----- DÂN QUÂN LỒ SỬ THÀNG ----- Nguyễn Trần Thiết, ghi theo lời kể của Giàng Lao Vu, xã Lồ Sử Thàng, huyện Mường Khương, tỉnh Hoàng Liên Sơn. Cán bộ bảo mình kể chuyện chỉ huy dân quân 6 xã đánh giặc Trung Quốc. Mình nói tiếng phổ thông chưa thạo, cán bộ lại không có ai biết dịch tiếng Mèo. Mình nói, cán bộ chịu khó nghe. Ngày 1-3-1979, cán bộ Cầu, phó bí thư huyện uỷ và thủ trưởng Khánh huyện đội phó bảo mình : "Địa hình, địa vật xã Lồ Sử thàng rất hiểm trở. Bác tập hợp dân quân 6 xã đang có mặt tại đây chỉ huy anh em chiến đấu. Mình nhận lời. Mình tìm gặp Giàng Xeo Pao. Thằng Pao là con thứ 2 của mình đang làm xã đội trưởng. Nó với mình cùng là đảng viên. Nó đi bộ đội 7 năm, đánh Mĩ nhiều nên nó có kinh nghiệm hơn mình. Nó bảo : - Trái (Bố) lo tổ chức dân quân 5 xã bạn. Cần 1 chỉ huy phó giúp trái về quân sự và 1 người giúp trái về hậu cần. Thằng Pao đánh giặc nhiều. Ngày phục viên nó mang về nhà cả tập bằng khen, huy hiệu Chiến sĩ thi đua, huân chương. Nó bàn : - Muốn mọi người cùng đánh giặc Trung Quốc, gia đình mình phải làm gương trước. Mình có 7 đứa con trai (không có con gái) thì 5 đứa đã được phát súng. Thằng giàng Xeo Lử không được nhận vào dân quân vì nó thọt chân từ nhỏ và thằng Giàng Vần Sèng đã quá tuổi. Nghe tin dân quân toàn xã Lồ Sử Thàng ở lại đánh giặc Trung Quốc, Sèng yêu cầu mình : - Trái cho con xin khẩu súng ! Ồ, mình làm gì có súng. Mình khuyên Sèng : - Nho (Con) đến trụ sở hỏi ông Pao và ông Hồ xem ? Giàng Vần Hồ là con thứ 5 của mình, là em ruột của Sèng. Hồ cũng đi bộ đội từ 1970. Năm 1976, Hồ phục viên, được giao làm chính trị viên phó xã đội. Mình gọi Pao và Hồ là ông để nhắc nhủ Sèng : ngày thường Sèng là chủ nhiệm hợp tác xã, là anh cả trong gia đình nhưng khi đã nhận súng Sèng phải chịu để các em chỉ huy. Xã đội trưởng Giàng Xeo Pao cấp cho anh ruột khẩu CKC và phân công Sèng về tiểu đội 2. Trong tiểu đội này đã có Giàng Xeo Lù. Lù đến gặp mình, mặt lộ vẻ không vui : - Già (Cụ) Xon ơi (mình là dểu (ông nội) của Lù nhưng Lù đã có con. Lù gọi mình là cụ thay con). Già Xon bắt chú Pao cho trái Sèng sang tiểu đội khác. Mình không đồng ý. Việc quân sự do xã đội phụ trách, mình can thiệp sao được. Mình hỏi Lù : - Trái Sèng ở cùng tiểu đội, sênh trừ (cháu) gặp trở ngại gì ? Đúng là thằng Lù có những điều khó xử. Thương bố, nó muốn gánh vác mọi phần việc lao động cho bố, gác thay cho bố. Có mặt bố, nó không được tự do đùa nghịch. Mình an ủi nó : - Trái Sèng chưa quen làm dân quân, sênh trừ phải ở cùng tiểu đội để giúp đỡ trái chứ. Lù nghe lời mình. Mọi việc quân sự ở Lồ Sử Thàng mình giao hẳn cho thằng Pao, thằng Hồ, việc hậu cần mình phải bàn với bí thư chi bộ Sùng Pao Sấn (người Mèo) và chủ tịch xã Ly Sử Thàng (người Nùng). Thàng hỏi : - Dân quân 6 xã có bao nhiêu người ? Hiện nay đang ở thôn nào ? Việc này mình đã giao cho Ma Sần Chín. Chín là người Mèo thuộc xã Sừ Ma Tủng. Mình chọn Chín làm chỉ huy phó vì Chín đã làm trung đội trưởng ở bộ đội. Chín vẽ bản đồ, dự kiến bố trí 42 dân quân ở xã Tả Gia Khâu ở Xia Trải, xã Lao táo 23 người ở Phìn Chư, xã Dìn Chín 12 người ở Xín chải, xã tả Ngài Chồ 56 người ở Ngài Phòng Chồ, xã Sừ Ma Tủng 62 người ở Cốc Cáng và 90 dân quân xã Lồ Sử Thàng ở Lồ Suối thàng. Chủ tịch Thàng nêu ý kiến : - Dân quân Lồ Sử Thàng không phải nuôi, ai về nàh người nấy mà ăn. Mình đến các thôn khác giao cho mỗi gia đình 3, 4 người. Người Mèo mình mến khách lắm. Khách đến chơi, chủ nàh có rượu, thịt gà, thịt lợn đều đem ra mời. Trường hợp trong nhà chỉ còn bột ngô cũng đem nấu để khách và chủ cùng ăn. Không ai chê cái bụng người Mèo mình đâu. Ngày 1-3 đã qua. Chỉ huy phó Ma Sần Chín cùng với mình và chủ tịch Ly Sử thàng đến các làng để kiểm tra trận địa cũng như nơi ăn chốn ở của dân quân. Dân quân ở lưng chừng núi đá cao. Mình trèo hết ngọn núi này sang ngọn núi khác. Anh em dân quân chọn mỗi người một phiến đá làm công sự. Nằm ở đây, anh em bắn trúng lính Trung Quốc đi dưới đường dễ hơn đi săn thú. Con thú dữ còn có cái mũi để đánh hơi người lạ, còn bọn lính Trung Quốc xâm lược có giương cặp mắt cú vọ lên cũng khó phát hiện nơi ẩn nấp của dân quân. Dân quân có công sự hang hốc rất tốt. Nằm trong công sự, tha hồ cho địch bắn đại bác, đại liên, trung liên, súng trường cũng khó trúng phải người. Nếu nó lên đông quá, không chống cự nổi, dân quân sẽ rút vào hang luồn lên đỉnh núi hoặc tránh sang ngách khác. Cán bộ đừng cười mình. Nhiều cán bộ đã chê kế hoạch rút lui của mình. Mình khó xử quá. Anh em dân quân không có lựu đạn, mỗi người chỉ có vài chục viên đạn với khẩu súng trường nên không đủ sức phòng thủ lâu dài. Từ ngày 17-2 nhiều anh em dân quân đã đánh địch, đã dùng hết số lựu đạn và gần hết cơ số đạn mà chưa được bổ sung. Mình đi về các thôn. Đã đến bữa cơm chiều ngày 2-3-1979. Chủ tịch Ly Sử Thàng đang gặp chuyện khó xử : số người ở gia đình nào cũng tăng vọt lên. Chủ nhà không bằng lòng. Với người Mèo, cán bộ không được nói sai. Nhân dân tin ở cán bộ. Gia đình này có khả năng nuôi 8 người, cán bộ gửi 10 người cũng được. Người Mèo mình sẵn sàng nhịn đói để nhường cơm cho khách. Cũng gia đình đó, nếu ngày đầu cán bộ gửi 2 người, đến bữa lại có 3 người tới ăn là chủ nhà thắc mắc. Chủ tịch Ly Sử Thàng bối rối không biết nên giải quyết thế nào cho phải. Mình cũng bí. Mình hỏi Giàng Cố Séng, bí thư thanh niên xã Lao Táo : - Xã mày có bao nhiêu dân quân ? - 23. - Tại sao những 40 người ăn ? - Mình mới nhận thêm 17 đứa. Chủ tịch Ly Sử Thàng cộng cộng, trừ trừ, đếm đi đếm lại vẫn có thêm 20 suất ăn. Hỏi lại mình mới biết là có các anh công an vũ trang đồn Pha Long, mấy anh tự vệ nông trường Nậm Chảy và anh Khuê, anh Khôi, anh Kỳ, cán bộ miền xuôi lên công tác ở xã Sừ Ma Tửng. Lực lượng của mình như vậy là có hơn 300 người thuộc đủ các dân tộc Mèo, Kinh, Nùng, Dao, Pa Dí, tu Dí... và người nào cũng có súng, có chỗ ẩn nấp tốt để chờ giặc đến. Ngày 3-3-1979, mình nghe dân đồn là quân Trung QUốc sắp kéo vào Lồ Sử Thàng. Mình muốn cử người đi trinh sát nhưng biết chọn ai ? Thằng Sèng con mình nhiều tuổi, đi alị dễ dàng nhưng nó lại chưa biết quân sự. Thằng Pao đi trinh sát thì ai thay nó chỉ huy dân quân cả xã. Thằng Hồ khoẻ mạnh, to như con gấu, không thể cho nó đi lại giữa ban ngày. Nếu nó bị giặc bắt, giặc sẽ giết nó ngay. Mình bàn với chỉ huy phó Ma Sần chín. Chín nêu ý kiến : - Ta giao cho bí thư chi bộ Sùng Pao Sấn. Ồ, ý Sần Chín hay quá. Bí thư chi bộ nhỏ người, da ngăm đen, trông bề ngoài như trẻ con chăn trâu, lại biết nói tiếng Quan Hoả nên rất dễ trà trộn, giả làm người dân. Mình trao đổi với Sùng Pao Sấn. Sấn nhận lờ. Nó kiếm sợi dây thừng buộc ngang lưng, tay cầm con dao rựa cùn, đi đến Nà Cổ, Mao Sao Chẩy... Có những tên lính Trung Quốc đi tuần tiễu gặp nó hỏi : - Ê thằng kia, mày đi đâu ? - Con ngựa nhà mình bị lạc, bố mình bắt đi tìm. Ở vùng cao mình con ngựa quý lắm. Chỉ có con ngựa mới đủ sức đi nhanh, đi xa, trèo cao, mang nặng. Người Mèo, người Nùng, người Nhắng quý ngựa như quý con của mình. Những tên lính Trung Quốc không bắt bí thư chi bộ Sùng Pao Sấn. Sùng pao Sấn cầm con dao cùn đi đến nhiều nơi, ghi nhớ nơi nào có quân Trung Quốc, về báo lại cho mình. Sáng ngày 4-3-1979, mình định điều quân ra phục kích đánh vào các đoàn xe trên đường Mường Khương-Pha Long. Mình giao việc cho thằng Pao xã đội trưởng. Pao rủ em ruột nó là Giàng Vần Hồ cùng đi trinh sát với bí thư chi bộ để tìm chỗ cho dân quân nằm chờ địch. Mấy đứa vừa đến Pạc Là đã trông thấy lính Trung Quốc đi đông nghịt trên đường. Hôm qua bí thư chi bộ Sùng Pao Sấn báo cáo là có mấy nghìn lính Trung Quốc tập trung ở các hướng Lũng Pâu, Sừ Ma Tủng, Lao Táo... có cả pháo 130 ly, cối 82 ly. Mình đoán là quân giặc sẽ hành quân theo đường cái Mường Khương đi Pha Long, nhưng không trúng cái bụng giặc. Xã đội trưởng Pao và chỉ huy phó Ma Sần Chín cũng đoán sai. Được bọn phản động người Hoa ở địa phương báo tin, giặc Trung Quốc đã bất ngờ kéo quân vào hướng Cốc cáng để bắt dân quân. Dân quân ở trên núi cao nhưng bị núi khác chặn trước mặt nên không nhìn xa được. Thằng Hồ lo lắng, đề nghị : - Anh Pao, em chạy nhanh về báo động cho dân quân ! - Không kịp đâu, phải bắn súng ! Bí thư chi bộ Sùng Pao Sấn nêu ý kiến : - Bắn súng sẽ lộ bí mật ! Thằng Pao không nghe, nó chĩa nòng súng CKC về phía Lồ Sử Thàng bắn luôn 3 phát. Sau này lúc kiểm điểm trận đánh, ai cũng nhận cách xử trí của thằng Pao là đúng. Nghe tiếng súng báo động, anh em dân quân chạy vội về vị trí. Cán bộ đừng cười nhé. Kỷ luật của dân quân không nghiêm như bộ đội đâu. Chưa thấy bóng giặc, dân quân thường thích bỏ súng đi xuống làng bản uống rượu, nói chuyện với con gái. Mình là chỉ huy, mình không ngăn nổi đâu. Nếu không có tiếng súng của thằng Pao, mình biết anh em ở đâu mà gọi về cho đủ. Nghe tiếng súng nổ, quân Trung Quốc tiến chậm hơn. Chúng xả đạn đại liên, trung liên, tiểu liên vào chỗ vừa phát ra tiếng nổ. Thằng Pao, thằng Hồ và bí thư chi bộ Sùng pao Sấn đâu còn dại dột chịu nằm yên tại chỗ. 3 đứa chạy vào trong hang núi gần nhất rồi tìm đường về xã. Ở bên dưới, quân Trung Quốc kéo đi rất đông. Nằm ở lưng chừng núi, anh em dân quân tỉa dần từng thằng. Kẻ địch không biết đạn từ hướng nào bay tới. Dân quân các dân tộc vùng cao mình thích đi săn nên đứa nào cũng giỏi bắn súng. Mình già rồi, mắt kém nhưng cũng bắn trúng. Suốt cả ngày 4-3, quân Trung Quốc vào tới đâu cũng bị đánh. Cán bộ hỏi mình là đứa nào bắn giỏi nhất ? Mình chả biết đâu. Khi đánh nhau mình không còn là chỉ huy nữa. Mình đói, anh em dân quân cũng đói. Chủ tịch Ly Sử Thàng cũng đói. Nhân dân chạy vào hang cả, chả còn ai nấu cơm cho dân quân. Mình không có cấp dưỡng, không có nồi to, không có tiền. Chủ tịch xã Ly Sử Thàng bằng lòng xuất tiền quỹ mua cho dân quân 6 xã một con trâu giá 300 đồng nhưng mình không ưng giết thịt. Ôi, làm chỉ huy khó quá. Mình chả biết hỏi ý kiến ai. Huyện ủy, huyện đội và tiểu đoàn bộ đội địa phương đang chặn địch ở Cao Sơn, mình không đến gặp được. Con trâu mua rồi, ai sẽ làm thịt, ai đưa thịt trâu đến các xã, ai nấu cơm để dân quân ăn với thịt trâu ? Khó quá. Mình đành nhịn đói. Mình hạ lệnh cho dân quân cùng nhịn đói. Người vùng cao mình nhịn đói quen rồi. Anh em dân quân chui vào hang ngủ. Tối ngày 4-3, mình triệu tập chỉ huy các xã về Lồ Sử thàng. Về dự có Giàng Phên Chiu, phó chủ tịch xã Dìn Chín, Ma Xeo Kháng, trung đội trưởng dân quân xã Tả Gia Khâu, Giàng Sấn Dùng, trưởng công an xã Lao Táo... Nghe báo cáo mình ưng bụng lắm. Dân quân xã nào cũng đánh giặc và trận địa xã nào cũng hứng chịu vài trăm quả đạn đại bác và súng cối, nhưng chỉ mấy trường hợp đáng tiếc xảy ra. Ở xã Lồ Sử Thàng có 1 dân quân hy sinh là Hoàng QUán Dính. 1 người bị thương là Giàng Xeo Lùng. Sáng ngày 5-3-1979, pháo 130 ly, cối 82 ly của Trung Quốc giội rất nhiều vào dãy núi Phình Dư. Mình quyết định dẫn 30 dân quân trong đó có thằng Pao, thằng Hồ, chủ tịch Thàng, bí thư Sấn cùng chỉ huy phó Ma Sần Chín rời trận địa sang Cốc Cáng. trời sáng rồi. trông rõ địch đông như kiến trên núi Phình Dư, chỉ huy phó Ma Sần Chín đề nghị : - Địch đông lắm. Chúng ở trên cao, ta ở dưới thấp, không nên bắn. Mình không đồng ý. Địch chưa biết quân mình đông hay ít, chưa biết mình ở chỗ nào, hãy bắn cho chúng 1 loạt phủ đầu đã. Mình hạ lệnh bắn. Cả 30 tay súng có đủ trung liên, AK, K44 đều bắn cùng một lúc. Địch bắn trả ngay. Chúng nó nhè cái đồi cao phía Cốc Cáng để bắn. Đúng lúc đó có đủ các loại súng từ Cốc Cáng bắn sang Phình Dư. Ờ mình không hiểu tại sao. Địch ở Phình Dư hay Cốc Cáng ? Phình Dư ở gần mình, mình trông rõ là địch, như vậy Cốc cáng là bộ đội ta ? Đồi Cốc cáng cao hơn Phình Dư, mình không nhìn rõ người đi lại trên đồi. Hoá ra thằng địch ở Phình Dư và Cốc Cáng bắn nhau. Chúng nó bắn nhau lâu quá. Mãi đến chiều ngày 5-3 chúng nó mới thôi bắn nhau. Mình sướng bụng lắm. Trong trận này dân quân không có người nào bị thương mà địch chết tới cả trăm đứa. Trong lúc địch rút, nó đốt hết cả 46 nóc nhà của thôn Lồ Sử Thàng. Nhà mình cũng bị giặc đốt. Chuyện này mãi đến khi giặc rút lui mình mới biết. Hôm đó mình còn nghĩ gì đến nhà. Tối ngày 5-3, mình phải ra lệnh cho dân quân 6 xã chuyển sang huyện Xi Mi Cai. Cán bộ đừng phê bình mình. Mình đói lắm. Anh em cũng đói. Suốt 2 ngày đánh nhau chả ai được ăn uống gì. Do thiếu kinh nghiệm mà ! Trước khi chuyển mình hỏi ý kiến các anh Khôi, anh Kỳ, anh Khuê và các anh công an vũ trang. Muốn cho dân quân nằm trụ đánh giặc, cần đạn và lương thực. Mình sẽ góp ý kiến để cán bộ rút kinh nghiệm. Sang đến Xi Mi Cai, các cán bộ bảo mình kể lại trận chiến đấu Lồ Sử Thàng. Mình đâu có biết chỉ huy. Mình không biết địch chết bao nhiêu. Ở xã Lồ Sử thàng, nhiều người dân trông thấy địch có 1 đoàn 29 con ngựa. Lính Trung Quốc cho xác chết vào cái bao, dặt cái bao lên chiếc giá sắt (để giữ xác chết khỏi cong lại). Mỗi con ngựa thồ một chuyến được 4 xác. 29 con ngựa đi 4 chuyến, mình nhân lên thành 464 đứa chết, nhưng có 1 con ngựa chỉ thồ 2 xác nên số địch chết là 462. Ồ, sao địch chết nhiều vậy ? Cán bộ bảo mình quay về xã điều tra. À đúng rồi ! Ngày 5-3 chúng nó bắn nhầm nhau ở Cốc Cáng-Phình Dư nên chết rất nhiều. Mình chỉ huy chưa giỏi, nhưng mình không sợ giặc Trung Quốc đâu. Nếu giặc Trung Quốc còn sang Mường Khương nữa, cán bộ cứ giao việc cho mình. Mình có kinh nghiệm hơn, mình sẽ đánh giỏi hơn. Không được đụng tới Việt Nam, NXB QĐND 1979.
