[Kỳ ảo, phiêu lưu] Lời nguyền Lỗ Ban

Thảo luận trong 'Văn Học' bắt đầu bởi nhanunited, 24/12/14.

  1. hoahongtokyo

    hoahongtokyo C O N T R A

    Tham gia ngày:
    27/2/05
    Bài viết:
    1,814

    Chính vào lúc Lỗ Nhất Khí đang âm thầm suy nghĩ, đột nhiên xuất hiện một luồng sát khí cực kỳ sắc bén từ phía tháp trắng chầm chậm tiến lại, mang lại một thứ cảm giác giống như đao sắc cứa vào da thịt. Trong quá trình di chuyển, luồng khí lúc đi lúc dừng, rẽ ngoặt quanh co, có vẻ như đang giải khảm mà tới.

    Lỗ Nhất Khí không nói gì, chỉ ngoái đầu liếc nhìn Phật sống. Sắc mặt Phật sống hết sức đăm chiêu. Đúng vậy, phía trước có Báo Cơ cản đường, phía sau có Chu Chân Mệnh âm thầm theo dõi, bây giờ lại thình lình mọc ra một luồng sát khí sắc bén rợn người. Trong tình cảnh thế này, Phật sống không những phải tự bảo vệ mình, mà còn phải che chắn cho Lỗ Nhất Khí vừa mới bị thương, dù có Phật Tổ hay thần tiên ở đây, cũng khó tránh khỏi lo lắng.

    - Con đường duy nhất chỉ có thể là xông qua chỗ Báo Cơ nương nương, lên Thiên Thê trước khi quân chi viện tới kịp! - Lỗ Nhất Khí lẩm bẩm như tự nhủ với bản thân.

    Phật sống đã tin lời Lỗ Nhất Khí. Trong mắt ông ta, Lỗ Nhất Khí là một cao thủ tuyệt đỉnh tinh thông Phật lý, dùng tâm ngự địch, có cậu sát cánh bên ông ta, thì việc xông qua cửa ải của Báo Cơ nương nương hẳn cũng là việc dễ dàng.

    Thế là Phật sống xốc Lỗ Nhất Khí lên, đi thẳng về phía trước. Nhìn thấy Phật sống dứt khoát lao lên, Báo Cơ nương nương quát lên như sấm:

    - Phật gia, nếu nhất quyết xông lên, chớ trách tôi vô tình!

    Lời vừa dứt, trên vách đá bỗng vang lên một tràng những tiếng “lắc rắc”. Lỗ Nhất Khí thoạt nghe đã biết là tiếng chốt lẫy kéo căng. Bức bích hoạ rất rộng, phạm vi của nó bao trùm phần lớn đoạn đường từ hành lang bên ngoài tháp trắng đến phía dưới đám bậc thang đá của dãy núi Thiên Thế. Bởi vậy, phạm vi sát thương của khảm diện này cũng vô cùng rộng lớn. Chỉ cần đặt chân lên con đường phía trước bức bích hoạ, chắc chắn bọn họ sẽ hết đường.

    Sau khi phát ra một tràng những âm thanh quái dị, bức bích hoạ sắc màu rực rỡ đã xuất hiện một vài biến hoá rất vi tế, mỗi một biến hoá đều tương đương với sự tồn tại của một loại nút giết hoặc nút vây.

