100 Nhân Vật Nổi Tiếng Nhất Văn Hoá Trung Quốc

Thảo luận trong 'Kỷ niệm Hội Vườn Đào' bắt đầu bởi Chiplucky, 15/1/04.

  1. Chiplucky

    Chiplucky The Invisible Man

    Tham gia ngày:
    14/3/03
    Bài viết:
    3,766
    Nơi ở:
    Bảng Phong Thần
    HÁN VÕ ĐẾ
    (Sinh năm 156 - mất năm 87 trước Công nguyên)


    _ Sáng ngày mồng 7 tháng năm Tiền Nguyên đầu tiên triều Hán Cảnh đế (năm trước Công nguyên), trong điện Ỷ Lan của một bà phi của Hán Cảnh đế vọng ra tiếng rú đau đớn. Không lâu, tiếng rú đau đớn ấy được thay bằng tiếng khóc mạnh mẽ của một đứa bé trai chào đời. Ngoài cung, trong cung, không khí hết sức vui mừng. Hoàng tử thứ chín của Hán Cảnh đế ra đời, có lẽ với ý mong muốn cho đứa con được dễ nuôi, Hán Cảnh đế ban tên đứa bé là "Trư" và tên chính là "Triệt" với ý thông minh thấu triệt sự lý.

    _ Thưở nhỏ, Lưu Triệt sống vào thời thịnh trị của Hán Cảnh đế. Được người lớn chiều chuộng, sống trong hoàng gia giàu có và trong điều kiện xã hội an bình, Lưu Triệt đã trở thành hoàng tử bướng bỉnh, thích đùa nghịch nhưng có tính cách thông minh hào phóng. Năm Lưu Triệt sáu tuổi, dưới sự giúp đỡ của mẹ nuôi, cậu được lập lên ngôi thái tử. Mẹ nuôi Lưu Triệt làm việc ấy chính vì mục đích muốn cho con gái mình sau này được làm hoàng hậu. Có lần, bà hỏi Lưu Triệt:
    - Ta gả A Kiều làm vợ cho con được chăng ?
    Lưu Triệt nghịch ngợm đáp:
    - Con sẽ cho đúc nhà vàng để cất nàng đấy !
    _ Đó chính là nguồn gốc của điển cố nổi tiếng "Kim ốc tàng Kiều" (nhà vàng cất người đẹp). Lưu Triệt thưở thiếu thời đã phong lưu tiêu sái, phóng túng không chịu bị ước thúc. Lưu Triệt có bệnh đồng tính luyến ái, khi còn làm Giao Đông vương, ông đã từng yêu quý một bạn học tên Hàn Yên. Quan hệ giữa hai người cực thân thiết. Sau khi Lưu Triệt làm thái tử, hai người càng thân mật. Hàn Phi lớn lên càng lộ rõ vẻ anh tuấn của nam nhi cộng với nét kiều diễm của phụ nữ, lại càng được Lưu Triệt yêu quý. Hàn Yên là nguời không chỉ đẹp về dung mạo mà y còn khéo chiều ý lấy lòng người khác. Lưu Triệt lên ngôi hoàng đế, muốn chấn hưng võ bị có ý định đi đánh Hung Nô, Hàn Yên xin đầu quân trước tiên. Hàn Yên với Hán Võ đế như hình với ảnh, cùng ăn cùng ngủ, y cậy vào sự yêu quí của Hán Võ đế ra vào cung đình không ai cấm đoán nên dần dần trở nên kiêu căng ngạo mạn. Có lần, anh ruột Hán Võ đế là Giang Đô vương về kinh thăm mẹ, cùng Hán Võ đế đi săn trong vườn thượng uyển. Trước khi lên xe đi, Hán Võ đế gọi Hàn Yên đi xe phụ dẫn mười kỵ binh đi tuần sát phía trước. Giang Đô vương ở xa nhìn tới thấy nghi vệ giống hệt đế vương lầm rằng đó là Hán Võ đế bèn quỳ xuống chờ đón hành lễ vua tôi. Hàn Yên nhìn thấy làm lơ cứ giục ngựa đi tới. Việc ấy làm Giang Đô vương mất mặt, hết sức buồn giận. Giang Đô vương khóc kể với hoàng thái hậu mong mẹ rửa nhục cho mình. Vì vậy, thái hậu để bụng oán hận Hàn Yên. Vừa lúc ấy, tin hoàng đế và Hàn Yên đồng tính luyến ái đồn đến tai thái hậu, thái hậu quyết tâm xử tử Hàn Yên. Hán Võ đế cố năn nỉ xin tha cho y nhưng thái hậu không nghe. Hàn Yên chết rồi, em trai là Hàn Duyệt cũng được hoàng đế ân sủng, luôn cho ân thưởng.

    _ Từ đó, đủ thấy Hán Võ đế tuy rất thích lập công, uy nghiêm như thần, nhưng lại là một nhân vật nghịch ngợm một cách hồn nhiên và trọng cảm tính. Tuy rất thích võ bị, ông lại thích du lịch, thích cả âm nhạc, văn học và thần tiên.

    _ Hán Võ đế vừa là tướng soái anh minh, là người đứng đầu đất nước, vừa là người thường đi du lãm các cảnh đẹp sông núi, vừa là người đầu tiên lập nên nhạc đội honàg gia, là bạn hữu của các nhà văn, là tín đồ của các phương sĩ, vừa là người chồng tốt với Lý phu nhân.

    _ Phóng túng mà uy nghi, thông minh cơ trí mà vui giận bất thường, thích sự quảng bác với cá tính có chí hướng, tất cả những điều ấy cấu thành phẩm cách của vị đế vương lớn Hán Võ đế. Cống hiến và sáng tạo của ông về phát triển văn hoá Trung Quốc trên nhiều phương diện và là một chỉnh thể hoàn bị mà trong ấy có hai điểm rực rỡ đáng biểu dương nhất: một là, ông tôn sùng đạo Nho, chấn hưng học thuật, an định tư tưởng chủ lưu trong xã hội phong kiến Trung Quốc. Nói cách khác, ông an định cơ bản phương hướng vận động của văn hoá Trung Quốc trong hơn hai ngàn năm. Tôn sùng đạo Nho là ưu đãi Nho sinh và sùng thượng kinh điển Nho gia. Trong khoảng niên hiệu Nguyên Quang, Hán Võ đế mới hơn hai mươi tuổi đã liên tục hạ chiếu yêu cầu các Nho sinh và kẻ sĩ có tài hãy dâng đối sách trị nước lên triều đình. Các Nho sinh nhiệt liệt hưởng ứng. Hành động đối sách này của Hán Võ đế mở đầu cho hình thức thi cử sau này. Trong các đối sách dâng lên, đối sách của Đổng Trọng Thư khiến cho Hán Võ đế cảm phục, xuống liền ba đạo chiếu thư yêu cầu Đổng Trọng Thư bày tỏ minh bạch hơn kiến giải của mình. Sau đó, Đổng Trọng Thư dâng lên ba bài đối sách, nhận định rằng đế vương là người tiếp nhận ý chí của trời cao để cai quản việc nhân gian nên cần làm sáng Đức giáo, bớt hình phạt. Nhà Tần diệt vong vì đã lấy hình pháp trị thiên hạ. Thực hành giáo hoá trị thiên hạ cần phải xây nhà Thái học, bồi dưỡng nhân tài. Để giữ vững trật tự cho nền thống trị phong kiến cần phải chia ra trật tự đẳng cấp minh bạch giữa vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em. Trên dưới thấp cao phải có phân biệt. Những kiến giải của Đổng Trọng Thư được Hán Võ đế chấp nhận, hạ lệnh cho toàn quốc "học theo Khổng Tử, bài truất bách gia, độc tôn Nho thuật".

    _ Hai là chấn hưng nội triều, ức chế ngoại triều, làm mạnh quyền tập trung về trung ương, xác lập phương hướng vận động của nền chuyên chế chính trị Trung Quốc truyền thống. Đời Hán kiến quốc lấy công thần làm tướng, dưới một người nhưng đứng trên vạn người, nắm quyền rất lớn làm trở ngại đến thể chế chính trị trung ương tập quyền. Hán Võ đế trẻ trung cường tráng quyết tâm thay đổi trạng thái ấy khiến quyền hạn của vua có đầy đủ uy lực cho phối quyền của tể tướng. Vì đó, ông chấn hưng nội triều, ức chế ngoại triều. Gọi là nội triều là chỉ hoàng đế xử lý việc nước tiếp kiến quần thần trong triều đình. Gọi là ngoại triều là chỉ thừa tướng chủ trì phương kế quốc gia, quản lý bách quan. Hán Võ đế cho chuyển quyền hạn ngoại triều về nội triều, tăng thêm cơ cấu quản lí việc nước trong nội triều như các chức "Trung thư" và "Thượng thư". Chức trước là nguời truyền đạt mệnh lệnh của hoàng đế, chức sau là bí thư của hoàng đế. Hán Võ đế còn thông qua các cuộc thi Hiếu liêm, Hiền lương, Văn học tuyển chọn nhân tài và đề bạt một số lớn Nho sinh đảm nhiệm quan chức nội triều. Do vậy, quân quyền ngày càng mạnh, tướng quyền ngày càng bớt. Bắt đầu từ Hán Võ đế, hoàng đế được củng cố, tướng quyền bị đè nén làm vững mạnh chế độ trnug ương tập quyền của quân chủ chuyên chế, trở thành con đường noi theo trong mấy ngàn năm sau.

    _ Thời Hán Võ đế là thời kỳ vĩ đại cống hiến sự định hình trong văn hoá Trung Quốc. Ông vừa là nhân vật lịch sử kiệt xuất vừa là người có ảnh hưởng đến sự phát triển của văn hoá Trung Quốc.t
     
  2. Chiplucky

    Chiplucky The Invisible Man

    Tham gia ngày:
    14/3/03
    Bài viết:
    3,766
    Nơi ở:
    Bảng Phong Thần
    TRƯƠNG KHIÊN
    (Không rõ năm sinh - mất năm 114 trước Công nguyên)


    _ Trong lịch sử nhân loại, thường một loại hiên tượng, một sự kiện bất thường nào đó xảy ra liền dẫn theo một loạt phản ứng dây chuyền tạo thành cục diện đặc biệt, nó có tính nhảy vọt trong tiến trình lịch sử. Sự kiện Trương Khiên phát hiện ra con đường thông qua Tây Vực vào thời Hán Võ đế chính là hiện tượng lịch sử như thế.

    _ Trương Khiên là người ở thành Thiểm Tây ngày nay. Liên quan đến tới thiếu thời của ông, lịhc sử không ghi chép rõ ràng. Đầu đời Hán Võ đế, ông giữ chức Lang quan. Thân thể Trương Khiên tráng kiện, cá tính cứng cỏi, trung thực đáng tin lại rộng rãi khoáng đạt giàu suy nghĩ. Có một dịp ngẫu nhiên khiến Trương Khiên đựoc đảm nhiệm sứ mệnh giao thông với Tây vực.

    _ Giữa lúc Hán Võ đế dàn trù định kế sách đối phó chiến tranh Hung Nô, từ một lời khai của một tù binh Hung Nô, Võ đế biết được ở vùng Tây vực có một quốc gia tên là nước Đại Nguyệt thị đnag là kẻ thù lớn của Hung Nô. Vua nước Đại Nguyệt thị muốn báo thù Hung Nô nhưng vì nước yếu thế cô. Võ đế rất thích thú khi biết tin này, đế tính toán dự định liên hợp được với Đại Nguyệt thị có nghĩa là đã chặt được một cánh tay của Hung Nô rồi sau đó đánh thẳng vào chính diện của Hung Nô chắc chắn sẽ nắm được phần thắng. Do vậy, đế quyết tâm sai một phái đoàn sứ giả đi sang liên lạc với nước Đại Nguyệt thị. Nhưng từ triều Hán đến nước Đại Nguyệt thị chẳng những phải vượt qua nhiều đoạn bị Hung Nô chiếm đóng, mà điều kiện tự nhiên hết sức khó khăn. Điều ấy đối với người Trung Quốc lúc ấy khó mà thực hiện. Hán Võ đế đã chiêu cáo toàn thiên hạ tuyển mộ sứ giả. Trương Khiên là người dũng cảm xin tình nguyện được đi sứ tới Tây vực.

    _ Khái niệm "Tây vực" ở thời Hán vừa có nghĩa rộng vừa có nghĩa hẹp. Tây vực theo nghĩa rộng bao gồm suốt cả vùng Trung Á, Tây Á và bán đảo Ấn Độ cho đến cả khu vực Đông Âu, Bắc Phi ngày nay. Tây vực theo nghĩa hẹp bao gồm vùng ngày nay là Tân Cương, Thanh Hải và Tây Tạng. Tây vực mà Trương Khiên có ý định đi sứ nằm trong nghĩa rộng. Thời Tây Hán, vùng này có nhiều quốc gia vốn đã kiếm sống bằng nghề du mục, chỉ có vài nước có nền nôgn nghiệp phát đạt. Trước thời Hán Võ đế, Trung Nguyên và các nước Tây vực chưa hề lai vãng qua lại gì với nau, vì vậy Trương Khiên là người mở đầu cho công cuộc giao thông với Tây vực, ông đi sứ hai lần, trải qua gian lao hạng nhất.

    _ Lần thứ nhất đi sứ Tây vực, trải qua mười ba năm, đem theo hơn một trăm tùy tùng, cuối cùng trở về chỉ còn một người quay về với ông. Năm Kiến Nguyên thứ hai (năm 139 trước Công nguyên), do một người Hung Nô dẫn đường, phái đoàn sứ giả xuất phát về hướng Tây từ tỉnh Cam Túc ngày nay. Họ đi suốt đêm ngày, dầm mưa dãi nắng, thường thường phải nhịn đói khát. Khi đi qua đất Hung Nô họ bị chận lại. Thiền vu Hung Nô (chức danh cầm đầu các dân tộc ngoài Trung Quốc) nghe nói sứ giả Tây Hán định đi tới nước Đại Nguyệt thị bèn bắt giữ họ. Hung Nô định ép Trương Khiên lấy vợ đẻ con ở Hung Nô để lung lạc giam lỏng ông. Nhưng mọi thứ ấy không thể làm lay động quyết tâm của Trương Khiên. Mười năm sau, sự cảnh giác của Hung Nô hơi lơi lỏng, ông thừa cơ thoát thân tiếp tục đi về hướng Tây. Biết bao gian hiểm dọc đường, cuối cùng ông cũng đến được Đại Nguyệt thị. Khi đi, ông đi bằng con đường phía Bắc, khi về để tránh không gặp Hung Nô, ông chọn con đường phía Nam, nhưng bất ngờ ông vẫn đụng đầu với quân đội Hung Nô, ông lại bị bắt giữ hơn một năm. Sau này, Trương Khiên về đến kinh đô Trường An báo cáo tường tận về các mặt địa lý, chính trị, kinh tế, văn hoá thuộc nhiều nước ông đã đi qua như những nước Đại Uyển, Khang Cư, Đại Nguyệt thị, Đại Hạ, Thân Độc,... Tuy mục đích liên kết với Đại Nguyệt thị đánh Hung Nô chưa thực hiện được, nhưng Hán Võ đế nắm vững được tình hình Tây vực là đủ thú vị lắm rồi, đế ban thưởng trọng hậu cho Trương Khiên. Nhờ các báo cáo kỹ lưỡng của Trương Khiên, quân đội Hán có kế hoạch thích ứng đối phó với các nước Tây vực.

    _ Cách 20 năm sau khi đi sứ lần đầu, Trương Khiên khiến nghị với Hán Võ đế nên liên kết với nước Ô Tôn để cô lập Hung Nô và súi giục Ô Tôn liên hệ với các nước Tây vực khác dẫn dụ họ thần phục triều Hán. Hán Võ đế chấp nhận kiến nghị ấy. Đế sai 300 tùy tùng viên mang theo rất nhiều vật dụng quý giá, tơ lụa và trâu bò thoe Trương Khiên đi sứ Tây vực một lần nữa. Lần này, nhờ quân Hán nhiều lần đánh dẹp Hung Nô nên đường đi của Trương Khiên dễ dàng hơn, sự giao thông giữa Tây vực và triều Hán về cơ bản đã được khai thông, vả chăng qua kinh nghiệm lần đầu, họ cũng khắc phục được nhiều điều kiện tự nhiên nên lần đi sứ này hết sức thuận lợi. Trương Khiên đến nước Ô Tôn rồi liền phân các phó sứ đi sang các nước Đại Uyển, Khang Cư, đại Nguyệt thị, Đại Hạ An Tức còn riêng ông quay về Hán trước. Hai năm sau, các phó sứ ấy mới dẫn đoàn sứ giả các nước Tây vực về đến triều Hán. Từ đó, Hán và các nước Tây vực chính thức thiết lập quan hệ hữu hảo, càng ngày càng qua lại với nhau nhiều hơn. Ý nghĩa hai lần Trương Khiên đi sứ Tây vực đả thông tuyến đường giao thông từ triều Hán qua Trung Á, Tây Á cho đến các vùng các nước phía tây xa xôi mở đầu cho sự giao lưu văn hoá Đông Tây. Bắt đầu từ đây, nội hàm văn hoá Trung Quốc cực kì phong phú làm tiền đề cho con đường tơ lụa sau này. Công trình của Trương Khiên ảnh hưởng rộng lớn tới mọi mặt đời sống của Trung Quốc thông qua con đường sang phương Tây ấy.t
     
  3. Chiplucky

    Chiplucky The Invisible Man

    Tham gia ngày:
    14/3/03
    Bài viết:
    3,766
    Nơi ở:
    Bảng Phong Thần
    TƯ MÃ THIÊN
    (Sinh năm 145 (?) - mất năm 89 (?) trước Công nguyên)


    _ Một cá nhân có thành tự kinh thiên động địa rung chuyển cổ kim thường thường do hoàn cảnh đặc thù, tôi luyện nên phẩm cách đặc biệt của người ấy. Tư Mã Thiên chính là nhân vật lịch sử vĩ đại ở trường hợp thế. Ông thông minh hiếu học, được nền giáo dục ưu tú tôi luyện, lại phải tra hoàn cảnh mà người khác khó chịu đựng được. Cuối cùng, ông trở thành một người cương liệt, lập nên sự nghiệp vĩ đại, ảnh hưởng sâu đậm tới diện mạo văn hoá Trung Quốc.

    _ Tư Mã Thiên tên tự là Tử Trường, là người đất Hàn thành, Thiểm Tây ngày nay. Ông sinh ra trong một gia đình nhiều đời có học, cha ông là Tư Mã Đàm là một nhà đại học vấn thời ấy. Từ nhỏ nhận được nền giáo dục gia đình nghiêm khắc, bồi dưỡng phẩm cách ông cần mẫn hiếu học. Mười tuổi, ông đã thông hiểu cổ văn (văn chương trước đời Tần, Hán người lúc đó gọi là cổ văn). Dưới sự hun đút dạy dỗ trong thời gian dài của cha, Tư Mã Thiên càng ngày càng ham thích nghiên cứu lịch sử. Để tạo điều kiện cho con nghiên cứu lịch sử, năm Tư Mã Thiên hai mươi tuổi, cha ông không tiếc tiền bạc chu cấp cho ông xuất du học hỏi khảo sát "thu thập kiến văn đã mất mát trong thiên hạ". Trong thời gian du khảo, Tư Mã Thiên chú trọng tới việc tìm hiểu và khảo sát các di tích lịch sử và thu thập cá di vật lịch sử còn sót lại. Ông leo núi Lư sơn để xem di tích của vua Võ; ông đến kinh đô cũ đất Tề đất Lỗ xem di tích của Khổng Tử; ông đến đất Sở xem thành cũ của Xuân Thân quân; ông qua đất Phong, đất Búi hỏi thăm các bậc cố lão, thăm nhà các danh tướng Tiêu Hà, Tào Tham, Phàn Khoái, Đằng Công,... Tóm lại, lần tráng du này của ông phạm vi bao quát suốt vùng trung tâm Trung Nguyên. Chính nhờ lần du khảo lâu dài này, ông hiểu rất rõ con đường hành quân của quân Sở, Hán và những khuất khúc trong tình hình lịch sử triều Hán mở nước. Ông còn học được nhiều tục ngữ ca dao và phong tục đặc sắc trong dân gian, hiểu biết thêm nhiều cuộc đời anh hùng thảo dã giúp ông sau này viết sử với "bút lực tinh thần như thấu xuyên qua giấy".