----- GIỮ CHỐT ----- Nguyễn Trọng Tạo, viết về Siều Ngọc Tân, dân tộc Tày, tiểu đội trưởng C5, D64, F741* bộ đội Hoàng Liên Sơn. Siều Ngọc Tân bước đến mỏm đá bằng. Anh ngồi xuống tựa khẩu AK vào vai. Sương mù dày đặc vây quanh Tân, vây quanh đồi đá. Lạnh. Có lẽ gần 3 giờ sáng. Phiên gác của Tân đã qua 1 lần con tắc kè đánh lưỡi. 3 đồng chí mới bổ sung cho đơn vị hảo lực của đại đội, 1 đi công tác cho tiểu đoàn, còn lại 4 anh em phải thay nhau gác đêm, thay nhau làm anh nuôi và xách nước tắm giặt. 4 anh em 4 dân tộc khác nhau : Tân người Tày, Hoà người Kinh, Huầy người Dao và Sừ người Mèo. Lúc ngồi vui mỗi người kể 1 chuyên quê mình thú lắm. Cái khiếu kể chuyện tân không có nhưng Tân biết thổi kèn. Tiếng kèn của Tân lúc nhặt lúc khoan, lúc tràm lúc bổng nghe như tiếng suối, tiếng chim rừng réo rắt, xa vời. Hoà cứ say tít. Và Tân mỗi lần cất tiếng kèn lên lại nhớ về bản mình, đó là 1 bản nhỏ thuộc xã Du Thượng, huyện Văn Yên, tỉnh Hoàng Liên Sơn. bây giờ nó cách Tân hàng trăm cây số, hàng trăm ngọn núi. Nỗi nhớ quê làm Tân bâng khuâng. Nhưng đôi mắt mất ngủ nhiều đêm lại trĩu xuống. Tân dụi mắt mấy lần nhưng mi mắt vẫn nặng trịch. Anh lấy trong túi ra hộp dầu cao, xoa vào mí mắt. cay nhưng đỡ buồn ngủ hơn. cái hộp dầu này quan trọng lắm. Khi giao phiên gác là phải giao cả lọ dầu cẩn thận. Đối với thằng giặc thâm hiểm này mà ngủ gật trong lúc gác là nguy với nó. Đoành ! Oành... Bỗng một tiếng mìn nổ dưỡi bãi gianh ven suỗi. Rồi 1 loạt tiếng nổ nữa. Rồi tiếng người kêu rú... "Bọn giặc vấp mìn rồi !" Tân sung sướng. ANh chạy về hầm ngủ đánh thức tiểu đội dậy. - Cia gì đấy tiểu đội trưởng ? - Hoà vớ lấy khẩu súng dựng bên vách hầm hỏi. - Bọn giặc vấp mìn, cả tiểu đội về vị trí chiến đấu ! - Bọn Trung Quốc mò sang vớ, có đông không ? Huầy hỏi. - Không thấy, mù dày quá, chắc đông. Lại tiếng mìn nổ và tiếng kêu la ở bãi gianh gần hơn. Tân ra lệnh : - Đồng chí Huầy, đồng chí Hoà sang sườn phải. Tôi và đồng chí Sừ giữ sườn trái. Mỗi cánh mang theo 1 thùng đạn. Mỗi người mang 20 lựu đạn. - Rõ ! Vừa lúc đó, đại đội trưởng Hoàn chạy đến. Anh đã chạy xuống các chốt của trung đội 1, trung đội 2 và bây giờ đến chốt của Tân, kiểm tra và truyền đạt mệnh lệnh chiến đấu. Đại đội trưởng cho biết là bọn địch đang cho lính lên phá mìn để tràn qua các bãi gianh dưới chân đồi. - Đay là thời cơ tốt nhất để các đồng chí tiêu diệt chúng ! Bọn địch vượt qua bãi mìn, chúng cụm lại, và tiếng kèn nổi lên. Toe...tò tí te...toẹ toẹ...Toe... Bọn bộ binh theo tiếng kèn ma quái tràn qua bãi cỏ gianh dưới chân đồi đá. Đại đội trưởng Hoàn định trở lại chốt đại đội bộ, nhưng tháy địch tràn lên gần, anh lên đnạ khẩu AK và chỉ huy luôn tiểu đội của Tân chiến đấu. - Nhằm tốp có thằng cầm súng ngắn ! Tiếng Hoàn nói bình tĩnh. Rồi anh gằn giọng : "Bắn !" Khẩu trung liên của tân rung lên. Điểm xạ AK của Sừ và Hoàn nổ giòn giã đèu đặn. Thằng cầm súng ngắn ngã dúi. Bọn lính đi sau chết lăn xuống sưòn đồi. Nhiều thằng chạy tạt sang hai bên, bị vấp mìn, xác tung lên. Ở cánh phải, tiếng súng của Huầy và Hoà cũng nổ dồn dập. Đại đội trưởng Hoàn ra lệnh : - Đợi chúng đến gần hãy bắn, tiết kiệm đạn ! Thấy tiếng súng thưa hơn, bọn giặc lại hò hét nhào lên. Đạn chúng bay chiu chíu. Lần này, liều mạng hơn, chúng dàn thanhdf hàng ngang, hoàng dọc mà tiến. Đại đội trưởng Hoàn chạy sang cánh phải phối hợp với Huầy và Hoà. Ở cánh trái còn lại Tân và Sừ.Địch chỉ còn cách 1 tầm lựu đạn. Sừ ném liền 2 quả vào giữa đám đông. Tân quét trung liên. Những thằng sống sót bị đạn sau lưng bắn lên. Chúng giãy đành đạch trong đám cỏ gianh. Một lúc sau, địch mở đợt tấn công mới lên các chốt của trung đội 2. Hoàn chạy lại nói với tân : - Đồng chí cho tiểu đội sửa sang công sự. chuẩn bị cho trận đánh mới. Tôi phải về chốt chỉ huy. Tân đứng nghiêm, nói dõng dạc : - Đại đội trưởng hãy tin ở chúng tôi. Còn người còn chốt. tần nhìn theo đại đội trưởng Hoàn. dáng anh khuất vào chỗ ngoặt của giao thông hào rồi hiện lên dưới chân đồi đá. Tiếng súng vẫn nổ rộ lên ở dọc các chốt của trung đội. 8 giờ. Pháo địch bắn vào đồi Đá Cao. tân phấn đoán chúng dùng pháo chuẩn bị mở đường cho bộ bihn và ra lệnh cho tiểu đội nấp vào các hầm ếch dọc giao thông hào. Tân vừa ẩn nấp vừa quan sát. Chung quanh đồi Đá Cao không có bóng 1 thằng giặc nào. Chúng đang dồn quân đánh vào các chốt bạn. Như vậy là bọn địch gờm chốt của tân. Chúng đã húc đàu vào đá. Phải nói địa hình của chốt đồi Đá cao thuận lợi hơn so với các chốt A4, A6 mà địch đang dồn quân đánh lên. Tiếng súng đánh trả phía chốt A4 nổ dữ dội một lúc rồi thưa dần. Lựu đạn nổ chống lên nhau. Rồi tiếng lựu đạn cũng thưa dần. Hết đạn chăng ? Tân cồn cào lo lắng. Anh muốn yểm trợ cho chốt A4 nhưng xa quá. Và trong tiếng đạn pháo réo gầm, mảnh pháo lia cheo chéo, Tân rướn người lên và trông thấy đồi A4 bị phủ một màu xanh lét. Bọn địch đã chiếm đồi A4 và tràn sang đánh chiếm đồi A6. Sau này Tân mới biết là trung đội trưởng Hà Văn Khánh đã chỉ huy chốt A6, A10 đánh trả cho đến viên đạn cuối cùng. Bọn địch cậy đông quân, tiếp tục nhào lên chia cắt các chốt của ta. Bọn phản động gnười hoa dẫn đường cho địch cắt chi viện của tiểu đoàn xuống đại đôi, đại đội xuống các tẻung đội. Và chốt đồi Đá Cao của tiểu đội Tân đã nắm trong vòng vây của chúng. Bây giờ là 2 giờ chiều. Pháo địch ngừng bắn. Thường thì sau khi pháo ngừng bắn địch sẽ đẩy bộ binh lên. Tân ra lệnh cho tiểu đội chuẩn bị chiến đấu. Xong anh vác những tảng đất đá bị pháo làm sập xuống lòng hào đặt lên thành công sự. Nắng chiều màu vàng bỗng xạm đen từng vạt phía trước. Đó là nhưng bãi gianh bị đạn ĐKZ địch đốt cháy. Tân phát hiện những tốp địch đội mũ vải chân quấn xà cạp chia làm 3 mũi tiến lên đồi đá. "À thì ra thằng này cậy đông, lên càng đông càng dễ bị tiêu diệt. Không lo giặc đông, chỉ lo ít đạn thôi !". Tân nói ý nghĩ này với Sừ rồi bảo : - Sừ và tôi phối hợp với nhau thật tốt nhá. Khi tối bắn Sừ tung lựu đạn, khi tôi tung lựu đạn Sừ bắn. Nhớ phải thay đổi vị trí luôn đó. Sừ nhìn Tân gật gật đầu : - Sừ làm được mà. Bọn nó lên rồi vớ. Tiếng kèn toẹ toẹ nổi lên dưới chân đồi. Thằng chỉ huy đầu để tóc, vung khẩu súng ngắn có mảnh vải chéo màu đỏ lên, cười hô hố và nói 1 cau bằng tiếng trung Quốc. Tân nghe không hiểu. Tức sôi máu nhưng nghiến răng cố chờ nó đến gần hơn. Ước chừng địch chỉ còn cách mũi súng của mình khoảng 30 thước, tân bóp cò. Vỏ đạn văng toé sang bên, nóng ran. Khẩu trung liên cứ rê ngang, rê ngang. Tiếng lựu đạn của Sừ nổ bên phải rồi ở bên trái. Phía cánh phải, tiếng súng của Hoà và Huầy cũng nổ giòn. Địch bị đẩy xuống bãi gianh cháy. Chúng lại co cụm hò hét om sòm. Vừa lúc đó, Sừ kêu to : - Địch lên chốt đại đội rồi ! Tân nhìn sang chốt đại đội phía xa. Ngọn đồi đó được thay bằng màu xanh xám trong nắng. Thế là đồi đại đội mất. Đại đội trưởng Hoàn hy sinh và đại đội hpải rút lui để bảo toàn lực lượng vì thiếu đạn. Lúc này dưỡi chân đồi đá địch lại hò nhau tràn lên. - Sừ, bắn trung liên ! - Rõ. Tân trao trung liên cho Sừ và anh đặt 5 quả lựu đạn lên bờ công sự. Tân vừa ném lựu đạn vừa bắn tiểu liên. Bọn giặc chững lại một lúc ở bãi gianh cháy. Nhưng chúng không giạt xuống như lần truwóc mà cứ nhào lên thành tốp, thành đám đông hơn. Tình thế gay go quá rồi. Lúc này Tân quyết định dùng quả đạn B41 đầu tiên. Đạn B41 phải để dành mãi. Có 4 quả thôi mà. Quả đạn B41 kéo 1 vệt lửa vàng bay vào đám địch đông nhất, chúng bị đốt cùng với những tiéng kêu khiếp đảm. Vậy là đợt tấn công thứ 4 của chúng lên đồi Đá Cao bị đẩy lùi. Tân chạy qua hầm ở lấy mấy túi gạo sấy vòng sang cánh phải đưa cho Hoà và Huầy 2 túi. Đói quá mà Hoà và Huầy vẫn không muốn ăn. - Ăn đi, lấy sức mà đánh tiếp ! Huầy nằm xoài, lúc nãy cậu ta bị một hòn đá sạt qua hông còn đau. Tân nhìn xuống sườn đồi trước ụ súng của Huầy và Hoà, động viên : - Cố giữ chốt cho đến tối nhá. Nếu hết đạn thì tối dễ rút hơn. Nói xong, Tân trở về cánh trái. Bỗng anh thấy 3 phát pháo hiệu xanh từ dưới chân đồi phụt lên trời. - Chúng sắp bắn pháo đấy ! Tân kêu to. Tiếng Tân vừa dứt, hàng loạt tiếng nổ chói tai đã vang lên xung quanh. Đạn cối 82, đạn ĐKZ, đạn pháo khoan nổ dữ dội. Chợt Tân nghe thấy cánh phải có 3 phát AK nổ. Hoà và Huầy gọi cấp cứu chăng ? Tân nghĩ vậy và lách chiến hào chạy sang cánh phải. Trận địa của Hoà và Huầy bị đạn pháo. Hoà bị mảnh đnạ vào cổ, máu chảy nhiều. Huầy bị ngất nằm đè lên khẩu AK. Tân vội vàng xé chiếc áo lót băng cho Hoà rồi dìu Huầy dậy. Nhưng Hoà bị thương quá nặng, ngước cặp mắt nhìn Tân chằm chằm như bảo là cố gắng đừng để chốt lọt vào tay giặc, rồi cậu ta tắt thở. Huầy mê man trên tay Tân. Tân chạy vội về cánh phải nói với Sừ : - Sừ đưa Huầy vượt bãi chuối ven suối Nậm Na về trạm phẫu ngay. Để chốt mặc tôi. Sừ ngập ngừng một lát như không muốn để Tân ở lại một mình. Nhưng Tân đã ra lệnh, Sừ xốc khẩu AK và đeo 2 quả lựu đạn vào người, chào Tân : - Tiểu đội trưởng ở lại. Sừ cõng Huầy đi rồi, Tân chọn 1 hang đá bên công sự chôn cất bạn. Anh đứng lặng trước nấm mộ được đắp bằng những tảng đá nâu, mặc tiếng đạn pháo vẫn nổ ầm oàng xung quanh. Tân nén khóc trở về công sự chiến đấu. Anh chống tất cả lựu đnạ thành 1 đống và lắp đạn vào 3 khẩu súng : trung liên, AK và B41. Tân làm xong tất cả những việc ấy thì pháo địch cũng vừa ngừng bắn. 5 thằng địch vượt qua bãi gianh cháy xông lên. Tân nhìn rõ từng thằng một. Chúng đều đội mũ vải có gắn ngôi sao đỏ, mặc quần áo Tô Châu màu xanh. 2 thằng có súng đi trước. 1 thằng mang chiếc ba lô nặng đi giữa. 2 thằng cầm mỗi tay 1 quả lựu đạn đi sau. Chúng đi thưa qua. Tân bỗng thấy ấm ức. Địch lên nhiều không lo lại lo chúng lên ít ? Biết diệt thằng nào trước bây giờ ? Giá chúng cứ dàn hàng ngang như lúc nãy, quạt trung liên sướng tay biết chừng nào. Nó lên ít thế này, bắn phí đạn quá ! Tân nghĩ ngợi một lát rồi anh quyết dịnh hạ 2 thằng có súng trước. Pằng pằng...pằng pằng... 2 điểm xạ AK của Tân nổ đanh và gọn. 2 thằng cầm súng ngã lăn quay. Thằng mang ba lô lấy súng của thằng vừa ngã bắn lên. Hắn chỉ cách Tân chừng vài chục mét. Tân lại bóp cò. Thằng mang ba lô ngã khuỵu xuống. 