Dương và phần lớn của Đông Á và Đông Nam Á. Cuộc chiến kết thúc tại châu Âu khi Đức đầu hàng vào ngày 8 tháng 5, 1945 nhưng vẫn còn tiếp diễn tại châu Á cho đến khi Nhật đầu hàng vào ngày 2 tháng 9, 1945.

    Khoảng 62 triệu người đã bị chết do cuộc chiến này, kể cả các hành động tàn sát diệt chủng của Đức Quốc Xã (Holocaust). 60% người chết là thường dân, chết vì bệnh dịch, nạn đói, nạn diệt chủng và bom đạn. Thiệt hại nặng nhất là Liên Xô với 23 triệu người chết, Trung Quốc với 10 triệu người, theo phần trăm dân số thì là Ba Lan với 16 % (5.6 triệu người chết so với 34.8 người trước chiến tranh). Đệ nhị thế chiến là một cuộc chiến tranh toàn diện, kể cả dân thường không ở mặt trận cũng bị bom hàng loạt. Vũ khí nguyên tử, máy bay phản lực, ra-đa v.v. là một số phát minh trong cuộc chiến.
     
  5. NapoleonBonapart

    NapoleonBonapart Mr & Ms Pac-Man

    Tham gia ngày:
    16/11/06
    Bài viết:
    161
    Nơi ở:
    đảo Corsica
    Vào ngày 1 tháng 9, 1939, Đức Quốc xã xâm lược Ba Lan. Cuộc xâm lược khiến Anh và Pháp tuyên chiến với Đức, theo hiệp ước hai nước này đã ký kết với Ba Lan. Theo sau Anh, các nước Úc, Canada, New Zealand, Cộng hoà Nam Phi cũng tuyên chiến với Đức. Sau chiến dịch tại Ba Lan, chiến tranh bước đến một giai đoạn tương đối im lặng gọi là Chiến tranh Giả vờ. Giai đoạn này kết thúc khi Đức xâm chiếm Đan Mạch và Na Uy vào tháng 4 năm 1940 và Hà Lan, Bỉ, và Pháp vào tháng 5. Tất cả các nước bị xâm chiếm lần lược bị sụp đổ trong khi Anh và các đồng minh bị tổn thất nặng nề tại Na Uy và phải rút quân ra khỏi Pháp. Anh lại có nguy cơ bị đổ bộ, nhưng trong cuộc chiến trên bầu trời Anh, Luftwaffe (Không quân Đức Quốc xã) đã không giành được ưu việt và đình hoãn kế hoạch xâm chiếm

    Con đường dẫn đến chiến tranh 1934-1939
    Trong hai năm đầu, chiến thuật của Đức Quốc xã là nói chuyện hòa bình, bí mật chuẩn bị chiến tranh, thực hiện chính sách ngoại giao cẩn trọng, tái vũ trang trong bí mật nhằm tránh các nước Đồng minh viện dẫn Hòa ước Versailles mà chống Đức bằng quân sự.


    Chương trình tái vũ trang 1934-1936
    Trong lúc này, Đức Quốc xã theo đuổi một cách không mệt mỏi chương trình tái vũ trang. Quân đội nhận lệnh tăng quân số lên gấp ba – từ 100.000 lên 300.000 quân tính đến ngày 1 tháng 10 năm 1934. Hải quân đã bắt đầu đóng hai chiếc tàu thiết giáp 26.000 tấn (Hòa ước Versailles hạn định tối đa 10.000 tấn). Việc đóng tàu ngầm, mà Hòa ước Versailles ngăn cấm, đã được tiến hành bí mật ở Phần Lan, Hà Lan và Tây Ban Nha dưới chế độ Cộng hòa Weimar. Hermann Göring cũng tất bật trong hai năm này để lo gây dựng Không quân. Với tư cách là Bộ trưởng Hàng không – được hiểu là Hàng không Dân dụng – ông đặt hàng cho các cơ xưởng thiết kế máy bay chiến đấu. Việc đào tạo phi công quân sự được bắt đầu ngay dưới lốt ngụy trang Liên đoàn Bay Thể thao.

    Ngày 16 tháng 3 năm 1935, Adolf Hitler ban hành nghị định thiết lập nghĩa vụ quân sự và một quân đội thời bình gồm có 12 quân đoàn và 36 sư đoàn – khoảng nửa triệu người. Pháp và Anh chỉ lên tiếng phản đối nhưng không có động thái nào khác. Xiềng xích Versailles, biểu tượng của chiến bại và nỗi nhục nhã của Đức, đã bị tháo bỏ.

    Ngày 21 tháng 5 năm 1935, Hitler bí mật ban hành Luật Bảo vệ Đế chế, bổ nhiệm TS. Hjalmar Schacht làm Bộ trưởng Đặc mệnh Toàn quyền Kinh tế Chiến tranh và tái tổ chức quân lực; Bộ Quốc phòng được đổi thành Bộ Chiến tranh. Quân đội Đức từ danh hiệu Reichswehr (“Quân Phòng vệ Đế chế”) dưới thời Cộng hòa Weimar bây giờ được chuyển thành Wehrmacht (“Lực lượng Phòng vệ”). Hitler kiêm thêm Tư lệnh Tối cao Quân lực, Đại tướng Werner von Blomberg được chỉ định làm Bộ trưởng Chiến tranh kiêm Tổng Tham mưu trưởng Quân lực. Mỗi quân chủng có Tư lệnh và Bộ Tư lệnh riêng. Tướng Ludwig Beck được chỉ định là Tham mưu trưởng Lục quân.

    Cùng ngày, Hitler đề xuất việc giải trừ quân bị. Đặc biệt, Đức sẵn sàng giới hạn Hải quân Đức mới ở mức 35% của trọng tải lực lượng Hải quân Anh. Chính phủ Anh rơi vào bẫy của Hitler một cách ngây thơ, nông nỗi tiến hành xóa bỏ mọi hạn chế hải quân ghi trong Hòa ước Versailles.. Vì lẽ, đồng ý cho Đức gây dựng hải quân bằng 35% hải quân Anh tức là đã cho phép Đức tự do đóng tàu cho hạm đội càng nhanh càng tốt theo khả năng có thể – ngang bằng khả năng huy động tối đa các xưởng đóng tàu và nhà máy thép trong 10 năm. Vì thế, đây không phải là giới hạn tái vũ trang của Đức mà là khuyến khích bành trướng binh chủng hải quân nhanh chóng theo khả năng của Đức.


    ] Đức chiếm Rhineland
    Sáng 7 tháng 3 năm 1936, một lực lượng nhỏ của Đức đi qua các cầu Sông Rhine và tiến vào khu phi quân sự Rhineland. Lực lượng Đức bao gồm từ 4 lữ đoàn (theo Hitler cho biết) đến 3 sư đoàn (theo Quân báo của Đồng Minh). Pháp lo tập trung 30 sư đoàn gần biên giới Đức, nhưng chỉ để tăng cường cho Phòng tuyến Maginot. Hitler dám đánh ván bài liều là do Pháp lưỡng lự và Anh mềm yếu. Anh không muốn gây rủi ro chiến tranh cho dù lực lượng của Đồng Minh vượt trội hẳn so với Đức.

    Ngày 7 tháng 3 năm 1936, Hitler giải tán Nghị viện, tổ chức “bầu cử” mới và trưng cầu dân ý về việc Đức chiếm Rhineland. Theo số liệu chính thức, 99% cử tri đi bỏ phiếu trưng cầu dân ý, và 98,8% chấp thuận hành động của Hitler.

    Ngày 30 tháng 1 năm 1937, Hitler đọc diễn văn trước Nghị viện, tuyên bố “rút chữ ký của Đức” ra khỏi Hòa ước Versailles. Đây là hành động rỗng tuếch nhưng đặc trưng của Hitler, vì bản thân Hòa ước đã bị Đức khai tử từ lâu.