    _ Theo di mệnh của phụ thân Tư Mã Thiên mong muốn, ông phải có thành tựu sáng tạo trong lĩnh vực lịhc sử học. Năm Tư Mã Thiên 36 tuổi, cha ông theo Hán Võ đế tham dự đại lễ "phong thiện" ở núi Thái sơn, khi về nghỉ chân ở chỗ Lạc Dương (Hà Nam ngày nay), Tư Mã Đàm lâm bệnh nặng, Tư Mã Thiên vừa đi sứ vùng tây nam về nghe tin vội chạy đến vĩnh biệt cha. Cha ông hết sức ân hận dặn dò: "Bốn trăm năm nay, các chư hầu kiêm tích lẫn nhau khiến sử sách mất mát. Nay nhà Đại Hán hưng thịnh, trong ngoài thống nhất, nước có vua sáng tôi hiền, trong triều có trung thần nghĩa sĩ, cha làm Thái sử mà không ghi chép được đầy đủ chuyện cũ nên cảm thấy hết sức lo sợ. Hy vọng con nhớ kỹ nỗi ân hận của cha". Trong lúc Tư Mã Đàm hấp hối, Tư Mã Thiên lập lời thề: "Tiểu tử tuy không thông tuệ nhưng xin nhớ mãi lời dạy của cha, con sẽ chỉnh lý những gì biết cũ để không còn sai sót nhiều". Nỗi ân hận cuối đời của Tư Mã Đàm làm kiên định thêm ý chí kế thừa sự nghiệp cha của Tư Mã Thiên và giúp ông quyết tâm biên soạn lịch sử.

    _ Năm Tư Mã Thiên 38 tuổi, ông được Hán Võ đế cho giữ chức Thái sử lệnh, điều ấy khiến cho ông rất hưng phấn. Ông thận trọng chỉnh lý duyệt đọc Bách thất kim quỹ chi thư là sách thu thập hầu hết các di văn đời trước, chuẩn bị cho biên soạn một hệ thống sử quán thông cổ kim, ông bắt đầu bỏ cả ăn ngủ viết bộ Sử ký.

    _ Năm Tư Mã Thiên 47 tuổi, tại hoạ giáng xuống đầu ông. Năm ấy, Hán Võ đế sai anh họ là đại tướng Lý Quảng Lợi đem quân đi đánh Hung Nô và sai Lý Lăng theo hậu phương đem lương thực, nhưng Lý Lăng xin ra tiền tuyến đánh giặc để dẫn dụ lạc hướng quân Hung Nô giúp Lý Quảng Lợi dễ dàng chiến thắng. Do vì Lý Lăng quân ít lại tiến vào sâu không đánh lại địch, toàn quân tan vỡ đành phải đầu hàng Hung Nô. Tin Lý Lăng đầu hàng đưa về đến kinh sư, Hán Võ đế nổi giận, bọn a dua xu nịnh đổ tội cho Lý Lăng vè bênh vực Lý Quảng Lợi càng làm Hán Võ đế giận dữ. Tư Mã Thiên chân chính không có cảm tình với tình trạng xu nịnh ấy. Là một tôi thần, Tư Mã Thiên không can hệ gì đến quân sự và ông cũng chẳng phải bạn thân thiết gì của Lý Lăng. Khi Hán Võ đế hỏi tới ý kiến ông, ông cứ như sự thật biểu đạt ý kiến của mình. Ông nói, khi mới xuất quân, Lý Lăng là người chủ động xin đi đánh không màn tới sinh tử, điều đó đủ đáng phục, huống gì trong lúc giao chiến, Lý Lăng chỉ có chưa tới 5.000 quân dám tiến sâu vào đất địch làm Hung Nô rung chuyển, đánh hơn mười ngày giết không biết bao nhiêu kẻ địch, chỉ vì không có viện binh để đến nỗi bại trận. Nay Lý Lăng đã bị địch bắt, là hàng thật hay hàng giả là chưa biết được. Theo thần suy đoán, có thể Lý Lăng trá hàng Hung Nô để đợi cơ hội báo đền ân đức triều Hán. Mà dù tệ hơn, Lý Lăng có thật hàng đi chăng nữa, công ông ta cũng đã hơn thiên hạ. Tấm lòng thành thật của Tư Mã Thiên không phải chỉ bênh vực cho Lý Lăng mà còn là muốn khuyên Võ đế nên công bình. Nhưng lời nói thẳng của ông chẳng những không làm Hán Võ đế bớt giận, trái lại còn chọc giận thêm. Theo ý Hán Võ đế, Tư Mã Thiên bênh vực cho Lý Lăng là có ý chỉ trích Lý Quảng Lợi, anh họ của đế và như vậy là có ý gián tiếp chỉ trích Võ đế. Vì vậy, Hán Võ đế đổ tội danh cho Tư Mã Thiên "phạm thượng" và bắt Tư Mã Thiên vào ngục, định vào tội chết. Theo pháp luật thời ấy, có thể đem 50 vạn tiền ra chuộc tội chết hoặc là chịu tội "hủ hình" (tội thiến) để miễn chết cố sống nhẫn nhục. Tiền thì do bổng lộc của ông có hạn, không có tíhc lũy gì mà bạn bè chung quanh không ai ra tay cứu. Còn đối với "hủ hình", ông đã tự đấu tranh với mình. Trong quan niệm cổ đại ông giác ngộ ra biện chứng sinh tử: "Người ta chỉ một lần chết, có cái chết nặng như Thái sơn mà cũng có cái chết nhẹ như lông hồng". Ông quyết tâm nhẫn nhục sinh tồn để hoàn thành sự nghiệp mà ông đeo đuổi. Ông cố nén nhẫn nhục bi phẫn để kế tục ý hướng của cha dặn lại trước khi chết. Vào khoảng năm 93 trước Công nguyên, Tư Mã Thiên 53 tuổi, ông viết xong bộ Thái sử công thư (tức Sử ký) vĩ đại ảnh hưởng sâu sắc tới sự phát triển của văn hoá Trung Quốc.

    _ Sử ký ra đời có ý nghĩa đặc biệt trên con đường phát triển của văn hoá Trung Quốc. Trước đời Hán, Trung Quốc cũng đã có sách vở ghi chép lịch sử như các sách: Thượng thư, Xuân thu, Quốc ngữ, Chiến quốc sách, Thế bản,... Những bộ sách này không thuần túy chỉ có ý nghĩa sử học mà là loại lập ngôn mượn sự việc, vừa giản lược vừa tản mạn, lại có nhiều thiếu sót lẫn lộn giữa việc đáng tin và việc không đáng tin. Đến đầu đời Hán, sử học Trung Quốc tiến vào giai đoạn tự giác, khiến sử học trở thành môn học độc lập uyên bác, vì vậy ông được gọi là "tổ sư khai sơn của loại học vấn này". Tư Mã Thiên viết Sử ký, tường thuật lại sự phát triển của dân tộc Trung Quốc từ đầu đến đời Hán, ông dùng nhân vật làm trung tâm, dùng những sự kiện lịch sử quan trọng làm mối, đồng thời ông còn chia ra từng môn loại ghi chép khái quát sự phát triển đủ mọi loại chế độ xã hội từ đời Hoàng đế đến đời Hán Võ đế về đủ mọi phương diện thiên văn, địa lý, pháp luật, kinh tế,... không gì ông không đề cập tới. Vì vậy, bộ này còn là bức tranh toàn diện về lịhc sử xã hội Trung Quốc. Trong phần "kỷ truyện" ghi chép nhân vật là trung tâm, Tư Mã Thiên không chỉ chép về đế vương mà còn chép cả những anh hùng thất bại, không chỉ chép về các nhà quý tộc thế gia, mà còn chép cả về các thủ lãnh bị gọi là "phản loạn", ông chép từ truyện quan liêu cho đến các văn học gia kiệt xuất, triết học gia, khoa học gia, đến cả các địa chủ nổi tiếng, các thương nhân, đến tận cả các giai tầng lưu lãng trong xã hội như du hiệp,... Cơ hồ ông chú ý đến mọi giai tầng trong xã hội với ngòi bút miêu tả sinh động. Nhờ đó, Sử ký trở thành "bộ xã hội sử quy mô đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc". Sự ra đời của nó mở đầu cho công tác viết sử xã hội ở Trung Quốc.

    _ Tư Mã Thiên vì xã hội viết sử, thể hiện tư tưởng và hành vi của quốc dân, ông cũng là ông tổ của phương pháp biên soạn lịch sử theo thể loại "Kỷ truyện". Từ đó về sau, sử gia Trung Quốc trong hơn hai ngàn năm đều coi thể "Kỷ truyện" là phương pháp chính tông trong sử học. Cho đến ngày nay, phẩm cách và tác phẩm vĩ đại của Tư Mã Thiên vẫn là đỉnh cao của sử học Trung Quốc.t
     
  4. Chiplucky

    Chiplucky The Invisible Man

    Tham gia ngày:
    14/3/03
    Bài viết:
    3,766
    Nơi ở:
    Bảng Phong Thần
    TÔ VÕ
    (Không rõ năm sinh - mất năm 60 trước Công nguyên)



    _ Các tư tưởng gia thiết kế quy phạm đạo đức, xác lập niềm tin chính trị, truyền bá sự giáo hoá, tuy vẫn có thể đánh động tới tâm linh của muôn vạn người, thế nhưng muốn làm cho những tư tưởng, quan niệm ấy thấm sâu vào ý thức con người, chuyển hoá thành thói quen và tư duy và trở thành tiêu chuẩn giá trị phổ biến lại cần phải có những tấm gương kiểu mẫu. Tô Võ là người sống trong tù ngục Hung Nô nhưng vẫn giữ mãi tấm lòng cứng cỏi, thực tiễn hoá quan điểm "Dị Hạ chi biệt" (Man Di và Trung Hoa có khác nhau, người Trung Hoa xưa có quan niệm sai gọi tất cả các đều là "Man Di") của Nho gia trung thành với quan niệm đạo đức, giữ vững lòng thành yêu nước báo đáp ân vua, ông trở thành tấm gương biểu mẫu hơn hai ngàn năm nay của xã hội đại thống nhất. Niềm tin của ông, sức mạnh của ông có sức chiêu cảm lớn với dân tộc Trung Hoa. Hành vi của ông được mọi tầng lớp dân tộc coi là đúng và trở thành một yếu tố tâm lý trong văn hoá dân tộc Trung Quốc.

    _ So với Trương Khiên, sự nghiệp Tô Võ không vĩ đại bằng. Ảnh hưởng của ông với văn hoá Trung Quốc cũng không sâu đậm bằng bằng Trương Khiên, nhưng trong phần sâu kín nhất, cuộc đời Tô Võ là yếu tố thấm từ từ vào tâm lý văn hoá của người dân Trung Quốc. Nếu như bảo công lao mở đường của Trương Khiên có vẻ đẹp của sự thay đổi đột ngột thuộc dương cương thì hành động Tô Võ chăn dê lại có ảnh hưởng chậm rãi thuộc âm nho trong văn hoá dân tộc Trung Quốc. Trong diễn biến của văn hoá Trung Quốc, khó mà lấy tiêu chuẩn gì phán đoán cống hiến của Trương Khiên và Tô Võ ai lớn hơn ai. Chỉ có thể nói, công nghiệp của Trương Khiên và Tô Võ đều là những công nghiệp vĩ đại.

    _ Tô Võ là người Tây An (Thiểm Tây ngày nay). Cha ông là đại tướng nổi tiếng Tô Kiến thời Hán Võ đế. Vì nguyên nhân ấy, ngay từ thiếu thời, ông được giữ chức "Lang" ở triều đình cùng với hai anh em khác. Năm 100 trước Công nguyên, Thiền Vu mới của Hung Nô lên ngôi, để mong hoà hảo với triều đình Hán, Thiền Vu mới thả sứ giả Hán bị giam giữ đã lâu về nước. Để cảm tạ Hung Nô, Hán Võ đế sai Tô Võ dân nhóm phó quan Trương Thắng hơn 100 người đem theo khá nhiều tài vật đi sứ Hung Nô. Nhóm Tô Võ hoàn thành nhiệm vụ, đang định quay về triều Hán, bỗng Hung Nô xảy ra nội loạn. Trong nội loạn, hầu vương Hung Nô với Ngô Thường làm phản thất bại phải chịu sự tra hỏi. Ngô Thường xưa có giao du với phó quan Trương Thắng. Tô Võ không biết gì về việc ấy, chỉ vì Trương Thắng làm liên lụy đến cả nhóm phải chịu bị giữ để điều tra. Tô Võ nôn nóng than: "Cứ ngồi đây chờ bị thẩm vấn khác nào làm nhục tới triều Hán, chi bằng chúng ta lấy cái chết ra cứu vãn". Dứt lời, ông rút đao tự sát, nhưng bị bọn Trương Thắng nhanh tay hơn chận lại.

    _ Thiền vu bắt giữ cả nhóm Tô Võ, yêu cầu họ đầu hàng phản lại triều Hán. Vừa nghe lời dụ hàng, Tô Võ giận dữ quát: "Kẻ để mất khí tiết, lăng nhục mệnh vua thì dù có sống thêm cũng còn mặt mũi nào nhìn người nữa!" Ông lại đòi tự sát. Thiền vu kính phục khí tiết của Tô Võ, lại càng muốn dụ hàng ông. Đợi vết thương Tô Võ khỏi bớt, Thiền vu sai Vệ Luật (là người Hán đã đầu hàng Hung Nô từ lâu) tới khuyên hàng. Vệ Luật giết Ngô Thường trước uy hiếp Trương Thắng. Trương Thắng ham sống sợ chết nên đầu hàng. Vệ Luật khuyên Tô Võ: "Trước đây, tôi đầu hàng Hung Nô cũng là con đường chỉ quyết định chọn trước khi chết. Nay Thiền vu trọng dụng tôi, phong cho tôi tước vương hưởng muôn ngàn phú quý. Nếu như ông đồng ý đầu hàng, ngày mai lập tức ông cũng phú quý như tôi. Nếu ông cứ giữ vững lòng bất khuất trung thành với triều Hán thì cũng có ai biết cho ? Nếu như ông đầu hàng, tôi với ông sẽ kết làm anh em. Ông không nghe tôi, sau này có hối hận, e rằng cũng đã muộn mất rồi". Tô Võ nổi giận lôi đình, mắng Vệ Luật: "Ngươi là tôi thần nhà Hán mà không kể gì ân nghĩa, bán minh phản vua thành tên giặc hàng bọn Man Di, ngươi còn mặt mũi nào nói chuyện với ta !" Bấy giờ, Vệ Luật mới biết hkông thể nào uy hiếp khuất phục được Tô Võ. Hắn báo cáo sự thật với Thiền vu, Thiền vu lại càng muốn ông đầu hàng.

    _ Thiền vu nghĩ ra một kế, khuyên không được thì hành hạ ông hkổ cho biết, hắn bắt Tô Võ xuống ở ngục dưới lòng đất, cấm chỉ mọi ăn uống để hành hạ thân xác ông. Đang là mùa đông, tuyết rơi rất dày, Tô Võ cố nhịn đói khát. Khi khát quá, ông ngậm tuyết cho đỡ khát. Khi đói quá, ông xé tấm da dê ăn cho đỡ đói. Nhiều ngày sau, Thiền vu thấy Tô Võ vẫn không có chút biểu hiện gì lay chuyển, hắn đành tha ông ra rồi thực hành mưu đồ giam lỏng. Thiền vu nói: "Chỉ cần ông đầu hàng Hung Nô, lập tức ông sẽ được phong tước vương". Nhưng Tô Võ thà chết không chấp nhận. Thiền vu hết hy vọng, vì vẫn kính trọng khí tiết của ông, không nỡ giết ông, bèn đày ông tới vùng Nhĩ Hồ xa xôi để giám sát. Thiền vu bảo: "Nếu ông quyết không đầu hàng thì ta sẽ cho ông đi chăn dê, đợi đến khi dê sinh con, ta sẽ cho ông về". Tô Võ đến bên hồ không một bóng người, các đồng bạn trong nhóm đi sứ với ông xin chia tay, chỉ còn lại bên cạnh ông duy nhất một cây gậy "sứ tiết" đại biểu cho triều Hán. Ông cầm gậy chăn dê, vẫn tin tưởng sẽ có ngày mình sẽ cầm gậy này quay về quốc gia. Từ đó, gậy "sứ tiết" không bao giờ rời ông, ngày lại qua ngày, những dây dua trên gậy đã rơi rụng hết.

    _ Bên Nhĩ Hồ, Tô Võ chăn dê 19 năm, khi đi sứ ông còn cường tráng, bây giờ đã bạc trắng đầu tóc, mãi cho đến khi Thiền vu tại vị qua đời, triều Hán và Hung Nô lại giao hảo, ông mới được Hán Chiêu đế sai sứ giả sang Hung Nô đón ông về. Tô Võ chăn dê 19 năm mà vẫn giữ vững lòng trung. Sự tích bất khuất của ông trước khi về tới kinh đô Trường An đã được mọi người kể nhau nghe và truyền tụng rộng rãi. Khi ông về đến triều Hán, già trẻ lớn bé ở Trường An và các quan viên chính phủ đều ra cửa thành nghênh đón ông. Ông được coi như một nhân vật anh hùng. Mọi người thấy Tô Võ thanh niên khi xưa đã thành một lão nhân đầu bạc, tay cầm cây gậy "khí tiết" cũ kỹ, không ai không xúc động than thở. Người ta khen ông là nam tử chân chính và là đứa con ưu tú của triều Hán.

    _ Khí khái anh hùng và lòng sùng thượng tiết tháo của Tô Võ là do văn hoá Nho gia un đúc mà đào luyện sản sinh ra, ông là người đại diện cho nhân cách lý tưởng của văn hoá Nho gia: giàu có không dâm lạc, nghèo khổ không thảy đổi, uy vũ không khuất phục, không màng sinh tử. Tô Võ xây dựng nhân cách lý tưởng của văn hoá Nho gia, làm sáng tỏ sức mạnh vĩ đại của văn hoá Nho gia và trở thành một tấm gương mẫu mực của chân lý nhân cách người Trung Quốc.t
     
  5. Chiplucky

    Chiplucky The Invisible Man

    Tham gia ngày:
    14/3/03
    Bài viết:
    3,766
    Nơi ở:
    Bảng Phong Thần
    LƯU HÂM
    (Không rõ năm sinh - mất năm 23 trước Công nguyên)



    _ Kinh học là môn học chú giải xiển minh Kinh điển Nho gia. Kinh điển Nho gia là pháp định của chính quyền phong kiến Trung Quốc, lấy Khổng Tử làm đại biểu cho học thuyết Nho gia. Trong xã hội phong kiến hơn 2.000 năm ở Trung Quốc, kinh điển Nho gia lưu hành không hề suy giảm, Kinh học được quan niệm xã hội truyền thống và được các đế vương bảo vệ tôn sùng trở thành mộn học quan phương lấy làm mẫu mực nghị luận và xiển phát đạo học trong các phần tử trí thức.