2 thằng sau tung lựu đạn lên, nhưng lựu đnạ nổ cách Tân khá xa, mảnh đạn bay vèo vèo qua đầu. Khẩu AK của Tân lại rung lên. 2 thằng ném lựu đạn không thằng nào chạy thoát. Bỗng 3 phát pháo hiệu xanh lại bay vút lên như lúc nãy. Pháo địch lại bắn vào đồi Đá Cao. Một quả đạn pháo nổ trước mặt hất Tân xuống lòng hào. Tân ngất đi một lúc lâu. Tỉnh dậy, tiếng đnạ pháo đã ngững. Tân thấy máu chảy ở mũi, ở 2 tai ướt lạnh. Địch lại lên. Quên cả đau đớn, Tân choàng dậy ôm lấy khẩu trung liên đã lắp đạn sẵn, bắn 3 băng liền. Mặc những đứa chết, bọn sống đạp lên xác đồng bọn tiến. Chợt tân nhìn thấy khẩu súng B41 bên cạnh, anh bỏ trung liên, chộp lấy. Đợi chúng lên gần nữa, gần nữa... Tiếng kèn toẹ...toẹ của chúng vẫn vang lên nửa như trêu tức Tân, nửa như chửi mắng đám binh lính của chúng. Bọn địch tới gần, không thấy hoả lực bắn trả. Chúng hò hét gọi hàng bằng một thứ tiếng Việt lơ lớ. Đồi Đá Cao vẫn lặng lẽ đứng đó, sừng sững trong ánh chiều buông xuống. Chỉ có tiếng đnạ, tiếng hò hét của chúng dội vào đồi đá vọng trở lại như tiếng tử thần từ nơi xa xôi nào đấy đáp về. Đám lính tràn vào vòng ngắm của Tân. Ngon rồi. Tân bóp cò. Một vệt khói trắng đặc che lấp cả mặt Tân. Quả đạn B41 nổ "roành" giữa đội hình làm cỏ một mảng lớn kẻ thù. "Roành"... 1 quả nữa. Những thằng sống sót xô nhau chạy. "Quả nữa chăng ?" Tân tự hỏi, và anh tự trả lời :"Để dành đã !". ANh xốc khẩu AK lên bắn tiếp 3 băng, đoạn xách trung liên chạy sang mỏm phải. Tằng tằng tằng... Tằng tằng tằng... Đội hình địch bị dồn xuống chân đồi, rúm lại. Tân quay lại mỏm trái, chợt nghe tiếng kèn âm ỉ khác thường. Sau tiếng kèn, những thằng địch sống sót thất thểu bước về phía mép suối biên giới, khuất sau bãi cây lá to như lá dong riềng. Bọn chúng thu quân ! Bóng chiều chậm rãi bò lan xuống sườn đồi cùng với những đám sương mờ ảo mỏng manh. Tân thấy đói. Anh chợt nghĩ đến chiếc ba lô của thằng lính mang trên lưng lúc nãy. Nó ngã cách công sự chừng vài chục mét. Có lương khô chăng ? Tân bò men vách đá xuống sường đồi. Chiếc ba lô đựng những chiếc hòm có cạnh vuông vức nằm đè lên xác thằng lính. Tân mở ra, nhưng trong chiếc ba lô không có lương ăn mà có 2 thùng đạn. Mừng quýnh anh mang ba lô đạn bò đến bên 1 cái xác khác mở dây lựu đạn móc vào ngón tay nó, lấy khẩu súng văng bên cạnh nó. Rồi trở lại chiến hào. Tân nâng những viên đạn bóng nhoáng trên tay và thấy an tâm hơn. Còn người, còn đạn còn chiến đấu với kẻ thù... Bây giờ thì Siều Ngọc Tân đã gặp lại những người đồng đội của anh. Moi người xúm quanh Tân và đòi anh kể chuyện 1 mình bám chốt, đánh giặc. Nhưng Tân chỉ nói hồn nhiên : - Có gì đâu mà kể. các đồng chí cũng đều lập công lớn cả. Siều Ngọc Tân cười. Tiếng cười của người con trai Tày 21 tuổi thật hồn nhiên, thật khoẻ và đầy sức sống. Kì tích áo chàm T1, NXB Văn hoá 1979. * : có lẽ là E (trung đoàn) 741 thì hợp lí hơn. Một tài liệu nước ngoài cũng ghi nhận 1 trung đoàn của ta mang phiên hiệu này.
Hình từ quansu.net ----- GIỮA RỪNG QUẾ CAO BA LANH ----- Văn Tùng, viết về Hoàng Sinh Lỳ, dân tộc Tày, công nhân lâm trường Bình Liêu, Quảng Ninh. Hoàng Sinh Lỳ đang đắp nốt các ngách hào bỗng nghe tiếng gọi lớn : - Cháu ơi, Lỳ ơi, cả nhà mày bị giặc Trung Quốc bắt rồi. Lỳ bỏ rơi cái xẻng, mồ hôi toát ra. Anh nhìn kĩ người vừa gội. - Chú Thâu, sao chú lên được đây ? Gia đình cháu thế nào hở chú ? Lỳ lấy bình tông rót ra một bát nước chè quế đặc đã nguội mời chú. Chú Thâu ngồi bên ụ súng tay lăm lăm con dao rừng vừa thở vừa nói, mặt chú vẫn còn xám ngoét vì lạnh và mệt. Mấy sợi tóc bạc bết nước mưa phủ xuống thái dương. - Chúng vào Phai Lầu lúc 3 giờ sáng, chúng lùa hết đàn bà trẻ con. Ôi chao ! Thằng cún Liêu con cái Ất, mày biết không... Chú nghẹn ngào không kể thêm được nữa, đôi mắt chú ngầu đỏ lên, da mặt đang tái nhợt bỗng rần rần những đường máu. Chú đứng hẳn dậy : - Cho tao cây súng, tao giúp chúng mày một tay. Cả 5 anh em giữ chốt đều là công nhân lâm trường Bình Liêu thuộc đại đội 3 tự vệ quây quần quanh chú. Ai cũng thấy uất. Họ đứng ngồi không yên. Lỳ lấy lại bình tĩnh an ủi chú thâu : - Không phải đến lúc này ta mới biết bộ mặt ghê tởm của chúng. Rồi sẽ có cách chú ạ. Bây giờ cháu đưa chú đến chỗ đồng bào sơ tán. Chú giúp chúng cháu công việc ở đó tốt hơn. Chú Thâu nhất quyết không đi, mãi sau cả 5 anh em xúm vào thuyết phục chú mới nghe. Đã 10 ngày ròng rã, ruột gan đại đội phó Hoàng Sinh Lỳ lúc nào cũng như có lửa đốt. Không phải do việc cả nhà anh bị giặc Trung Quốc vây bắt cùng với bà con trong xã mà chính là vì cả đơn vị anh chưa được nổ phát súng nào. Các đồng chí đã nhiều lần đề nghị anh báo cáo lên trên cho đơn vị ra Phai Lầu tham gia đánh giặc cùng các đơn vị bạn. Nhưng lần nào gặp cấp trên Lỳ cũng buồn bã ra về để rồi phải làm công tác tư tưởng rất khó khăn cho anh em. tiểu đoàn chỉ giải thích ngắn gọn : "Các đồng chí chớ sốt ruột, hãy chuẩn bị tốt hơn nữa, sẽ có dịp các đồng chí lập công...". Ở Phai Lầu, công an biên phòng phối hợp với 1 đơn vị tự vệ lâm trường do đồng chí Khuỷu chỉ huy ngày nào cũng đánh bật hàng chục đợt tấn công của giặc, hất chúng về bên kia biên giới. Con suối cạn từ Hái Nạc quan Bắc Cáp đến tràng Nhi ngày nào cũng có xác giặc. Đại đội phó Hoàng SInh Lỳ theo dõi rất sát các trận đánh. Anh thường tổ chức cho cả đơn vị học tập rút kinh nghiệm. Vì Vậy tuy chưa giáp mặt quân thù nhưng anh em đã hiểu biết về bọn xâm lược Trung Quốc khá tường tận. Ngày 27-2, sau những thất bại liên tiếp, giặc tổ chức 1 cuộc tiến công gồm nhiều mũi quyết chiếm Phai Lầu và vượt qua dãy cao Ba Lanh để tiến vào sâu nội địa ta. Từ 6 cho đến 9 giờ sáng các cỡ pháo và cối của giặc thi nhau trút đạn sang các bản làng của ta. Cả một vùng đồi, rừng rung lên, mịt mù khói đạn. Hoàng SInh Lỳ đi lại dưới hào đến bên từng người động viên anh em : - Hôm nay thế nào cũng được trực tiếp chiến đấu, các đồng chí cứ bình tĩnh. Đánh quân Trung Quốc không khó đâu. Ở Phai Lầu hôm trước chỉ có 1 tổ thông tin với 10 đồng chí công an biên phòng mà đánh tan 1 tiểu đoàn địch, các đồng chí đều biết cả đấy. Chốt của Lỳ tuy có 5 anh em thôi nhưng đủ Kinh, tày, Nùng... ANh em tin tưởng Lỳ, người chỉ huy trẻ mưu trí và dũng cảm của họ, anh em động viên lại Lỳ : - Đại đội phó cứ yên tâm, anh em ai cũng có thù với giặc, anh em sẽ đánh cho chúng biết tay. Cả một khu rừng quế trước mắt Lỳ nghiêng ngả mỗi lần hàng loạt pháo và cối của giặc rót tới. Lỳ biết những cây quế này mỗi năm đem lại cho nhà nước ta không ít ngoại tệ. Biết bao mồ hôi và cả nước mắt, xương máu của ông cha đã đổ xuống trên dãy đồi, rừng Cao Ba Lanh này để tạo nên nguồn của cải lớn đó. Cứ nghĩ đến tội ác giết hại đàn bà, trẻ con, phá hoại kinh tế, phá hoại sản xuất, chiếm đất, lấn rừng để vơ vét của cải cho đến mưu đồ đen tối của bọn phản động Trung Quốc muốn thôn tính nước ta, cả người Lỳ lại nóng bừng căm giận. Có lệnh trên báo xuống cho biết địch đang tập trung quân để vượt qua ngọn đồi đơn vị Lỳ đang chốt giữ. Do đó trên tiếp sức cho đơn vị Lỳ 3 khẩu trung liên nữa. thế là chỉ có 5 người nhưng hoả lực mạnh, anh em ai nấy đều rất phấn khởi. Muốn vượt qua đồi quế, địch chỉ có cách là theo con đường độc nhất từ Phai Lầu vào, ngoài ra lối nào cũng cheo leo hiểm trở, lại có chông mìn, cạm bẫy giăng đầy. Hoàng SInh Lỳ rất tự tin ở cách bố trí của anh, Lỳ nói với anh em : - Giặc dù đông người đến đâu đi nữa chúng cũng phải dẫn xác vào cái ngách này. Đây là cái rọ mà ta nhử địch chui vào để diệt. Lúc đấy là 9 giờ 30, Lỳ nghe một hồi kèn ở dưới chân đồi toẹ...toẹ...toẹ như người mắc nghẹn. Biết giặc tổ chức tấn công. Lỳ hô : - Chuẩn bị chiến đấu ! Anh nhô người lên quan sát. Giặc ken vào nhau như một lũ kiến bò lên. Lúc này trời mưa nặng hạt. Một thằng được che ô đi giữa đội hình, chiếc ô đen có viền trắng. Tên lính che ô cho thằng chỉ huy ấy mang một cái ống nhòm trước ngực. Hắn cao to, đầu trần mặc cho mưa xối. Anh em muốn bắn nhưng Lỳ chưa phát lệnh. Lỳ đã học tập kinh nghiệm ở Phai Lầu rồi. Lỳ nói : - Để chúng vào thật gần. Khi nào thấy được cái cúc áo của chúng mới bắn. Những cây quế bị tiện đứt giữa thân, bật gốc, cháy xém tung những lớp vỏ màu vàng mật quý giá vương vãi khắp ngọn đồi làm cho Lỳ càng xót xa căm uất. ANh tỳ chặt cây trung liên đếm 1, 2, 3, 4... Anh đếm để ước lượng cự ly giữa bọn giặc và mũi súng của đơn vị anh. Bỗng có tiếng giục ở sau : - Gần quá rồi anh Lỳ ơi ! Lỳ quay lại, đó là Mã dì Thanh, anh thanh niên niên Nùng rất hăng hái của đơn vị đang đứng ngồi không yên. Lỳ cười : - Gần nữa đã ! Bọn giặc chẳng hay biết gì cả cứ cúi đầu, cặp súng thoe tiếng kèn toẹ toẹ lóp ngóp trèo lên. Lỳ đã trông rõ hàng cúc áo trên ngực và cái sao đỏ trên mũ nó. Anh hô : - Bắn ! 