    Lỗ Nhất Khí chú ý tới từng mảy may biến hoá. Nguyên lý của “Cơ xảo tập” và “Ban kinh” đã dung hội quán thông trong trí não, tầm hiểu biết về khảm nút của cậu cũng đã đạt đến cảnh giới thượng thừa. Nhìn vào những biến hoá, Lỗ Nhất Khí có thể khẳng định có cả thảy trên mười lăm loại nút lẫy trên tấm bích hoạ. Trong mảng bích hoạ ngay trước mặt cậu có ba loại là Lưới quăng tám chân, Gông khớp nhanh hai hình và Kẹp lông nhím. Sang phía tây lần lượt là các nút Vòng ráng mây, Cắt chữ điền, Mâu xuyên tim chín chín vào một, Chụp máu theo gió...; sang phía đông lần lượt là các nút Cóc trời phun vàng, Toà chạm đất, Bút mộng sinh hoa... Còn có hai chỗ Lỗ Nhất Khí phát hiện ra chốt lẫy, song không biết được là loại nút gì, bởi lẽ chỉ có một đầu ống thò ra, đoán rằng không phải là nước độc, nước ăn mòn, cũng là loại khói hun, sương độc.

    Hai người Lỗ Nhất Khí không cần phải suy xét tới đám nút lẫy phía đông, bởi vì bậc đá Thiên Thê nằm ở phía tây nơi họ đang đứng. Số nút ở đoạn này lại nhiều hơn hẳn phía đông, khoảng trên dưới mười loại.

    Trong nghề khảm tử từ cổ chí kim, không ai có thể liên tục vượt qua nhiều cơ quan cạm bẫy đến như vậy. Theo ghi chép trong sách vở, người từng liên tục vượt qua được nhiều khảm nút nhất chính là kỳ nhân khảm tử thời Đường Mặc Phi Yên, đây là một kỳ nữ trong Mặc môn, cả đời chuyên nghiên cứu về nguyên lý khảm nút. Khi bà sáu mươi ba tuổi, một mình xông vào luỹ Thính Thiên của An Lộc Sơn, liên tiếp vượt qua sáu khảm trong sảnh Bố Chiến ở tầng thứ hai của luỹ, nhưng cuối cùng vẫn phải bỏ mạng trong khảm Cửa sập hình búa chém mười lần. Còn một người nữa là Cẩm Mao Thử Bạch Ngọc Đường thời Tống, trước khi rơi vào khảm diện “lưới chuông bắt sẻ” ở lầu Tiêu Dao rồi bị mưa tên bắn chết, ông đã liên tiếp vượt qua năm khảm, sau đó lại né qua được nút “đao hoa sen” ở cửa lưới của Lưới chuông bắt sẻ, được tính là vượt qua được năm khảm rưỡi. Hai người này được xem là “Hắc Bạch song thành” trong nghề khảm tử, được khảm tử gia đời sau coi là đỉnh cao không dễ vượt qua.

    Mà lúc này, có tới hơn mười nút chết liên tục, việc liều mạng xông qua gần như là không thể. Vì người thiết kế khảm diện đã suy xét tới tính liên tục của khảm nút, lực sát thương của nút lẫy phía sau sẽ nhắm vào những chỗ sơ hở có thể lợi dụng của nút lẫy phía trước nó.

    - Phật sống, những khảm nút này ngài có thể tránh được không? - Lỗ Nhất Khí hy vọng có thể nghe được lời khẳng định từ Phật sống.

    - Khảm nút nào? - Phật sống có vẻ ngơ ngác.

    - Chính là những cạm bẫy, ám khí trên bức bích hoạ kia! - Lỗ Nhất Khí e rằng Phật sống không hiểu ý nghĩa của từ khảm nút.

    - Hả? Trên vách kia có ám khí? – Thì ra Phật sống hoàn toàn mù tịt về khảm nút.

    Luồng sát khí sắc lạnh như dao cắt đã băng qua tháp trắng. Lỗ Nhất Khí đã nhận ra, làn khí tướng tương tự như thế này từng xuất hiện ở Nam Lĩnh, Viêm Hoá Lôi nói đó là sát thủ với tên gọi người đao mười sáu lưỡi.

    Ở đoạn cuối hành lang vòng quanh tháp, thi khí cuồn cuộn, ma khí lan tràn. Hẳn là Hạ Táo Hoa và Dưỡng Quỷ Tỳ đang phải vật lộn quyết liệt với một cao thủ rất đáng gờm. Nhìn vào làn thi khí và ma khí, biết rằng bọn họ đã phải phát huy công lực tới cực điểm.