    _ Kinh học trở thành học thuyết của giai cấp thống trị trong lịch sử Trung Quốc phải bắt đầu từ cuối thế kỉ thứ hai trước Công nguyên. Đến cuối đời Tây Hán, một học giả tên Lưu Hâm giương cao ngọn cờ Cổ văn Kinh học để chống lại phái Kim văn Kinh học đang tràn lan lúc ấy. Từ đấy, Kinh học chia ra hai phái là Kim văn Kinh học và Cổ văn Kinh học.

    _ Lưu Hâm xuất thân trong hoàng tộc triều Tây Hán, phụ thân ông tên Lưu Hướng là một kinh học gia trứ danh đương thời. Từ nhhỏ, Lưu Hâm đã thụ hưởng gia giáo nghiêm khắc, còn trẻ đã thông hiểu Thi, Thư,... viết văn chương rất giỏi. Khoảng niên hiệu Hà Bình đời Hán Cảnh đế (từ năm 28 đến năm 25 trước Công nguyên), Lưu Hâm phụng mệnh hoàng đế cùng vơi cha giữ chức Hiệu bí thư sửa chữa hiệu đính toàn bộ Kinh điển Nho gia và các sách Bách khoa chư tử, thi ca từ phú, thiên văn địa lý, thuật toán phương kỹ. Mỗi khi họ sửa chữa hiệu đính xong sách nào đều ấn định chương mục, viết phần đề yếu. Sau khi Lưu Hướng qua đời, Lưu Hâm kế thừa sự nghiệp của cha, tiếp tục làm công việc sửa chữa hiệu đíhn sách vở. Trong thời gian hoàn thành nhiệm vụ sửa chữa hiệu đính sách vở, Lưu Hâm viết xong tác phẩm nổi tiếng đầu tiên phân loại các sách vở điển tịch, đặt tên là Thất lượ, sáng lập môn học Mục lục học ở Trung Quốc. Sách chia làn sáu phần. Thành tập lược là bài tổng tựa và tổng mục, sau đó chia ra các sách văn thơ từ phú trong chương là Thi phú lược, các sách quân sự quyền mưu trong chương Phương kỹ lược, tất cả gồm thâu thành mục lục 1 vạn 3 ngàn 2 trăm 69 quyển. Hệ thống phân loại của bộ Thất lược cơ bản căn cứ vào nội dung học thuật của các thư tịch, sau này hầu hết các nhà học giả đều theo nguyên tắc ấy và trải qua nhiều sự chỉnh lý các đời sau trở thành cơ sở phương pháp phân loại thành bốn loại Kinh, Sử, Tử, Tập.

    _ Đối với sự nghiên cứu Kinh học ở Trung Quốc, Lưu Hâm chỉnh lý thư tịch cổ lại càng có ảnh hưởng đến sự phát triển của văn hoá Trung Quốc một cách toàn diện. Triều Hán thay triều Tần, Huệ đế bãi bõ cấm thư, Kinh điển Nho gia được giải phóng. Do vì Tần Thủy Hoàng đốt sạch triệt để nên Nho gia thời Hán không có căn cứ để nghiên cứu văn hoá cũ, đa số họ chỉ căn cứ vào trí nhớ của các lão Nho đọc cho nghe rồi chép lại, phổ biến thành sách gọi là Kim văn Kinh.... Thời Hán Võ đế, con trai Cảnh đế là Cugn vương Lưu Dư muốn mở rộng cung thất của mình, cho phá nhà cũ của Khổng Tử đi, trong những bước tường cũ phát hiện được những bộ Kinh điển viết bằng cổ văn (văn tự trước đời Tần Hán), những sách ấy ghi chép Kinh điển Nho gia, sau này được cháu đời thứ hai mươi của Khổng Tử là Khổng An Quốc dâng hiến cho quốc gia. Sách dùng văn tự cổ được coi là Cổ văn Kinh, nhưng các sách này được cất vào thư viện trong thời gian dài hkông được coi trọng. Lưu Hâm và cha và Lưu Hướng thoạt đầu chỉ chuyên nghiên cứu Kinh Dịch... Thời Hán Tuyên đế, Lưu Hướng phụng mệnh nghiên cứu bộ Cốc Lương Xuân Thu, trải qua hơn mười năm, ông trở thành chuyên gia về bộ này. Trong lúc hiệu đính lại sách của cha, Lưu Hâm đọc được bản cổ văn bộ truyện Xuân Thu tả thị truyện, ông hết sức vui mừng đem hết tâm lực ra nghiên cứu. Thoạt đầu, sách Tả truyện có nhiều chữ cổ, các học giả phải phân tích từng chữ từng câu (huấn hỗ). Lưu Hâm dùng truyện văn để giai thích Kinh văn, nhờ đó mà từng câu từng nghĩa của sách Xuân Thu Tả truyện đều hết sức rõ ràng. Tuy Lưu Hâm dùng quan điểm phái Cổ văn Kinh học luận chiến kịch liệt với phái Kim văn Kinh học, địa vị của Kim văn Kinh học được vững mạnh. Khi Ai đế (nhà Hán) chết, Bình đế lên ngôi dùng Vương Mãng phụ chính. Vương Mãng thưở nhỏ cũng giữ chức Honàg môn thị lang với Lưu Hâm, Mãng lại rất tôn trọng học thuật của ông nên Mãng tiến cữ ông lên thái hậu. Nhờ đó, Lưu Hâm trở thành một yếu nhân về văn chương học thuật, Vương Mãng cực lực ủng hộ Cổ văn Kinh học, từ đó, Kinh điển Nho gia Trung Quốc chia ra hai phái Kim văn Kinh và Cổ văn Kinh.

    _ Từ khi Lưu Hâm khai sáng ra Cổ văn Kinh học, cuộc vận động kinh học thời Trung Quốc cổ đại kéo dài hơn 2.000 năm cùng đấu trnah kịch liệt với Kim văn Kinh học. Nói một cách đại thể, Cổ văn cho rằng Lục Kinh (sáu bộ Kinh điển; Thi, Thư, Lễ, Dịch, Nhạc, Xuân Thu) là sử liệu thời tối cổ, Khổng Tử chỉ là vị thánh nhân "Thuật nhi bất tác, tín nhi vị cổ" (chỉ thuật lại mà không sáng tác, tin vào việc xưa), công trạng của thánh nhân này chỉ chỉnh lí các sử liệu thời tối cổ và bảo tồn truyền thống văn hoá. Còn phái Kim văn Kinh gia cho rằng Khổng Tử áp dụng phương pháp "Thái cổ cải chế" (mượn việc xưa làm mới lại việc nay) có công phu chế tác khiến các Kinh điển mang nội dung phong phú, do đó Khổng Tử mới trở thành chính trị gia, triết học gia. Cổ văn gia và Kim văn gia đều tôn sùng Khổng Tử, nhưng từ những góc độ khác nhau. Cổ văn gia tôn sùng Khổng Tử như một bậc tổ sư của văn hoá Trung Quốc, còn Kim văn gia tôn sùng Khổng Tử như một bậc "tố vương" (vua không ngai) của Trung Quốc cổ đại, nghĩa là họ Khổng có tài đức của bậc đế vương nhưng chỉ không ngồi trên ngai vị. Chỗ khác biệt của Cổ văn Kinh học và Kim văn Kinh học là Cổ văn gia coi trnọg sự "hiệu khám huấn hỗ'" (chú giải hiệu đính từng câu nghĩa), còn Kim văn gia chú trọng ở chỗ "vi ngôn đại nghĩa" (nói ít mà nghĩa rộng) lập quan hệ giữa khảo sát Kinh văn và hiện thực xã hội. Trong lịhc sử truyền thống xã hội lâu dài của Trung Quốc, Cổ văn Kinh học và Kim văn Kinh học luôn luôn đấu tranh và lúc hơn lúc thua tnog từng thời điểm lịch sử và đều có những đặc sắc riêng. Cuộc đấu tranh ấy đã khiến Kinh học văn hoá Trung Quốc xuất hiện muôn ngàn hình tượng sắc thái rực rỡ, tạo ảnh hưởng sâu sắc tới nhiều mặt cho truyền thống chính trị văn hoá và học thuật văn hoá của Trung Quốc.t
     
  6. Chiplucky

    Chiplucky The Invisible Man

    Tham gia ngày:
    14/3/03
    Bài viết:
    3,766
    Nơi ở:
    Bảng Phong Thần
    TRƯƠNG LĂNG
    (Sinh năm 34 - mất năm 156)


    _ Nói tới văn hoá Trung Quốc không thể không nói tới Đạo giáo, Lỗ Tấn có viết một câu đại ý nói rằng Đạo giáo chính là gốc rễ của truyền thống Trung Quốc. Nói tới Đạo giáo, không thể không nói tới Trương Lăng vì ông chính là người được người sau cho rằng là tổ sư khai sáng của Đạo giáo.

    _ Trương Lăng tên tự là Phụ Hán, người huyện Phong, Giang Tô ngày nay. Đời nhà Tấn, vì các tín đồ đạo "Ngũ mễ" (đạo năm đấu gạo) thường thêm chữ "Đạo" vào tên của ông nên ông cũng được gọi là Trương Đạo Lăng. Từ trẻ, Trương Lăng đã là thái học thư sinh, làu thông kinh điển Nho học. Nhân vì ông cảm thấy Kinh học Nho gia chẳng có ích lợi gì với sinh mệnh nên theo học đạo ở Hắc Minh sơn (ngày nay ở tại huyện Đại Ấp, Tứ Xuyên). Năm Vĩnh Hoà thứ sáu (năm 141), Trương Lăng căn cứ Thái Bình Kinh viết thành 24 chương đạo thư. Nửa đêm ngày mồng một tháng năm năm sau, ông tự nhận đã gặp Lão Tử, đuợc ban hiệu "Thiên sư" để lập đạo giáo mới. Giáo đồ trong dân gian thờ ông là thầy, thu nạp đệ tử đông vài trăm nhà. Trương Lăng ý cứ vào tín ngưỡng tôn giáo nguyên thủy của dân tộc thiểu số ở vùng Ba Thục, hễ ai muốn vào đạo phải nạp năm đấu gạo nên đạo của ông có tên gọi là "Ngũ mệ đạo" (đạo năm đấu gạo). "Ngũ mễ đạo" sản sinh trong dân gian, nó có quan hệ mật thiết tới văn hoá phong tục cầu đảo, bói toán của dân gian. Nó bắt đầu từ cuối đời Hán, sau này kết hợp với những đạo sau như "Thiên sư đạo" và "Chính Khất đạo" liên tục truyền bá tín đồ tin ở thuật phù phép trừ ma bắt quỷ.

    _ Trương Lăng tôn Lão Tử làm giáo chủ và tôn hiệu Lão là "Thái thượng lão quân", dùng Đạo Đức Kinh làm kinh điển chủ yếu. Trương Lăng lại căn cứ vào trứ thuật của mình xác lập thành giáo nghĩa, giáo lý "Ngũ mễ đạo" cho rằng tất cả những tai họa bệnh tật đều do ma quỷ tạo thành, cần phải xin Thiên quan cứu trị như cầu mưa, xin sao, trừ trùng hại, trừ ôn dịch, dưỡng thai, nuôi dưỡng trẻ con, cầu con trai,... đạo đồ tín nữ chỉ cần cầu khấn tế lễ thiên sư dùng phù phép thần thông là có thể trừ hoạ giáng phúc, do đó đạo này hết sức tôn trọng "Minh uy chi đạo" và "phù phép". Cái gọi là "Minh uy chi đạo" tức là "Minh uy thanh ước chi chính giáo", phép Minh uy là các đạo sư không nhận tiền, thần không nhận ăn uống gọi là "Thanh ước". Trị bệnh không dùng châm cứu thuốc thang mà chỉ cần uống nước phù phép.

    _ Trương Lăng sáng lập "Ngũ mễ đạo" trở thành một tập đoàn đông đảo có hệ thống tổ chức đặc biệt có kinh điển, giới luật, tín đồ đầy rẫy khắp Ba Thục, ảnh hưởng lan ra xa tới những tập đoàn tông giáo tổ chức ở cảe vùng sông Hoàng Hà, sông Lạc. Trương Lăng sáng lập "Ngũ mễ đạo" có những đặc trưng văn hoá như sau:

    + Một: nó lấy đối tượng chủ yếu là nhân dân lao động hạ tầng, dùng tư tưởng khuyến thiện và chu cấp cho kẻ cùng khổ để giáo hoá tín đồ và thông qua sự trừ bệnh diệt hoạ giải trừ những thống khổ cho dân chúng. Nó cho rằng hoạ nạn, tật bệnh, chết chóc đều là sự trừng phạt của đạo trời. Do vậy, muốn trừ họa nạn, tật bệnh phải thông qua sự ăn năn hối hận, làm việc thiện và thực hiện giới luật của đạo.

    + Hai: nó phản đối thờ bái dâm từ (những đền miếu thờ thần dâm đãng tà vậy), vừa đấu tranh vừa dung hợp với những thuật bói toán cầu khấn của dân gian, hnờ đó mà nó bảo lưu được những thuật trừ ma đuổi quỷ. Trương Lăng dùng giới luật của đạo mình cấm trừ những ma quỷ dâm đãng tà vạy và lấy sự thanh ước cần kiệm trị dân "khiến dân không uống rượu ăn thịt bừa bãi". Từ đó, ông chỉnh đốn lại phong tục xấu của xã hội khiến đạo giáo sơ kỳ đâm rễ đuợc vào dân gian.

    + Ba: "Ngũ mễ đạo" mô phỏng chế độ hành chánh đời Hán tạo thành tổ chức cho đạo mình.

    _ "Ngũ mễ đạo" của Trương Lăng là sản vật của xã hội mâu thuẫn ở Trung Quốc thời Đông Hán và cũng là sản vật do lòng bị kích thích của dân chúng vào lúc Phật giáo mới truyền vào Trung Quốc. Nó chính là hình thức tổ chức tông giáo để phản đối lại tông giáo ngoại lai. Sách Ngụy Tấn tiên đạo giáo đời Đường viết: "Đạo giáo là tông giáo sản sinh ở bản địa Trung Quốc, chiếm địa vị trọng yếu trong truyền thống văn hoá Trung Quốc".

    _ Trương Lăng sáng lập "Ngũ mễ đạo" tạo thành một loại hình thức tông giáo truyền đời này sang đời kia, không ngừng lớn mạnh trở thành hệ thống tông giáo lớn trong truyền thống văn hoá Trung Quốc. Nguồn gốc văn hoá Đạo giáo sâu xa, ảnh hưởng đến mọi lãnh vực phát triển văn hoá Trung Quốc. Văn hoá Đạo giáo xuất hiện đã làm thay đổi cơ cấu văn hoá Trung Quốc, xác lập thành cục diện thế ba chân vạc Nho, Thích, Đạo (đạo Nho, đạo Phật, Đạo giáo) trong văn hoá Trung Quốc, nó dung hoà hai tông giáo Nho, Thích làm thay đổi hình thái và nội hàm văn hoá Trung Quốc, mở rộng nền văn hoá Trung Quốc vốn đã hết sức phong phú mới mẻ.

    _ Đương nhiên, nếu luận về nguồn gốc thì Đạo giáo thời kỳ đầu không chỉ có một phái "Ngũ mễ đạo". Cùng nổi tiếng và truyền bá với "Ngũ mễ đạo" còn có "Thái Bình đạo". Cuối đời Đông Hán, thanh thế "Thái Bình đạo" của Trương Giác lớn mạnh, ảnh hưởng vượt cả "Ngũ mễ đạo" của Trương Lăng. Thế nhưng, cuộc khởi nghĩa "Khăn vàng" bị trấn áp mau lẹ, Trương Giác bị chém chết, "Thái Bình đạo" bị đàn áp không được truyền bá công khai. Còn đạo của Trương Lăng có tổ chức, kinh điển, giáo quy vững mạnh ảnh hưởng lớn trong dân gian. Vì vậy dân gian đặt ra nhiều thần thoại liên quan đến Trương Lăng mà họ tôn kính gọi là Trương thiên sư, hộ lập miếu thờ họ Trương ở huyện Nhân thọ, Tứ Xuyên (Lăng Châu) và thờ cúng lễ bái hết sức thành kính.t
     
  7. Chiplucky

    Chiplucky The Invisible Man

    Tham gia ngày:
    14/3/03
    Bài viết:
    3,766
    Nơi ở:
    Bảng Phong Thần
    THÁI LUÂN
    (Không rõ năm sinh - mất năm 121)



    _ Lịch sử rất lạ lùng, có khi những phát minh vô cùng vô tận lại chỉ tạo được ảnh hưởng rất nhỏ, nhưng lại có khi một loại sửa đổi cách tân tưởng nhỏ bé mà lại làm chấn động cả đất nước, làm thay đổi sự phát triển văn hoá của một dân tộc. Thái Luân, người đời Đông Hán, cách tân kỹ thuật làm giấy, phát minh ra thứ giấy tên là giấy "thái hầu" thuộc loại vinh dự này.

    _ Trước khi phát minh ra giấy, tổ tiên của nhân loại và của dân tộc Trung Quốc chỉ biết ghi lại lịch sử, truyền bá văn hoá, ghi chép những gian khổ đã trải qua, ghi chép tư tưởng bằng cách chủ yếu là căn cứ vào "kết thằng" (kết nút dây) hay chạm khắc vào mu rùa, xương thú, vàng, đá, tre, trúc, gỗ, sách chép trên thẻ tre, tấm lụa. Thế nhưng, số lượng mu rùa, xương thú có hạn, vàng, đá, tre, trúc, gỗ đều nặng mà thiếu thực dụng lại cất giữ chiếm nhiều không gian, lụa lại có giá cao. Vì đó, những công cụ để ghi chép làm giới hạn sự phát triển và giao lưu văn hoá. Các học giả phương Tây đều đánh giá giấy là một nguyên tố trọng đại ảnh hưởng tới sự phát triển văn hoá. Để bổ khuyết những tài liệu dùng vào việc ghi chép sử sách và sự cần thiết cho văn hoá, kinh tế phát triển, thời Hoà đế triều Đông Hán, hoạn quan Thái Luân chủ trì cải tiến kỹ thụât chế giấy, ông dùng vỏ cây, rơm, vải rách, lưới đánh cá làm nguyên liệu, vào năm 105, ông thành công chế tạo được loại giấy giá rẻ rất tiện dụng. Từ đó, giấy được dùng rộng rãi.