    ] Nước cờ định mệnh ngày 5/11/1937
    Buổi chiều 5 tháng 11 năm 1937, Hitler triệu 6 người đến để ông trình bày chiến lược quân sự: Thống chế Bộ trưởng Chiến tranh kiêm Tổng Tham mưu trưởng Quân lực Werner von Blomberg, Đại tướng Tư lệnh Lục quân Werner von Fritsch, Đô đốc Tư lệnh Hải quân Erich Raeder, Đại tướng Tư lệnh Không quân Hermann Göring, Nam tước Ngoại trưởng Konstantin von Neurath, và Đại tá Hossbach, tùy viên quân sự cho Hitler. Lãnh tụ thông báo quyết định không gì lay chuyển được: tiến hành chiến tranh. Các tư lệnh và vị Ngoại trưởng đối mặt với những thời điểm cụ thể để thật sự tấn công hai nước láng giềng Tiệp Khắc và Áo – hành động mà họ tin chắc sẽ dẫn đến chiến tranh toàn Châu Âu. Họ phải sẵn sàng vào năm 1938, và chậm nhất là 1943-1945.


    ] Blomberg, Fritsch, Neurath và Schacht rơi rụng
    Cả Blomberg, Fritsch, Neurath và Schacht đều tỏ ý ít nhiều chống lại quyết định đi đến chiến tranh của Hitler. Chẳng bao lâu, họ đều rơi rụng bằng cách này hay cách khác. Neurath và Schacht bị thay thế, riêng hai tướng Blomberg và Fritsch bị dàn cảnh để rồi bị loại ra khỏi quân đội.

    Xem Hermann Göring và Gestapo về việc dàn cảnh ám hại Blomberg và Fritsch

    Áo sáp nhập vào Đức
    Trong buổi hội kiến với Thủ tướng Áo Kurt Schuschnigg, Hitler đưa tối hậu thư với các điều kiện: Áo phải bãi bỏ lệnh cấm Đảng Quốc xã Áo, ân xá mọi đảng viên Quốc xã đang ngồi tù, cử luật gia thân Quốc xã TS. Seyß-Inquart làm Bộ trưởng Nội vụ với quyền hành chỉ huy các lực lượng cảnh sát và an ninh, cử hai người thân Quốc xã khác làm Bộ trưởng Chiến tranh và Bộ trưởng Tài chính. Cộng thêm sự đe dọa của Đức sẽ tấn công bằng quân sự, Schuschnigg từ chức, Seyß-Inquart lên thay. Đức ngụy tạo một bức điện tín của Seyß-Inquart kêu gọi Hitler đưa quân vào Áo để lập lại trật tự.

    Ngày 12 tháng 3 năm 1938, quân Đức tiến vào Áo trong khi Bộ Ngoại giao Đức cho rằng phát biểu của Schuschnigg về tối hậu thư của Đức là “hoàn toàn bịa đặt”.

    Trong cuộc trưng cầu dân ý ngày 10 tháng 4 năm 1938, đa số người Áo bỏ phiếu thuận theo Hitler để sáp nhập Áo vào Đức. Không cần bắn một phát súng và không có sự can thiệp của Anh, Pháp và Liên Xô vốn có lực lượng quân sự áp đảo, Đức Quốc xã chiếm được một vị trí chiến lược có giá trị cực kỳ lớn lao cho những kế hoạch trong tương lai. Quân đội của Đức chế ngự Tiệp Khắc ở ba mặt, và Áo là cửa ngõ mở ra vùng Đông-Nam Châu Âu.

    Cũng vào giữa năm 1938, khi Đức ngấp nghé thôn tính tiếp Tiệp Khắc, nổi lên bước khởi đầu của phong trào chống Hitler, kéo dài cho đến gần cuối cuộc chiến.

    Xem chi tiết: Phong trào chống đối Hitler

    ] Đức thôn tính Tiệp Khắc
    Đức lợi dụng hoàn cảnh khó khăn của người Đức thiểu số ở Tiệp Khắc làm cái cớ để quấy động nước này, trong khi Anh và Pháp vẫn chưa nhận ra mưu đồ ấy. Hitler chỉ thị cho Đảng người Đức Sudeten thân Quốc xã là “phải ra những đòi hỏi mà chính phủ Tiệp Khắc không thể chấp nhận", tức "phải luôn đòi hỏi nhiều để ta không bao giờ được thỏa mãn.” Vì muốn xoa dịu Hitler, Thủ tướng Anh Arthur Neville Chamberlain gây áp lực bắt Tiệp Khắc phải nhượng bộ.

    Kết quả là Tiệp Khắc nhường cho Đức gần 30.000 kilômét vuông lãnh thổ. Trên lãnh thổ này là một hệ thống lô cốt mà từ trước đến giờ tạo nên tuyến phòng thủ vững chắc nhất Châu Âu, có lẽ chỉ kém Phòng tuyến Maginot của Pháp. Cả hệ thống đường sắt, đường bộ, điện thoại và điện tín của Tiệp Khắc đều bị xáo trộn. Theo số liệu của Đức, Tiệp Khắc mất trên dưới 80% than non, hóa chất, xi măng; trên dưới 70% than đá, sắt, thép, điện năng; và 40% gỗ. Một đất nước công nghiệp phồn thịnh trong phút chốc bị tan rã và phá sản.


    Đức Quốc xã thôn tính Memel
    Memel, một cảng trên bờ Biển Baltic với khoảng 40.000 dân, đã bị Hòa ước Versailles cắt ra từ Đức để trao cho Lithuania. Hitler quyết định chiếm Memel từ ngoài biển. Ông và Thủy sư Đô đốc Raeder muốn phô trương sức mạnh của hải quân nên cả hai đi trên chiếc tàu thiết giáp bỏ túi Deutschland đến Memel ngày 22 tháng 3 năm 1939, đúng một tuần sau khi Hitler tiến vào thủ đô Praha của Tiệp Khắc. Ngày hôm sau, Lithuania đã chịu ký nhường Memel lại cho Đức.

    Lúc 2:30 giờ chiều ngày 23 tháng 3 năm 1939, Hitler có thêm một chuyến đi chiến thắng vào một thành phố mà ông vừa thôn tính, lần này ở Memel ông cũng phát biểu với một đám đông người Đức mà ông vừa “giải phóng.” Thêm một điều khoản của Hòa ước Versailles đã bị xé bỏ. Thêm một cuộc thôn tính không đổ máu. Dù cho Hitler không biết, đấy là cuộc thôn tính không đổ máu cuối cùng.

    Hiệp ước Quốc xã-Liên Xô
    Xem chi tiết: Hiệp ước Quốc xã-Liên Xô
    Ngày 23 tháng 8 năm 1939, Ngoại trưởng Ribbentrop của Đức và Ngoại trưởng Viatcheslav Mikhaïlovitch Molotov của Liên Xô ký kết Hiệp ước Quốc xã-Liên Xô hay còn gọi là Hiệp ước Molotov-Ribbentrop, có tên chính thức là Hiệp ước Bất tương xâm giữa Đức và Liên bang Xô viết. Nghị định thư bí mật đính kèm quy định các nước Phần Lan, Estonia, Latvia, Litva, và Romania thuộc vùng ảnh hưởng của Liên Xô. Hai bên đồng ý phân chia Ba Lan. Nhiều năm trước, Hitler đã tiên đoán trong quyển Mein Kampf: “Việc ký kết mối liên minh với Nga chỉ là kế hoạch cho cuộc chiến kế tiếp.” Trong lúc này, Đức được rảnh tay với Nga để chú tâm thôn tính Ba Lan.


    Những thắng lợi đầu tiên

    Các nước dưới sự quản lý của Đức vào Đệ nhị thế chiến
    Đức tấn công Ba Lan
    Bình minh ngày 1 tháng 9, 1939, quân Đức tràn qua biên giới Ba Lan và đều hướng về thủ đô Warszawa từ ba phía bắc, nam và tây. Đức đã lấy cuộc tấn công giả tạo của Đức vào đài truyền thanh của Đức ở Gleiwitz nhằm biện minh cho hành động gây hấn lạnh lùng với Ba Lan.

    Ngày 3 tháng 9, Anh và Pháp tuyên chiến với Đức.