3 cay trung liên, 1 cây K50 chụm vào một mục tiêu quét. Cây CKC của Lừng điểm xạ đĩnh đạc tằng...tằng...tằng. Nhiệm vụ của nó là nhằm thằng chỉ huy. Một lúc sau Lỳ rướn người lên mở to đôi mắt quan sát nhưng chẳng còn thấy tên giặc nào nữa, chỉ nghe rộ lên tiếng rên la. Lỳ vọt ra khỏi hố bắn : - Các đồng chí xem kìa ! Mấy anh em cùng nhau đếm nhưng không sao đếm xuể ! Đợt 1 giặc vừa nổ súng đã bị diệt gọn. Lỳ đề nghị anh em khẩn trương chuẩn bị tiếp. Anh nói : - Bây giờ chúng biết có ta ở đây rồi, không được chủ quan đâu ! Lỳ chuẩn bị 3 cái bệ bắn mới cách chỗ cũ chừng mươi mét, anh đề nghị anh em cũng làm như vậy. Trời mưa to, 5 anh em đều ướt cả, có người muốn nghỉ nhưng Lỳ động viên : - Hầm hố tốt sẽ tránh được thương vong và tạo điều kiện diệt được nhiều địch ! Người nào cũng toát cả mồ hôi nhưng đều theo gương Lỳ. Trong khi anh em làm, Lỳ đã bí mật chuẩn bị cả một ấm chè quế đặc sánh, thơm phức. Vừa nghỉ tay được một lát, đồng chí Lừng lại phát hiện có địch lên. Lỳ lại quan sát kĩ thấy chỉ thấy độ mươi thằng, đứa nào cũng đeo một bó dây trên vai. A, chúng đi lấy xác đồng bọn. Lỳ bảo anh em đừng bắn vì bọn này chắc là dọn đường cho lũ khác lên, hãy chờ lũ sau đông hơn. Quả thật chúng buộc xác đồng bọn vài ba thằng vào một và cứ thế kéo lê như kéo một bó củi khô. Thảm hại cho những thằng bị thương đang rên la cũng chịu chung số phận đó. 5 anh em nhìn nhau lắc đầu không hiểu chúng là thứ người gì. Thấy cái cảnh chúng đối xử với nhau như vậy mọi người càng xôn xang khi nghĩ đến cha me, anh chị của mình đang bị chúng bắt giữ.Nhờ lượng khoan hồng của mấy anh em mà bọn giặc lấy dược xác và kéo bọn bị thương đi. Nhưng chỉ một loáng sau pháo và cối của chúng lại bắn. Kì này chúng định băm cái đỉnh đồi hay sao mà các đợt pháo cối nổ như liền nhau tạo thành một chuỗi rên chứ không nghe rõ từng tiếng nổ một nữa. Đất đá tung bay mù trời. Cả 5 anh em đều cởi áo che cho súng. Nhờ có công sự tốt bọn giặc chỉ tốn đạn chứ chẳng làm gì được. bây giờ ngọn đồi quế quang rta vì cây cối đổ nghiêng ngả khá nhiều. Ai nấy đều hết sức xót ruột, càng xót ruột họ càng thầm hứa quyết tâm tiêu diệt địch. Đúng 12 giờ trưa, địch tấn công lên đồi lần thứ 2 với 2 mũi. Một mũi đi theo đường cũ vẫn rất đông, một mũi vòng theo cánh trái mở đường mới qua những vách đa và bụi cây rậm rạp. Các bài bản : pháo bắn, kèn thổi, quân tiến lặp lại như cũ không hề thay đổi. Hình như chẳng có thằng nào được tập tành kĩ thuật cá nhân, lăn lê bò toài hay sao mà tất cả cứ dựng đứng như trời trồng lao lên làm bia cho các cỡ đạn của ta. Chỉ khác trước, lần này chúng lên den nghịt, tên cầm kèn đi tít sau cùng và vừa tiến lên chúng vừa bắn B40, ĐKZ, cối 60 ly tập trung vào đỉnh đồi mà chúng biết chắc có quân ta. Lỳ bảo Lừng : - Cậu lấy đường ngắm chính xác dứt điểm tên chỉ huy ! Lừng quỳ xuống, đưa súng tì lên miệng hào, kéo thước ngắm ở độ xa 500m (nó ở tít dưới chân đồi). Đoàng ! cái kèn trên mồm nó văng ra. Viên đạn kéo một đường thật chính xác. Tất cả anh em cùng reo lên "Tuyệt quá !". Không nghe tiếng thổi kèn, bọn giặc chững lại. Thời cơ thuận lợi, Lỳ hô lớn : "Xung phong !". Từ trên cao đánh tạt xuống, các cỡ súng của ta quạt đỏ nòng như dội nước sôi vào bọn giặc. Thêm nữa tinh thần chúng đã bạc nhược vì thấm đòn trận đầu, chúng đạp lên nhau tháo chạy như vịt. - Sắp hết đạn rồi anh Lỳ ơi ! Cả Khảo, Hiệp, Thanh, Lừng đều báo cho Lỳ biết như vậy. Đó là sự báo động đáng lo ngại nhất lúc này. Lỳ cho anh em đếm lại cơ số đạn của mình. Gay go quá, riêng Lỳ từ sáng tới giờ đã bắn gàn 800 viên, các anh em khác cũng đều đã bắn 600-700 viên. Lỳ đưa cây trung liên cho Mã dì thanh dặn : - Cậu ở lại chỉ huy anh em chiến đấu. Coi chừng cánh trái, tuy ít nhưng mà nguy hiểm đấy. Mình sang bên đồi bộ đội điện về tiểu đoàn xin thêm đạn. Nói xong Lỳ vút đi ngay, một lúc sau anh trở lại. - Tiểu đoàn cho biết sáng nay chúng huy động 3 trung đoàn đánh sang ta đấy các cạu ạ. Chúng xuất phát từ Đồng tông, Bản Pạc và nhiều địa điểm khác trên đất Trung Quốc. các mặt trận đang chiến đấu quyết liệt, tiểu đoàn yêu cầu chúng ta lấy vũ khí địch đánh địch, tiểu đoàn không thể tiếp thêm đạn đâu ! Mã Dì Thanh đề ra sáng kiến : - Bọn cánh trái đang lên đấy, chúng không đông lắm đâu, chùng đại đội thôi. Ta vây bắt để lấy súng đạn. Anh em khen phải nhưng nhìn đi nhìn lại chỉ vẻn vẹn có 5 người. 5 người làm sao vây bắt cả đại đội địch được. Lừng, Khảo, hiệp tham gia hiến kế : - Đánh chia cắt, diệt tốp đầu lấy súng rồi diệt tốp sau. cánh trái đi đường khúc khuỷu làm sao ồ ạt tiến lên được mà lo. Thế là một kế hoạch diệt địch để lấy vũ khí được vạch ra. Nhưng ngay lúc đó, tiếng kèn toẹ toẹ...toẹ dưới chân đồi lại thổi rộ lên và mấy thằng đi đầu bên cánh trái đã lò do men theo bờ đá định chiếm đỉnh cao đánh xuống. Tình hình rất căng thẳng, anh em đã có người lo không giữ được chốt. Hoàng SInh Lỳ suy nghĩ một lát rồi quyết định ngay : - Các đồng chí đánh bật cánh trái còn để tôi giữ mặt giữa này cho ! Một mình Lỳ giữ mặt giữa sao ? Cả 4 anh em đều không nhất trí nhưng Lỳ đã nghiêm chỉnh nhắc lại : - Đây là mệnh lệnh, các đồng chí chấp hành ! Lỳ vừa quay về vị trí cũ thì bọn địch đã lố nhố trước mặt anh. Bên cánh trái, Lừng, Khảo, Hiệp, thanh cũng đã nổ súng. Lỳ thấy những thằng địch rơi từ trên cao xuống vực. Mấy quả ĐKZ nổ sát cnạh Lỳ. Khói đạn chưa tan, Lỳ đã nhanh chóng nhổm dậy chúc đầu khẩu trung liên xiết cò. Hơn chục tên giặc đổ gục ngay trước mặt anh. Bọn đi sau nằm rạp xuống mặc cho tên chỉ huy ở tít sau thúc kèn toẹ toẹ liên hồi. Phát hiện 1 khẩu AK với 3 băng đạn nằm chéo trên lưng tên giặc gần nhất, Lỳ nhảy ra khỏi công sự nhanh như sóc lao đến. Đưa được cây AK và 3 băng đạn về hào, Lỳ gọi Hiệp đến giao ngay cho anh và dặn : - Quét hết cánh ấy xong, anh em có thể sang đây với mình. Bên phía thanh, Khảo, Lừng, hiệp từng tràng AK và trung liên vang lên. Lỳ biết các đồng chí đang diệt cánh ấy. Anh yên tâm và rất tin tưởng... Khẩu trung liên của Lỳ chỉ còn 2 băng đạn, anh phải bắn dè xẻn nhưng lại almf sao để địch không phát hiện ta ít người, thiếu đạn. Lỳ di động trên 3 bệ bắn mà anh đã chuẩn bị sau đợt tiến công đàu. Bây giờ 3 cái bệ bắn ấy thật lợi hại, anh để khẩu trung liên ở giữa, bên trái là khẩu AK. Sáng kiến của anh làm cho địch không thể phán đoán lực lượng ta. Một lớp địch khác lại lên, có thằng vừa đi vừa khóc. Lỳ hiểu rồi, chúng đã mất tinh thần do đó không còn sức chiến đấu dù đông đến mấy và bị thúc ép đến đâu. Phải nhân cơ hội này quạt mạnh thì sẽ nắm chắc phần thắng. Quả thật, bọn giặc vừa đến lưng chừng dốc thì khựng lại, nhao nhác nhìn nhau. Không hề chậm trễ, Lỳ xốc cây trung liên, đứng thẳng lên lao xuống dốc. Một quả B40 vút qua bên tai Lỳ phả sức nóng làm cháy xém một đám tóc, viên đạn lao thẳng vào cái bệ tì Lỳ đã đặt cây trung liên làm bùng lên ngọn lửa đỏ rực. Lại 1 quả ĐKZ nổ cách Lỳ mấy mét. Bọn địch thấy Lỳ xốc trung liên lao xuống nên chúng hoảng hốt phóng bừa các loại đnạ lên. Không có cách nào khác, Lỳ phải kéo hết 1 băng trung liên. Thấy Lỳ như con hổ dữ, chẳng biết sợ súng đạn là gì, bọn giặc xéo lên nhau mà chạy. Còn 1 băng trung liên cuối cùng. Lỳ lắp vào nhằm tên chỉ huy. Nó giãy lên mấy cái rồi nằm im. Lúc này trước mặt Lỳ súng đạn đnạ địch vứt lại không thiếu thứ gì. Lỳ tựa vào gốc cay một lát cho đỡ mệt và lau mồ hôi trên trán. Phía chan đồi, một lũ giặc rát đông đang tháo chạy ra khỏi Phai Lầu. Súng rộ lên ở Phai Lầu nhưng chỉ một lát là im bặt. Gần tối, liên lạc của tiểu đoàn báo tin tất cả bọn địch đã bị đánh bật về bên kia biên giới. Giữa rừng quế Cao Ba Lanh, 5 anh em chia nhau đi thu súng đạn của địch chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới. Trận địa của ta hoàn toàn được giữ vững. 8 điểm chốt khác trên dãy cao Ba Lanh cùng với chốt của 5 anh em C3 kết thành bức tường thành sừng sững không có sức mạnh nào công phá nổi. Hoàng Sinh Lỳ được anh em công nhận là 1 người chỉ huy dũng cảm và mưu trí. Năm nay anh vừa tròn 24 tuổi. trên ngực anh lấp lánh Huy chương "Tuổi trẻ anh hùng bảo vệ tổ quốc". Kì tích áo chàm T1, NXB Văn hoá 1979.
Anh NV cho em hỏi , muốn tìm sách thể loại như vậy thì nên đến các tiệm sách cũ ở đâu nhỉ ? ( em ở HCM ) :) . Muốn mua tặng ba em !
CŨng có chung câu hỏi với bác này, bản thân ba tui, 2 ae tui cũng rất thích thể loại này, ở HN thì tìm ở đâu được nhỉ ?? các hiệu sách cũ chăng ???
__Kiếm được quyển này NV nghĩ sẽ rất khó. Có thể vì sách chỉ bán trong giai đoạn đó, không được in đại trà, chưa kể sách thuộc dạng lưu hành nội bộ (NV chỉ phỏng đoán) thì sẽ rất khó kiếm được. Nếu có người trong quân đội thì may ra có thể. Bản thân NV từ trước đến giờ cũng chỉ toàn đọc qua mạng chứ có đụng được đến cuốn sách đâu. __Tiếp tục. ----- CHÚNG TÔI KHÔNG THỂ CHẾT ----- Đắc Trung, ghi theo lời kể của đồng chí Nông Thanh Phi-ao, dân tộc Nùng, chiến sĩ công an vũ trang đồn C5, Lạng Sơn. Trạm quân y tiền phương của F3 đặt trong 1 eo núi hẹp, 2 bên là vách đá lởm chởm. Mấy chiếc lán làm tạm khung sắt, mái bạt, kiểu nhà dã chiến của bộ đội cao xạ. Từ quốc lộ vào có 1 đường mòn ngoằn ngoèo ô tô có thể đi được, chạy gần như song song với 1 dòng suối nhỏ nước trong vắt. Tôi được chuyển về đấy từ 6 giờ sáng và lúc này là 9 giờ (ngày 2-3-1979). Tôi tìm lối ra suối tắm giặt. Mặt trrời đã nhô cao nhưng sương mù vẫn lởn vởn bay ngang sườn núi. Phía đầu nhà trực ban, 1 chiếc ô tô cứu thương sơn màu xanh lá cây đang rú máy. Cạnh đấy có mấy đồng chí quân y đang đứng, chốc chốc lại quay lại nhìn vào phía lán như ngóng ai. Tôi vừa bước ra khỏi đoạn hào cách chiếc ô tô khoảng 5m thì cũng từ 1 ngách hào gần đó, 1 thương binh bị vào chân trái chống nạng tập tễnh bước ra. Gần như cả 2 chúng tôi cùng ngước nhìn nhau và cùng kêu lên : - Hùng ! - Phi-ao ! Hùng nhào tới,, 2 chúng tôi ôm chầm lấy nhau. Nghẹn ngào không nói được lời nào. Mấy lần tôi định hỏi sao Hùng lại có thể sống mà trở về được tới đây nhưng cứ định nói thì cổ lại nghẹn tắc, nước mắt cứ trào ra. Hùng cũng thế, mấy lần định hỏi tôi câu gì đó mà không sao nói được. Còi ô tô lại réo lên vẻ cáu gắt. Hùng giơ tay chỉ xuống phía đó, tôi ghé vai dìu Hùng đi. Cửa đóng sầm lại, xe rú máy rồi bò nhanh. Hùng cố thò cổ ra, ngoái lại giờ tay vẫy tôi. Còn tôi cứ đứng lặng đi ở đó mãi, tay vẫy, mắt nhìn hút theo chiếc ô tô cho đến khi nó khuất vào sau một mỏm đá trước mặt, lòng xốn xang buồn vui lẫn lộn. Tôi ngồi xuống hòn đá bên bờ suối, nhìn ra phía chân trời xa, ở đó tiếng trọng pháo vẫn nổ cấp tập từng đợt. Và trước mắt tôi hình ảnh cuộc chiến đấu lại hiện ra rất rõ nét. Phía tây nam thị trấn Đồng Đăng cách Hữu Nghị quan khoảng gần 3 cây số có 1 pháo đài rất kiên cố được xây dựng từ thời Pháp. Pháo đài hình bầu dục, tường dày 2m, có 3 tầng, mỗi tầng lại được ngăn thành 4 ô vuông thông nhau bằng 1 cửa nhỏ và từ tầng nọ lên tầng kia có cầu thang xây nhiều bậc. Đó là 1 công trình quân sự kiên cố đúc bằng bê tông cốt thép. Toàn bộ pháo đài được đặt sâu trong lòng đất trên ngọn 1 quả đồi. Từ xa nhìn đến chỉ thấy cây cỏ bao phủ thành 1 lớp màu xanh thẫm. Đến tận nơi mới phát hiện 2 cửa, nói đúng hơn là 2 đường hầm. Cửa phía bắc dài khoảng 1m dẫn vào tầng thứ nhất. Cửa phía nam dài tới 20m dẫn vào tầng thứ 2. Đây là vị trí phòng ngự rất quan trọng bởi nó án ngữ đầu mối giao thông cả đường bộ và đường sắt chạy sang Trung Quốc. Tầng thứ nhất do 2 tiểu đội bộ đội thuộc F3 chốt giữ và tầng thứ 2 do đồn công an vũ trang C5 chúng tôi đảm nhiệm. Cố nhiên trong chiến đấu chúng tôi đều có phương án hợp đồng với nhau. 5h30 ngày 17-2-1979, pháo các cỡ đặt từ đất Trung Quốc đien cuồng nã đạn sang pháo đài và nhiều nơi thuộc khu vực đồn chúng tôi phụ trách. Lập tức cả đơn vị triển khai theo đội hình chiến đấu. 7 giờ, bọn Trung QUốc xâm lược tập trung 1 sư đoàn có xe tăng dẫn đầu hùng hổ vượt qua mốc 16 tràn vào lãnh thổ nước ta. Chúng chia làm 2 mũi. Mũi thứ nhất có 6 xe tăng thọc sâu tấn công chúng tôi từ bên trái và phía sau. Mũi thứ 2 theo đường 1B tới gần ga Đồng Đăng rồi vòng đánh vào bên phải. Xe tăng tiến tới đâu, bộ binh lớp lớp đông như kiến tiến theo tới đấy. Đương đầu với đội quân xâm lược khổng lồ có xe tăng và pháo binh yểm hộ, chúng tôi chỉ có ngót 100 tay súng. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt. Bọn Trung Quốc xâm lược tấn công hòng chiếm pháo đài nhưng lần nào chúng cũng bị chúng tôi đánh bật trở lại. Suốt từ sáng sớm ngày 17-2 đến hết ngày 22-2, địch vẫn không thể nào xoay chuyển được tình thế. 6 ngày đêm đánh nhau liên tục, khắp nơi ngổn ngang xác giặc, mặt đất bị cày xới, khói bụi mù mịt. Mùi khét của thuốc đnạ, của nàh cửa và cây cối cháy, mùi hôi thối tanh tưởi của xác chết xông lên rất khó chịu. Sáng sớm ngày 23-2-1979, địch tăng cường thêm xe tăng và quân tiếp viện, sau gần 1 giờ tập trung nhiều cỡ pháo nã đnạ cấp tập xuống pháo đài và trận địa chúng tôi, từng đoàn xe tăng và nấp sau là bộ binh địch ào ạt tràn lên theo tiếng kèn trận hối hả và dưới sự thúc ép của những tên chỉ huy tàn ác, hèn nhát đứng ở phía sau sẵn sàng bắn chết bất kì tên lính nào chậm chạp. Sau 1 tuần lễ chiến đấu ở vào tình thế bất lợi, tuy thế chúng tôi rất vững vàng trụ chắc ngoài chiến hào, đợi địch đến thật gần mới nổ súng. Cánh trái, bấy giờ chỉ còn tôi, Bái, Kết và Phong. Chiến hào bị đạn xuyên từ xe tăng bắn vào phá hủy, nhiều đoạn đất đá lập đầy. Trước mặt, cách tôi độ hơn trăm mét, 1 chiếc xe tăng bò lên. Tới gần một mô đá nó chững lại. Nắp xe bật mở, 1 tên chui ra đứng bên tháp pháo vung tay hò hét kêu gào bọn bộ binh xung phong. Rê nòng khẩu trung liên, lấy điểm xạ thậtc hính xác, tôi xiết cò cho đi 3 viên đạn. Lập tức tên chỉ huy hung hãn đứng trên xe tăng lộn cổ xuống. Chiếc xe dừng hẳn, xoay nòng pháo về phía tôi. Tôi luồn hào di chuyển vị trí rồi tới tấp nã đạn vào bọn bộ binh cùng với AK và thủ pháo của Bái, Kết, Phong. Địch chết gục nằm la liệt. Những tên đi sau vẫn bị chỉ huy thúc ép đạp qua xác đồng bọn xông lên. 1 quả pháo nổ giữa đội hình, cả 3 đồng chí Kết, Phong, Bái đều bị thương. Tôi chưa kịp nhào tới cứu thì 2 quả pháo khác lại nổ trúng chỗ đó. Đất đá tung lên phủ kín tất cả. Khói đạn pháo vừa tan đã thấy 4, 5 tên Trung QUốc nhày vào chiến hào cách tôi 3, 4m. Không cần ngắm, tôi kẹp trung liên vào nách xiết cò. Cả 5 tên chết gục tại chỗ. Từ khắp nơi quanh pháo đài, địch tràn lên đông như kiến, chỉ thấy màu xanh của những bộ quân phục vải Tô Châu ùn ùn chuyển động. Chúng đã chiếm được nóc pháo đài, bốn năm tốp đang vội vã đặt đại liên quay về phía tôi. Không thể trụ lại được ngoài chiến hào, tôi vừa bắn vừa lùi cho đến khi hết đạn. Còn quả lựu đnạ cuối cùng, tôi cầm tay, nếu chúng xông vào bắt sống, tôi sẽ giật chốt an toàn và ít ra cũng dăm bảy thằng cũng phải chết. Tới cửa pháo đài, tôi co chân đạp tấm gỗ dày lệch nghiêng. Tôi là người cuối cùng vào được đường hầm an toàn. Địch chiếm pháo đài, lúc đó khoảng hơn 5 giờ chiều*. Đường hầm dẫn vào pháo đài tối quá, không nhìn thấy gì, 2 đồng chí đã vào trước ôm lấy tôi, sờ khắp người không tháy bị thương vội kéo đi. Mới bước được mấy mét địch đã xông tơi cửa hầm nhưng không đứa nào dám vào, chỉ quăng lựu đnạ và xả súng máy bắn xuống. Lực lượng ta còn rất ít. Trong pháo đài lúc này ngoài chúng tôi còn có độ 50 đồng bào. Hầu hết là đàn bà trẻ em từ dưới thị trấn Đồng Đăng chạy lên tránh đnạ pháo từ sớm ngày 17. Đồng bào đã giúp chúng tôi nấu cơm, tiếp đnạ, săn sóc thương binh. Nhiều người ra chiến đấu cùng chúng tôi và hy sinh anh dũng. Vì đông người nên thức ăn thức uống dự trữ của chúng tôi đã sắp hết. Chỉ còn dăm cân mì sông và mấy lít nước cạn dưới đáy phi. Trong pháo đài tối om và ngột ngạt vì hơi người, ầm ĩ tiếng trẻ con khóc lặng đi vì khát nước, khát sữa. Một đồng chí thương binh nào đó đau quá đã cố nén nhwung tiếng rên vẫn bật ra. Màu máu tanh tưởi, mùi phân, mùi nước giải hôi thối nồng nặc. Mệt quá, khát quá tôi ngồi dựa lưng vào 1 góc tường, đầu choáng, người ớn lạnh và buồn nôn vô cùng. Bỗng "Ầm...! ...Ầm!" 2 tiếng nổ khủng khiếp nối nhau. Pháo đài rung chuyển. Tiếp đó hàng chục, hàng trăm tiếng nổ chói tai rung óc. Hơi khói cay sè, đen đặc cuồn cuộn ùa vào từng căn phòng trong pháo đài. Tiếng kêu nhốn nháo : - Địch giật bộc phá lấp đường hầm rồi ! - Địch thả lựu đạn cay các đồng chí ơi ! AI có khăn ướt thì đậy ngay lên mặt đi. Một giọt nước uống còn không có, đào đâu ra khăn ướt. Tiếng trẻ con sặc sụa rồi lặng đi. Mấy đồng chí thương binh kêu rú lên, nấc nấc hai ba cái rồi lịm. Tôi bò sợ soạng lần về lỗ thông hơi để thở nhưng từ ngoài địch nhét lựu đạn cay vào nổ choang choác. Quan ánh lửa tôi thấy đàn bà trẻ em nằm la liệt, co quắp, giãy giuạ. Một thứ khói gì rất lạ ộc vào họng cháy bỏng và lửa cháy bừng bừng. Địch phun hơi độc hoá học và phun xăng xuống đốt, tôi thoáng nghĩ rồi ngất lịm. Tỉnh dậy tôi thấy tức thở quá. Tiếng nổ vẫn ầm ầm. Máu ựa ra từ miệng, từ mũi, từ tai. Tôi bò đi sờ trong đống xác người nằm co quắp ấy xem có ai còn sống không. Tấ cả dường như đã chết. Tới 1 góc tường tôi sờ thấy 1 người còn sống. Qua giọng nói thều thào, yếu ớt tôi nhận ra Hùng. Hùng bị thương vào đùi máu ra nhiều nển ất mệt. May Hùng to, thể lực tốt, vết thương nhẹ ở phần mềm thôi, nếu không chắc đã chết. Lần sờ bò qua mấy xác chết không rõ của ai, chúng tôi tháy còn sống : Hà Văn Chiết, Bùi Duy Thanh, Nguyễn Đoan Hạnh, Trần Cường, Nguyễn Văn Năm, Phạm Văn Chiến và mấy đồng chí nữa. Họ nằm gục vào 1 góc tường ẩm ướt. Mệt quá, tôi ngất lịm đi từ lúc nào. Khi tỉnh dậy thấy xung quanh im ắng một cách ghê sợ. Một cmả giác chết chóc, alnhj lẽo khiến tôi rùng mình. Không khí loãng ra, dễ thở hơn. Lúc này là ban ngày hay ban đêm ? Chúng tôi đã nằm trong pháo đài bao lâu rồi ? "Đoành !...Đoành !..." thỉnh thoảng địch mới lại thả xuống 1 quả lựu đạn cay. Có lẽ chúng tôi đã hy sinh gần hết, chỉ cần giết nốt những ai còn ngắc ngoải bằng mấy quả lựu đạn. Tôi tỉnh hẳn, khẽ gọi : - Có ai còn sống không ? - Còn. - Còn. -... Ba bốn người lên tiếng. Chúng tôi bò lại gần nhau. 13 đồng chí còn sống, trong đó có mình Hùng bị thương. Đồng chí Chiến là bí thư chi Đoàn và là người đảng viên duy nhất chủ trì cuộc họp. Bọn Trung Quốc xâm lược dã man trả thù bằng cách giết chúng tôi, hèn hạ hơn chúng bắt chúng tôi phải chết dần, chết mòn quằng quại trong đau đớn dưới đáy sâu tăm tối của pháo đài. Chúng tôi bàn nhau phải bằng mọi cách vượt ra, phải sống mà trở về để tố cáo tội ác này cho mọi người biết và để tiếp tục chiến đấu. Nhưng ra bằn cách nào ? Đường hầm bị phá sập, thành pháo đài lại dày. Chúng tôi quyết định khoét đất đá trong đường thông hơi chui ra. Đường thông hơi này lớn hơn tất cả xây bằng gạch nối từ đáy tầng cuối cùng của pháo đài (đường kính 60 phân dài khoảng hơn 30 thước) xuyên chéo trong lòng đất chui ra ngoài sườn đồi. Cửa đường ống đó được đặt trong 1 lô cốt tường cũng xây bằng gạch. Nhưng cái lô cốt này đã bị phá hủy từ khi phát xít Nhật đánh sang, bởi thế đất đá đã đổ xuống lấp kín. Chúng tôi quyết định đào thông và chui ra bằng lối đó, công việc thật vô cùng vất vả. Chúng tôi lần lượt thay nhau đào. Đường ống nhỏ, chỉ 1 người chui vào được, dùng mũi xẻng chọc gnược lên cho đất tơi ra, đùn qua dưỡi bụng, lấy 2 chân đạp đạp xuống. và những người khác lại dùng 2 tay cào cào đảy ra nền pháo đài. Đường hầm tối như bưng và ngột ngạt rất khó thở. Tôi đào. 2 cánh tay nhức buốt. Đầu đau nhói như có ai dùng dùi xoáy vào thái dương. Mệt muốn gục xuống, tôi vẫn cố. Cho tới khi tay không giữ nổi cán xẻng nữa, đầu nặng quá không sao cất lên được, tôi gục xuống ngất đi. Không biết anh em đã chui vào kéo tôi ra từ lúc nào. Tỉnh dậy tôi khát quá. Khát tơqí cháy cổ. Lưỡi cứng lại, khô rát. Không có tí nước bọt nào, muốn nói mà không sao nói được, chỉ ú ớ. Tôi sờ soạng mò tìm cái bát sắt hy vọng có chút nước nào anh em mới dè sẻn rót ra để dành cho chăng, nhưng chỉ thấy chiếc bát khô khốc. 5 cân mì sống và mấy lít nước chúng tôi dùng hết sức tằn tiện cốt đê cầm hơi, khỏi chết thôi, tới nay đã hết. Tôi bò tới 1 góc tường, ở đấy hơi người, hơi xác chết bốc lên đọng lại thành từng hạt nước li ti, chỉ đủ làm cho mặt ngoài của tường ẩm lạnh. Tôi cố há to miệng, thè lưỡi liếm những hạt nước li ti đó. Thật ra nước cũng chẳng đủ ướt đầu lưỡi nhưng dù sao nó cũng man mát làm cơn khát phần nào dịu lại. Tự nhiên cái sáng kiến ấy của tôi được anh em coi như một phát minh. Thế là lần lượt cứ sau một đợt chui vào ống moi đất, chui ra chúng tôi lại bò tới chỗ này đặt lưõi vào tường "uống khan" như thế. Xác đồng đội và đồng bào bị chúng giết hại đã lên mùi. Không có nơi chôn cất, chúng tôi phân công 6 đồng chí tiếp tục đào đuwòng ống, còn lại chuyển tất cả thi hài của các tử sĩ và đồng bào ta lên tầng thứ nhất của pháo đài, sửa sang áo quần và tư thế nằm cho thoải mái. Nỗi đau đớn và thương xót đồng bào đồng chí, sự căm hờn đến cực độ trước hành động tàn ác của bọn Trung Quốc xâm lược khiến chúng tôi lặng đi, răng nghiến chặt, càng hun đúc trong lòng chúng tôi 1 quyết tâm sắt đá không gì chuyển nổi : phải sống, trở về đơn vị để tiếp tục chiến đấu, để bắt lũ giết người man rợ đó phải trả món nợ này. Sức chúng tôi mỗi lúc một kiệt. 5 đồng chí gục xuống không còn gượng dậy được nữa chỉ nằm thoi thóp thở. Còn lại vẻn vẹn có 8 người : tôi, Chiết, Chanh, Hạnh, Cường, Năm, Dũng và Hùng. Hùng bị thương không chui vào đường ống được nhưng anh rất hăng hái, vui vẻ động viên chúng tôi. Hùng mới 22 tuổi, quê Hà Bắc, học dở lớp 9 anh tình nguyện đi bộ đội và được chuyển sang công an vũ trang. Khát nước khô cổ, giọng nói chỉ thều thào thôi, nhưng đôi khi Hùng vẫn hát cả một đoạn ca quan họ Bắc Ninh cho chúng tôi nghe. bài hát nói về một vùng quê đầm ấm, một cuộc hẹn hò trong đêm trăng. Tôi người dân tộc Nùng nhưng gia đình lại ở gần thị trấn nên được nghe, được đọc nhiều về các vùng quê trù phú miền xuôi. Tôi mới lấy vợ. Vợ tôi yêu và thương tôi lắm. Nghe Hùng hát tôi nhớ vợ quá. Tôi nghĩ bụng phải sống, nhất định pjải sống để trở về đơn vị chiến đấu trả thù bọn xâm lược Trung Quốc rồi xin phép thủ trưởng Ý về với vợ mấy hôm. Tự nhiên tôi thấy khoẻ thêm, cứ lấy tay mà cào đất đá. Mặc dầu cả 10 đầu ngón tay đã toét ra, có ngón bật cả móng thế mà tôi chẳng thấy đau gì lắm. Đêm ấy tôi mệt quá đang nằm thiếp đi thì thấy đồng chí Chiết khẽ lay lay gọi : - Phi-ao ơi, đường ống thông rồi. Ra thôi ! Tôi sướng quá choàng dậy. Đường ống thông thật rồi ư ? Bây giờ nên thế nào ? Địch còn bao vây kín, phải bí mật mà ra, phải lợi dụng bóng đêm lừa chúng mà thoát. Tôi bàn để tôi và Hùng ra sau cùng, 6 đồng chí cứ ra trước đừng đợi nhau, ra đông dễ lộ. Đặc biệt phải nghe ngóng, thận trọng. Sau khi Chiết, Chanh, Hạnh, Cường, Năm và Dũng ra được rồi, tôi và Hùng mới ra. Chân trái đau Hùng bò rất khó khăn, tôi cứ phải từ phía sau đẩy anh nhoài từng tí "Cố lên Hùng ơi ! Cố lên sắp sống trở về rồi !". Tôi thì thào động viên Hùng, Hùng chỉ thở ì ạch không trả lời, tôi biết anh mệt và đau lắm. Cố nhoài, cố nhoài, cả 2 chúng tôi cùng mệt, thở như kéo bễ. Bỗng Hùng khẽ kêu lên : - Đây rồi ! Chà...