    _ Thái Luân có thể cải tiến được công nghệ và kỹ thuật chế tạo giấy là do nhiều điều kiện chủ quan và khách quan quyết định. Về chủ quan, Thái Luân xuất thân trong một gia đình nghèo khổ ở Hà Nam ngày nay. Từ thưở nhỏ, ông bị vào cung đình làm nô bộc, nhưng ông chuyên cần học tập, lại là người đôn hậuthẳng thắn làm việc chu đáo. Ông rất ham thích công nghệ chế tạo giấy và say mê nghiên cứu. Về khách quan, ông cũng đuợc Hoà đế yêu thích ít nhiều, từ Trung thường thị, ông đuọc thăng lên Thượng thu lệnh, phụ trách chế tạo những dụng cụ cho hoàng cung. Trong cung đình, có khá nhiều phường nghề lẫn công trường, điều động đến đó phần lớn thợ giỏi đủ mọi nghề, đầy đủ nhân lực vật lực, tài lực, thiết bị. Đó là đièu kiện chuẩn bị cho Thái Luân cải tiến kỹ thuật chế tạo giấy. Nhất là vào thời ấy, theo đà phát triển của kinh tế, trong đời sống hằng ngày, người ta đã cảm thấy loại giấy thô sáp có từ thời Tây Hán không còn thực dụng nữa và rất bất tiện khi dùng loại giấy ấy làm tài liệu ghi chép sách vở, họ đều quan tâm khích lệ công nghệ cải tiến loại giấy khác mà Thái Luân đã có đầy đủ điều kiện dự bị sẵn trở thành người thành công trong việc cải tiến kỹ thuật chế tạo giấy, tạo công tích rực rỡ trong lịch sử Trung Quốc và Thế giới.

    _ Căn cứ vào khảo chứng của các chuyên gia, sau khi Thái Luân dùng kỹ thuật lấy vải chế thành giấy thì ta dùng sợi đay hoặc vải vụn ngâm nước cho mềm ra rồi lấy dao cắt thành từng đonạ, rửa sạch trogn nước, sau đó nấu chung với thào mộc, bỏ nguyên liệu gồm bột cây, chất keo vào giã cho nát, khử bỏ tạp chất. Giã đến khi hỗn hợp biến thành chất lõng rồi gạn hết nước, phơi khô là thành giấy. Trong quá trình làm giấy còn sử dụng vài chất hoá học làm cho giấy được trắng và dẻo dai. Kỹ thuật chế tạo giấy mới mẻ của Thái Luân cần dùng nhiều nguyên liệu , thúc đẩy sản lượng giấy tăng cao và làm cho giấy được sử dụng rộng rãi hơn. Theo phát hiện khảo cổ và theo sách vở ghi chép, thời Đông Hán, sử dụng giấy từ Trung Nguyên mở rộng ra các vùng xa xôi như Tân Cương, Cam Túc, Nội Mông. Không những giấy chỉ sử dụng trong giai cấp thống trị thượng tầng mà đến dân gian cũng được sử dụng rộng rãi. Thái Luân thúc đẩy phát triển nghề làm giấy ở Trung Quốc, cống hiến lớn cho kỹ thuật làm giấy.

    _ Sau khi kỹ thuật và công nghệ giấy "thái hầu" được các miền đất nước áp dụng, giấy cạnh tranh mạnh với những loịa sách viét trên lụa, thẻ tre. Đến thế kỷ thứ 4, cơ bản giấy chiếm ưu thế thay thế lụa, thẻ tre và trở thành thứ nguyên liệu duy nhất để viết, in sách, tạo thành bước phát triển mới của khoa học, văn hoá Trung Quốc.

    _ Từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ thứ 6, trên cơ sở giấy "thái hầu", người ta lại cải tiến kỹ thuật và công nghệ một lần nữa. Trên phương diện nguyên liệu ngoài cây đay, cây dó, người ta dùng cả các loại vỏ cây dâu và vỏ các thân cây leo làm giấy. Về phương diện thiết bị, người ta chế ra máy giã tạo thành ngàn vạn tờ giấy trnog một lúc, công hiệu đạt cao hơn. Về phương diện kỹ thuật gia công, người ta cho thêm nhiều chất liệu cải tiến chất lượng giấy cho ra các loại giấy màu, giấy lụa được người sử dụng khen ngợi. Có thể vào thời kì ấy, kỹ thuật chế tạo giấy của Trung Quốc được truyền bá vào Triều Tiên và Việt Nam. Từ đó, kỹ thuật chế tạo giấy của Trung Quốc vượt biên giới quốc gia, ảnh hưởng tới sự phát triển văn hoá Thế giới.

    _ Từ thế kỷ thứ 6 đến thế kỷ thứ 10, nghề chế tạo giấy ở Trung Quốc phát triển mạnh, ngoài giấy đay, giấy bằng vỏ cây dâu, vỏ cây leo, còn sản xuất được giấy bằng vỏ cây đàn, giấy bằng vỏ cây thụy hương và những loại giấy mới bằng thân cây trúc, cây đạo lăng,... Thời kỳ ấy, giấy trở thành vật lêịu phổ biến toàn quốc. Do kỹ thuật ấn loát phát triển, nhu cầu cần giấy lớn, đã kích thích nghề chế tạo giấy, chất lượng và sản lượng giấy đều được nâng cao mà giá trị đời sống cũng luôn luôn tăng, các loịa giấy trở nên phổ thông trong đời sống hằng ngày của dân gian. Chính nó là điều kiện tác động ngược lại kỹ thuật ấn loát khiến cho thư tịch sách vở ra đời càng nhiều, tác động đến xcả sự phát triển của hội hoạ nghệ thuật.

    _ Trong thời kỳ các triều đại Tống, Nguyên, Minh, Thanh, từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 18, giấy vỏ cây dâu, giấy vỏ cây dó và giấy cây trúc đặc biệt thịnh hành, sức tiêu thụ tăng cao, kỹ thuật chế tạo giấy theo đó lại được cải tiến và đề cao. Triều đại nào cũng có những học giả viết sáhc truyền bá kỹ thụât chế tạo và cải tiến kỹ thuật làm giấy. Đời Tống có Tô Dịch Giản viết: Chỉ phổ, đời Nguyên có Phí Trứ viết Chỉ tiên phổ, đời Minh có Vương Tông Thuật viết Chử thư. Quan trọng nhất là cúôn Thiên công khai vật của khoa học gia Tông Ưng Tinh đời Minh ghi chép rất tường tậnvề kỹ thuật chế tạo giấy của Trung Quốc cổ đại, nó tổng kết thực tiễn kinh nghiệm kỹ thuật chế toạ giấy ở Trung Quốc và cả Thế giới.

    _ Tóm lại, từ khi Thái Luân cải tiến kỹ thuật làm giấy, sách vở càng ngày càng được phổ biến trnog đời sống laòi người. Giấy trở thành một bộ phận không thể thiếu trong đời sống nhân loại và trở thành một nhân tố quan trọgn trong lịch sử phát triển văn hoá. Không thể tưởng tượng, nếu như không có sự cải tiến giấy của Thái Luân, bộ mặt văn hoá Trung Quốc sẽ ra sao, và người ta còn phải tìm tòi trong bao nhiêu lâu nữa mới phổ biến được sách vở thư tịch. Giấy của Thái Luân, không những có ảnh hưởng sâu đậm tới sự phát triển của văn hoá Trung Quốc mà còn mở chương mới rực rỡ cho lịhc trình phát triển của văn hoá Thế giới. Thế kỷ thứ 7, kỹ thuật và công nghệ chế tạo giấy của Trugn Quốc từ Triều Tiên truyền vào Nhật Bản, giữa thế kỷ thứ 8, nó lại từ Trung Á truyền đến Ả Rập, từ đó truyền đến Châu Âu. Đến thế kỷ 12, kỹ thuật và công nghệ ấy kích thích nghề làm giấy ở Châu Âu. Thế kỷ 18 nó mới truyền sang Mỹ Châu. Kỹ thuật làm giấy truyền sang phương Tây mang thêm sinh lực mới phát triển vào giao lưu với văn hoá Thế giới, có ảnh hưởng tích cực đến tư tưởng, văn hoá, khoa học kỹ thuật. Thái Luân cải tiến công nghệ làm giấy chính là nhân tố quan trọng trong sự phát triển của văn hoá Thế giới.t
     
  8. Chiplucky

    Chiplucky The Invisible Man

    Tham gia ngày:
    14/3/03
    Bài viết:
    3,766
    Nơi ở:
    Bảng Phong Thần
    HỨA THẬN

    (Sinh năm 58 (?) - mất năm 147 (?))



    _ Hứa Thận, tên tự là Thúc Trọng, là ngưởi Yển Thành, Hà Nam ngày nay. Thưở nhỏ, ông ham mê Knih học được người đưong thời khen rằng: "Ngũ kinh vô song Hứa Thúc Trọng" (về ngũ kinh không ai thông hiểu bằng Thúc Trọng). Ông trở thành bậc thày nổi tiếng Kinh học, để xác lập địa vị của Cổ văn Kinh học và Kim văn Kinh học, ông sáng lập ra phương pháp nghiên cứu Cổ văn Kinh học. Thế nhưng, công lao cống hiến của ông có ảnh hưởng tới văn hoá Trung Quốc không phải là ở bản thân Kinh học, mà lại là ở môn học nghiên cứu văn tự.

    _ Hứa Thận nghiên cứu văn tự học Trung Quốc, viết các tác phẩm Thuyết văn giải tự bắt đầu từ năm Hoà đế Vĩnh Lập năm thứ 12 đời Đông Hán (năm 100) đến năm An đế niên hiệu Kiến Quang đầu tiên (năm 121) mới hoàn thành. Tháng 9 năm ấy, con ông là Hứa Xung dâng sách lên hoàng đế. Từ đó, bộ tự điển chú giải văn tự Thuyết văn giải tự lưu truyền ở đời. Văn hoá Trung Quốc đựoc ghi chép bằng chữ Hán. Từ ngày có chữ Hán, các sĩ tử Trung Hoa coi trọng sự nghiên cứu nó như đời Chu, các con em nhà quý tộc từ 8 tuổi đã phải vào trường tiểu học "lục nghệ" (tức sáu nghề là Lễ, Nhạc, Xạ, Ngự, Thư, Số), trong đó "Thư" là sáu phương pháp cấu tạo của chữ Hán (tượng hình, chỉ sự, hội ý, hình thanh, chuyển chú, giả tá). Đến thời Tây Hán, có người thay bậc tiểu học bằng danh từ "Văn tự học". Thời kỳ Tần, Hán đã có nhiều sách vở thư tịch nói đến phương pháp nghiên cứu văn tự như các sách Sử lựu, Bát thể lục kỹ, Thương Hiệt, Biệt tư,... Đến thời Đông Hán, Hứa Thận dụng công nghiên cứu sự diễn tiến phát triển của văn tự Trung Quốc, ông thấy sách vở thời Tam đại (Hạ, Thương, Chu) đều viết bằng thứ cổ văn Triện Luư, Hứa Thận tổng hợp các thể cổ văn Triện Lưu phát minh ra yếu chỉ có sáu cách cấu tạo chữ viết, nhân vậy theo hình hiểu nghĩa, phân biệt các bộ viết thành Thuyết văn giải tự khiến độc giả có thể biết được nguồn gốc cấu tạo chữ và phân biệt được diễn biến của những thể chữ Lệ, chữ Hành, chữ Thảo, đây lag bộ sách sáng tác đầu tiêncó hệ thống về "văn tự học". Vì đó, Thuyết văn giải tự của Hứa Thận là tác phẩm tập đại thành các công trình nghiên cứu "văn tự học" chữ Hán từ trước đời Tần đến lúc đó. Đến thời Hứa Thận, môn nghiên cứu "văn tự học" Trung Quốc được coi là đã có căn bản.

    _ Thuyết văn giải tự lấy thể chữ Triện làm chủ gồm 14 chương chia ra 540 bộ, 9353 chữ, lại dùng cả Lựu văn, Cổ văn làm tả chứng, dưới mỗi chữ đều có giảng nghĩa chữ rồi bàn tới hình chữ, âm chữ, kết cấu của nó. Thuyết văn tự học trong văn hoá Trung Quốc bao gồm nhiều cống hiến có ý nghĩa:
    + Một: nó định chuẩn quy phạm văn hoá tự, đời Hán chữ viết chưa hoàn toàn thống nhất, người ta dùng lẫn lộn cả Cổ văn, Triện văn, chữ Lệ mà ba chữ ấy đều có nhiều sai biệt lớn. Thuyết văn giải tự ra đời là tiêu chuẩn quy luật cho chữ Hán noi theo.
    + Hai: tác giả đã sáng tạo ra phương pháp thu chữ Hán vào thành từng bộ thủ, định ra quy tắc cho những chữ phức tạp không biết hệ thống vào đâu, việc chia bộ căn cứ vào hình thể để dễ kiểm tra và dễ ghi nhớ. Nhan Chi Thôi ca tụng cống hiến học thuật của Hứa Thận có thể so ngang với Khổng Tử.

    _ TRong lịch sử học thuật lâu dài của Trung Quốc, triều đại nào cũng có được các học sĩ chú giải, học tập, nghiên cứu Thuyết văn giải tự. Nó được coi là bộ tự điển hệ thống khoa học văn tự đầu tiên của Trung Quốc. Không có Thuyết văn giải tự thì không có Khang Hi tự điển ở đời Thanh, không có Thuyết văn giải tự, chúng ta không thể lí giải được sự phổ cập của văn tự Trung Quốc và ảnh hưởng của nó đến văn tự Thế giới. So với cuộc đời hoạn lộ chỉ làm đến chức công tào nhỏ bé ở một quận nhỏ, công nghiệp văn hoá của ông lớn hơn gấp bội và nếu ông còn biết sau khi chết, chắc chắn ông sẽ được an ủi rất nhiều.t
     
  9. Chiplucky

    Chiplucky The Invisible Man

    Tham gia ngày:
    14/3/03
    Bài viết:
    3,766
    Nơi ở:
    Bảng Phong Thần
    TRỊNH HUYỀN
    (Sinh năm 127 - mất năm 200)


    _ Từ khi Lưu Hâm khai sáng Cổ văn Kinh học phái ở Tây Hán mở đầu cho sự tranh biện giữa hai phái Cổ văn kinh và Kim văn kinh, đến thời Đông Hán trải qua hơn 200 năm lại mới sản sinh ra một người vĩ đại trong nghành nghiên cứu Kim Cổ văn ấy, đó là đại sư Kinh học Trịnh Huyền, người khai sáng ra ngành "Trịnh học".

    _ Trịnh Huyền, tên tự Khang Thành, là người Cao Mật, Sơn Đông ngày nay. Suốt đời cô độc không ưu vinh hoa phú quý, cam tâm vui vẻ với nghèo khổ chứng tỏ một nhân cáhc độc lập, hiến thân vì học thuật, chuyên cần với nếp sống trức tác. Khi ông lâm chung, ông tự hoạ chân dung của mình trnog di chúc để lại cho con là Trịnh Ích Tư: "Nhà ta xưa nay nghèo khổ, ta không sống với anh em cha mẹ nên đành làm một viên lại nhỏ đến kinh đô Chu Tần tìm học, đi lại quanh vùng đất Duyện (châu), Cổn (châu) cầu học các vị thôgn đạt, đại Nho". Nhân vậy mà học được nhiều Kinh điển Nho gia và được cả nhnữg sách vở quý hiếm. Quá tuổi 40, ta mới quay về quê nhà phụng dữong cha mẹ, cày cấy ruộng nương sống qua ngày. Gặp thời buổi bọn hoạn quan chuyên quyền, ta bị vu hãm và bị giam giữ 14 năm, sau khi đội ân đựoc tha, ta được đề cử làm hiền lương phương chính, được liệt vào hàng kẻ sĩ có đạo. Đại tướng quân và Tam ti phu hai lần gọi ta ra (làm quan). Các người cùng được gọi cùng thời với ta, có người làm tới chức tể tướng. Nhưng ta không thíhc con đường hoạn lộ, chỉ mong được nghiên cứu Kinh điển, hiệu chính lại các "chú sớ" của bách gia. Hiện nay, tuổi ta đã già, khí đã suy, việc nhà gởi lại cho con, mong con nối chí quân tử chuyên cần vào học vấn như ta".

    _ Trịnh Huyền thiết tha vào học tập, không cầu hiển danh thành đạt, trước sau giữ gìn nhân cáhc độc lập. Sau khi được ân xá ra khỏi tù, đại tướng quân Hà Tiến cho gọi ông ra làm quan, ông bị buộc phải tới kinh đô nhưng không chịu nhận chức tước, chỉ ở lại kinh đô đúng một ngày rồi về. Sau đó, lại có tướng quân Viên Ngã dâng thư lên hoàng đế xin ban cho Trịnh Huyền chức thị trung, ông lấy lí do cha mới chết, từ chối không nhận. Có một lần, đại tướng quân Viên Thiệu trấn thủ Ký Châu hâm mộ đức cao của họ Trịnh, mời ông tham gia yến hội. Khách khứa của Viên Thiệu phần lớn là nhnữg người hào kiệt anh tuấn đương thời đầy đủ tài học, họ thấy Trịnh Huyền chỉ là một nhà Nho nện không coi vào đâu. Trong tiệc, họ đua nhau đưa ra những câu hỏi khó khăn định hạ nhục ông, nhưng Trịnh Huyền ung dung trả lời, bày tỏ kiến giải của mình khuất phục tất cả cử toạ. Sau đó, Viên Thiệu đề cử ông làm mậu tài, dâng biểu về triều đình xin cho ông chức trung lang tướng, nhưng Trịnh Huyền vẫn từ chối.

    _ Phẩm đức cao thượng của Trịnh Huyền với hành vi đoan trang nghiêm túc, là khuôn mẫu ưu tú trong tầng lớp kẻ sĩ Trung Quốc cổ đại, ông chính là khuôn mẫu khíhc lệ cho các hậu học đời sau không đuổi theo danh lợi, không khuất phục cường quyền, tự mình đào luyện hoàn thiện mình, chuyên cần vào việc học, đặt chí vào trứ tác làm phương thức cống hiến cho sự phát triển của văn hoá và thực hiện giá trị nhân sinh của mình.

    _ Trịnh Huyền là người tập đại thành Kinh học gia đời Hán. Ông có thành tựu vĩ đại trên các lĩnh vực tư tưởng, văn hoá, ông còn có ảnh hưởng lớn đến phát triển của văn hoá Trung Quốc. Đó là kết quả công phu khổ học của ông. Từ thưở còn rất nhỏ, Trịnh Huyền đã say mê học tập, không hề có ý thíhc làm quan. Thời thanh niên, ông có thời gian làm thợ ở quê nhà, nhnưg bất cứ lúc nào rỗi rãnh, ông đến trường học tập. Cha của ôgn rất buồn và thất vọng vì thấy ông không có chí làm quan nhưng Trịnh Huyền quyết không đổi chí, cha ông đành để ông đến nhà Thái học ở kinh thành học tập. Trịnh Huyền được vào nhà Thái học như cá gặp nước, thoả nguyện bình sinh. Ông tận tâm kiệt lực học các Kinh Dịch, Xuân Thu và cả toán học. Học thành, ông lại bái Trương Mộ Tổ ở Đông quận làm thày học Chu Lễ, Lễ ký, Tả thị xuân thu, Hàn thi, Cổ văn thượng thư. Sau khi nghiên cứu qua khắp các Kinh điển Nho gia, ông cho rằng các học giả Sơn Đông không đủ dạy ông nữa, ông đi sang miền tây bái học giả Mã Dung nổi tiếng đương thời làm thầy. Mã Dung là người có học vấn, tên tuổi lớn. Môn đồ học Mã có hơn bốn trăm người, nhưng chỉ có hơn mười người thụ lãnh được cái học chân truyền của thầy, còn bao nhiêu môn đệ khác chưa hề được gặp mặt thầy. Trịnh Huyền xin vào làm môn đệ của họ Mã, ba năm liền không hề được mặt thầy mà chỉ học dưới sự chỉ dạy của đệ tử đắc ý của Mã Dung mà thôi. Dù vậy, Trịnh Huyền vẫn khắc khổ học tập, đêm ngày rtận tâm không dám bê trễ. Một hôm, Mã Dung triệu tập môn đồ đến luận về "đồ vĩ" (cách sách về thuật toán, theo giải nghĩa của từ điển Tứ hải), họ Mã nghe đồn Trịnh Huyền giỏi về toán thuật mới gọi ông lên lầu. Cuối cùng, ông có cơ hội được gặp mặt thầy, ông bèn đem bao nhiêu vấn đề chất chứa trnog nhiều năm ra hỏi và xin thỉnh giáo sư phụ. Hỏi xong, ông cáo biệt quay về quê nhà. Mã Dung lúc ấy mới biết học vấn uyên bác đã đạt tới cảnh giới cao thâm của Trịnh Huyền. Chíhn họ Mã khen rằng: "Có Trịnh Huyền, học vấn của ta mới được phát dương".