    Ngày 17 tháng 9, Tập đoàn quân Bắc dưới quyền Tướng Fedor von Bock bắt tay với Đại đoàn thứ Mười bốn của Tướng Siegmund von List, bao vây tất cả lực lượng Ba Lan. Vài nhóm lẻ tẻ còn chống cự một cách anh dũng, nhưng số phận của họ đã bị khép lại.

    Bắt đầu từ ngày 17 tháng 9, Liên Xô đưa quân qua dày xéo lên nước Ba Lan đang oằn oại. Ngày 29 tháng 9, Molotov và Ribbentrop ký kết một hiệp ước mới gọi là Hiệp ước Biên giới và Hữu nghị Đức-Liên Xô quy định những quyền lợi của hai quốc gia; trong mỗi lãnh thổ chiếm được hai quốc gia sẽ tái lập “hòa bình và trật tự” và “đảm bảo cư dân sống ở đấy một đời sống an bình trong việc gìn giữ bản sắc dân tộc của họ.” Cũng có nghị định thư mật thêm Lithuania vào “vùng ảnh hưởng” của Liên Xô.

    Hitler đã thắng cuộc chiến ở Ba Lan, nhưng người hưởng lợi nhiều nhất là Stalin, và quân đội Liên Xô hầu như không phải nổ phát súng nào. Liên Xô chiếm gần phân nửa Ba Lan và bóp nghẹt các nước vùng Baltic.

    Chiến tranh giả vờ ở miền Tây
    Không có gì nhiều xảy ra ở miền Tây. Hầu như không có tiếng súng nổ. Đức không lấy làm ngạc nhiên lắm; họ xem việc Pháp tấn công là khó xảy ra.

    Tham mưu trưởng Hành quân Jodl của Bộ Tổng tham mưu khai trước Tòa án Nürnberg:

    Nếu chúng tôi không sụp đổ năm 1939, đấy chỉ nhờ sự kiện là trong chiến dịch Ba Lan, khoảng 110 sư đoàn Pháp và Anh hoàn toàn bất động khi đối mặt với 23 sư đoàn của Đức.
    Có nhiều lý do tại sao quân đội Pháp không tấn công Đức: tư tưởng chủ bại trong quân đội, chính phủ và người dân Pháp; hồi ức trong Thế chiến I khi Pháp bị bỏ mặc cho đến kiệt quệ và e sợ cuộc thảm sát tương tự lần này; Pháp nhận ra rằng vào giữa tháng 9 quân đội Ba Lan đã bị đánh tan nát và Đức chẳng bao lâu sẽ chuyển quân về phía Tây và có thể đẩy lùi bước tiến của Pháp.

    Hitler đề nghị hòa bình, Anh-Pháp nói phải chấp nhận thực tế “là Ba Lan không thể cất đầu lên lại nữa.” Ngày 12 tháng 10 năm 1939, Chamberlain trả lời Hitler, nói những đề nghị của Hitler là “mơ hồ và thiếu chắc chắn” và nhận xét rằng “không có đề nghị nào nhằm sửa chữa những sai lầm đã gây ra cho Tiệp Khắc và Ba Lan”. Ông nói, không thể nào tin tưởng những lời hứa của “Chính phủ Đức hiện giờ.”

    Đức tấn công Đan Mạch và Na Uy
    Hải quân Đức từ lâu đã dòm ngó miền bắc nhằm lập căn cứ hải quân ở Na Uy để phá vỡ sự phong tỏa của Anh trên Biển Bắc, mở đường cho tàu Đức thông thương ra đại dương. Tương tự, Không quân Đức dòm ngó các sân bay Đan Mạch để làm bàn đạp tấn công Anh.

    Ngày 9 tháng 4, 1940, nhà Vua Đan Mạch đầu hàng và ra lệnh chấm dứt mọi hành động chống cự. Tổng cộng phía Đan Mạch có 13 người tử trận và 23 người bị thương. Phía Đức có khoảng 20 thương vong.

    Na Uy chống cự ngay từ đầu, tuy không phải là ở khắp nơi. Đến ngày 28 tháng 5, Na Uy mới chịu đầu hàng. Vua Håkon VII của Na Uy và chính phủ được đưa đến London và sống ở đây 5 năm trong cảnh lưu vong cay đắng.

    Cuộc tấn công thần tốc Đan Mạch và Na Uy là một chiến thắng quan trọng cho Đức Quốc xã. Chiến thắng giúp đảm bảo tuyến vận chuyển quặng sắt trong mùa đông, tạo thêm sự bảo vệ cho Đức ở ngõ ra vào Biển Baltic, cho phép Hải quân Đức tiến ra vùng Bắc Đại Tây Dương, cung cấp các cảng biển vô cùng thuận lợi cho cuộc chiến trên biển với Anh, cho phép Không quân Đức sử dụng các sân bay tiến gần đến địch thủ hơn hàng trăm dặm. Và có lẽ yếu tố quan trọng nhất là uy tín quân sự của Đức Quốc xã được nâng cao rõ rệt.


    Hà Lan đầu hàng
    Vào ngày 10 tháng 5, 1940, dọc chiến tuyến 280 kilômét trải dài từ Biển Bắc đến Phòng tuyến Maginot, quân Đức tràn qua biên giới của ba quốc gia trung lập nhỏ bé Hà Lan, Bỉ và Luxembourg. Ngày 15 tháng 5, Hà Lan ký văn kiện đầu hàng.


    ] Bỉ đầu hàng và quân Anh-Pháp bị bao vây
    Vào buổi tối 13 tháng 5, các đơn vị thiết giáp của Đức chiếm được bốn bàn đạp bắt ngang con sông Meuse có bờ dốc và cây cối rậm rạp, từ Dinant đến Sedan, rồi chiếm lấy Sedan. Ngày kế, cơn hồng thủy ập đến. Sử dụng phương án tác chiến "Chiến tranh sấm sét" (tiếng Đức: Blitzkrieg), một đoàn quân thiết giáp chưa từng thấy về quân số, sự tập trung, tính cơ động và hỏa lực, theo ba mũi trải dài đến 160 kilômét. Vào buổi tối 20 tháng 2, sư đoàn 2 Thiết giáp của Đức tiến đến thị trấn Abbeville gần cửa Sông Somme, trong sự ngạc nhiên của tổng hành dinh của Hitler. Quân Bỉ, Lực lượng Viễn chinh Anh và ba đại đoàn Pháp bị bao vây.

    Vua Leopold III của Bỉ đầu hàng sáng ngày 28 tháng 5, 1940.

    Anh tổ chức cuộc di tản binh sĩ khỏi bờ biển Dunkerque. Đến ngày 4 tháng 6, gần 340.000 quân Anh và Pháp đã thoát ra khỏi gọng kìm của Đức, được đưa về Anh.

    Hitler áp đặt địa điểm Pháp ký văn kiện đình chiến cũng chính là nơi Đế chế Đức đã đầu hàng Pháp và các Đồng Minh vào ngày 11 tháng 11, 1918: trên một khoảnh trống trong khu rừng Compiègne.

    Trong vài tuần lễ kế tiếp, Hitler vẫn tin rằng sau khi Pháp bị đánh bại, Anh sẽ nôn nóng muốn hòa bình. Theo khía nhìn của Đức, những điều khoản mà Hitler đưa ra là rộng lượng, nếu xét qua việc Đức đã đánh bại Anh ở Na Uy và Pháp. Hitler nói ông chỉ muốn Anh cho ông được tự do hành động trên lục địa Châu Âu. Nhưng Anh vẫn không chịu thỏa hiệp hòa bình.