à... Cùng lúc đó một luồng không khí mát lạnh ngọt ngào ùa vào mũi tôi. Sướng quá. Tôi dạng 2 chân vào thành cống giữ cho người chắc đẻ Hùng đạp chân phải vào đầu tôi, rướn người chui lên. Cố ! Cố tý nữa đi ! Đươc rồi. Hùng nằm vật bên miệng ống, thở. - Không việc gì chứ ? - Sống...rồi. Hùng còn mệt không thể đi ngay được. Để cậu ấy nằm đó, tôi bò ngược vào pháo đài sờ lại xem có đồng chí nào còn sống thì đưa ra nốt. Tối quá, tôi lần tới từng góc sờ tìm nhưng không ai còn sống. Tôi đứng dựa vào tường bùi ngùi ứa nước mắt. Lòng đau thắt, cổ nghẹn tắc, tôi thì thầm : "Các đồng chí và đồng bào ở lại. Chúng tôi ra trước để trả thù. Rồi chúng tôi sẽ vào đưa các đồng chí và đồng bào ra sau". Ra khỏi đường ống ngầm, tôi và Hùng nối nhau bò trường xuống chân đồi. Lúc ấy độ 12 giờ đêm. Lạnh, khát, vừa bò chúng tôi vừa há miệng hớp lấy những hạt sương li ti đọng trên ngọn cỏ, mắt nhìn khắp mọi phía, tai chăm chú nghe ngóng. Đó đây bập bùng dôi ba đống lửa cháy nơi bọn địch đang tụ tập giết lợn, mổ trâu và tranh nhau các thứ vừa cướp được. Chúng tôi bò ngoằn ngoèo tránh xác những tên giặc nằm ngổn ngang. Mùi tanh hôi xốc lên nôn nao, buồn nôn quá. Thì ra bọn Trung Quốc không những dã man với đồng bào ta mà ngay đối với đồng đội, chúng cũng chẳng thương xót gì. Bao nhiêu tư trang trong nguwòi những tên xấu số đã bị đồng bọn moi hết, còn xác chúng thì vẫn nằm phơi trên mảnh đất xa lạ đầy sỏi đá làm mồi cho ruồi bâu, quạ mổ và ròi bọ đục khoét. Đêm yên tĩnh hơn. Đôi khi dội lên vài tràng đại liên vu vơ hoặc mấy quả đạn pháo cỡ nhỏ. Tới 1 dòng suối, cả 2 đứa khoái quá, uống cho một chập thoả thích bõ những ngày khát cháy họng trong pháo đài, rồi lại bò đi. Gần sáng rồi, phải rẽ theo hướng nũi đá tìm chỗ lánh tạm. Khỏi cầu Pá Mật, tới rừng tre thưa, tôi kiếm cho Hùng 1 cây gậy thật chắc vừa để chống vừa để làm vũ khí. 2 đứa lại dìu nhau đi. Qua chân đồi gặp một mảnh vườn nhỏ còn mấy bụi sắn. Tôi nhổ lên được 4 củ. Mừng quá chúng tôi lau sạch đất dùng răng bóc vỏ rồi nhai liền. Chao ôi, sao mà ngon mà ngọt vậy, ăn đến đâu tỉnh táo và khoể ra đến đấy. Đến một khe đá, trên có nhiều bụi cây rậm rạp che khuất chúng tôi nằm đó nghỉ. Bấy giờ đã sáng rõ. Mặt trời nhợt nhạt ốm yếu nhô lên và sương mù tan dần. Tôi băng lại vết thương cho Hùng. Đạn xuyên qua đùi, mất nhiều máu da Hùng tái xanh và mệt mỏi lắm. Đặt Hùng nằm lọt vào giữa khe đá, tôi đứng dậy vén lá cây quan sát. Từ trên cao tôi có thể nhìn rất rộng, rất xa. Cả một vùng dân cư bị tàn phá hết. Địch đông nghịt 2 bên đường 1B và lố nhố trên các đỉnh cao xung quanh. Chúng tôi nằm ôm nhau trong khe đá, cố ngủ lấy một giấc cho lại sức. Đêm xuống, chúng tôi lại dìu nhau đi. Tới chân núi, thấy 1 cây chuối rừng gãy gục, tôi bóc hết bẹ lấy cái ruột nõn chia nhau. Đắng, chát quá không thể nào nuốt nổi, đành vứt đi rồi lại bò tiếp, vượt qua đường 1B xuống khu ruộng bậc thang. Tưởng có thể lợi dụng địa hình cao thấp khác nhau thì dễ tránh địch, nào ngờ cái chân của Hùng đau quá không đi nổi, cũng không bò nổi. Cứ một lúc cả 2 đứa lại trượt hẫng ngã lộn nhào từ trên cao hàng mét xuống và Hùng cố nén chịu đau, ôm chân quằn quại. Một lần, 2 đứa vừa bò tới 1 góc bờ ruộng thì thấy 1, 2 rồi 3 bóng den đi tới. Địch hay ta ? 2 đứa nín thở nằm ép vào mô đất cạnh một bụi cỏ và nghe tiếng chúng nói xì xồ với nhau. À, tụi thám báo. Tên thứ 3 suýt đạp vào đầu tôi. Lúc đó tay tôi đã cầm sẵn quả lựu đạn-quả lựu đnạ tôi vẫn giữ từ trận đánh cuối cùng truwóc khi địch chiếm pháo đài-và Hùng nắm chắc đầu gậy sẵn sàng chiến đấu. Địch đi, chúng tôi lại bò, và lại ngã. Thấy đã khuya lắm rồi mà 2 đứa vẫn quanh quẩn trèo lên ngã xuống trong cái khu ruộng bậc thang lầy lội này, Hùng ôm lấy tôi giọng xúc động : - Phi-ao ơi, Hùng không đi nổi đâu. Dắt díu nhau thế này cả 2 cùng chết. Phi-ao nhường cho Hùng quả lựu đạn, mình sẽ nằm lại đây, đợi sáng nếu bọn địch phát hiện hò nhau ra bắt sống, Hùng sẽ thí mạng cùng chúng nó. Còn Phi-ao cố tìm về đơn vị nói với các đồng chí trả thù cho anh em và đồng bào đã hy sinh. Tôi ôm lấy Hùng, nghẹn ngào : - Phi-ao không bỏ Hùng đâu. Nhất định thế. Cố lên Hùng ơi, ôm lấy cổ để Phi-ao cõng. Giằng co mãi Hùng mới chịu để tôi dìu đi. Độ 2 giờ sau chúng tôi gặp một lối mòn. Lối mòn đó dẫn vào một bãi cỏ rộng, nhấp nhô những bụi cây sim, cây mua cao ngang bắp chân. Đi tới gần giữa bãi chúng tôi mới nghe thấy tiếng người và nhiều bóng đen cựa quậy. Cả 2 cùng dừng lại. Ngay phía trái, cách chúng tôi chỉ hơn 1m, có 3 tên địch đang nằm ngửa. Phát hiện ra chúng tôi, 1 tên vùng dậy vớ lấy súng quát lớn : - Xuẩy (Ai) ? Lộ rồi, tiến thoái lưỡng nan, chỉ còn cách chiến đấu. Tôi nhảy chồm đến, đạp quả lựu đạn vào đầu nó. Nó kêu rống lên. Xung quanh tôi tất cả rùng rùng chuyển động. Tiếng kêu hốt hoảng lan đi. Những loạt súng nổ dài. Địch báo động, chạy tán loạn như đèn cù. Lợi dụng lúc nhốn nháo đó tôi vớ lấy chiếc mũ lưỡi trai của địch đội lên đầu và trà trộn vào đám hỗn quân hỗn quan ấy. Bắn loạn xạ một lúc, bọn chúng chửi bới nhau ầm ĩ rồi lại nằm lăn ra ngủ. Tôi cũng chọn một chỗ gần bụi cây mua, nằm xuống. Độ hơn 1 giờ sau khi chúng đã ngủ say như chết tôi mới lặng lẽ lẻn đi, chỉ tiếc không xoáy được 1 khẩu súng nào vì khi ngủ chúng nó ôm chặt quá. Tôi quay lại tìm Hùng nhưng không thấy Hùng đâu. Bò hết bụi cây này sang bụi cây khác vẫn không thấy. Có lẽ Hùng bị nó bắt rồi chăng ? Hay Hùng đã hy sinh ? Liệu Hùng có thoát được không. Tôi vừa lo, vừa thương, nước mắt rưng rưng. Tôi bò về phía dãy núi đá phía tây. Tới chân núi thì trời sáng hẳn. Thấy phía trước có 1 ngôi nhà lá, tôi bò đến, may ra kiếm cái gì ăn được. Đói và mệt quá ròi. Bò tới nơi thấy cửa khoá, chủ nhà chắc đã chạy đi xa. 2 lần tôi định nâng cửa lách vào nhưng đắn đo alị thôi. Người Nùng chúng tôi coi chuyện ăn cắp xấu như giết trẻ con. Mà kỉ luật bộ đội cũng cấm không được lấy của dân. Tôi không muốn ăn cắp, bò trở ra, qua gian chuồng trâu bỏ trống tôi thấy có 3 cái ngọn mía non trâu ăn dở đã héo quắt nằm lẫn trong đám cỏ úa. Đói quá, thèm quá tôi nhặt, lau sạch đưa lên miệng nhai. Bỗng có bóng người. Tôi giật mình nhìn xuống thấy 3 tên lính Trung Quốc đang vẫy tay ra hiệu bắt sống tôi. Thì ra nó nhìn thấy và theo dõi tôi từ lâu. Vứt vội 2 ngọn mía, tôi vớ 1 hòn đá ném tới rồi co chân chạy theo 1 khe đá ngược lên núi. Địch tưởng lựu đạn nằm gục mặt xuống. Khi tôi chạy được một quãng chúng mới hò nhau đuổi. Chúng không bắn mà định bắt sống tôi. Vốn dân miền núi tôi chạy rất nhanh. Nhiều mỏm đá dốc và sắc nhọn, tôi bám chặt và nhún mình leo qua. May sao tới 1 cái hang nhỏ, tôi giả vờ rẽ ngoặt sang 1 mô đá phía trái nhưng lại bí mật chui tọt vào cửa hang nấp vào 1 hõm đá rất kín. Địch troè lên tới nơi thì mất hút tôi. Ngay lúc đó từng loạt đại liên từ quả núi bên cạnh nhằm 3 tên địch bắn tới. Chúng hốt hoảng kêu nhau tháo chạy. Tôi mừng quá. Đoán chắc có quân ta ở gần đây, tôi chui ra khỏi hốc đá bò tới 1 cái hang khác nằm thở. Vfa đêm ấy cứ theo hướng quả núi trước mặt tôi lần đi. Độ 11 giờ khuya, nấp trong bụi cây tôi nghe có tiếng nói chuyện rồi 6, 7 người hiện ra. Họ đang khiêng cáng vật gì. - Có phải bộ đội ta đấy không ? - Bộ đội ta đây. Đồng chí là ai ? - Tôi là công an trên pháo đài Đồng Đăng về đây. - Pháo đài Đồng Đăng à ? Thật không ? Nghe nói bọn chúng phun hơi độc vào giết hết anh em và đồng bào ta rồi cơ mà ? - Đúng. Chúng nó muốn giết nhưng chúng tôi không chịu chết. Một đồng chí dừng lại bắt tay tôi. Thì ra nah em đi cáng tử sĩ của ta về chôn cất. Lòng tôi bỗng thấy ngùi ngùi khi nhớ tới các đồng chí của tôi, tới gần 50 đồng bào bị bọn xâm lược giết hại. Tôi nhớ 6 đồng chí ra trước và nhớ Hùng. Các đồng chí còn sống không ? Bây giờ ở đâu ? Một nỗi buồn thương bao trùm. Tôi im lặng bưóc đi. 1 giờ đêm hôm ấy chúng tôi về tới nơi đóng quân của đơn vị bộ đội và sau đó 2 giờ tôi được đi cùng với 30 thương binh về trạm quân y tiền phương của F3. Và tình cờ tôi đã gặp hùng ở đây. Vừa gặp đã chia tay. Thời gian ngắn ngủi quá chúng tôi không nói được gì với nhau. Tôi cũng không kịp hỏi Hùng đã thoát chết trở về bằng cách nào sau cái đêm lạc nhau ấy. Xe ô tô đã chạy khuất từ lâu mà lòng tôi vẫn cồn cào xốn xang đầy xúc động. Kì tích áo chàm, NXB Văn hoá 1979. * : 1 hồi ức khác của đ/c Nông Thanh Phi-ao có hơi khác (theo tôi có lẽ lỗi do các tác giả). Cộng với một vài kí sự có nói đến chuyện quân ta tổ chức mở đường máu phá vây ở pháo đài Đồng Đăng, có thể phỏng đoán là chỉ có một bộ phận phá vây thành công, số còn lại bị kẹt trong pháo đài, trong đó có đ/c Nông Thanh Phi-ao.