    _ Trịnh Huyền đi tìm học ở ngoài quê hương hơn mười năm. Quay về quê nhà, nhà ông nghèo tả tơi. Ông đành sống qua ngày bằng cáhc mướn ruộng cày ở Đông Lai. Do học vấn ông tinh thâm nên có tên tuổi, học trò đến tìm xin học ông đông đến vài trăm người. Đến khi có tai họa "Đảng cố" (tai họa do bọn hoạn quan gây ra), Trịnh Huyền cũng bị bọn honạ quan vu cáo cùng đảng và bị bắt giam. Trịnh Huyền quán thông cả Cổ văn lẫn Kim văn Kinh nhưng ông đứng trên lập trường Cổ văn Kinh để diễn xiển phát Kinh nghĩa được người đương thời tôn sùng gọi là "Thần Nho". Tướng quốc Khổng Dung là hậu dụê của Khổng Tử, cũng là học giả nổi tiếng thời ấy, hết sức tôn trọng ông, tnừg thân hành tìm đến nhà ông.

    _ Suốt đời, Trịnh Huyền chuyên tâm vào việc chú giải các Kinh điển, ôgn đã chú giải Chu Dịch, Thượng thư, Kinh Thi, Nghi Lễ, Lễ ký, Luận ngữ, Hiếu kinh, Thượng thư đại truyện, Triều tượng lịch. Ông còn sáng tác các sách Thiên văn sĩ chính luận, Lỗ Lễ đế hợp nghĩa, lục nghệ luận, Mao thi phổ, Bác Hứa Thận ngũ kinh dị nghị,... tất cả có hơn vài trăm vạn chữ. Trịnh huyền thống nhất học thuật Kinh học của hai đời (Tây Hán và Đông Hán), dung hợp chúng, khai sáng một phương pháp mới trong nghiên cứu Kinh học, chấm dứt sự tranh luận dai dẳng của Cổ Kim văn. Cái học của họ Trịnh trở thành một phái Nho học. Kinh học là văn hoá quan phương trong xã hội truyền thống Trung Quốc, có ảnh hưởng trọg yếu trong hệ thống văn hoá Trung Quốc. Trịnh Huyền tập đại thành Kinh học nghiên cứu có ý nghĩa lớn cho sự phát triển của văn hoá Trung Quốc.t
     
  10. Chiplucky

    Chiplucky The Invisible Man

    Tham gia ngày:
    14/3/03
    Bài viết:
    3,766
    Nơi ở:
    Bảng Phong Thần
    TÀO THÁO
    (Sinh năm 155 - mất năm 220)

    _ Thế loạn, anh hùng xuất hiện, hoàn cảnh gian nan mài dũa thành nhân vật kiệt xuất. Nếu cho rằng hoàn cảnh hoà bình tạo nên những nhân vật kiệt xuất làm điển hình, thì hoàn cảnh động loạn cũng tạo nên những nhân vật kiệt xuất có nhiều sáng tạo. Tào Tháo là nhân vật lịch sử trưởng thành trong xã hội hỗn loạn chiến tranh cuối đời Đông Hán, ông lại giỏi về sáng tạo trở thành nhân vật lịch sử vĩ đại có ảnh hưởng tới phát triển văn hoá Trung Quốc.

    _ Tào Tháo, tên tự Mạnh Đức, tiểu danh A Man, là người huyện Hào tỉnh An Huy ngày nay. Tào Tháo xuất thân trong gia đình đại quan khoan hoạn, thưở nhỏ đã sống trong điều kiện sinh hoạt ưu tú. Thưở thiếu thời, Tào Tháo linh hoạt giỏi quyền biến, ông không để ý gì đến những ước thúc của xã hội để mặc cho cá tính phát triển, đời sống cuả ông có phần phóng túng, ông thích săn bắn cỡi ngựa tập võ nghệ. Chú ông lo cho ông khó thành người đứng đắn nhưng cũng không quản thúc nổi ông nên thường tố giác với cha ông là Tào Tung về những hành vi phóng túng của ông, yêu cầu cha ông qảun giáo ông nghiêm khắc hơn. Tào Tháo rất bất mãn chú, bèn tìm cáhc thoát khỏi sự trói buộc của lễ giáo gia đình.

    _ Một hôm, Tào Tháo gặp chú ngoài đường, ông cố ý méo mặt ngã xuống đất co giật làm như đang bị bệnh nặng. Chú ông kinh dị, lo lắng hỏi ông bị bệnh gì. Táo Tháo đáp:
    - Đột nhiên cháu bị trúng gió độc!
    Ông chú đem việc ấy báo cho Tào Tung. Tào Tugn lấy làm kinh ngạc, vội vàng chạy đi tìm cno. Khi gặp thì Tào Tháo vẫn bình thường không hề có dấu hiệu gì. Tào Tung ngạc nhiên hỏi:
    - Chú con nói con bị trúng gió độc, sao lại khỏi mau thế ?
    Tào Tháo cố tình làm như phần uất đáp:
    - Làm gì có chuyện con bị trúng gió ! Chỉ vì chú ghét con nên cố ý nói láo với cha đó. Cha thấy con chẳng vẫn khoẻ mạnh đây sao ?
    Từ đó về sau, Tào Tung đâm ra nghi ngờ tất cả những lời nói của chú Tào Tháo, nhờ đó Tào Tháo được tự do rong chơi.

    _ Từ thưở nhỏ, Tào Tháo đã hình thành cái tính cách lanh lợi quyền biến phóng túng không chịu trói buộc, cộng thêm thời loạn nhào nặn ông thành nhân vật vĩ đại ảnh hưởng quan trọng tới văn hoá Trung Quốc. Ông là một chính trị gia, quân sự gia và văn học gia trứ danh thời Tam Quốc. Tào Tháo dẹp tan các thế lực quân phiệt, thống nhất Bắc Bộ Trung Quốc, chấn hưng đồn điền, sửa sang thủy lợi, bãi bỏ cách tiến cử con em các nhà trâm anh thế phiệt, chỉ đề cử căn cứ vào tài năng, ông còn chỉnh lí bihn thư, giải thích sách Tôn tử, chú trọng tới giáo hoá, coi trọng thơ văn... những việc ấy của ông đều được văn hoá sử ca ngợi.

    _ Ảnh hưởng của ông đối với sự phát triển của văn hoá Trung Quốc biểu hiện ở hai phương diện:
    + Tào Tháo đã đổi mới chế độ chọn nhân tài từ đời Hán từ đó làm thay đổi diện mạo văn hoá từ đời Ngụy Tấn trở về sau, ảnh hưởng sâu sắc đến chế độ quan liêu, chính trị và tâm thái sĩ tử quan hoạn từ đời Tào Ngụy cho đến Tùy, Đường dài vài trăm năm. Trong thời Đông Hán, tập đoàn quan liêu gia đình hào phú bành trướng, muốn chọn quan liêu đều chọn trong giới con em giàu có khiến phong tục đức hạnh xã hội xuống dốc như tập đoàn Viên Thiệu bao trùm phần lớn giai cấp địa chủ giàu có. Tuy Tào Tháo cũng xuất thân trong gia đình quan liêu sĩ hoạn nhưng chưa phải là thế gia vọng tộc. Từ thưở nhỏ hiển hách, Tào Tháo đã tận lực thu nạp các kẻ sĩ hào cường, đồng thời ông còn chú ý đến các địa chủ ở cấp thấp và các hiền sĩ xuất thân thấp kém. Vì vậy, Tào Tháo gan góc cải cách thói quen xấu hình thành từ cúôi đời Hán, ông chọn lựa nhân tài bằng cách "duy tài thi cử" (chỉ đề cử những người có tài). Ông chủ trương "dùng người hiền không câu nệ phẩm hạnh", "dùng kẻ sĩ khôgn kể sở đoản của họ". Nếu là người có tài đức trị nước thì dù là "bất nhân bất hiếu" ông cũng giao cho trọng trách, ông đã phá cục diện gia tộc lớn giàu có lũng đoạn chính trị. Nhờ đó, một số phần tử trí thức ở giai cấp dưới bước được lên vũ đài chính trị quân sự đã có công khai thông như Quách Gia xuất thân đê tiện, Trương Ký bắt đầu chỉ là viên lại nhỏ cấp quận, Vu Cấm, Nhạc Tiến xuất thân từ lính quèn, Trương Liêu, Từ Hoảng lại là tù binh nhưng đều được giao nhận trách nhiệm lập công trở thành những văn thần võ tướng nổi tiếng. Tư tưởng và cách chọn lựa sử dụng nhân tài của Tào Tháo ảnh hưởng sâu xa đến chính trị thơig Thịnh Đường. Các công huân đại thần theo Đường Thái Tông Lý Thái Dân lập nên công nghiệp thường đề cặp đến Tào Tháo và so sánh Lý Thái Dân với Tào Tháo. Từ đời Đường trở về sau, chủ trương "duy tài thi cử" của Tào Tháo trở thành quy định ảnh hưởng lớn trong văn hoá Trung Quốc.

    + Tào Tháo võ lượt văn thao, không chỉ là chính trị gia và quân sự gia xuất sắc, thành tựu lớn của ông nổi tiếng đương thời ảnh hưởng đến cả các thi nhân và văn học gia.

    _ Thơ của ông kết hợp giữa tình và cảnh, khảng khái hùng hồn, bi tráng lạnh lẽo, đổi mới hẳn những tệ hoa mỹ trống rỗng của thơ phú đời Hán. Có nhà văn đời Minh gọi thơ ông là loại Sử thi, Tào Tháo chính là người khởi xướng thể thơ ngũ ngôn tạo cơ sở cho cách luật đời Đường và là nguồn gốc của ngũ ngôn luật thi. Văn xuôi (tản văn) của Tào Tháo chữ nghĩa giản dị rõ ràng thành một thể cách riêng biệt. Văn phong của ông chất phác dùng chữ không hoa hoè là khởi nguồn của văn xuôi đời Đường, đời Minh, trở thành truyền thống đẹp đẽ của văn chương cổ điển.

    _ Bản thân Tào Tháo yêu thơ văn nên ông cũng đặc biệt có mắt xanh với nhnữg văn nhân học sĩ, chiêu tập họ về với mình. Do Tào Tháo trọng thị văn chương, đề cao văn học nên thời kì Kiến An đã hình thành một đội ngũ văn học lớn mạhn được sử gọi là Kiến An văn học, hình thành tâm lí coi trọgn thơ văn, phát triển nền văn hoá đặc sắc của Trung Quốc. Từ đời Ngụy Tấn Nam Bắc triều cho đến đời Tùy Đường, Tào Tháo vẫn là nhân vật lịch sử rực rỡ được văn nhân học sĩ ngưỡng mộ đến độ Đường Huyền Tông Lý Long Cơ đặt tiểu danh là "A Man" để bắt chước Tào Tháo. Đại thi nhân Đỗ Phủ từng tặng thơ Tào Báo ca ngợi sự quang vinh vì Tào Báo cùng họ với Tào Tháo. Thế rồi, đến đời Nam Tống, do vì văn hoá Trung Quốc phát triển và chuyển hướng, hình tượng Tào Tháo bị thay đổi. Do vì Nam Tống đề xướng lý học, cường điệu ca ngợi các thứ "trung quân thủ tiết" nên rất chú trọng vào địa vị chính thống của các vương triều. Chu Hy thay đổi sự tôn trọng triều Ngụy là chính thống của đời Tùy Đường trở về trước, họ Chu cho rằng: "Thục là đế, Ngụy là giặc" coi Lưu Bị là chính thống, chế Tào Tháo là soán nghịch, từ đó Tào THáo bị coi là gian nịnh. Sau thời Nam Tống, hầu hết tác phẩm văn học tiêm nhiễm quan niệm này, nhất là qua sự gia công nghệ thuật của La Quán Trung đời Minh trong "Tam Quốc diễn nghĩa", Tào Tháo trở thành một loại người gian trá, hiểm độc và trở thành hình tượng đáng ghét . Điều đó đã ảnh hưởng đến sự thiếu khách quan trong đánh giá các nhân vật lịhc sử nói chung và nhân vật Tào Tháo nói riêng.t
     
  11. Chiplucky

    Chiplucky The Invisible Man

    Tham gia ngày:
    14/3/03
    Bài viết:
    3,766
    Nơi ở:
    Bảng Phong Thần
    QUAN VŨ
    (Sinh năm 162 - mất năm 219)


    _ Trong hệ thống tín ngưỡng của dân gian Trung Quốc, có một vị thần hiển hách trung dũng đại nghĩa mà ai ai cũng biết là Quan đế mặt đỏ râu dài. Nguyên hình của Quan đế chính là chiến tướng Quan Vũ thời Thục Hán. Theo ghi chép của Trần Thọ trong Tam Quốc chí (xin phân biệt bộ Tam Quốc Chí chính sử này với bộ Tam Quốc diễn nghĩa tiểu thuyết của La Quán Trung), Quan Vũ tự là Vân Trường, là người tỉnh Sơn Tây ngày xưa (nay thuộc huyện Giải, Hà Đông). Cuối đời Đông Hán, Quan Vũ lưu lạc đến Hà Bắc (quận Trác), theo Lưu Bị khởi binh tạo sự nghiệp. Năm Kiến An thứ 5 (năm 240), Lưu Bị bị Tào Tháo đánh bại, Quan Vũ bị bắt nhưng được Tào Tháo lấy lễ đãi ngộ bái làm tướng quân. Trong lúc Tào Tháo đối đầu với Viên Thiệu, Quan Vũ từng giúp Tào Tháo chém chết đại tướng Nhan Lương của Viên Thiệu, đuợc Tào Tháo phong làm Thọ Đình hầu. Sau này, Quan Vũ nhận được tin tức đích xác của Lưu Bị, dù Tào Tháo ưu đãi đến đâu, ông cũng xin từ biệt quay về với Lưu Bị. Lưu Bị lấy được Tây Xuyên rồi, bái Quan Vũ làm tiền tướng quân đóng giữ Kinh Châu. Sau Tôn Quyền dùng kế của Lã Mông đánh úp Kinh Châu, Quan Vũ và con là Quan Bình bị hại, Thục hậu chủ truy phong tên thụy cho Quan Vũ là Tráng Mậu hầu.

    _ Nói một cách công bình, loại chiến tướng kiêu dũng tương tự như Quan Vũ trong lịch sử Trung Quốc cổ đại nhiều vô số. Huống hồ gì, bản thân Quan Vũ không ít khuyết điểm. Thí dụ như, ông cậy công kiêu ngạo, tự kiêu rất cao, Mã Siêu về với Lưu Bị được liệt vào một trong "ngũ hổ tướng", Quan Vũ biết tin ấy không bằng lòng, ông viết thư cho Gia Cát Lượng giận dữ chất vất "tài của Mã Siêu có thể so với ai ?" Gia Cát Lượng quá hiểu tính cách của Quan Vũ nên trả lời thư: "Tuy Mã Siêu anh hùng hơn người, nhnưg nhiều lắm chỉ có thể so với Trương Phi, còn so với Quan Vũ "tuyệt luân tuyệt đại" thì không thể bằng được". Quan Vũ nhận được thư ấy "đại duyệt" (vui lắm), đưa thư của Gia Cát Lượng cho các quan khách truyền nhau đọc, tâm tình kiêu ngạo lộ ra cả lời nói nét mặt.

    _ Giả như đem so sánh Quan Vũ với Mã Siêu, Quan Vũ còn có điểm hồn nhiên khả ái. Thế nhưng, ông đối đãi với việc cầu hôn của Tôn Quyền thì lại kiêu ngạo quá đáng và chứng tỏ chẳng có chút suy nghĩ chính trị nào. Theo sử chép, khi Tôn Quyền sai sứ đến cầu hôn cho con, Quan Vũ mắng lớn:
    - Con gái hổ nữ của ta mà phối hợp với loại con loài chó của Tôn Quyền ư ?

    _ Ông "hạ nhục sứ giả, khôgn bằng lòng" để đến nỗi Tôn Quyền nổi giận. Vì đó mà sự liên minh giữa Thục Ngô tan rã, cuối cùng Quan Vũ rơi vào thế bại binh ở Lăng thành phải chịu kết cục bi thảm.

    _ Thế mà, dân gian Trung Quốc vẫn một lòng thờ kính Quan Vũ, đặt ra nhiều truyền thuyết tô vẽ về ông, Quan Vũ được gia công liên tục trở thành một đại anh hùng trung dũng tín nghĩa. Lòng trung của Quan Vũ là trung với nhà Hán. Ông hàng Hán chứ không hàng Tào, không lưu luyến lộc nhiều quan lớn, treo ấn trả vàng một mình rong đuổi nghìn dặm tìm về với Lưu Bị. Nghĩa của Quan Vũ là ông trung thành với bằng hữu, không quên lời thề vườn đào, cùng chia hoạn nạn, sống chết có nhau. Để báo ân hậu đãi khi trước của Tào Tháo, Quan Vũ không kể gì đến "quân lệnh trạng", lấy nghĩa tha Tào Tháo ở Hoa Dung đạo. Tín của Quan Vũ là do ông làm việc trong sáng như thanh thiên bạch nhật, đối đãi với người thẳng thắn không dùng bụng tiểu nhân. Dũng của Quan Vũ là ở tinh thần "vô úy" đơn đao "phó hội", "cắt xương trị độc", cũng vì ông có dũng lực hơn người - tay cầm Thanh Long đao nặgn 81 cân quá quan trảm tướng. Những hành động ấy khiến cho Quan Vũ cơ hồ có đủ toàn bộ đức hoàn bị như người nhân đức của Nho học yêu cầu. Đến khi có Tam Quốc chí thông tục diễn nghĩa của La Quán Trung, tên tuổi của Quan Vũ càng chấn động xa gần, trở thành một ngẫu tượng cho giai các giai cấp, các giai tầng trong xã hội Trung Quốc tôn sùng.

    _ Hình tượng của Quan Vũ ấy được nhào nặn thành thực tế là do cần thiết của văn hoá. Bất cứ một xã hội nào cũng đều cần truy tìm trong diễn biến lịch sử một loại nhân cách có thể làm điển hình để giúp điều hoà, củng cố lý tưởng sinh hoạt và truyền thống văn hoá và để giáo hoá nếp sống cùng những hành vi sinh hoạt, trung nghĩa vững như núi. Quan Vũ là sản vật của loại tâm thái văn hoá ấy.