    ] Cuộc chiến trên bầu trời Anh quốc
    Xem Hermann Göring về những trận đánh của Không quân Đức trong cuộc chiến
    Đức mở cuộc tổng không kích nhắm vào nước Anh bắt đầu ngày 15 tháng 8 với mục đích tiêu diệt Không lực Hoàng gia Anh và qua đấy tạo một điều kiện thuận lợi cho cuộc đổ bộ. Do những thất bại nặng nề của Không quân Đức, Đức không thể bù lại kịp tổn thất của oanh tạc cơ, và thật ra không quân Đức – như tài liệu mật của Đức chỉ rõ – không bao giờ hồi phục được sau những thiệt hại trên bầu trời Anh. Ngày 17 tháng 9, Hitler đình hoãn vô hạn định kế hoạch đổ bộ lên đất Anh.
    Nga chiếm vùng Baltic
    Trong khi Đức đang bận rộn đánh Tây Âu, quân đội Liên Xô lần lượt tiến vào chiếm đóng Lithuania, Latvia và Estonia. Các cuộc “bầu cử” được tổ chức ở ba nước, và Xô viết Tối cao (Quốc hội) “tiếp nhận” ba nước vào Liên bang Xô viết: Lithuania ngày 3 tháng 8, Latvia ngày 5 tháng 9 và Estonia ngày 6 tháng 8. Adolf Hitler cảm thấy mất mặt, nhưng trong khi tất bật lo xâm lấn Anh, ông không làm gì được. Kế tiếp, Nga dòm ngó đến Rumania khiến cho Đức âu lo, vì Rumania cung ứng dầu hỏa, thực phẩm và thức ăn gia súc cho Đức. Đức sẽ mất đi những nguồn lợi này nếu Hồng quân chiếm Rumania. Stalin lại đòi hỏi Phần Lan, Bulgaria, kiểm soát hai eo biển Bosporus và Dardanelles và, trên thực tế, kiểm soát cả các giếng dầu Ả Rập và Ba Tư (Iran bây giờ) vốn cung cấp phần lớn lượng dầu cho Châu Âu.

    Với sự sụp đổ của Pháp, việc đánh đuổi Quân đội Anh qua bên kia eo biển và viễn ảnh của nước Anh sắp suy sụp, ý nghĩ của Hitler quay trở lại Liên Xô. Bởi vì bây giờ ông xem mình đã rảnh tay ở miền Tây và qua đấy đã hoàn tất được một điều kiện mà ông đã đặt ra để có vị thế “chống Nga.” Việc Stalin nhanh chóng chiếm lấy các nước vùng Baltic và hai tỉnh của Rumani đã thúc đẩy Hitler phải có hành động. Brauchitsch nghĩ rằng sẽ cần đến 80-100 sư đoàn; ông đánh giá sức mạnh của Liên Xô là “50 đến 75 sư đoàn thiện chiến.” Halder ước lượng Liên Xô có 155 sư đoàn và sức mạnh của Đức là tương đương nhưng “có chất lượng tác chiến cao hơn hẳn.”


    [sửa] Màn mở đầu tại Balkan
    Ngày 25 tháng 3 năm 1941, Thủ tướng Dragisha Cvetković cùng Ngoại trưởng Alexander Cincar-Marković của Nam Tư bí mật đến Wien rồi với sự hiện diện của Hitler và Ribbentrop, hai người ký vào Hiệp ước phe Trục.

    Ngay sau khi các vị khách Nam Tư trở về thủ đô Belgrade, chính phủ và Hoàng thân Phụ chính bị lật đổ. Chế độ mới do Tướng Dušan Simović cầm đầu lập tức đề nghị ký hiệp ước bất tương xâm với Đức, nhưng Đức thấy rõ là họ không chấp nhận vị thế bù nhìn mà Hitler mong áp đặt.

    Cuộc đảo chính ở Nam Tư khiến cho Hitler nổi lên cơn thịnh nộ dữ dội, xem đấy là sự xúc phạm đối với cá nhân ông. Trong cơn giận dữ đi đến quyết định khiến về sau gây nên thảm họa cho Đức Quốc xã: xâm lăng Nam Tư. Chiến dịch đánh Nga được dời lại bốn tuần.

    Việc hoãn lại cuộc tiến công Liên Xô chỉ vì Hitler muốn rửa hận đối với một quốc gia vùng Balkan nhỏ bé có lẽ là một quyết định nguy hại nhất cho sự nghiệp của Hitler. Không phải quá đáng mà nói rằng Hitler đã vứt bỏ cơ hội bằng vàng để thắng cuộc đại chiến và đưa Đức Quốc xã lên thành một Đế chế vĩ đại nhất trong lịch sử Đức. Tư lệnh Lục quân Brauchitsch và Tham mưu trưởng Lục quân Halder sau này sẽ thấu hiểu hơn những hệ lụy, khi giữa mùa đông họ nhận ra rằng chỉ thiếu 3 hoặc 4 tuần là đủ đi đến chiến thắng chung cuộc.

    Ngày 6 tháng 4, quân đội Đức với sức mạnh vượt trội tràn xuống Nam Tư và Hy Lạp, băng qua các đường biên giới giữa Đức và Bulgari cùng Hungari với tất cả tốc độ của cơ giới để tiến đánh những đơn vị phòng hộ được trang bị thô sơ và còn bị Không quân Đức bắn phá trước. Theo lệnh của Hitler, thủ đô Belgrade bị san bằng. Ngày 17 tháng 4, 1941, Quân đội Nam Tư đầu hàng tại Sarajevo dù họ vẫn còn 28 sư đoàn.


    [sửa] Đức đánh Bắc Phi
    Sau khi các lực lượng Ý bị tiêu diệt ở Libya, Hitler gửi một sư đoàn thiết giáp hạng nhẹ và vài đơn vị Không quân đến Bắc Phi và điều Tướng Erwin Rommel đến giữ chức chỉ huy liên quân Ý-Đức. Là vị tướng binh chủng tăng táo bạo, nhiều mưu lược, Rommel đã nổi danh từ khi là tư lệnh một sư đoàn thiết giáp ở chiến trường Pháp, và sẽ gây nhiều rắc rối cho quân Anh trong hai năm. Với một sư đoàn thiết giáp Đức, một sư đoàn thiết giáp Ý và một sư đoàn bộ binh Ý, vào cuối tháng 3 năm 1941, thình lình Rommel tiến công. Trong vòng 12 ngày, ông chiếm được tỉnh Cyrenaica và tiến đến Bardia, chỉ cách biên giới Ai Cập dăm bảy kilômét. Toàn vị thế của Anh ở Ai Cập và Kênh đào Suez bị đe dọa, và vị thế ở Địa Trung Hải cũng bị nguy hiểm vì sự hiện diện của quân Đức tại Hy Lạp.

    Mùa xuân thứ hai trong cuộc chiến mang thêm chiến thắng lẫy lừng cho Đức. Hải quân Đức thúc giục Hitler nên khai thác tình hình, kêu gọi Hitler nên tổng tấn công ở Ai Cập và vùng Kênh đào Suez, còn Rommel cũng kêu gọi việc tương tự ở Bắc Phi vì muốn tiếp tục tiến công sau khi nhận thêm tăng viện.

    Nhưng Hitler đã quyết định trước nhất phải tiêu diệt Liên Xô. Ông chỉ gửi một phái bộ quân sự, vài máy bay và chút ít vũ khí. Nhưng ông thấy không cần phải làm gì thêm ngoài động thái nhỏ nho này. Về chiến lược táo bạo ở tầm mức rộng lớn mà các đô đốc và Rommel kêu gọi, Hitler trả lời là chỉ xét đến sau khi đã đánh bại Nga. Đấy là một sai lầm trọng đại. Vào thời điểm này, cuốí tháng 4/1941, chỉ cần một lực lượng nhỏ Hitler hẳn đã giáng cho Anh một đòn nặng, có thể là đòn chí tử.


    [sửa] Đức đánh qua Nga

    Quân Đức tại Nga, 1941Ngày ngày 22 tháng 6, 1941, quân Đức tràn vào đất Nga.

    Chỉ trong vòng 3 tuần, Tập đoàn quân Trung tâm của Thống chế Fedor von Bock, gồm 30 sư đoàn bộ binh và 15 sư đoàn thiết giáp hoặc cơ giới, tiến hơn 700 kilômét từ Bialystock ở đông-bắc Ba Lan đến Smolensk thuộc vùng trung-tây nước Nga. Moskva chỉ còn cách 320 kilômét về phía đông.

    Trên mặt trận miền bắc, Tập đoàn quân của Thống chế Wilhelm von Leeb, gồm 21 sư đoàn bộ binh và 6 sư đoàn thiết giáp, tiến nhanh qua các nước vùng Baltic hướng đến Thành phố Leningrad.