----- ĐẠI ĐỘI TRƯỞNG MƯU TRÍ ----- Ngọc Đản, viết về Hoàng Biên, dân tộc Tày, đại đội trưởng đại đội 3, đoàn 45 bộ đội Hoàng Liên Sơn. Trong căn hầm dã chiến, đại đội trưởng Hoàng Biên ngồi chắn ngang lối ra vào, chăm chú nhìn bàn tay lấm láp bùn đất của đồng chí y tá đang xếp từng băng đạn AK vào mấy túi cóc balô. Phải đến mấy phút im lặng như vậy. Anh xem đồng hồ : gần 1 giờ sáng rồi. "Trận đánh sắp tới nên tiến hành cách nào ?" Câu hỏi ấy bao trùm mọi suy nghĩ của Biên suốt từ chập tối. Thằng giặc khốn nạn này nhiều mưu thâm, mẹo hiểm lắm. Hơn nữa, chúng không tiếc lính. Trả giá cho mỗi trận đánh nhỏ cũng hàng nghinãc chết là thường. Đối với ta cần phải làm sao tiêu diệt nhiều sinh lực địch nhưng lại giữ được lực lượng của mình. Chính trị viên đại đội và chiến sĩ truyền tin nhảy xuống hào râu tôm, đất rơi rào rào. Họ đi thẳng tới hầm của đại đội trưởng. Ngọn đèn dầu được vặn to đột ngột, ánh sáng lấp loáng dần dần ổn định, toả rộng, soi rõ từng cành cây lát trên nóc hầm. Biên ngồi nép vào một góc, nhường lối cho 2 người. - Đồng chí không đi nghỉ cho lại sức ? Chính trị viên hỏi khi đang tìm chỗ kê khẩu AK. Biên lấy mu bàn tay xoa mạnh 2 bên thái dương. Anh thấy tỉnh táo hẳn. Biên cười xuề xoà : - Mình định tranh thủ ngủ một giấc thì các cậu lại đến. Nói vậy thôi, đói ngủ mà không ngủ nổi. Này lại có chuyện gì đấy ? Chính trị viên đại đội xoay lại, ngồi thoải mái rồi giơ tay chỉ người chiến sĩ truyền tin, nói từng tiếng : - Tiểu đoàn giao nhiệm vụ cụ thể cho ta : bằng mọi cách phải giữ vững đồi Yên Ngựa ! Cuộc hội ý cán bộ vào lcú 2 giờ sáng. Đại đội trưởng Biên nhấn mạnh thêm để các đồng chí trung đội trưởng quán triệt yêu cầu, nhiệm vụ : - Sẽ ác liệt đấy ! Các đồng chí phải giữ vững chốt. Phải nhớ, đánh nhưng bảo toàn lực lượng mình. Tiêu diệt địch-giữ vững chốt, bảo toàn lực lượng, phải đạt cả 3 yêu cầu đó ! Giữ vững đồi Yên Ngựa này, Biên biết đơn vị anh sẽ phải đuwong đầu với vô vàn khó khăn, phải xử lí nhiều tình huống phức tạp và phải chịu đựng hoả lực lớn của địch. Hồi kháng chiến chống Pháp đội du kích Tày Nùng của abnr Thanh Loa quê anh đã chặn địch và diệt hàng trăm tên trên đồi này đây. Truyền thống đó phải được phát huy. Đồi Yên Ngựa án ngữ trước mặt Long Sành, nó không chỉ là tiền đồn của sở chỉ huy tiểu đoàn mà còn là cái lá chắn bảo vệ một loạt điểm cao chugn quanh. Bọn Trung Quốc xâm lược không thể ngờ rằng quả đồi thoai thoải ấy lại là 1 pháo đài thép, mấy chục lần hcú đầu lên chúng đều bị đánh bật xuống, mặc dù chúng đã phải huy động 2 tiểu đoàn bộ binh và được tăng cường thêm nhiều súng cối 82 ly, ĐKZ, pháo các cỡ. Biên giở cuốn sổ tay ghi chép tình hình quân số và vũ khí còn lại của các trung đội, tiểu đội mà anh vừa tập hợp lúc hội ý. Quân số có giảm nhưng không đáng ngại bằng việc sắp hết đạn. Trận cuối cùng trong ngày hôm qua, nhiều chiến sĩ bắn hết đạn đã phải dùng báng súng choảng vào đầu những thằng bám được bờ công sự. Các trung đội cử người về xin thêm đạn, lựu đạn, Biên chỉ biết hứa là chờ đến tối, phía sau sẽ chuyển lên. Mãi gần 11 giờ đêm tiểu đoàn trả lwòi đó là cái khoản khó khăn nhất hiện nay, bởi phía sau, phía trước đều đánh địch suốt mấy ngày nay nên cạn cả. Một ý nghĩ loé lên trong đầu Biên. Anh muốn gặp chính trị viên đại đội. - Này, Bình ! Bình !... Biên lay gọi nhưng không có tiếng trả lời. Chiến sĩ y tá đang ngủ say. Anh vớ khẩu AK, nhẹ nhàng kéo nấc kháo an toàn rồi men theo bờ hào sang hầm chính trị viên. Sau khi nghiêm cứu đồi Yên Ngựa thật tỉ mỉ, đại đội trưởng Biên phác ra 1 kế hoạch như sau : 3 trung đội bố trí theo thế chân kiềng, sẵn sàng đánh địch ở 3 hướng; 1 tổ hoả lực mạnh gồm khẩu đại liên của Nguyễn Ngọc, 2 chiến sĩ bắn B40 chốt bên phải đồi sẽ đánh địch ở hướng chủ yếu bảo vệ điểm cao 368. Người chỉ huy mũi nhọn ấy là anh. Cái sáng tạo của cách đánh do đại đội trưởng Biên đề xuất là phải bung xuống sườn đồi bám sát địch mà đánh chứ không cầm cự một cách bị động trên đỉnh đồi. Cách đánh này sẽ tránh được thương vong không cần thiết lúc chưa nổ súng. Hơn nữa bám sát địch nổ súng sẽ chính xác tiết kiệm đạn lại tạo thế bất ngờ. Kế hoạch của Biên được chính trị viên hoan nghênh. Duy chỉ vấn đề Biên trực tiếp chỉ huy mũi hoả lực chính thì gây nên sự bàn cãi. Có nhất thiết anh phải trực tiếp chỉ huy 1 tổ chiến đấu như vậy không ? Lí lẽ và tình cảm của đại đội trưởng Biên làm chính trị viên xúc động. Anh tin ngọn cờ tién công và tài chỉ huy của đại đội trưởng Biên lúc này sẽ thật sự là linh hồn, là góp thêm sức mạnh của toàn đơn vị và đã nhất trí với phương án của Biên. Cả đại đội chuẩn bị cho trận đánh mới bằng cách đào thêm chiến hào râu tôm nối các cụm chốt phía trước. Đại đội trưởng Biên uống vội chén nước chè xanh nấu đặc rồi bước ra khỏi hầm. Mấy hôm nay trời hửng nắng, đêm về sáng sương mù phủ khắp núi đồi một màu sữa trắng. Biên tưởng tượng trước mắt là hình ảnh quê hương. Những ngôi nhà sàn cao và thoáng, phía sau mái hiên đang toả khói, nhà nhà dều lo bữa cơm sáng trước lúc đi nương gieo lúa. Khói tan trên mái nhà rồi hoà vào rừng núi cũng trắng đục như thế này đây !. Nhưng tất cả đều nhoà đi khi Biên nghĩ đến cảnh tàn phá do bàn tay man rợ của bọn Trung Quốc xâm lược gây nên ở những bản làng xung quanh. Cô gái Tày lúc nào cũng mặc chiếc áo chàm nổi lên giữa rừng núi, thường ngày gặp anh trước cổng doanh trại chỉ mỉm cười hiền lành. Thế mà hôm qua, bắt được cô, chúng nó đã cắt hai đầu vú và xẻ dọc đôi môi tươi rói rồi giết cô. - Lũ giặc cỏ ! Quân khát máu ! Bất giác Biên bật ra lời nói, anh thấy nghèn nghẹn ở cổ... - Đào thế này ăn thua gì. Thằng Tàu nó không thuwong cái đầu cậu đâu. Phía trước mặt Biên, tiếng khẩu đội trưởng Nguyễn Ngọc nói với chiến sĩ nào đó rõ mồn một. Biên suỵt khẽ : - Nói nhỏ thôi ông Ngọc ơi ! Nghe tiếng đại đội trưởng, Ngọc nhẹ giọng : - Sương mù dày quá thủ truwỏng ạ ! Không khéo cắm lưỡi xẻng vào chân mất ! Có tiếng cười khúc khích. Biên đi dọc đường hào xuống phía cuối đồi. Mấy chiến sĩ trẻ mời nhập ngũ tháng 8 năm ngoái đều quê Vĩnh Phú đang đào đắp, tôn cao bờ thành công sự. Nhìn xung quanh, anh tính khẩu đại liên có thể cơ động khắp các vị trí. Biên thấy an tâm. Trận đánh mới mở đàu bằng mấy loạt đạn pháo của địch bắn đuổi nhau, nổ quanh sườn đồi, vào lúc 7 giờ sáng. Tiếng trung đội trưởng Hoa chốt ở phía sau hét lên, giọng khản đặc : - Chúng nó mò lên đấy ! Pháo ĐKZ và cối 82 ly bắt đầu dập xuống trận địa đồi Yên Ngựa như co giật từng cơn. Biên bắn liền 3 phát súng ngắn-hiệu lệnh choãi ra ngoài chốt, chặn địch từ chan đồi. 1 chiến sĩ xách khẩu K63 vừa luồn hào vừa quay lại hỏi anh bạn đi sau : - Tớ không hiểu sao đại đội trưởng lại chủ trương bung ra khỏi chốt xuống đây làm gì ? - Rồi sẽ hiểu, tiến lên mau ! Anh bạn trả lời. Họ lại lao đi. Đứng trong chiếc hầm dã chiến ẩn sau ụ đất cao, Biên nhoi đầu lên quan sát. Phía sườn đồi, mé trung đội 2 có mấy chiến sĩ chạy nhô cả đạn B40 gùi sau lưng lên hkỏi thành hào. Đường hào ngoắt ngoéo nên có lúc khuất hơn. Biên thấy đỡ lo. Trận địa đồi Yên NGựa không có 1 tiếng súng bắn trả. Mệnh lệnh tiết kiệm đạn được chấp hành nghiêm chỉnh. Sau lưng mũi chốt chủ yếu có tiếng AK bắn găm, nổ đanh, gọn. Thằng địch cắn trộm, sa vào trận địa của ta rồi. Bien thầm nghĩ. Phía trung đội 2 cũng bắt đầu nổ súng rộ lên. Hoả lực địch tập trung bắn vào khu vực chốt chủ yếu nhwung đạn toàn nổ phía trên, quân ta đã áp sát địch rồi nên không ai bị thương vong. Bấy giờ anh abnj đeo súng K63 mới hiểu ra cái mưu của đại đội trưởng, mừng quá reo to : - Đại đội trưởng giỏi quá ! Mưu cao quá ! Các chiến sĩ nhìn đại đội trưởng mỉm cười. Lan vốn quê xứ Nghệ-1 tuyển thủ súng AK nổi tiếng, có tên như 1 cô gái nhưng cũng nổi tiếng nghịch, trố mắt ra vẻ quan trọng, nói từng tiếng : "Thủ trưởng đã đưa chúng tôi vào bệ bắn và rút ngắn tầm đạn rồi đó ! Phen ni thì chúng hết "tả"." Biên mừng thầm, đúng là ta đang ở thế thuận lwọi, thằng địch không ngờ là đối phương đã choãi xuống, đón chúng ở đây. - Không được chủ quan đâu nhé ! Tăng cường quan sát ! Biên nhắc các chiến sĩ nhưng trong lòng anh trào lên niềm vui thầm kín và tin tưởng một cách chắc chắn vào thắng lợi. Hải căng mắt nhìn về phía mấy mảng cây xanh lúp xúp ẩn hiện trong sương mù. - Thủ trưởng, có địch đấy ! Tất cả các mũi súng tập trung về hướng số 2. Các chiến sĩ đã nhận ra những tên xâm lược nhấp nhỏm theo lòng khe. Chúng đi theo hình đầu nhọn, phía sau dãn rộng hơn. - Có lệnh mới được nổ súng ! Bắn tiết kiệm đạn ! Biên lại nhắc, giọng khẽ nhưng nghe rõ. Pháo địch vẫn nã liên hồi lên phía trên chốt. Các chiến sĩ nén lòng chờ đợi. Mũi súng chúc xuống dàn, bọn địch đã trùm kín mấy lùm cây. Thằng lính đi đầu tay lăm lăm khẩu B40. Bình chiến sĩ y tá nói nhỏ : "Để tớ khử thằng này !" rồi rê nòng súng bám theo. Bọn xâm lược hình như trút được nỗi sợ phút đầu, chủ quan tiến lên nghênh ngang. Bình ngắm đúng ngực thằng lính đi đầu bóp cò. Tiếng nổ như om lại. Xác hắn đè lên khẩu súng, đổ xuống lòng công sự. Từng loạt AK nổ giòn, rất đanh. Chiến sĩ B40 ngắm dọc đội hình địch bắn liền 2 quả. Xác địch cuốn theo ngọn lửa màu da cam. Tiếng la hét kinh hoàng. Khẩu đại liên của Ngọc bắn quét, đỏ nòng, xác địch ngổn ngang. Mấy thằng vượt qua chốt cũng quay đầu, chạy bổ nhào xuống chan đồi. Biên bình tĩnh lấy điểm xạ, xuyên sườn từng đứa. Bọn phía sau, mạnh thằng nào thằng ấy chạy... Địch bỏ lại hàng trăm xác chết. Máu chúng tanh nồng. Các chiến sĩ khẩn trương thu vũ khí của bọn xâm lược. Đại đội trưởng Biên khom lưng ôm 5 khẩu súng, tay nắm chặt 2 quả lựu đạn. - Lên chốt đỉnh đồi, tha hồ súng đạn đây rồi. Tiếng đại đội trưởng nghe rộn ràng. Các chiến sĩ biết cuộc chiến đấu còn tiếp tục. Chưa bao giờ họ thấy Biên vui đến thế. Đôi mắt hõm sâu sáng trên nụ cười... Kì tích áo chàm T1, NXB Văn hoá 1979.
Mình thấy cuốn sách này có tác dụng rất tốt trong việc tuyên truyền, giáo dục ý thức bảo vệ tổ quốc, cảnh giác trước anh "bạn hàng xóm" to người xấu bụng bên cạnh Tuy nhiên khách quan mà nói, những câu chuyện kể lại như thế này ko nên tin hoàn toàn. Có thể chiến công là thật nhưng đc thổi phồng lên. Quân Trung Quốc năm 79 thua xa mình về trình độ tác chiến, nhưng đâu có gà quá mức như vậy. Vả lại mình cũng bị bắt nhiều người lắm. :( Chiến tranh biên giới 1979 Trung Quốc thua về chiến thuật nhưng lại thắng về chiến lược. Nó học được nhiều bài học sâu sắc từ cuộc chiến này, nên lao vào cải tổ quân đội. Do vậy Việt Nam mình càng cần cảnh giác hơn nữa, nhất là biển Đông bây giờ đang có dấu hiệu "dậy sóng". :)
Đồn Biên Phòng Hoàng Sa người viết: Huy Đức nguồn: http://www.blogosin.org/?p=952 Mấy ngày qua, các gia đình ở huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) không còn liên lạc được với 12 ngư dân bị Trung Quốc bắt hôm 16-6 tại vùng biển Hoàng Sa để đòi 540 triệu đồng tiền chuộc. Đây không phải là lần đầu tiên ngư dân Việt Nam bị Trung Quốc “bắt làm con tin để tống tiền”, như cách nói của ông Nguyễn Dự, Chủ tịch xã An Hải, huyện Lý Sơn. Chỉ riêng Quảng Ngãi, đã có 373 ngư dân và 33 tàu đánh cá Việt Nam bị Trung Quốc bắt giữ, tính từ năm 2005, để đòi từ 150-180 triệu một tàu. Không chỉ bị “tống tiền”, ngư dân Việt làm ăn trên lãnh hải của ông cha mà dễ gặp nguy hiểm như bị lạc sang xứ Somali xa lắc. Ngày 26-4, tàu của ông Phạm Tĩnh, đang tìm cá thì bị 10 kẻ lạ mặt, nói tiếng Trung Quốc, đi trên một con tàu trắng, “nổ súng đuổi theo, nhảy sang lục lọi, rồi cướp sạch toàn bộ số cá khoảng trên 3 tấn”. Một ngư dân Quảng Ngãi khác, ông Ðặng Cận, hôm 24-5, cũng “bị những người nói tiếng Trung Quốc, từ một con tàu trắng khác, dùng súng cướp đi 5 tấn cá”… Trước đó, đêm 19-5, một tàu đánh cá của ngư dân Quảng Ngãi đã bị đâm chìm, 26 ngư dân thoát chết. Những hành động ấy xảy ra không lâu sau khi Việt Nam thả hai tàu Trung Quốc “xâm phạm” sâu vào vùng biển Đại Lãnh. Ngôn từ ngoại giao mềm mỏng và cách đối xử “chí nhân” đã không đánh thức được tình “láng giềng” mà người ta vẫn nhận. Năm 1999, khi Trung Quốc ra lệnh cấm ngư dân Philippines đánh bắt cá trên Biển Đông trong vòng 2 tháng, chính quyền Philippines đã lập tức phản đối: “Lệnh cấm đánh bắt cá của Trung Quốc sẽ không có hiệu lực đối với ngư dân nước này”. Bộ trưởng Quốc phòng Philippines tuyên bố: “Họ (Trung Quốc) mới chính là người xâm phạm”. Ngư dân Trung Quốc chính là những người thường xuyên đánh bắt trong vùng lãnh hải của các quốc gia lân bang. Hôm 20-6-2009, Indonesia đã bắt giữ 75 người Trung Quốc đánh cá trong “vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia”. Theo các ngư dân, ngay trên vùng biển Việt Nam, lúc nào cũng có thể bắt gặp tàu đánh cá của người Trung Quốc. Đang có nhiều lời kêu gọi ngư dân không đóng tiền chuộc và tiếp tục ra khơi. Theo Trung ương Hội Nghề cá Việt Nam: “Hành động của Trung Quốc đã làm ảnh hưởng rất lớn đến khai thác hải sản vì hiện nay đang vào vụ cá Nam, chiếm tới 60% sản lượng cá khai thác cả năm”. Biển đang mùa cá nhưng rủi ro cũng đang còn đó. Không chỉ là vấn đề kinh tế, sự có mặt của ngư dân trên lãnh hải của Việt Nam cũng như bụi chuối, khóm tre, mái nhà… mọc lên cạnh đường Biên trên bộ. Kể từ năm 1999, khi con tàu đầu tiên của Quảng Ngãi bị Trung Quốc bắt giữ, ngư dân, đặc biệt là ngư dân Lý Sơn vẫn kiên cường đánh cá trên vùng biển Hoàng Sa. Như truyền thống hàng trăm năm qua, những ngư phủ Lý Sơn tới Hoàng Sa hôm nay cũng là một biểu tượng về chủ quyền của Việt Nam “cắm” trên vùng biển ấy. Nhưng, nhà nước không thể để họ tiếp tục bị “bắt cóc”, bị cướp hết cá, bị đâm vỡ tàu… Theo Trung tá Võ Thanh Hường, chính trị viên Ðồn Biên Phòng 328, khi ba tàu cá của ngư dân Quảng Ngãi bị tàu Trung Quốc bắt, “Ngay lập tức họ gọi điện về cho Ðồn”. Cho dù có sẵn lòng dũng cảm, ngư dân vẫn cần sự chở che, họ cần “chỗ dựa quốc gia” biết bao khi gọi cho những chiến sỹ Biên phòng hôm ấy. Hồi tháng Hai, khi có mặt ở phía Bắc, chúng tôi chứng kiến hình ảnh bộ đội Biên phòng thường xuyên sát cánh với dân chúng vùng Biên. Trước “phân giới cắm mốc”, nhiều nơi, bộ đội Biên phòng đã phải dựng lưới B40, đứng chắn đá được ném từ bên kia qua, để cho dân cày ruộng, để cho dân làm nhà. Những “tấm lưới” ấy cũng cần phải được “dựng” lên trên biển. Ngư dân sẽ yên lòng bám biển theo lời kêu gọi của chính quyền, nếu có một “đồn Biên phòng” ở huyện Hoàng Sa; một “hạm đồn” được trang bị tối tân và có khả năng cơ động tốt. Nhà nước nên “trợ giá” để ngư dân có thể khai thác các dịch vụ định vị, dịch vụ thông tin từ vệ tinh. Làm sao, để khi gặp “hải tặc”, ngư dân có thể liên lạc ngay với Biên phòng và “Đồn” có thể gửi lực lượng đến bên dân trong thời gian ngắn nhất. Trên mặt trận ngoại giao, đặc biệt là mặt trận báo chí thông tin phải càng thường xuyên chủ động, thay vì nhận được vài lời “hứa” lại “ngưng”. Người ta chỉ có thể chọn bạn chứ không thể chọn láng giềng. Nhưng, láng giềng dù to lớn ra sao thì cũng không thể bước qua những chuẩn mực mà một quốc gia nên ứng xử trước cộng đồng quốc tế. Nhân dân Trung Quốc, đặc biệt là những ngư dân vẫn đánh cá trên vùng Biển Hoàng Sa của Việt Nam, có lẽ cũng không chấp nhận hành động chính quyền mình truy đuổi những người láng giềng chỉ để bắt và đòi tiền chuộc, nhất là khi những người ấy đang “trên đường tránh bão”. Cộng đồng quốc tế sẽ nhìn một quốc gia ra sao, nếu quốc gia đó cho tàu đâm vào tàu đánh cá của thường dân, rồi bỏ mặc những nạn nhân của mình níu từng cái can, lênh đênh nhiều ngày trên biển. Những hành vi nhắm vào thường dân trên Biển Đông không còn là chuyện riêng của một hay hai quốc gia; không chỉ là pháp lý mà còn là đạo lý. Cộng đồng quốc tế cần phải được thông tin về cách hành xử này; chính người dân Trung Quốc đánh cá trên Biển Đông cũng cần được biết: Việt Nam đã không cư xử với họ như cách mà Chính quyền họ vẫn làm với ngư dân người Việt. . ___________Auto Merge________________ . Đọc thêm: Trung Quốc bắt giữ, phạt tiền ngư dân Việt Nam vô lý Link: http://www.vietnamnet.vn/chinhtri/2009/06/855111/
Bên ttvnol cũng có 1 bộ truyện là nhật kí của Bác Cao Sơn đấy,anh NV có đủ bộ thì post cho mọi người đọc đi,bộ đó thấy viết hay quá tuy nhiều chi tiết đc thêm thắt.Hồi đó đọc đc 1 lần mà kô trọn bộ,giờ tìm mãi kô ra
Không ngờ chính quyền Trung Quốc hồi đó lại có thể trở mặt như vậy, trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại họ đã giúp Việt Nam rất nhiều cơ mà, khi đã đọc hết cái topic này mình thấy chính quyền Trung Quốc hồi đó họ cũng như bọn Mỹ, bọn Pháp luôn luôn có dã tâm cướp nước mình.