    _ Từ đời Tống trở về sau, các đế vương lịch đại đời nào cũng sắc phong thêm cho Quan Vũ. Họ coi trọng lòng trung với hoàng thất của Quan Vũ, ông vì hoàng thất sáng lập tinh thần "trung nghĩa". Dưới thời hậu chủ Lưu Thiện, bất quá Quan Vũ chỉ được phong Tráng Mậu hầu, đến đế vương đời Tống, họ phong ông làm "Trung Huệ công" và "Nghĩa dũng võ an vương". Hoàng đế đời Minh đắp tượng Quan Vũ trong cung và gia phong cho ông nào là "Tam giới phục ma đại đế" và "Thần uy viễn chấn thiên tôn Quan thánh đế quân". Địa vị của Quan Vũ từ "hầu", "công", "vương" thăng lên đến "đế". Các đời vua Thanh: Thuận Trị, Khang Hi và Quang Tự ba lần sắc phong cho Quann Vũ, lần sắc phong cuối cùng là "Trung nghĩa thần võ linh hựu nhân dũng uy hiển hộ quốc hựu dân tinh thanh tuy tĩnh hủ tán tuyên đức Quan thánh đại đế", phong hiệu dài đến 26 chữ, còn dài hơn tên hiệu của Từ Hy 7 chữ.

    _ Hai tông giáp Đạo và Phật đều để mắt tới Quan Vũ, họ đều dùng nhân cáhc Quan Vũ để quyến dụ tín đồ và lấy dũng võ của ông để trừ ma đuổi quỷ. Do vậy, đạo giáo phong Quan Vũ là "Quan Thánh đế quân" và phát hành các kinh Quan đế giác thế chân kinh, Quan đế minh thánh kinh làm kinh điển khuyến thiện. Ở Trung Quốc, lòng tôn thờ Quan Vũ nồng nhiệt đến độ rất nhiều nghề nghiệp khác nhau thờ ông là tổ sư hoặc thần bảo hộ. Theo một thống kê, có tất cả 22 loại nghề thờ ông như: các nghề cắt may, làm hương đèn, nấu bếp, làm vàng mã, thậm chí cả nghề đồ tể, nghề làm đao cũng coi ông như tổ sư nữa ! TRong ấy, có nhiều nghề khó nói ra được lý do tại sao họ thờ ông ! Tình hình ấychỉ có thể vì "tín ngưỡng Quan đế" đã ăn sâu vào tâm lí tầng lớp tiểu tư sản và tiểu thủ công. Theo sách Sơn Đông dân tục chép thì trong các thôn làng Trung Quốc, miếu thờ Quan đế nhiều không kém miếu thờ thổ địa, cơ hồ mỗi góc phố thành thị, mỗi xóm làng đều có miếu Quan Vũ. Khi được hỏi, bất cứ người dân ở nông thôn nào, họ sùng bái nhất là ai thì gần như họ đáp ngay đó là "Quan lão gia".t
     
  12. Chiplucky

    Chiplucky The Invisible Man

    Tham gia ngày:
    14/3/03
    Bài viết:
    3,766
    Nơi ở:
    Bảng Phong Thần
    GIA CÁT LƯỢNG
    (Sinh năm 181 - mất năm 234)



    _ Đối với người Trung Quốc, có thể nói chắc chắn rằng, Gia Cát Lượng thời Tam Quốc là một nhân vật có sức hấp dẫn nhất. Hơn hai ngàn năm nay, Gia Cát Lượng được các giai cấp địa chủ sĩ đại phu thần thánh hoá. Do đó, ông trở thành tấm gương tiêu biểu cho tinh thần xả thân cứu nạn cho đủ mọi tầng lớp nhân sĩ trong lúc quốc gia dân tộc nguy nan. Gia Cát Lượng tượng trưng cho trí tuệ của dân tộc Trung Quốc nhờ vào nhũng đức tính nho nhã, linh mẫn, biện luận giỏi, đấu trí cao, tận tụy hết năng lực. Gia Cát Lượng có nhân cách, tiết tháo vĩ đại, phong cách chính trị gia, quân sự gia kiệt xuất của ông là nguồn tư liệu bất tận cho sự sáng tạo văn học cổ điển Trung Quốc hàng ngàn năm nay. Hình tượng Gia Cát Lượng là hiện tượng đặc biệt trong văn hoá Trung Quốc.

    _ Gia Cát Lượng sinh trưởng giữa thời các thế lực quân sự cát cứ cuối đời Đông Hán. Thưở trẻ, ông sống trong bối cảnh đau khổ vì dân chúng phải bỏ lìa quâ hương tản mác, xã hội đầy rẫy phân ly thối nát. Từ nhỏ, ông đã được thừa hưởng nền giáo dục tốt đẹp của Nho gia. Nho gia chủ xướng kẻ sĩ phải đảm nhiệm trọng trách lớn để nuôi chí cao rộng, chủ xướng ấy ngay thiếu thời đã khích lệ ông lập hoài bão vĩ đại tiêu diệt hoạ hoạn cho xã hội, tái thống nhất cho đất nước. Năm 207, Lưu Bị ba lần tìm đến liều cỏ, là bước ngoặt của đời Gia Cát Lượng. Ông cảm kíhc về lòng cầu hiền của Lưu Bị nên bước vào chính trường, đem chí bình thiên hạ khuông lao động đường phố quốc gia áp dụng vào thực tiễn. Trong đời sống chính trị Thục Hán, ông nghiêm khắc với bản thân mình, chí công vô tư, vắt hết tâm lực chỉnh đốn pháp độ, trọng dụng nhân tài, khôi phục sinh sản. Phía đông, ông liên kết với Tôn Ngô, phía Nam ông dỗ về Man Di, năm lần ông Bắc phạt lao động đường phố tá Lưu Bị từ một quân phiệt không có một tấc đất trở thành người nắm thế mạnh chia ba thiên hạ. Gia Cát Lượng đề cao lý tưởng nhân cách Nho gia, cúc cung tận tụy chỉ vì muốn khôi phục nhà Hán và thống nhất quốc gia, tấm lòng đến chết quên mình của ông được nhân dân ca tụng. Đời Đường, các thi nhân lớn như Đỗ Phủ, Lý Hoa đều có thơ văn hết lời ca ngợi ngưỡng mộ ông, sau đó thời kì nào trong hoàn cảnh nào, Gia Cát Lượng cũng được thời nhân và lịch sử xưng tụng. Thậm chí những anh hùng dân tộc như Nhạc Phi, Văn Thiên Tường ai cũng coi Gia Cát Lượng là bậc tổ sưu điển hình mô phạm để noi theo.

    _ Bắt đầu từ thời lục triều, Gia Cát Lượng từ một chính trị gia, quân sự gia trí tuệ dần dần biến thành vị thần trí tụê của dân tộc Trung Quốc. Trải qua nhiều đời với những gia công cải biến của nghệ thuật, ông trở thành vị thần trí tụê về đủ mọi phương diện gần như toàn bích. Bản thân Gia Cát Lượng trở thành sáng tạo tập thể của dân tộc Trung Quốc. Gia Cát Lượng thực sự đã thành một thiên thần hạ phàm. Từ đó, trong các tiểu thuyết chí quái, ông luôn luôn đựoc mô phỏng, phóng đại. Những truyền thuyết nửa thực nửa hư về ông đã có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sau.

    _ Với các tiểu thuyết gia, tác gia đời Nguyên, Minh. Gia Cát Lượng có thể làm được tất cả mọi việc, ông trở thành hoá thân của trí tụê, trên thông thiên văn, dưới tinh địa lý, thông thạo thuật quỷ thần, kỳ môn độn giáp, đạo pháp ngũ hành, bí văn lục giáp... nghĩa là không có gì ông không vận dụng được dễ dàng, đúng là "trí tuệ cổ kim tuyệt luân !". Chẳng những ông có trí tụê về chính trị, quân sự mà ông còn có trí tụê kiệt xuất về khoa học nữa, ông rất giỏi kỹ thuật công trình, ông đã tạo thành các công trình liên kết dây sắt qua các dòng sông để ngăn chặn quân địhc, ông còn chế tạo cả "phong luận", "mộc ngưu lưu mã" (một loại chiến xa thời cổ), ông còn thông thạo cả y dược trị bệnh. Tóm lại, đời Nguyên, Minh, Gia Cát Lượng đã được nhào nặn thành "kẻ sĩ kinh luân tế thế", "toàn tài trong thiên hạ", "bậc đại hiền hiện nay". Ông vừa là quân sư "thần cơ diệu toán", vừa là thừa tướng "trung trinh cẩn thận". Dưới ngòi bút của các tác gia Nguyên, Minh, Gia Cát Lượng trở thành "trí tụê Khổng Minh diệu tuyệt thiên cổ". Cho đến ngày nay, trong tâm lý dân tộc Trung Quốc, vị trí thần linh trí tuệ của Khổng Minh vẫn chưa hề lung lay. Hình tượng Gia Cát Lượng từ khi xuất hiện đến nay hơn ngàn năm, vẫn có ảnh hưởng cực lớn và có sức hấp dẫn với mọi nghệ thuật văn hoá của người Trung Quốc.t
     
  13. Chiplucky

    Chiplucky The Invisible Man

    Tham gia ngày:
    14/3/03
    Bài viết:
    3,766
    Nơi ở:
    Bảng Phong Thần
    NGUYỄN TỊCH
    (Sinh năm 210 - mất năm 263)


    _ Nói tới văn hoá thời kỳ Ngụy Tấn, chúng ta tự nhiên không thể quên "Trúc lâm thất hiền" (bảy người hiền rừng trúc) mà Nguyễn Tịch chính là đại biểu kiệt xuất cho "Ngụy Tấn phong độ" và là nhân vật đứng đầu "Trúc lâm thất hiền".

    _ Nguyễn Tịch có tướng mạo kỳ đặc, tâm chí cao viễn rộng rãi, tính cách phóng túng, không bị trói buộc bởi lễ giáo. Mặc khác, ông có sức tự chế mình rất mnạh, bất kể trong bụng buồn hay vui, ông không để lộ mảy may ra bên ngoài nét mặt. Ông ham thích rượu, giỏi chơi đàn. Lúc tâm thần ông siêu dật, ông có thể mơ màng quên cả sự tồn tại của bản thân. Một người tưóng mạo kỳ dị, tính tình cổ quái như vậy với tư tưởng cuồng phóng, nếp sống phóng túng bừa bãi mà vẫn lưu lại được dấu tích sâu sắc trong văn hoá sử Trung Quốc. Tính cách của con người lý tưởng, ý nghĩa về vấn đề giá trị của kiếp người là nhũng chủ đề mà huyền học đời Ngụy Tấn muốn giải đáp. Tuy về tư biện trừu tượng của Nguyễn Tịch chưa bằng được Hà Án, Vương Bật, nhưng có thể nói với Nguyễn Tịch, hàm nghĩa của vấn đề ấy mới được phát triển tới mức độ cao nhất. Trong tình hình đa số kẻ sĩ lấy hiện thực ra làm cách sống thì Nguyễn Tịch và Đào Uyên Minh là hai đại diện có quan niệm đối lập hẳn, họ lấy sự tiêu sái phóng túng làm quan niệm nhân sinh của mình.

    _ Thế nhưng, Nguyễn Tịch và Đào Uyên Minh vẫn có chỗ khác nhau. Tư tưởng và hành vi của Nguyễn Tịch thể hinệ cao rộng trong bối cảnh phong cách huyền học đời Ngụy Tấn, tư tưởng siêu thoát của ông bao hàm một loại đau khổ vì không thể giải thoát được kiếp người. Ông là loại người ngạo nghễ với vũ trụ có khí phách kiêu kỳ vượt khỏi thế tục, nhưng cuối cùng vẫn không thoát khỏi được ưu phiền thế tục, vì vậy ông buồn giận vô cớ, khảng khái ống phóng túng theo mình. Nguyễn Tịch muốn giải thoát khỏi sự đau khổ cuả tâm linh, muốn đi tìm giải thoát nên sống cuồng ngạo không bó buộc, dùng hành động như tự hủy hoại mình để bảo vệ cái "tự ngã", để biểu hiện "tự ngã", và để thực hiện "tự ngã".

    _ Hãy nói trước đến tính thích rượu của ông. Các danh sĩ đời Ngụy Tấn phần lớn đều thích uống rựơu, coi rượu là một thứ có thể "tạm bảo toàn tính mệnh tnog thời loạn" mà Nguyễn Tịch là người đại biểu trong số ấy. Phần lớn các danh sĩ đời Ngụy Tấn đề gặp tai họa mà Nguyễn Tịch vẫn trường thọ, tác dụng ấy không tách được khỏi rượu. Tư Mã Chiêu muốn lợi dụng tên tuổi của Nguyễn Tịch, định cho con là Tư Mã Viêm cưới con gái ông. Nguyễn Tịch rất ác cảm với gia tộc họ Tư Mã (đnag cầm quyền lớn lúc ấy) nhưng không dám có thái độ từ chối công khai. Ông nảy sinh một kế, ông uống say tuý lúy suốt hai tháng liền khiến Tư Mã Chiêu không có dịp nói chuyện đành bỏ qua việc cưới hỏi. Chung Hội từng có lần tìm cách hỏi Nguyễn Tịch về những vấn đề liên quan đến thời sự với ý định nắm ngược điểm để vu cáo ông. Nhưng lần nào ông cũng uống say mèm để tránh trả lời câu hỏi có thể mang tai họa đến cho mình.

    _ Nguyễn Tịch khinh miệt danh giáo lễ pháp, có lần ông ví những kẻ sĩ giữ lễ như loài rận, ông thường mượn cớ đóng cửa uống rượu phóng túng hình hài. Ông là người đầu tiên trong ván hóa sử Trung Quốc coi thường những lễ nghi gọi là "danh giáo" của thời đại phong kiến. Danh giáo phong kiến đặt nặng "tam cương ngũ thường", Nguyễn Tịch khiêu chiến với quan niệm ấy. Quan niệm của Nguyễn Tịch đoi khi có phần quá đáng như có lần ông đang chơi cờ đến lúc say mê, bỗng có tin báo mẹ ông qua đời, người bạn chơi cờ với ông biết ông có lòng hiếu khuyên ông nên mau về, nhưng ông khiên quyết phải đánh xong ván cờ ấy để phân thắng bại. Đợi chơi cờ xong, uống thêm ba đấu rượu, ông mới khóc lớn thê thảm đến thổ huyết. Chôn mẹ xong, mới có một ngày, ông lại tiếp tục uống rượu, bạn ông là Bùi Hài nghe tin đến khóc điếu tang, thấy ông say sưa nằm lăn dưới đất. Bùi Hài điếu tang, khóc lóc xong ra về mà Nguyễn Tịch vẫn kôhng để ý đến. Có người hỏi Bùi Hải: "Đáng lẽ chủ nhân phải khóc, khách chỉ buồn thương trong lòng là đủ. Ông Nguyễn Tịch ấy mất mẹ mà không khóc thì làm sao ông lại phải khóc thê thảm thế ?" Bùi Hải đáp: "Lời ông sai rồi. Nguyễn Tịch là người giác ngộ trịêt để, đương nhiên không theo thứ lễ pháp thông thường. Còn tôi là phàm phu tục tử nên phải làm theo quy cũ của thường tình". Là chủ tướng của "Trúc lâm thất hiền", Nguyễn Tịch và các đồng đạo bài bác lễ giáo phong kiến tạo ảnh hưởng lớn đến lối sống lúc ấy và sau này. Chính ông là người đi đầu cho những tư tưởng phản đối trugn quân mù quáng trnog những đời sau.t
     
  14. Chiplucky

    Chiplucky The Invisible Man

    Tham gia ngày:
    14/3/03
    Bài viết:
    3,766
    Nơi ở:
    Bảng Phong Thần
    VƯƠNG BẬT

    (Sinh năm 226 - mất năm 249)


    _ Giai đonạ đế quốc thống nhất tan vỡ cuối đời Đông Hán là giai đoạn có nhiều chuyển biến. Từ đây, văn hoá Nho học độc tôn ở hai triều đại Hán (Tây Hán và Đông Hán) cũng tan vỡ theo. Văn hoá phát triển theo hướng phân hoá, đa nguyên. Trnog giai đonạ có nhiều chuyển biến ấy, dĩ nhiên sinh ra lonạ lạc, các anh hùng tuấn kiệt ra đời, tnong ấy có người trẻ tuổi Vương Bật được mọi người nể phục.

    _ Vương Bật, tên tự Phụ Tự, người huyện Kim, Sơn Đông ngày nay, là cháu nhiều đời của danh sĩ đại tộc Vương Xán. Thưở nhỏ, ông đã thông minh khác thường nổi tiếng sớm trong thiên hạ. Khi lãnh tụ triết học tên tuổi thời ấy là Hà Án cử hành đại hội đàm luận triết học, Vương Bật chưa đến tuổi "nhược quan" (tuổi đội mũ, tức là chưa đến tuổi thành nhân) đã tham dự biện luận, Hà Án vốn đã nghe tên Vương Bật trước nên có hỏi ông nhiều vấn đề nan giải, Vương Bật sảng khoái biện bác với Hà Án, sự hùng binệ của ông khiến ai nấy đều kinh ngạc ca tụng không tiếc lời đồng ý lần này là Hà Án thua Vương Bật. Sau này, Hà Án viết xogn bản chú giải sách Lão Tử đem tới gặp Vương Bật. Được đọc bản Lão Tử chú tinh diệu của Vương, Hà Án buồn bã than: "Như người này có thể gọi là người trời vậy". Trong ý thức Hà Án, Vương Bật đã đạt tới tiêu chuẩn tối cao của huyền lý.

    _ Vương Bật chỉ sống tới 24 tuổi thì bị bệnh mất sớm, nhưng ảnh hưởng của ôgn đối với văn hoá Trugn Quốc vượt xa tuổi đời của ông. Ảnh hưởng văn hoá đầu tiên của ông là đổi mới lý lụân tư duy. Nho học lưỡng Hán có tiêu chuẩn tư duy rất thấp, các sách chú giải Kinh học phồn tạp nhiều khuyết điểm, lụân chứng thần học Thiên nhân tương dữ thô thiển và sự mê tín sấm vĩ phổ biến khắp trong triều ngoài dã. Công lớn của Vương Bật là ông dùng phong cách tư biện đề xuất ra những khái niệm phạm trù "Hữu vô", "Thể dụng", "Bản mạt", "Ngôn ý", "Động tĩnh" mang hàm nghĩa mới trong vấn đề "Trời và Người", triển khai những quan hệ giữa bản thểvà hiện tượng, vận động và ngừng nghỉ, nhận thức và đối tượng, thiên đạo và nhân sự. Từ đó, không những ông nâng cao tư duy lý luận của triết học cổ đại Trung Quốc mà còn hệ thống phạm trù hoá triết học. Quan nimệ "Hữu vô" ở thời cổ đại hết sức phức tạp. chính Vương Bật là người đã coi "Vô" là thể "Vô" có thể sinh ra "Hữu". Từ đó, ông kiến lập bản thể luận trong hệ thống triết học. Những phạm trù triết học do ông đề xuất được sau này các triết học gia luận chứng và chuyên môn hoá nội hàm của nó. Nhờ Vương Bật, triết học truyền thống của Trung Quốc mang một diện mạo tiến bộ mới. Hệ thống triết học bản thể luận do Vương Bật kiến lập là con đường trọng yếu, đó là chủ trương "tổ thuật Lão Trang lập luận', ông dùng "Lão" chú "Dịch", lại dùng Nho chú "Lão", kết quả làm thay đổi cục diện tư tưởng tạo thành "Nho Đạo kiêm thông" của cái học "Tam huyền". Nho Đạo kết hợp khiến tư tưởng hệ thống truyền thống của Trung Quốc có sức ứng biến đàn hồi rất lớn. Học thuật của ông còn ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành lập của Lý học đời Tống sau này.