    Trên mặt trận miền nam, Tập đoàn quân của Thống chế Karl von Rundstedt gồm 25 sư đoàn bộ binh, 4 sư đoàn cơ giới, 4 sư đoàn quân sơn cước và 5 sư đoàn thiết giáp tiến về Sông Dniepr và Thành phố Kiev, thủ phủ của vùng đất mầu mỡ Ukraina mà Hitler thèm muốn.

    Thế là theo đúng kế hoạch, quân Đức tiến theo trận tuyến dài 1.600 kilômét từ Biển Baltic đến Biển Đen, và hết đại đoàn này đến đại đoàn khác của Liên Xô bị bao vây hoặc tan rã. Chỉ ba tuần sau khi tiến công, Hitler tin rằng Liên Xô đã bị đánh gục.

    Nhưng Đức vấp phải ngạc nhiên lớn. Quân Nga còn đông đảo hơn và được trang bị tốt hơn là Hitler nghĩ. Từng sư đoàn mới của Liên Xô – mà quân báo Đức chưa hề tiên liệu – được liên tục tung vào trận chiến. Nhật ký của Halder ngày 11 tháng 8 ghi:

    Càng ngày càng thấy rõ rằng ta đã đánh giá quá thấp sức mạnh của Nga... Khởi đầu ta ước lượng địch có khoảng 200 sư đoàn và bây giờ ta đã xác định được 360. Khi hàng chục sư đoàn của họ bị tiêu diệt, người Nga tung ra một chục sư đoàn khác.
    Ngày 21 tháng 8, Hitler ra một chỉ thị lịch sử:

    Mục tiêu quan trọng nhất phải đạt được trước mùa đông không phải là đánh Moskva, mà phải chiếm vùng Crimea, vùng công nghiệp và mỏ than của lưu vực Sông Donets, và cắt đứt nguồn cung cấp xăng dầu khỏi Caucasus. Mục tiêu ở miền bắc là khóa chặt Leningrad và kết hợp với quân Phần Lan.
    Rundstedt phóng mũi tiến công ở miền nam với sự tăng cường của lực lượng tách ra từ mặt trận trung tâm. Guderian cho rằng họ đạt được thắng lợi to tát về chiến thuật. Thành phố Kiev thất thủ ngày 19 tháng 9 – và quân Đức còn tiến xa thêm 240 kilômét. Ngày 26 tháng 9, Trận Kiev kết thúc; phía Đức cho biết 665.000 quân Nga bị bắt làm tù binh. Vài tướng lĩnh nghi ngờ tầm quan trọng chiến lược của chiến thắng này: vì bị cắt giảm lực lượng thiết giáp, Tập đoàn quân trung tâm đành phải chôn chân suốt hai tháng.

    Hitler miễn cưỡng chiều theo sự thúc giục của tướng lĩnh để ra lệnh mở lại mũi tiến công đến Moskva. Nhưng đã quá muộn! Mãi đến đầu tháng 10, mũi tiến công mãnh liệt mới khởi phát. Nhưng một lần nữa, Hitler là nạn nhân của tính ngông cuồng hoang tưởng. Chiếm Moskva trước mùa đông là không đủ. Ông ra lệnh cho Thống chế von Leeb ở miền bắc cùng lúc phải chiếm lấy Leningrad và cũng cùng lúc, Rundstedt phải đánh dọc bờ biển Đen, chiếm thành phố Rostov, chiếm các mỏ dầu ở Maikop và tiến đến Stalingrad. Đức bị chia quân ra ba mặt trận.

    Lúc đầu, quân Đức tiến nhanh, bắt được 650.000 tù binh. Đến ngày 20 tháng 10, các đội tăng tiền phong chỉ còn cách Moskva 65 kilômét. Nhưng những trận mưa mùa thu đã đổ xuống. Mặt đất đầy sình lầy. Đoàn quân hùng mạnh tiến chậm lại và thường phải dừng hẳn.

    Ở miền nam, ngày 21 tháng 11, xe tăng Đức tiến vào Thành phố Rostov rồi bị quân Liên Xô chiếm lại. Quân Đức bị tấn công ở cả hai mạn sườn bắc và nam nên phải rút lui 80 kilômét.

    Tuyết dầy và giá lạnh đến sớm trong mùa đông năm này ở Nga. Tuy thế, khi gần đến cuối tháng 11, giữa những cơn bão tuyết và nhiệt độ âm, các đội hình quân Đức ở phía bắc, nam và đông đã tiến đến cách Moskva 30 đến 50 kilômét. Nhưng quân Đức vấp phải sức chống trả với tinh thần thép của Liên Xô. Ngày 2 tháng 12, một tiểu đoàn trinh sát của Đức xâm nhập vào Khimki, một vùng ngoại ô của Moskva, từ đây họ có thể nhìn thấy những mái hình tháp nhọn của Điện Kremlin. Nhưng sáng hôm sau, vài xe tăng Nga và một lực lượng ô hợp gồm những công nhân trong các nhà máy của thành phố được huy động một cách vội vã đánh bật quân Đức ra ngoài. Đấy là điểm gần Moskva nhất mà quân Đức có thể tiến đến; đấy là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng họ có thể thoáng nhìn thấy Kremlin.

    Ngày 6 tháng 12, Tướng Georgi Zhukov phát động cuộc phản công. Dọc phòng tuyến dài 360 kilômét trước Moskva, ông phóng ra bảy đại đoàn và hai quân đoàn kỵ binh – tổng cộng 100 sư đoàn – gồm những binh sĩ hoặc còn sung sức hoặc đã dày dạn trận mạc được trang bị và huấn luyện để tác chiến trong không khí giá lạnh và trên lớp tuyết dày. Sức mạnh mà vị tướng tương đối còn vô danh này tung ra với một lực lượng đáng sợ gồm bộ binh, pháo binh, thiết giáp, kỵ binh và không quân – mà Hitler không thể ngờ hiện diện với số lượng lớn đến thế – có tính chất bất ngờ và mãnh liệt đến nỗi Quân đội Đức và Đế chế thứ Ba không bao giờ hồi phục được sau thất bại này.

    Tướng lĩnh Đức bắt đầu bị thanh trừng. Rundstedt, von Block, Guderian, Erich Hoepner, bị Hitler cách chức. Tướng Hans von Sponeck, người đã nhận Huân chương Chữ thập Hiệp sĩ của Chữ thập Sắt do đã chỉ huy quân nhảy dù đánh Hà Lan năm trước, bị trừng phạt nặng hơn vì đã ra lệnh một sư đoàn trong quân đoàn của ông. Ông bị tước quân hàm, bị đưa ra tòa án binh và, do lệnh của Hitler, bị án tử hình. Ông bị thi hành án vào tháng 7/1944 sau vụ ám sát hụt Hitler mà ông không can dự. Brauchitsch chịu vài cơn đau tim và quyết định xin từ chức. Hitler đích thân nhận chức Tư lệnh Lục quân.

    Vào cuối tháng 2/1942, quân Đức rút lui cách Moskva 75 đến 160 kilômét. Halder ghi số thiệt hại tính đến ngày 28 tháng 2 là 1 triệu người tức 31 phần trăm toàn lực lượng, trong đó có trên 200.000 người tử trận, trên 720.000 người bị thương và 46.000 mất tích; thương tật do tê cóng là trên 100.000 người. Đấy là chưa kể những thiệt hại nặng của Hungari, Romania và Ý.
     
  6. NapoleonBonapart

    NapoleonBonapart Mr & Ms Pac-Man

    Tham gia ngày:
    16/11/06
    Bài viết:
    161
    Nơi ở:
    đảo Corsica
    sửa] Hoa Kỳ tham chiến
    Ngày Chủ Nhật, 7 tháng 12, 1941, Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng. Ngày 11 tháng 12, Hitler tuyên chiến với Hoa Kỳ.