    Phía Chu Chân Mệnh vẫn không có động tĩnh gì. Hắn đang chờ đợi cơ hội thích hợp nhất, hiệu quả nhất.

    Khảm nút đã lên sẵn chốt lẫy của Báo Cơ nương nương đều dùng bùa chú ánh sáng “bóng theo hình” để khởi động. Lúc này, dù hai người Lỗ Nhất Khí di chuyển sang phía nào, chỉ cần thân hình dịch chuyển, khiến cho ánh sáng thay đổi, bùa chú sẽ lập tức khởi động. Bùa chú khởi động, sẽ sinh ra lực vô hình, như nảy, rung, lắc, kéo theo chốt lẫy hoạt động.

    Không có viện trợ. Phật sống không thể trợ giúp. Đối thủ đã ép sát đến nơi. Chỉ có thể dựa vào bản thân. Không! Cần phải dựa vào sự liên thủ giữa mình và Phật sống. Lỗ Nhất Khí đang cấp tập quét mắt quan sát, trí não xoay chuyển như bay.

    Những thứ cần nhìn đều đã nhìn thấy, những thứ cần nhớ đều đã nhớ kỹ, những thứ cần tính toán cũng đã tính toán xong. Biện pháp phá giải đã hình thành trong đầu. Bước tiếp theo chính là cần thực hiện một cách chính xác và chuẩn xác.

    - Tôi nói “đi” thì đi, nói “lên” thì nhảy thẳng lên, nói “nhảy” thì nhảy về phía trước, nói “dừng” thì dừng lại, nói “phục” thì chúi người xuống! - Lỗ Nhất Khí nói với Phật sống với nét mặt hết sức nghiêm trọng. Chỉ có thống nhất các khẩu lệnh với Phật sống, mới có thể xông lên phía trước đúng với yêu cầu và mục đích đã định.

    Phật sống chỉ khẽ gật đầu, song ánh mắt và nét mặt tràn đầy vẻ kiên định và tin tưởng.

    Tín hiệu và hành động đã thống nhất, một vấn đề then chốt nữa chính là phải kiểm soát chính xác vị trí và cự ly hành động. Trong khảm diện với nhiều nút lẫy bố trí liên tiếp, chỉ cần bước chệch nửa bàn chân cũng sẽ mất mạng ngay lập tức. Bởi vậy, cần phải có một phương pháp xác định vị trí cự ly mà Lỗ Nhất Khí và Phật sống đều thông thạo.

    Phương pháp xác định vị trí, cự ly thường dùng nhất là phương vị Bát quái. Song Phật sống chuyên nghiên cứu về Phật học Mật Tông Tây Tạng, nên không hiểu gì về lý số Đạo gia của Trung Nguyên. Lỗ Nhất Khí chợt nhớ tới một điển tích của Phật giáo Mật Tông có tên là “Tạng Phật thất luân thích thân”. Trong sách có nói rằng, trong cơ thể con người có bảy luân xa, trong đó có một luân xa nằm ở bên ngoài cơ thể, gọi là luân xa Phạn huyệt. Sáu luân xa còn lại nằm bên trong cơ thể, lần lượt là luân xa đỉnh đầu, luân xa trán, luân xa họng, luân xa tim, luân xa rốn và luân xa hải để. Bảy luân xa được bắt đầu từ luân xa Phạn huyệt bên ngoài cơ thể, khoảng cách giữa các luân xa dài ngắn khác nhau. Có lẽ Phật sống sẽ thông thạo phương pháp xác định vị trí, cự ly kiểu này.

    - Bước đi căn cứ theo cự ly giữa bảy luân xa của tượng Phật ngồi chín trượng, trước khi bước đi hãy nghe tôi nói rõ vị trí! - Lỗ Nhất Khí muốn tiến hành xác định vị trí dựa theo cự ly giữa bảy luân xa của pho tượng Phật ngồi cao chín trượng.