    _ Vương Bật dùng "Lão" chú giải "Dịch" , chẳng những có ảnh hưởng sâu sắc đến hệ thống tư tưởng Trung Quốc, mà nó còn có địa vị quan trnọg trong truyền thống nghiên cứu Dịch học. Các nhà Nho thời Hán giảng Kinh Dịch thường lẫn lộn với thuật số và nhuốm nhiều màu sắc thần bí. Vương Bật dùng nghĩa lí mới sửa bỏ màu sắc thần bí sấm vĩ ấy, khai sáng ra nghĩa lý học phái trong lịhc sử nghiên cứu Kinh Dịch. Vương Bật cũng là người đặt cơ sở cho huyền học, huyền học hưng khởi ảnh hưởng tới các mặt truyền thống tư tưởng triết học, tư tưởng mỹ học, tư tưởng học thuật, tư tưởng văn học, thậm chí ảnh hưởng tới cả khoa học kỹ thuật.

    _ Chính huyền học do Vương Bật khai sáng với phần hình nhi thượng nhận thức luận và chủ nghĩa duy tâm ngụy biện của ông đã đem huyền học đến gần với tông giáo. Sau Vương Bật, qua sự gia công của Hướng Tú, Quách Tượng, lại trải qua nỗ lực của Đạo An, Chi Độn, Tăng Khải, cuối cùng Huyền Trang đã đưa huyền học kết hợp với Bát Nhã Không tông hình thành triết học Phật giáo Trung Quốc hoá.t
     
  15. Chiplucky

    Chiplucky The Invisible Man

    Tham gia ngày:
    14/3/03
    Bài viết:
    3,766
    Nơi ở:
    Bảng Phong Thần
    CÁT HỒNG
    (Sinh năm 283 - mất năm 363)


    _ Trong các thần tổ nghề nghiệp vô số ở tín ngưỡng dân gian Trung Quốc, có một đại danh đỉnh đỉnh là Cát đại chân nhân hoặc Cát đại chân thần. Vị ấy chính là Cát Hồng đời Đông Tấn với tự hiệu Bão Phác Tử. Trong văn hoá sử Trung Quốc, Cát Hồng ảnh hưởng đến nhiều phương diện như Đạo giáo, Triết học và cả phương diện Hoá học, Y học thời sơ khai nữa. Cát Hồng là người sáng lập nên Kim đan phái Đạo giáo đời Đông Tấn, Kim đan phái Đạo giáo lấy thuật uống đan dược đắc đạo thành tiên làm mục đích cuối cùng và lấy trường sinh bất tử tiêu tai trừ họa làm khoá bản chủ yếu, nhưng những hoạt động và lý luận của Cát Hồng vượt xa dự liệu của ông và sinh ra ảnh hưởng trọng yếu trong văn hoá sử Trung Quốc.

    _ Hãy bàn tới thuật luyện đan, Cát Hồng là người cực lực cổ xúy cho thuật uống đan dược. Theo ông, Kim đan ngọc dịch có thể khiến cho "lão ông trở thành tráng đinh, lào bà biến thành thiếu nữ". Vì vậy, ông luyện đan vài chục năm ở núi La Phù Sơn, Quảng Đông. Trong "Xung Hư quán" trên núi La Phù đến nay vẫn còn những di tích "lò đan Cát Hồng" và chỗ rửa cây thuốc là "Tẩy dược trì". Thuật luyện đan và những điều liên hệ đến thuật luyện đan trường sinh bất tử của Cát Hồng có ảnh hưởng cực lớn. Triều đại nào đời nào đều cũng có đế vương và các nhà cao quan quý tộc mê uống đan dược. Đương nhiên, uống đan dựoc cầu trường sinh chỉ là một ước muốn viễn vong hư huyễn. Sự thực, đan dược không những không làm cho con người ta sống lâu, trái lại còn làm cho người ta chết sớm. Các vua Võ Tông, Tuyên Tông đời Đường, hay vua Gia Tĩnh đời Minh đều vì uống đan dược của các đạo sĩ mà bỏ mạng. Thế nhưng, lịch sử luôn luôn có những trò cười, sự nhiệt tâm luyện đan của Cát Hồng cố nhiên xuất phát từ khoa học vì trong quá trình luyện đan ông ghi chép lại những phản ứng hoá học lập thành ý nghĩa quan trnọg cho sự tiến bộ khoa học.

    _ Sách Bão Phác tử. Nội thiên là tác phẩm của Cát Hồng ghi chép về phương pháp thao tác luyện đan và những sở đắc đạt được. Trong ấy, không những Cát Hồng đề cặp đến nhiều loại vật chất phối chế mà còn chép kỹ về phương pháp và quan sát nhiều biến hoá khi phối hợp lưu huỳnh với thuỷ ngân. Nó còn ghi chép cả một só phản ứng hoá học.

    _ Là một nhân vật quan trọng trong thời kỳ Đạo giáo mới hình thành, Cát Hồng có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của Đạo giáo. Ông đem lý luận của triết học Nho gia thu nạp vào hệ thống tư tưởng Đạo giáo, chủ trương kết hợp Nho với Đạo, lấy Đạo làm gốc Nho làm ngọn. Ngoài ra, ông còn phát triển Đạo giáo thành "Huyền đạo", mặc cho nó có một sắc thái thần bí. Ông đem những thuật ngữ trong Lão Tử và TRang Tử như "Bão nhất", "Thông vu nhất", "thủ nhất", Cát Hồng dùng chữ "Nhất" ấy huyễn tưởng hoá và nhân cách hoá, dùng chữ "Nhất" giảng thành chủ tểcủa vạn vật, thành thần tiên hoặc thượng đế. Kết quả, Đạo gia đam ra tôn sùng "Nhất", kinh qua sự gia công nhuận sắc của Cát Hồng, "Nhất" nghiễm nhiên thành một vị thần trogn thần học tông giáo. Trong phương pháp trường sinh bất tử, Cát Hồng cũng có ít sáng tạo, ông khổng chỉ cổ xúy uống đan dược mà còn cực lực khích lệ dưỡng sinh để cầu trường sinh. Các phương pháp dưỡng sinh ấy, bao quát thở ra khí cũ hít vào khí mới, ăn uống các loại thuốc, chú ý tới vui buồn, cả thuật phòng trung nam nữ. Do vì Cát Hồng đem Huyền học và Đạo giáo thu về một thể, đem phương thuật và thần học thu về một thể, đem đạo giáo đan đỉnh, phù thủy từ lý luận thu về một thể, nhờ đó hệ thống lý luận tông giáo của Đạo giáo được hoàn chỉnh. Từ đó về sau, Đạo giáo mau lẹ phát triển ăn sâu vào tinh thần văn hoá Trung Quốc, trở thành một lực lượng quan trọng trong chính sách tính cách văn hoá của Trung Quốc.t
     
  16. Chiplucky

    Chiplucky The Invisible Man

    Tham gia ngày:
    14/3/03
    Bài viết:
    3,766
    Nơi ở:
    Bảng Phong Thần
    ĐÀO UYÊN MINH

    (Sinh năm 365 - mất năm 427)


    _ Do tư tưởng Phật giáo thịnh hành, thời Đông Tấn phong tục xã hội thời Ngụy Tấn đã thay đổi. Xã hội rối loạn dần dần bình yên lại, văn chương của kẻ sĩ cũng bình hoà. Đặc trưng cho loại bình hoà ấy là thơ văn của Đào Uyên Minh được đời xưng tụng là "Điền viên thi nhân".

    _ Đào Uyên Minh sinh ra trong một gia đình quan liêu đã sa sút. Ông tổ Đào Khản nổi tiếng là một khai quốc công thần thời Đông Tấn. Thưở trẻ, gia đình sa sút, ông nhìn thói đời lạnh lẽo, đành làm một chức lệnh ở Bành Trạch (nay thuộc Giang Tây), nhưng "giữ chức hơn 80 ngày", vì không chịu cúi lưng vì năm đấu gạo, ông xin từ quan về cày ruộng.

    _ Trong đời sống "trường ngâm yểm sài môn" (đóng cửa nghèo ngâm thơ), Đào Uyên Minh lấy chủ nghĩa lãng mạn tạo thành gia viên cho mình. Nhân cách của ông đạm bạc phiêu dật như ông đã miêu tả bằng lời văn mỹ lệ trong bài "Đào hoa nguyên". Thơ điền viên của ông bình dị mà có ảnh hưởng quan trọng tới văn hoá sử Trung Quốc.

    _ Nếu cho rằng Nguyễn Tịch đi tìm một đời sống ẩn sĩ cuồng phóng không trói buộc thì Đào Uyên Minh đi tìm những tình điệu điền viên thanh đạm ở mức không thể thanh đạm hơn nữa được. Thông qua đời sống điền viên, ông tìm thấy thi vị và cuối cùng, ông có thái độ siêu nhiên đối đãi với cuộc sống như "thái cúc đông ly hạ, du nhiên kiến Nam sơn" (hái cúc dưới dậu đông, an nhàn ngó núi Nam) thể hiện tâm cảnh siêu trần tuyệt tục ấy. Hoàn toàn không chút nghi ngờ, nhân cách Đào Uyên Minh trong một ý nghĩa nhất định là thíhc hợp với tư tưởng Lão Trang. Chỗ giống nhau giữa ông và Trang Tử là ở hai bên giao tiếp "vật" và "ta" đều lấy điểm tự nhiên hoá làm chung điểm. Không giống nhau ở chỗ quan điểm "vật ngã hợp nhất" của Trang bao hàm nỗi hkổ không nói nên lời, còn "vật ngã hợp nhất" của Đào Uyên Minh là một loại hoàn toàn siêu thoát, nhân cách cuả ông hoàn toàn dung hoá vào tự nhiên thành một bộ phận. Dù sao, rõ ràng đời sống quy ẩn của đào Uyên Minh đã kế thừa tinh thần của Lão Trang, nhưng vẫn in dấu ấn của Nho gia. TRong cuộc sống an tĩnh điền viên, giao tiếp với những nông dân hồn nhiên chân phác, ông tìm được chỗ dựa cho tinh thần, nhưng không vì vậy mà ông bỏ hết tinh thần nhập thế của nhân cách Nho gia. Thơ của ông làm cố nhiên là phiêu dật, đạm bạc, nhưng vẫn ẩn chứa chút tinh thần "bất bình". Ông vẫn vịnh xướng hành vi nghĩa hiệp của Kinh Kha hay vẫn ca ngợi sự liều thân thà chết của các tráng sĩ hào kiệt, tinh tthânf ấy có ảnh hưởng lớn tới hậu thế.

    _ Đại tự nhiên tráng lệ, đồng ruộng bao la yên tĩnh, khói đồng cuốn lên, tạo thành sức sống và tư liệu phong phú cho thơ, văn Đào Uyên Minh. ông dùng phong cách bình đạm tự nhiên khai sáng một thể tài mới gọi là thơ điền viên, mở ra hướng mới cho thơ ca cổ điển. Thơ của ông chủ yếu có nội dung bình đạm hoặc đời sống yên lành ở thôn quê nhưng không nông cạn khiến người đọc cảm thấy thú vị thuần hậu. Nếu cho rằng thơ sơn thủy của Tạ Linh Vân như cho người đọc xem một bức tranh lạc quna thì thơ sơn thủy của Đào Uyên Minh như đưa người đọc thẳng vào đời sống điền viên như bài thơ nổi tiếng Quy viên điền cư:

    Phương trạch thập dư mẫu
    Thào ốc bát cửu gian
    Du liễu âm hậu thiềm
    Đào lý la đường tiền
    Noãn noãn viễn nhân tâm
    Y ư khứ lý yên
    Cẩu phệ thâm hạng trung
    Kê minh tang thọ điên.​

    Tạm dịch:

    Nhà nhỏ hơn mười mẫu
    Phòng cỏ támc chín gian
    Bóng liễu dâu cho thềm
    Đào lý rũ trước hiên
    An nhiên xa loài người
    Vui vẻ nhìn khói lên
    Chó sủa trong hẻm vắng
    Gốc dâu gà gáy rền.​

    _ Vùi ngụm khói toả, vài tiếng chó sủa, vài tiếng gà gáy, tạo thành một cảnh giới tự nhiên thuần phác yên tĩnh. Thú vị của ý cảnh như trở đi trở lại khiến cho tâm linh người đọc như được tĩnh hoá và thăng hoa. Đúng như Chung Vinh đã phê bình Đào Tiềm là "ông tổ của thơ ẩn dật' (ẩn dật thi nhân chi tông). Các văn nhân từ thời Nam triều học tập theo thể thơ của Đào Uyên Minh, phong trào "bắt chước Đào", "hoạ thơ Đào" bắt đầu thịhn hành. Từ đời Đường Tống về sau, người và thơ Đào Uyên Minh ngày càng được đánh giá cao. Lý Bạhc, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Tô Thức, Lục Du và Tân Khí Tật và vô ssố văn nhân thi sĩ nữa đều khâm phục ông. Lý Bạch viết: "Bao giới tới Bành Trạch. Cuồng ca trước năm cây liễu". Đỗ Phủ viết: "Làm sao có tứ như Đào, Tạ". Bạch Cư Dị viết: "Thường yêu Đào Bành Trạch. Văn tứ cao huyền sao". Lục Du viết: "Thơ ta yêu Uyên Mnih. Hậu không bằng chút ít". Văn nhân thi sĩ các đời sau chẳng những học hỏi kế thừa phong cách thơ văn của Đào Uyên Minh mà họ còn học hỏi kế thừa cả nhân cách sống của ông.t
     
  17. Chiplucky

    Chiplucky The Invisible Man

    Tham gia ngày:
    14/3/03
    Bài viết:
    3,766
    Nơi ở:
    Bảng Phong Thần
    LƯƠNG VÕ ĐẾ
    (Sinh năm 464 - mất năm 549)


    _ Hoàng đế khai quốc đời Lưỡng Nam triều tên là Tiêu Diễn, tức Lương Võ đế, ở ngai vàng đến 48 năm. Lương Võ đế có tài nghệ kiêm thông, học thức quảng bác, văn võ toàn năng, trên vũ đài chính trị thời ấy, được sử sách khen ngợi là "văn nghệ hoàn bị, am tường đủ các môn cờ, âm dương, bói toán". Trong thời động loạn ấy, hành vi của Lương Võ đế đã bảo tồn được văn hoá Trung Quốc, thậm chí còn bổ sung phần nội dung nhiều điều mới lạ cho văn hoá Trung Quốc. Trong đời sống văn hoá của Lương Võ đế, chiêu cảm người ta nhất là ông đã nêu cao văn hoá tinh thần sùng bái Phật giáo. Thân phận là hoàng đế chí cao, đủ điều kiện hưởng thụ mọi vinh hoa phú quý trên đời, tùy ý thi hành quyền lực hô phong hoán vũ. Thế nhưng, Lương Võ đế lại đi tìm sự giải thoát xuất thế và hạnh phúc ở bờ bên kia. Vì vậy, ông cương quyết "bỏ hư ngụy về chân lý, bỏ tà quy chánh", đổi đạo sùng bái Phật giáo. Xét tới nguyên nhân, trừ nhiều yếu tố cá nhân, chủ yếu vì thời Đông Tấn Nam triều, tín đồ Đạo giáo đã đổi sang thờ phụng Phật giáo rất đông. Phong khí đó tác động lớn tới văn hoá bản thể khi Phật giáo mới du nhập từ Ấn Độ vào Trung Quốc.

    _ Ba lần Lương Võ đế "xả thân" đề xướng Phật giáo, tác động đến phong trào thờ Phật đời Lương và các đời sau. Người Trung Quốc xưa nay vốn nhiềulý tính thực dụng, ít nguời cuồng nhiệt với tôn giáo. Vào khoảng giữa hai đời Hán (Tây và Đông Hán) đạo Phật truyền vào, tín đồ người Trung Quốc theo rất ít, nếu như Hán Tuyên đế Lưu Chí là hoàng đế đầu tiên tin Phật thì Lương Võ đế là hoàng đế đầu tiên có công thực hành tôn giáo ấy. Lương Võ đế tin thờ Phật giáo đến độ si mê. Trước sau, ông ba lần xuất gia vào chùa Đồng Thái và buộc công khnah đại thầnbố thí số tài sản rất lớn mới chuộc được ông về. Lần xuất gia đầu tiên của Lương Võ đế vào năm Đại Thông nguyên niên (năm 527), lần thứ hai là năm Đại Thông thứ ba (năm 547), lần này ông đã 84 tuổi. Lương Võ đế làm việc ấy, chỉ để biểu lộ lòng tin của ông đối với PHật,ông lấy thân mình đề xướng Phật giáo, xiển dương uy thế của Phật giáo, tạo thành phong trào tin Phật trong dân gian. Ngoài ra, ôgn còn hạ chiếu xây chùa, đắp tượng,c ử hành tổ chức trai hội. Ông viết sắc xây dựgn các chùa Đồng Thái, Đại Ái Kinh, Đại Trí Độ, Pháp vương, Khai Thiện,... Ông còn mua hơn 80 khoảng ruộng của các gia tộc quyền thế đất Giang Nam dâng cúng cho chùa Đại Ái Kính. Nhờ đó, mà trong chiều ngoài nội ùn ùn bắt chước ông, phong trào xây chùa ồn ào một thời. Chỉ tính ở kinh đô Kiến Khang (nay là Nam Kinh) đã có hơn trăm ngôi chùa, chính như thi nhân đời Đường Đỗ Mục viết: "Nam triều bốn trăm tám mươi chùa. Ít nhiều lâu đài phơi gió mưa". Lương Võ đế hạ lệnh cho thinê hạ dùng vàng, bạc, đồng, đá đúc tượng Phật, ông còn thân hành đến chùa Đồng Thái hiến thân thuyết pháp, giảng giải các kinh Đại Bát Nhã Niết Bàn kinh, Ma Na Hát Nhã Ba La mật kinh và Kim tự tam tụê kinh. Chính do vì Luơng Võ đế dẫn đầu mà "thời kỳ ấy thành phong trào xây chùa, thành phong trào ăn chay, thành phong trào giảng kinh, tín ngưỡng Phật giáo phổ biến khắp vùng Giang Nam". Phong khí ấy ảnh hưởng tới hậu thế, các hoàng đế triều Trần bắt chước Lương Võ đế nhiều người nịnh Phật. Phải đến đời Đường, nhờ Hàn Dũ cam đảm bài xích Phật và cũng cho thấy rõ Phật giáo trải qua các vương triều Ngụy Tấn ủng hộ, thịnh hành trong thời kì Tùy Đường là có thật.