    [sửa] Đòn đầu tiên: Đức thua trận ở Bắc Phí
    Cáo Sa mạc Rommel đã khởi động lại cuộc tiến công ở El Alamein ngày 31/8, với ý định quân Anh rồi tiếp tục tiến đến Alexandria và Sông Nile. Một trận đánh dữ dội diễn ra trong sức nóng như thiêu đốt trên một trận tuyến dài hơn 60 kilômét, nhưng Rommel không thể trụ nổi. Ngày 3/9, ông rút ra khỏi trận chiến và lui về vị trí phòng thủ. Cuối cùng, quân Anh tại Ai Cập đã nhận được tăng viện mạnh mẽ về quân số, pháo, xe tăng và máy bay (nhiều xe tăng và máy bay là do Mỹ cung cấp).

    Sau khi thua một trận đánh, Rommel nghỉ bệnh ở vùng rừng núi Semmering gần Wien. Buổi chiều 24/10 ông nhận được cuộc gọi của Hitler kêu ông quay lại Vắc Phi. Nhưng quân Anh có sức mạnh vượt trội, xuyên thủng đoạn phòng tuyến phia nam và bắt đầu tràn ngập các sư đoàn quân Ý ở khu vực này. Buổi tối 2/11, Rommel báo cáo với Hitler là ông không còn có thể trụ vững được nữa và định rút lui 60 kilômét về Fûka.

    Ngày kế, ông đã bắt đầu cuộc rút lui thì nhận được lệnh của Hitler: "trụ vững, không rút lui dù một bước." Rommel miễn cưỡng ra lệnh ngừng rút lui nhưng vào buổi tối 4/11, ông quyết định cứu lấy những gì còn lại và rút lui về Fûka. Số thương vong và mất tích tổng cộng là 59.000 người gồm 34.000 quân Đức, trong tổng số ban đầu 96.000 người.

    Ngày 5/11, Lãnh tụ gửi chỉ thị cụt lủn: “Tôi đồng ý cho quân rút lui về vị trí Fûka.” Nhưng xe tăng của Montgomery đã chiếm được vị trí này. Trong 15 ngày kế tiếp, Rommel rút lui hơn 1.100 kilômét với những gì còn lại – khoảng 25.000 quân Ý, 10.000 quân Đức và 60 xe tăng – mà vẫn không có cơ hội dừng lại. Đấy là khởi đầu cho sự kết thúc của Đức Quốc xã, trận đánh đầu tiên trong cuộc chiến mà quân Đức chiến bại.

    Lãnh tụ còn nhận thêm tin dữ kết liễu số phận của phe Trục trên mặt trận Bắc Phi.


    [sửa] Đồng Minh đổ bộ lên Bắc Phi
    Ngày 3/11 khi Rommel báo cáo thảm họa, tổng hành dinh của Hitler đã nhận tin một hạm đội hùng mạnh của Đồng Minh được phát hiện ngoài khơi Gibraltar. Không ai trong Bộ Tổng tham mưu Đức đoán được ý đồ của hạm đội này. Trong khi đang bận rộn với sự chống trả không ngừng của quân Liên Xô và với Rommel ở El Alamein, Hitler không quan tâm mấy đến tin quân báo này.

    Quân Anh-Mỹ dưới quyền Tướng Eisenhower đổ bộ lên các bãi biển Maroc và Algerie ngày 8/11/1942. Hitler điều 250.000 quân Đức và Ý đến để trấn giữ đầu cầu Tunisie, nhưng đấy là chiến thắng không rõ ràng. Nếu ông chỉ cần phái một phần năm lực lượng này đến cho Rommel vài tháng trước, thì quân Đức lúc này đã tiến được đến Sông Nile, Anh-Mỹ đã không thể đổ bộ và phe Trục đã kiểm soát được Địa Trung Hải, vì thế đảm bảo mặt dưới của phe Trục. Ngược lại, toàn bộ lực lượng mà Hitler điều đến Tunisie cùng phần còn lại của Binh đoàn Châu Phi bị mất hẳn vào mùa xuân; 125.000 quân đầu hàng chỉ trong tuần lễ cuối của chiến dịch, 5-12 tháng 5, 1943.


    Thảm họa tại Stalingrad
    Rạng sáng ngày 19/11 đi đến tin dữ: Nga đã đánh xuyên qua Đại đoàn thứ Ba của Rumani dọc Sông Don, ở tây-bắc Stalingrad. Về phía nam thành phố, một lực lượng Nga khác đang tấn công mãnh liệt Đại đoàn Thiết giáp thứ Tư của Đức và Đại đoàn thứ Tư của Rumani. Liên Xô đã tập trung mười ba đại đoàn cùng với hàng nghìn xe tăng để phản công, tiến từ hướng bắc và nam để cắt đứt Stalingrad và ép Đại đoàn thứ Sáu của Đại tướng Friedrich Paulus hoặc phải vội vã rút về hướng tây hoặc chịu bao vây. Đại tướng Tân Tham mưu trưởng Lục quân Kurt Zeitzler thúc giục Hitler cho phép Đại đoàn thứ Sáu rút ra khỏi Stalingrad. Chỉ lời đề xuất ấy đủ để Hitler nổi cơn giận dữ: ông nghiêm cấm việc rút lui. Quyết định này dẫn đến thảm họa.

    Đến ngày 22/11, Đại đoàn thứ Sáu đã bị bao vây hoàn toàn. Hitler ra lệnh Paulus dời tổng hành dinh vào thành phố và lập cứ điểm phòng vệ. Đại đoàn thứ Sáu sẽ được tiếp tế bằng máy bay cho đến khi được giải cứu. Nhưng đấy chỉ là động thái vô vọng. Có 20 sư đoàn Đức và 2 sư đoàn Rumani bị cắt đứt tại Stalingrad. Tướng Paulus cho biết họ cần tối thiểu 750 tấn hàng hậu cần mỗi ngày. Không quân không thể đáp ứng đủ số lượng này vì thiếu máy bay, bị trở ngại vì bão tuyết và thiếu chiến đấu cơ yểm trợ. Việc giải cứu Đại đoàn thứ Sáu là biện pháp thực tế hơn. Ngày 25/11, Hitler triệu hồi Thống chế von Manstein từ mặt trận Leningrad xuống và giao cho ông chỉ huy một đơn vị mới được thành lập: Tập đoàn quân Don để giải cứu Đại đoàn thứ Sáu tại Stalingrad. Manstein cố gắng giải thích cho Hitler hiểu rằng cơ hội duy nhất để thành công là cho Đại đoàn thứ Sáu rút ra khỏi Stalingrad đi về hướng tây trong khi Tập đoàn quân Don do Đại đoàn Thiết giáp thứ Tư dẫn đầu tiến lên hướng đông-bắc, đánh xuyên qua quân Liên Xô đang ở giữa hai lực lượng của Đức. Nhưng một lần nữa, Hitler từ khước việc rút về Sông Volga. Đại đoàn thứ Sáu phải trụ lại Stalingrad và Manstein phải tiến công đến đấy.

    Ngày 21/12, Đại đoàn Thiết giáp thứ Tư dưới quyền Đại tướng Hermann Hoth tiến đến cách chu vi phía nam của thành phố 50 kilômét, và qua vùng thảo nguyên phủ tuyết vào ban đêm binh sĩ của Đại đoàn thứ Sáu có thể nhìn thấy ánh sáng của hỏa châu do quân bạn đến giải cứu bắn lên. Theo lời khai sau này của tướng lĩnh Đức, lúc ấy Đại đoàn thứ Sáu có thể đánh ra hướng về phía Đại đoàn Thiết giáp thứ Tư đang tiến đến họ. Nhưng một lần nữa, Hitler lại ngăn cấm.

    Khi gặp sức kháng cự càng lúc càng mạnh của quân Liên Xô phía trước và hai bên sườn, Tướng Hoth không có đủ lực lượng để tiến thêm 50 kilômét còn lại. Nỗ lực giải cứu đã thất bại.

    Ngày 30/1, Hitler nhận xét với Jodl: “Lịch sử quân sự chưa từng ghi thống chế Đức nào đã bị bắt làm tù binh.” Rồi ông phong cho Paulus, qua sóng vô tuyến, quân hàm thống chế. Khoảng 117 sĩ quan khác cũng được thăng cấp. Đấy là một động thái trong trò ma quỷ.