thực ra bọn TQ nó còn kinh hơn Pháp Mĩ nhiều. CÁi kinh dị của nó là tính trở mặt khó lường. Muốn kiếm truyện này hiện giờ là bất khả thi! Vì nếu còn thì cũng khó mà đọc được. Mình thì nói thật chưa đọc được truyện này nhưng các truyện in trong thời gian này thường với chất lượng giấy, mực rất kém nên cực kỳ khó để bảo quản. Muốn tặng bạn, tặng bố mẹ hay người mình thích>>?/ Tổng hợp lại vào thành 1 cuốn, biên tập lại như sách bây giờ ( gọi là biên tập cho oai thôi chứ thực ra là trang trí!) với căn dòng các kiểu gì đó( cái này ai làm luận văn tiểu luận chắc thừa biết). Ra hàng in, đóng bìa làm 1 cái bìa mạ vàng, không cần đóng gáy xoắn. Giá 1 lần làm mình nhớ ko nhầm là 25k( làm ít thì tiền nhiều, làm nhiều thì tiền ít đi). + với tiền in giấy đẹp cỡ 300 đồng ( hoặc ở nhà in cũng được mà). Mỗi quyển vị chi khoảng vài chục nghìn là cùng. Không được như nhà in nhưng khi mình tự thu thập, tự tin và ra( thuê) đóng sách thì cảm thấy trân trọng hơn hẳn. Đặc biệt với các truyện có ý nghĩa rất lớn về tinh thần như bộ này. p/s: cám ơn NV!
----- CÔ GÁI DẪN ĐƯỜNG ----- Tháng 4-1979 Lê Văn Vọng Viết về Mỹ Màn Lai, người dân tộc Sán Dìu, quê bản Nà Lang, huyện Thanh Thủy, tỉnh Hà Tuyên. Cuộc họp do tiểu đoàn trưởng triệu tập đã kết thúc. Phương án tập kích bọn giặc trong khe núi được vạch ra. 6 chiến sĩ, trong đó có Lai được nhận nhiệm vụ quan trọng này. 6 người chia làm 3 mũi. Mỹ Màn Lai, cô gái người dân tộc Sán Dìu tìm một con đường ngắn nhất, bất ngờ nhất để đưa tiểu đội vào tiếp cận địch. Lai đi trước, cô bước nhanh. Những bước chân lanh lẹn như bước chân con nai đi trong rừng. Khẩu AK mang ngang sườn, trông cô đẹp và khoẻ. - Đây tới đó bao xa, cô Lai ? Người chiến sĩ có thân hình to cao tên Khang đi sau hỏi. - Cũng nhức chân đó. - Lai đi nhiều lần chưa ? - Không nhiều đâu mà, mỗi ngày 2 lần thôi. Rẫy nhà mình ở bên đồi ấy. - Bây giờ có trồng gì không ? - Ngô đẹp lắm, tốt lắm, nhưng chắc quân Trung Quốc phá hết rồi. Con thú còn giữ được chứ thằng giặc này ác quá. 6 chiến sĩ vượt qua một mỏm đá không cao lắm. Họ bắt sang lối mòn và lại đi tiếp lên ngọn đồi trồng toàn sa mộc. Những thân cây to bằng bắp chân gãy gục, xơ tướp, đất đá lổn nhổn. Chỉ mấy năm nữa những thân cây khẳng khiu nhưng giỏi chịu đựng này sẽ trở thành khu rừng xanh bạt ngàn, thế mà nay chúng đã phá trụi. Hôm qua, 1 chiến sĩ đã anh dũng hy sinh tại đây. Khi đi ngang ngôi mộ người chiến sĩ đó, Lai đã khóc. Nhưng cô không muốn cho ai biết mình khóc. Ngồi thụp xuống quan sát phía trước rồi Lai đi tiếp. Đội hình lúc này hơi dồn lại. - Đi dấn lên chứ. Có người nhắc nhỏ đằng sau. Màn Lai bước nhanh hơn. Cô gái có bao giờ đi đêm nhiều, mà lại trong hoàn cảnh địch tình căng thẳng thế này đâu. Mẹ thương cô không cho làm việc nặng. "Để khi nào con về nhà chồng, đi làm thay cho nó". Người chồng chưa cưới của cô, anh Sìu Vẳn Thìn có thân hình nở nang, đôi chân leo núi 3, 4 ngày chẳng mỏi. Không biết giờ này anh ở đâu ? Hôm đó anh có chạy thoát được không ? Càng nghĩ đến cha mẹ, đến vẳn Thìn, Màn Lai càng buồn, càng căm tức bọn giặc Trung Quốc. Chúng đã làm gia đình cô tan tác... Màn Lai dừng lại, trở vai đeo khẩu AK. 2 ngày nay được giữ khẩu súng, cô thích lắm. Hôm mới về đơn vị, cô cứ bám theo đồng chí tiểu đoàn trưởng, nằn nì "Thủ trưởng cho em mượn khẩu súng mà, em phải bắn chết thằng giặc đã giết bố mẹ em thôi". Rồi khi đuwọc súng, cô học cả buổi tối. Ban ngày khi không có việc, cô lăn ra bãi cỏ tập ngắm, tập lắp băng, lên đạn... Trận đánh đầu tiên, màn Lai hồi hộp đến nghẹn thở. Thỉnh thoảng cô lại bảo người bên cạnh : "Khi nào bắn nói cho mình biết với". Đến hôm nay thì Màn Lai có vẻ dày dạn hơn rồi, nghĩa là đã quen với tiếng súng, với cách bắn. Quân địch chốt sau một con suối cạn chỉ toàn đá to như những chiếc mũ cối. bên trái là sông Lô, bên phải là những vách đá cao ngất, khó lòng trèo lên ban đêm được. Chỉ có một cách là bám bờ suối cạn rồi men theo vách đá đột nhập vào nơi trú quân của địch. Màn Lai còn có một con đuwòng đi ngang lưng núi đá mà cô bảo rất ít người biết. Cô đang dẫn tiểu đội đi theo lối đó. Tất cả dừng lại, mỗi người buộc vào tay miếng vải trắng làm ám hiệu. Bằng mắt thuwòng đã có thể nhìn thấy những đống đen lố nhố quanh chân đồi, đó là nhwũng chiếc xe tăng địch. Theo sáng kiến của Màn Lai, họ buộc dây thả mình từ lưng chừng vách đá xuống. Màn Lai xuống trước. Cô xách súng ra đứng sau một gờ đá, cảnh giới. Bóng cô thấp nhỏ nhưng nhanh nhẹn. Khi người chiến sĩ cuối cùng đã xuống, cô chạy lại ghé vào tận mặt anh nhìn xem ai rồi mới chỉ hướng tiếp cận địch. Xong đâu đó cô lại chỉ hướng rút. Màn Lai đưa từng tổ tới vị trí xuất kích. Khi cô trở lại, Khang nhìn đồng hồ, chỉ còn 10 phút nữa là tới giờ hiệp đồng với tiểu đoàn. màn Lai thì thào : - Tốt lắm rồi, anh à, mình cũng đi thôi. Khang xốc khẩu B40 lên. Cả tiểu đội lcú này chia làm 3 mũi từ 3 hướng xọc thẳng vào nơi đóng quân của địch. Sau 1 ngày tham chiến, bị thiệt hại nặng, bây giờ chúng lăn ra ngủ. Những chiếc xe tăng quây thành một vòng bảo vệ phía ngoài lũ bộ binh nằm ngả nghiêng, chen chúc bên trong. Hình như chúng nghĩ rằng với một địa thế hết sức hiểm trở thế này, các chiến sĩ ta dù có cánh cũng không làm sao lọt vào cái thung lũng nhỏ ấy. - Này - Khang hỏi khẽ. - Gì đó anh ? Màn Lai xích lại gần Khang hơn. - Sao Màn Lai biết chúng là lính chủ lực quân đoàn 43* ? - Hôm trước du kích bản với công an biên phòng bắt được 1 thằng thám báo sang đây dò la tin tức. - Nó khai như thế ? - Nhiều nữa chứ, nhưng mình không được biết. Chủ tịch không giao súng cho mình, thấy thằng giặc mà khong có gì để bắn, tức lắm. - Ừ... - Bây giờ anh đổi cái súng đó cho mình một lúc đi. Giọng Màn Lai năn nỉ tha thiết. - Không được - Khang nói dứt khoát - Màn Lai chưa bắn được loại súng này đâu, khó lắm... - Thì anh bảo cho mình với... - Ô, Màn Lai không đủ sức khoẻ để bắn nó đâu, nó giật mạnh lắm, ngã mất ! - Không đâu, mình leo núi cả ngày chẳng mệt tí nào, alị còn đi cõng nước ngoài suối nữa... - Bắn súng này mệt hơn leo núi, màn Lai à. - ANh cứ cho mình bắn thử một lần thôi. - Được, mai nhé, ngày mai mình sẽ tập cho Màn Lai bắn. Khang và cô thiếu nữ Sán Dìu giấu mình sau mô đất mặc cả với nhau nhwũng điều như thế. Màn Lai không được vui lắm song cũng phải chịu. Một ngọn gió đẩy những hạt sương va vào mặt. Khang đưa tay sờ 2 gò má ươn ướt. Anh bỗng tỉnh táo lạ thường. Trước mặt 2 người là chiếc xe tăng địch. Khối đen nặng nề như nấm mồ hoang. Màn Lai bấm Khang chỉ cho anh cái chấm nhỏ thỉnh thoảng lại động đậy trên nấm mồ đó : tên lính gác. Họ cùng trườn lên, qua chỗ chiếc xe tăng, êm nhẹ và bí mật. Những mảnh giấy gói lương khô của địch ném trắng cả đất. Mùi dầu xe khét lẹt. Lũ bộ binh địch nằm vạ vật dưới nhwũng tấm bạt nhỏ, nhiều chỗ không đủ che, chúng phơi cả mặt ra ngoài. Khang xem đồng hồ rồi bấm Màn Lai đứng lại, đợi đúng giờ để các tổ cùng vào hết. Có tiếng cựa mình sột soạt trong chỗ bọn địch, rồi một giọng mê ngủ ú ớ vẳng lên nghe không rõ. Tên lính ngồi gác trên tháp xe tăng khạc nhổ liên hồi. Bóng đêm dày đặc làm nó sợ. Im lặng đến nghẹt thở. Màn Lai sốt ruột quay sang hỏi Khang : - Sao lâu quá, hay bị lạc hết rồi ? - Không đâu, Màn Lai cứ yên tâm. Khang nói rất tự tin, vì anh biết các chiến sĩ đã thuộc rõ địa hình, hơn nữa lại chính là Màn Lai đã dẫn họ đến tận vị trí. Khang nghe cả tiếng thở của Màn Lai. Ngay cả anh nữa cũng vậy. Chiếc kim đồng hồ trên tay Khang đã nhích tới giờ hẹn. Bỗng 1 tiếng súng hiệu nổ, tiếp đến, hoả lực của ta đồng loạt vang lên. Bọn địch nhốn nháo. Chúng xô nhau, la lối haỏng hốt. - Lựu đạn ! Giọng Khang quát to. Những quả lựu đạn từ 4 phía tới tấp ném vào. Tiếp theo là những tràng AK đĩnh đạc. Chớp lửa lập loè. Đêm đen bị xé toạc từng mảng. Lũ giặc tối tăm mặt mũi, không biết địch thủ - những chiến sĩ mưu trí - đã độn thổ lên ở chỗ nào. Chúng bắn bừa vào nhau. Khẩu súng trong tay Màn Lai toé lửa liên hồi. Cô chạy tới sau một gò đất cao, một chùm đạn địch xỉa vào đó. Cái bóng đen ấy lại vụt đi. Màn Lai lắp vào súng 1 băng đạn khác. Cô nhảy tới ngồi thụp sau mô đá. Khang tiến đến. Màn Lai mừng quýnh, khoe : - Mình bắn được 4 thằng rồi, mình trông thấy nó chết mà. Theo đúng giờ hiệp đồng, Khang kéo Màn Lai vượt qua mấy chiếc xe tăng cháy ra phía ngoài. Các tổ gặp nhau trên đồi sa mộc. Dưới trận địa lửa vẫn cháy đỏ một góc đồi. Tiếng đạn trong xe tăng nỏ đì đùng. Cô thiếu nữ người Sán Dìu reo toáng lên, quên cả gìn giữ : - Nó chết nhiều lắm vớ, mình thấy mà ! - Ngày mai tha hồ chúng nó nhặt xác. Khang nói. Các chiến sĩ lại theo Màn Lai trở về. Ở nhà, đơn vị đang chờ họ, những người đã làm nên niềm vui chiến thắng, trong đó có công sức của Mỹ Màn Lai cô gái dẫn đường thông minh và gan góc. Kì tích áo chàm T1, NXB Văn hoá 1979. * : thực ra quân đoàn 43 của TQ tham chiến trên hướng Lạng Sơn. Có lẽ có sự nhầm lẫn, hoặc tên thám báo đã cố tình khai sai.
thì cuốn này hồi đó cũng đâu có dày lắm đâu phải chi có sách thì hay biết mấy, có thể đưa cho nhiều người đọc hơn (hiện này đang viêm màng túi + mất usb nên ko in đc)
Nghe nói là nước ta và tàu bựa có thỏa thuận ko đc nhắc về cuộc chiến này , tất cả những gì liên quan đều ko đc lưu truyền