    _ Lương Võ đế ban bố lệnh cấm ăn thịt, mở đầu cho tập quán tăng ni tộc Hán ăn chay và dần dần nó trở thành truyền thống độc đặc. Phật giáo vốn không chủ trương tuyệt đối ăn chay, tăng sĩ vẫn có thể ăn mặn. Quan trọng nhất là Lương Võ đế còn cho soạn dịch những kinh điển Phật giáo, tuyên dương lí luận thần học, thúc đẩy lí luận Phật học phát triển. Lương Võ đế hết sức coi trọng những bản chú thích phiên dịch kinh điển Phật giáo, ông đã từng cho mời dịch giả nổi tiếng Ấn Độ là Chân Đế đến Trung Quốc để phiên dịch khá nhiều kinh điển liên quan đến đại thừa, trong ấy bản dịch Nhiếp đại thừa luận có ảnh hưỏng đến tư tưởng và sự phát triển của Phật giáo Trung Quốc. Ngoài ra, Lương Võ đế còn là người uyên bác, bản thân ông cũng trứ thuật nhiều tác phẩm quan trọng như Chế chỉ đại Niết bàn kinh giảng số 101 quyển. Đại phẩm chú giải 50 quyển, Phát Bát Nhã kinh đề luận nghĩa tính hồi đáp 12 quyển. Ông xiển phát tư tưởng Phật giáo khai sáng thuyết "tam giáo đồng nguyên" và "Chân thần Phật tính luận". ông nhận định rằng: Nho giáo vfa Đạo giáo đều cùng nguồn gốc với Phật giáo, Lão Tử, Chu Công, Khổng Tử đều là đệ tử của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni. Sở dĩ Nho, Đạo thấp hơn Phật vì họ chỉ đi tìm điều thiện ở thế gian, sở dĩ Phật giáo cao hơn Nho, Đạo vì nó có thể khiến người ta trở thành thánh nhân ở ngoài thế gian. Có thể nói, Lương Võ đế dùng quyền lực đế vương của mình tích cực biến Phật giáo ngoại lai thành Phật giáo Trung Quốc, dung hợp nó vào tình hình bản địa. Đó là công lớn với văn hoá Trung Quốc.t
     
  18. Chiplucky

    Chiplucky The Invisible Man

    Tham gia ngày:
    14/3/03
    Bài viết:
    3,766
    Nơi ở:
    Bảng Phong Thần
    HIẾU VĂN ĐẾ
    (Sinh năm 467 - mất năm 499)


    _ Văn hoá Trung Quốc là một hệ thống do nhiều dân tộc dung hợp lại với nhau lại mà thành. Trong quá trình vài ngàn năm dung hoà các văn hoá dân tộc ấy, Hiếu văn Đế triều Bắc Ngụy có một địa vị quan trọng. Hiếu Văn Đế Nguyên Hoằng cũng có tên Thác Bạt Hoằng, lên ngôi lúc mới 4 tuổi, nhưng đến năm 23 tuổi mới thực sự nắm quyền. Ngụy Hiếu Văn đế là một đế vương có hùng tâm đại chí. Sau khi nắm giữ chính quyền, ông ban hành "quân điều chế", ban bố "Tam trường chế" thực hành "Ban lộc chế", tiến hành một lotạ cải cách. Đương nhiên, người ta biết điều nhiều và rõ nhất là cuộc vận động Hán hoá dân tộc Tiên Ty (Là dân tộc của ông) gây ảnh hưởng văn hoá sâu sắc.

    _ Năm Thái Hoà thứ 14 (năm 493), Hiếu Văn đế lấy danh nghĩa chinh phạt phương nam, dời đô thành từ Đại Đồng, Sơn Tây ngày nay về Lạc Dương trong Trung Nguyên, hành động này không phải chỉ là chuỵên dời đổi kinh đô mà còn có ý nghĩa chuyển đổi văn hoá quan trọng vì Đại Đồng là đất nằm phía Bắc dãy Hồng Sơn lọt vào vùng đất chịu nhhiều ảnh hưởng của văn hoá du mục, còn Lạc Dương ở vào trung tâm xứ Thần châu thời cổ. Dời kihn đô đến đây là để hiển thị Bắc Ngụy là chính quyền xchính thống của Trung Quốc và có lợi cho việc hấp thụ mau lẹ văn hoá Hán tộc. Chính ở cố đô Lạc Dương này, Hiếu Văn đế tiến hành cải cách các lãnh vực kinh tế, kiến trúc thượng tầng văn hoá. Ông hạ lệnh cấm dùng chữ Hồ, ăn mặc theo lối Hồ (Hồ là khái niệm chỉ chung những dân tộc ít người Trung Quốc), buộc nhân dân phải dùng rộng rãi tiếng Hán. Hễ bất cứ quan viên người Tiên Ty nào dưới 30 tuổi mà nói tiếng Tiên Ty trong triều đình đều bị gián chức trừ quan. Họ nguời Tiên Ty phần lớn là họ kép (thí dụ như họ của chính Hiếu Văn Đế: Thác Bạt), Hiếu Văn Đế hạ lệnh đổi họ Tiên Ty thành họ Hán tương ứng. Hai dân tộc Hồ và Hán trước đây bị nhiều hạn chế khi muốn kết hôn với nhau, Hiếu Văn đế tận lực đề xướng sự kết hôn giữa hai tộc Hồ và Hán. Ông liên tiếp nạp các phi tần người Hán vào cung, năm người em của ông cũng phụng chiếu lấy vợ là người Hán. Những quyết định ấy cắt đứt phong tục, lễ chế, ngôn ngữ, phục sức của tộc Tiên Ty và tiến tới Hán hoá toàn bộ.

    _ Để văn hoá Nho gia thâm nhập sâu sắc vào tư tưởng của tộc Tiên Ty. Hiếu Văn đế thi hành hai điều trọng yếu:

    - Một: lập miếu thờ Khổng Tử ở kinh sư và tôn Khổng Tử là "Thánh phụ", đây là vương triều phong kiến đầu tiên lập đền tế Khổng Tử ở kinh đô và thụ phong họ Khổng là thánh nhân. Từ đó, lập đền thờ tế Khổng Tử ở kinh đô trở thành tập quán và địa vị Khổng Tử càng được đề cao.

    - Hai: hạ lệnh thực hành chế độ giáo dục từ nông thôn. Ai không chịu giáo dục thì phải bẩm báo lên trên quan phủ. Chjế độ giáo dục từ nông thôn mở rộng học hiệu từ trung ương đến địa phương. Đối tượng đi học từ con em các nhà giàu có quan tước đến bình dân bách tính, mang tính giáo dục phổ cập. Hành động này của Hiếu Văn đế thúc dẩy Nho gia được thấm nhuần vào đại chúng, có ý nghĩa quan trọng vừa về văn hoá sử vừa về giáo dục sử.

    _ Chính sách Hán hoá của Hiếu Văn đế dùng sức mạnh của quốc gia chính quyền tiến sự dung hợp Hán hoá các thiểu số dân tộc phương Bắc tạo cơ sở cho đời Tùy, Đường củng cố phồn hoa. Chính sách Hán hoá của Hiếu Văn đế đụng phải sự kháng cự của thế lực thủ cựu trong nội bộ Tiên Ty, nhưng lại được tầng lớp Nho sinh sĩ đại phu nhiệt liệt tán tụng. Lịhc sử Trung Quốc từ Bắc Nguỵ trở về sau, hình tượng Hiếu Văn đế được các Nho sĩ dùng làm tượng trưng cho sự hợp tác giữa các dân tộc. Nhờ Hiếu Văn đế, văn hoá tộc Hán của người Trung Quốc thâm nhập và dung hoá sâu đậm vào các dân tộc ít người khác, khiến họ bị biến thành một bộ phận không thể tách rời trong đại gia đình văn hoá Trung Quốc.t
     
  19. Chiplucky

    Chiplucky The Invisible Man

    Tham gia ngày:
    14/3/03
    Bài viết:
    3,766
    Nơi ở:
    Bảng Phong Thần
    NHAN CHI THÔI
    (Sinh năm 531 - mất năm nào không rõ)


    _ Gia đình là cơ sở cơ bản của xã hội, cũng là nguyên tố trung tâm của văn hoá truyền thống. Thông qua giáo dục gia đình đối với các con cháu thành viên trong nhà tiến hành giáo dục luân lý đạo đức là con đường để để truyền thống văn hoá Trung Quốc không bị sa đoạ, cũng là để văn hoá truyền thống Trung Quốc giữ được tính liên tục. Từ góc độ ấy mà xét về giáo dục gia đình TRung Quốc cổ đại thì Nhan Chi Thôi là nhân vật đặc biệt đáng được luư ý.

    _ Nhan Chi Thôi, tên tự là Giới, đất Kiến Nghiệp (còn goịi là Kim Lăng, nay thuộc Nam Kinh, Giang Tô) triều đời Lương. Sách Bắc Tề thư. Văn Uyển truyện y cứ vào tổ quán của ông cho rằng ông là người đất Lang Nha. Nhan Chi Thôi học rộng biết nhiều, tài hoa xuất chúng nhưng lại "thích uống rượu, ưu phóng niệm, không chịu ràng buột" nghĩa là thuộc loại phóng đạt như tính cáhc của một văn nhân. Do vì ông làm quan tới chức Hoàng môn thị lang dưới đời Bắc Tề nên người đời hay gọi ông là Nhan hoàng môn.

    _ Nhan Chi Thôi sở trường về tản văn, các mặt văn học, âm vận học và sử học ông đều có thành tựu, nhưng tác phẩm thực sự làm ông nổi tiếng gây ảnh hưởng lớn đến văn hoá Trung Quốc là cuốn Nhan thị gia huấn trứ danh. Gia huấn xét về danh nghĩa, là lời dạy dỗ của bậc cha mẹ đối với người nhà hoặc con cháu. Từ Gia huấn thông dụng như các từ đồng nghĩa "Gia giới", "Gia quy", "Gia phạm",... Các hình thức dùng Gia huấn dạy dỗ con cháu trong nhà rất đa dạng, có gia tộc khắc Gia huấnleen trên một bia tổ tiên, có gia đình khi cử hành tế lễ mới chiêu tập đông đủ người nhà tới đọc Gia huấn. Còn về các văn nhân đem Gia huấn xuất bản ấn loát công khai. Vì vậy, Gia huấn về ý nghĩa giáo dục không cục hạn vào tiểu gia đình hoặc đại gia đình mà còn bước ra ngoài xã hội, có ý nghĩa hướng dẫn và ý nghĩa giáo dục rất rộng.

    _ Ở thời Trung Quốc cổ đại, sách Gia huấn xuất hiện sớm nhất là ở thời Tam Quốc như Tam quốc chí phần nhà Ngụy viết: "Nhà Ngụy thời Tam Quốc có Đỗ Thứ viết Gia huấn". NHưng sách ấy đã bị thất lạc. Vì vậy, sách Nhan thị gia huấn của Nhan Chi Thôi trở thành bản Gia huấn sớm nhất, hiện còn và được coi là sách tổ của Cổ Kim gia huấn. Nhan thị gia huấn là một tác phẩm giáo dục gia đình có mức độ lý luận sâu sắc nhất định. Trong các loại sách giáo dục gia đình, sách của Nhan Chi Thôi xiển dương những tư tưởng tiến bộ hơn.

    _ Trong lúc tìm hiểu giáo dục gia đình và lý luận về giáo dục không thể né tránh vấn đề tác dụng gia đình. Nhan Chi Thôi luận thuật về giáo dục gia đình và đương nhiên xiển dương loại giáo dục hình thức và giáo dục ý nghĩa đặc thù. Ông dùng con mắt nhà xã hội học chỉ ra người ta thường tin vào người thân cận mìnhhơn là người xa lạ. Trẻ con nghịch ngợm, người trong gia đình khuyên dạy không bằng người ngoài gia đình khuyên dạy. Con trai ham mê săn bắn đánh lộn lấy đạo Nghiêu Thuấn ra ngăn cấm không bằng để cho vợ con ngăn cấm. Vì vậy, mối quan hệ càng gần gũi thì sự giáo dục càng có hiệu quả.,đó là nguyên nhân làm cho người ta coi trọng giao dục gia đình. TRong lịch sử phát triển giáo dục lí luận TRung Quốc, trước Nhan Chi Thôi chưa có ai phân tích tác dụng đặc thù giữa các thành viên trong ai đình và quan hệ cha mẹ con cái với nhau ra sao. Do đó, có thể thấy tầm nhìn xa rộng của Nhan Chi Thôi và những luận thuật của ông phù hợp với xã hội hiện đại.

    _ Trên nguyên tắc giáo dục gia đình, Nhan Chi Thôi có kiến giải rất phong phú. Ông chủ trương phải giáo dục con cái từ rất sớm, ngya từ lúc đứa bé chưa ra đời đã phải tiến hành "Thai giáo" (dạy từ lúc còn ở trgon thai), đến khi đứa bé biết vui buồn mừng giận càng phải dạy dỗ kĩ hơn. "Cái gì cho làm mới được làm, cái gì bắt dừng phải dừgn". HOặc ông nhấn mạnh, khi cha mẹ dạy conc ái phải "uy nghiêm nhưng từ ái", hai điều ấy không thể nghiêng về bên nào. TRong gia đình nhiều conc ái, cha mẹ phải coi chúng bằng nhau không thể con yêu con ghét. Cha mẹ là chủ thể cho cho sự giáo dục gia đình, nên lấy thân mình làm gương mới thu được hiệu quả tự nhiên. Hơn hai ngàn năm nay, luận thuật của Nhan Chi Thôi vẫn còn sức sống khiến người đọc tới vẫn cảm thấy trhân thiết.

    _ Về nội dunggiáo dục gia đình, Nhan Chi Thôi cho rằng phải khuyến khích việc chuyên cần học tập bằng cách làm gương mẫu nhưng không cho con cái ỷ lại vào cha mẹ, nên vụ vào thực mà không nên đàm luận vu khoát, cần kiệm nhưng không keo kiệt, chú trọng tiết tháo nhưng không để mất nguyên tắc. Việc hôn nhân hai gia đình tương đương với nhau thì được, không nên tham lam phú quý tiền tài dùng con cái như món hàng. Việc ngoài gia đình nên cẩn thận, không nên phê bình người ngoài bừa bãi mà cũng không nên khoe khoang mình.

    _ Nhan thị gia huấn có lý lẽ khẩn thiết chu đáo, tự sự khúc chiết sinh động, từ nội dung đến phương pháp viết đều có chỗ độc đáo. Vì nội dung của nó không nhữg chỉ bao hàm tinh thần cơ bản của Nho gia mà còn hàm súc chân lý của đời sống nên nhữg điều sáhc này bàn tới không những vượt qua khỏi phạm vi con cháu nhà họ Nhan mà còn đề cặp đến vấn đề của xã hội., quốc gia nên được các văn nhân đời sau tôn sùng. Nhan thị gia huấn trở thành tài liệu giáo dục chủ yếu của Trung Quốc ccổ đại, nó có địa vị quan trọng bậc nhất trong lịch sử giáo khoa Trung Quốc là vì thế.t
     
  20. Chiplucky

    Chiplucky The Invisible Man

    Tham gia ngày:
    14/3/03
    Bài viết:
    3,766
    Nơi ở:
    Bảng Phong Thần
    NGỤY TRƯNG
    (Sinh năm 580 - mất năm 643)


    _ Nếu nói Đường Thái Tông là hoàng đế nổi tiếng nhất Trung Quốc cổ đại chịu "nạp gián" (nghe lời can gián) thì một văn thần dám nói thẳng can gián đầu tiên phải kể đến là Ngụy Trưng. Làm một "gián thần" (vị tôi thần có nhiệm vụ can gián vua) trong xã hội phong kiến, Ngụy Trưng là đại biểu cho loại chính trị gia chính trực. Ông tiêu biểu cho nhân cách tinh thần Nho gia lý tưởng và nền văn hoá ưu tú của dân tộc.

    _ Ngụy Trưng lao động đường phố tá Đường Thái Tông nổi tiếng là người thẳng thắn can gián, được sử sách khen là "Trưng có tài trị quốc, tính tình cương trực, không gì khuất phục được". Thưở nhỏ, Ngụy Trưng có chí lớn, chuyên cần học tập, tinh thông lí luận và phương pháp trị quốc của nhà Nho. Ông từng hai lần theo khởi nghĩa nông dân, lần đầu theo Lý Mật một năm, lần sau theo Đậu Kiến Đức hơn năm rưỡi, nhiều lần đến vùng Sơn Đông giải quyết các vấn đề nan giải. Trải qua nhiều gian nan như vậy, trong các đại thần đầu đời Đường là ít có. Sự từng trải và kinh nghiệm phong phú, chẳng nhũng tạo thành tính cách cương trực đặc thù mà còn khiến ông thành người giỏi phân tích các loịa vấn đề phức tạp đầu đời Đường. Phải nói rằng về phương diện tài hạnh, ông có đầy đủ điều kiện để làm "gián thần".

    _ Ngụy Trưng biết rất rõ tiền đề để can gián có hiệu là phải làm cho hoàng đế chịu nghe thoe ý kiến của mình. Vì vậy, khi Đường Thái Tông mới lên ngôi, ông đã đề xuất vấn đề "sao xứng đnág gọi là minh quân hay hôn quân". Ngụy Trưng xác định "chịu nghe can gián là minh quân, không nghe can gián là hôn quân". Những lời can gián của Ngụy Trưng đều có đặc điểm là nói thẳng không che giấu. Đường Thái Tông tận tâm vàp việc trị an dân nen thường chiêu kiếnNgụy Trưng nghe ông giảng điều được điều mất trong việc trị nước. Ngụy Trưng nói tất cả nhũng gì mình biết đồng thời yêu cầu hoàng đế không nên tán thành trước mặt ông mà sau lưng lại không tuân thủ. Có nhiều lúc Ngụy Trưng nói thẳng quá làm Đường Thái Tông giận dữ, nhưng thần sắc Ngụy Trưng khôgn hề thay đổi và cũng hkôgn vì thế mà không khuyên can. Ngụy Trưng lao động đường phố tá Đường Thái Tông 17 năm, trong 17 năm ấy, theo sử sách ghi lại, tổng cộng có hơn 200 việc ông dâng tấu sớ lên can gián vua, trogn đó bao gồm đủ mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hoá, quan hệ đối ngoại và cả những việc riêng của hoàng đế nữa. Những điều can gián của Ngụy Trưng có tác dụng tíhc cực giúp hình thành và củng cố "Trinh Quán chi trị" (sự an trị đời Tring Quán, tức niên hiệu của Thái Tông). Ngụy Trưng được Đường Thái Tông đánh giá cao, đế từng tuyên bố: "Sau đời Trinh Quán, chỉ có một mình Ngụy Trưng là đáng gọi là tận tâm với ta, dâng lời trung trinh, an quốc lợi người làm thành công nghiệp hôm nay của ta". Khi Ngụy Trưng qua đời, Thái tông đau khổ hơn ai hết, vua bảo: "Dùng đồng làm gương soi, có thể chỉnh đốn lại áo quần, dùng gnười làm gương soi, có thể hiểu được sự được sự mất; Nguỵ Trưng chết đi, ta như mất một tấm gương soi vậy". Câu phê bình ấy của Đường Thái tông có thể nói khá chính xác và công bình.

    _ "Nói về thánh nhân đời trước chỉ có một người duy nhất mà thôi". Ngụy Trưng quang minh lỗi lạc, có can đảm can ngăn vua giữ đầy đủ tinh thần nhân cáhc của Nho gia lý tưởng, ông luôn luôn ung dung bình tĩnh, dùng trí tuệ can gián, trí tuệ của ông bao hàm cả trí tụê văn hoá của dân tộc. Sau đời Đường, các triều đại nối tiếp đều coi NGụy Trưng như điển phạm mẫu mực cho một "gián thần" ("thánh thần" hay "gián thần đều chỉ bề tôi giữ nhimệ vụ can gián hoàng đế ở trong triều). Các chính trị gia và lý luận tư tưởng gia đều coi tư tưởng, hành vi của Ngụy Trưng là một thứ "vi thần chi đạo" (đạo làm tôi thần) và luôn luôn được họ biểu dương. "Theo đạo chứ không theo vua" đó là lý chính trị của Nho gia đã được Ngụy Trưng thực hiện và thông qua ông, lý tưởng ấy ảnh hưởng sâu đậm tới hành vi và nhân cách của các sĩ đại phu đời sau.t
     

Chia sẻ trang này