    Nhưng cuối ngày 31 tháng 1, 1943, Paulus đầu hàng Nga.

    Nga đưa 91.000 chiến binh Đức – kể cả 24 tướng lĩnh vào các trại tù binh ở Siberia. Trừ 20.000 quân Rumani và 29.000 thương binh đã được đưa về bằng máy bay, đấy là tất cả những gì còn lại của một đại đoàn có quân số 285.000 chỉ hai tháng trước. Những người khác đã bị tàn sát. Trong số 91.000 người vào ngày mùa đông ấy đi đến chốn giam cầm, chỉ có 5.000 người được trở về Tổ quốc của họ.


    [sửa] Khởi đầu cho hồi kết liễu

    [sửa] Đồng Minh đổ bộ lên Normandie
    Trong khi Đồng Minh đang chuẩn bị hàng triệu quân và hàng nghìn tàu đủ loại để đổ bộ lên Châu Âu, Quân đội Đức mãi hoang mang, ít nhất là về thời gian và địa điểm của cuộc đổ bộ. Họ nhận thấy trong tháng 5/1944 có 18 ngày với các điều kiện trời tiết, mặt nước và thủy triều đều thuận lợi, nhưng Tướng Dwight Eisenhower đã không lợi dụng cơ hội này. Vào ngày 30/5, Thống chế Tổng Tư lệnh Mặt trận miền Tây Rundstedt báo cáo với Hitler rằng không thấy dấu hiệu cho biết sẽ có cuộc đổ bộ trong tương lai trước mắt. Ngày 4/6, bộ phận khí tượng của Không quân Đức ở Paris cho biết vì lý do thời tiết, trong nửa tháng sắp đến sẽ không có động thái của Đồng Minh.

    Tin tức khác không có nhiều: Không quân Đức bị ngăn chặn bay thám thính trên các cảng biển miền nam nước Anh nơi binh sĩ của Eisenhower đang tấp nập chuẩn bị xuống tàu, còn Hải quân Đức đã rút tất cả tàu thám thính về vì biển động. Dựa trên thông tin hạn chế, ngày 5/6 Rommel báo cáo với Rundstedt rằng sẽ không có đổ bộ trước mắt, rồi trở về nhà riêng ở Herrlingen thăm gia đình và xin cái hẹn hôm sau đến tham khảo với Hitler ở Berchtesgaden.

    Thượng tướng Tham mưu trưởng Hans Speidel dưới quyền Rundstedt nhớ lại, 5/6 là “một ngày yên ả.” Xem dường không có lý do nào ngăn trở Rommel nhẩn nha trở về Đức. Điệp viên Đức vẫn báo cáo Đồng Minh sắp đổ bộ – lần này là giữa ngày 6/6 và ngày 16/6 – nhưng từ tháng 4 đã có hàng trăm báo cáo như thế mà không ai xem là quan trọng. Cũng vì thế, vào ngày 6/6 Tướng Friesrich Dollmann, tư lệnh Đại đoàn thứ Bảy ở Normandie, ra lệnh giảm tình trạng báo động và triệu tập sĩ quan cấp cao đến cuộc tập trận trên bản đồ ở Rennes, cách Normandie khoảng 200 kilômét về phía nam.

    Phía Đức vừa hoàn toàn không biết gì về thời điểm đổ bộ, vừa không rõ sẽ diễn ra ở đâu. Rundstedt và Rommel đều chắc chắn sẽ diễn ra ở Pas-de-Calais, nơi Biển Manche thu hẹp nhất. Nơi đây, họ đã tập trung lực lượng mạnh nhất, Đại đoàn thứ Mười lăm đã được tăng viện 10-15 sư đoàn trong mùa xuân. Nhưng vào cuối tháng 3, trực giác kỳ lạ của Hitler khiến cho ông nghĩ mũi nhọn của cuộc đổ bộ sẽ là ở Normandie, và trong vài tuần kế ông ra lệnh củng cố đáng kể vùng giữa Sông Seine và Loire. Ông luôn cảnh báo với các tướng lĩnh: “Hãy trông chừng Normandie.”

    Tuy thế, phần lớn lực lượng của quân Đức, kể cả bộ binh và thiết giáp, đều trấn giữ ở phía bắc Sông Seine, giữa Le Havre và Dunkerque. Rundstedt và các tướng lĩnh dưới quyền vẫn trông chừng Pas-de-Calais hơn là Normandie. Họ càng thêm tin tưởng do một số động thái đánh lạc hướng của Anh-Mỹ cho thấy họ đã tính toán đúng.

    Thế là, ngày 5/6 trôi qua trong yên bình theo như những gì người Đức nhận thấy. Có vài cuộc không kích mạnh của Anh-Mỹ nhắm đến các mục tiêu của Đức: kho tàng, đài ra-đa, dàn phóng V-1, vị trí thông tin và vận chuyển, nhưng trong trong những tuần qua mỗi ngày đêm đều có không kích như thế, và bây giờ không mạnh hơn.

    Khi màn đêm buông xuống, tổng hành dinh của Rundstedt nhận tin báo là đài BBC ở London đang phát sóng thời lượng lớn một cách bất thường những bản tin bằng mật mã cho kháng chiến Pháp, và các đài ra-đa của Đức giữa Cherbourg và Le Havre đang bị nhiễu sóng. Lúc 10 giờ tối, Đại đoàn thứ Mười lăm nghe lỏm được một thông báo bằng mật mã mà họ nghĩ có nghĩa là cuộc đổ bộ sắp bắt đầu. Lệnh báo động được phát ra cho Đại đoàn này, nhưng Rundstedt nghĩ không cần thiết phải báo động Đại đoàn thứ Bảy giữa Caen và Cherbourg, khu vực mà hàng nghìn chiếc tàu Đồng Minh đang tiến đến.

    Mãi đến 1:07 giờ rạng sáng 6 tháng 6, 1944, Đại đoàn thứ Bảy mới nhận ra những gì đang xảy ra, trong khi Tư lệnh Đại đoàn này vẫn còn tập trận trên bản đồ ở Rennes. Hai sư đoàn dù Mỹ và một sư đoàn dù Anh nhảy xuống ngay giữa vùng đóng quân của Đại đoàn thứ Bảy Đức. Lệnh báo động toàn diện được phát ra lúc 1:30 giờ sáng.

    Lúc 2:15 giờ, Trung tướng Tham mưu trưởng Max Pemsel của Đại đoàn thứ Bảy gọi điện đến Tướng Speidel tại tổng hành dinh của Rommel cho biết đấy có vẻ như là “cuộc hành quân trên diện rộng.” Speidel không tin nhưng vẫn báo cáo cho Rundstedt, và ông này cũng nghi ngờ. Cả hai tướng đều tin rằng việc thả quân dù chỉ là cách Đồng Minh chiến thuật đánh lạc hướng để đổ bộ quanh Calais. Lúc 2:40 giờ, Pemsel được báo rằng Rundstedt “không xem đấy là cuộc hành quân lớn.” Mãi cho đến rạng sáng 6/6, một hạm đội Đồng Minh khổng lồ đổ lên từng đơn vị lớn dưới sự yểm trợ dữ dội của đại pháo từ tàu chiến, vị Tổng Tư lệnh Mặt trận miền Tây mới tin đấy là cuộc tấn công chính của Đồng Minh. Chỉ đến xế trưa, Speidel mới nhận ra rõ ràng sự việc. Vào lúc này, quân Mỹ đã lập được hai đầu cầu trên bãi biển, quân Anh có đầu cầu thứ ba, và họ đã xâm nhập vào đất liền được 3 đến 10 kilômét.

    Speidel đã gọi điện cho Rommel ở nhà ông này lúc 6 giờ sáng. Vị Thống chế vội vàng trở lại bằng ô tô mà không đi gặp Hitler, nhưng đến xế chiều ông mới về đến tổng hành dinh Tập đoàn quân B. (Vì lẽ Đồng Minh chiếm ưu thế trên không, Hitler cấm sĩ quan cao cấp đi máy bay.)

    Cùng lúc, Speidel, Rundstedt và tham mưu trưởng của ông này, Tướng Blumentritt, gọi điện về Bộ Tổng tham mưu lúc này đang đóng tại Berchtesgaden. Do một chỉ thị ngu xuẩn của Hitler, ngay cả Tổng Tư lệnh Mặt trận miền Tây phải xin phép ông khi muốn điều động các sư đoàn thiết giáp. Khi ba vị tướng hoảng hốt gọi đến vào buổi sáng ngày 6/6 xin phép điều hai sư đoàn thiết giáp đến Normandie, Jodl trả lời rằng Hitler muốn trước nhất xem tình hình như thế nào. Rồi sau đấy, Hitler đi ngủ. Từ lúc ấy cho đến 3 giờ chiều, tuy các tướng gọi về tới tấp, không ai ở tổng hành dinh dám làm phiền ông.

    Khi Hitler thức dậy, tin xấu đã đưa về khiến cho ông hành động. Ông cho phép sử dụng hai sư đoàn thiết giáp ở Normandie. Đã quá muộn! Ông cũng ban hành một chỉ thị nổi tiếng: phải tiêu diệt địch quân ở đầu cầu vào buổi tối 6 tháng 6... Phải quét sạch bờ biển hạn cuối là đêm nay.

    Rommel ra lệnh cho tổng hành dinh Đại đoàn thứ Năm mở cuộc phản công bằng Sư đoàn 21 Thiết giáp – là đơn vị thiết giáp duy nhất trong vùng – “ngay lập tức dù có tăng viện hay không.” Sư đoàn này đã làm việc ấy mà không phải đợi lệnh của Rommel. Khi Rommel gọi đến, Tướng Pemsel trả lời về chỉ thị của Hitler “quét sạch hạn cuối là đêm nay” không phải một, mà là ba đầu cầu. Ông nói: “Việc này là không khả thi.”

    Rundstedt và Rommel quyết định đã đến lúc nói điều này với Hitler, mặt đối mặt, và yêu cầu ông chấp nhận mọi hậu quả. Họ thuyết phục ông đến một cuộc họp ngày 17/6 tại Margival, nơi có một bong-ke xây làm tổng hành dinh cho Hitler

    Viễn cảnh bị thêm một chiến bại choáng váng khiến các tướng lĩnh thêm can đảm, hoặc ít nhất đối với Rommel, được Rundstedt cho phép phát biểu khi lời lẽ của Hitler trách cứ họ tạm ngưng. Với sự thẳng thắn mà không cần uốn nắn ngôn từ, Rommel vạch ra rằng trận chiến chống lại Đồng Minh có ưu thế trên không, trên mặt biển và trên đất liền là vô vọng. Nhưng tình hình không đến nỗi tuyệt vọng nếu Hitler từ bỏ quyết tâm vô lý là giữ vững mọi tấc đất rồi đẩy các lực lượng Đồng Minh xuống biển. Rommel đề xuất với sự đồng ý của Rundstedt là rút quân Đức khỏi tầm bắn chết người của đạn pháo hải quân Đồng Minh, đưa các đơn vị thiết giáp về phía sau và tổ chức lại rồi sau đấy phát động phản công. Làm như thế, có thể đánh bại Đồng Minh trong một trận đánh bên ngoài tầm bắn của đạn pháo hải quân địch.

    Nhưng Hitler không muốn nghe bất kỳ đề xuất nào về việc rút lui. Binh sĩ Đức phải trụ lại mà chiến đấu.

    Đến lúc này Rommel muốn hướng về chính trị. Ông tiên đoán rằng phòng tuyến Đức tại Normandie sẽ tan vỡ và rằng không thể ngăn chặn đà tiến của Đồng Minh vào đất Đức. Ông không chắc liệu có thể giữ vững phòng tuyến ở Liên Xô hay không. Ông đề xuất nên tìm cách chấm dứt cuộc chiến.

    Hitler đã ngắt lời Rommel vài lần, cuối cùng chen vào: Ông đừng lo lắng về tiến trình tương lai của cuộc chiến, nhưng nên chú tâm vào mặt trận tấn công của ông.

    Hai thống chế không đi đến đâu, cả với lập luận quân sự và chính trị. Tướng Jodl khai trước Tòa án Nürnberg: “Hitler không hề chú tâm đến những lời cảnh báo của họ.”


    [sửa] Liên Xô tiếp tục phản công
    Ngày 20/6, đợt phản công của Liên Xô, mà mọi người tiên liệu từ lâu, đã bắt đầu với sức mạnh vượt trội. Chỉ trong vòng vài ngày, Tập đoàn quân Trung tâm của Đức, mà Hitler đã tập trung những đơn vị mạnh nhất, hoàn toàn tan nát. Phòng tuyến Đức vỡ vụn, và con đường đến Ba Lan rộng mở. Ngày 4/7, quân Nga vượt đường biên giới năm 1939 phía đông của Ba Lan và hội tụ ở Đông Phổ.

    Vào ngày 29/6, một lần nữa Rundstedt và Rommel kêu gọi Hitler nên đối mặt với thực tế ở miền Đông và miền Tây, cố chấm dứt chiến tranh trong khi một phần đáng kể của Quân đội Đức vẫn tồn tại. Hitler từ khước.

    Hai ngày sau, Rundstedt bị bãi nhiệm chức Tổng Tư lệnh Mặt trận miền Tây. Thay thế ông là Thống chế Günther von Kluge.


    [sửa] Sự suy tàn của Đế chế Thứ Ba

    [sửa] Cuộc tấn công vào lãnh thổ Đức
    Cuộc tổng phản công của Liên Xô bắt đầu ngày 10/6/1944. Đến giữa tháng 8/1944, Hồng quân tiến đến biên giới Đông Phổ, bao vây 15 sư đoàn Đức ở vùng Baltic, xâm nhập đến Vyborg của Phần Lan, tiêu diệt Tập đoàn quân Trung tâm của Đức. Trong 5 tuần, mặt trận của Liên Xô tiến đến Sông Wistla. Ở miền nam, Liên Xô bắt đầu cuộc phản công ngày 20/8. Đến cuối tháng 8, họ chiếm được Rumania cùng với mỏ dầu Ploesti, nguồn cung cấp dầu hỏa chính duy nhất cho Quân đội Đức. Ngày 26/8, Bulgari chính thức từ bỏ cuộc chiến và quân Đức bắt đầu vội vã rút ra khỏi nước này. Đến tháng 9, Phần Lan đầu hàng và giải giới những binh sĩ Đức không chịu rút ra khỏi nước này.

    Ngày 25 tháng 8, 1944, sau 4 năm dưới sự chiếm đóng của Đức, Paris được giải phóng khi Sư đoàn 2 Thiết giáp của Pháp dưới quyền Tướng Jacques Leclerc và Sư đoàn 4 Bộ binh của Mỹ tiến vào thành phố
     
  7. [Rest In Peace] Panzerklein

    [Rest In Peace] Panzerklein 16 July 2021

    Tham gia ngày:
    27/7/06
    Bài viết:
    8,577
    Nơi ở:
    Inferno
    Có sự sai lạc chỗ này,
    1. Rundstedt và Hitler chứ không phải là Rommel, Rommel tin chắc Allies sẽ đánh Normandy, còn Hitler thì không tin như vậy. Điển hình là ngay khi Normandy thất thủ, các sư đòan SS Panzer gần đó dưới sự chỉ huy trực tiếp của Hitler cũng không chịu tăng viện cho quân phòng thủ của Rommel.

    2. Cái là trực giác và sự cảnh báo của Rommel về Normandie mới đúng.
     
  8. Kronpas1997

    Kronpas1997 Baldur's Gate Lão Làng GVN

    Tham gia ngày:
    5/9/02
    Bài viết:
    30,830
    no copy and paste. Tớ đang định gov đồng chí napôleon, nhưng đọc thấy dòng "copy bên ttvnol", nghĩ thương tình nên thôi. Đưa một cái link là đủ. Sau thread này, vấn đề copy and paste sẽ được đưa lên thành rule cho box, ai vi phạm = đạo văn = gov.
     
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này