    Phật sống lại dứt khoát gật đầu. Cách xác định cự ly này đối với ông ta dễ như trở bàn tay.

    Lỗ Nhất Khí cảm hấy hơi khó khăn khi rút khẩu pạc-hoọc ra. Bàn tay phải đã đứt cụt, chỉ có thể dùng tay trái bóp cò, song vừa rồi đầu gậy của lão mù đã xuyên thủng bả vai trái của cậu.

    Cánh tay trái không thể nhấc lên được nữa, bởi vậy chỉ có thể gập khuỷu tay lại để nâng khẩu pạc-hoọc lên ngang tầm thắt lưng.

    - “Pằng!”

    Phát súng đầu tiên chỉ là tìm ra điểm định vị. Có được điểm định vị, mới có thể tìm được cảm giác chính xác.

    Thở khẽ hít sâu, tụ khí ngưng thần, để thân tâm đều thuận theo tự nhiên. Trong cảm giác của Lỗ Nhất Khí đã không còn cái tôi nữa, xác thịt như đã hoà tan vào trong không khí. Trong khoảnh khắc đó, khí thế của cậu bừng bừng tuôn chảy, như mây toả ngang trời, như nước tràn dưới suối, rực rỡ như ánh nắng phía trời đông. Khí tướng vừa bừng lên, đám cao thủ phía Chu gia thảy đều bàng hoàng sửng sốt. Ngay cả Chu Chân Mệnh đã từng nhìn thấy khí tướng của Lỗ Nhất Khí cũng phải kinh ngạc trong lòng. Mới vài ngày không gặp, nguồn năng lượng tiềm ẩn trong khí tướng của gã thanh niên kia đã lớn mạnh gấp mấy lần, bừng lên một cảm giác choáng ngợp không thể chống cự.

    Vị trí của tất cả các chốt lẫy dây bật và hình thức hoạt động của chúng được rà soát lại một lượt trong trí não Lỗ Nhất Khí. Tất cả chúng đã hình thành nên một bức tranh trong ý thức của cậu. Trong cảm giác, bức tranh đó đang được kéo lại gần, rất gần, gần tới mức cậu chỉ cần đưa tay ra là chạm tới.

    - Đi! Luân xa tim! - Lỗ Nhất Khí thốt lên khe khẽ.

    Lời còn chưa dứt, thân hình Phật sống đã lập tức di chuyển, dẫn theo cậu lao thẳng tới vị trí luân xa tim của pho tượng Phật ngồi cao chín trượng.

    Phật sống và Lỗ Nhất Khí vừa di chuyển, chốt lẫy phía bên kia lập tức khởi động. Trước hết là nút Kẹp lông nhím phía trước mặt, song lẫy của nó chỉ bung một nửa rồi mắc kẹp, bởi vì khi vừa bật ra chữ “đi”, Lỗ Nhất Khí đã nổ súng. Viên đạn găm trúng chốt chính của Kẹp lông nhím, khiến tấm chống của chốt chính mắc kẹt vào cần răng, nên nút không thể tiếp tục vận hành.

    Phát súng thứ hai bắn trúng dây lẫy treo của Mâu xuyên tim chín chín vào một ẩn trong khe đá. Súng nổ lẫy đứt, dây lẫy của toàn bộ nút khảm đều được nhả hoàn toàn, không một cây mâu xuyên tim nào bay ra.

    - Dừng! - Lỗ Nhất Khí lại kêu lớn. Tiếng kêu vừa bật ra khỏi miệng, Lỗ Nhất Khí lại giương súng bắn trúng chốt gạt của Cắt chữ điền. Chốt lẫy của nút này hoạt động theo cách gạt nghiêng sang một bên, từ góc độ và vị trí của Lỗ Nhất Khí, không có cách nào khiến chốt lẫy nhả dây xả lực, nên Lỗ Nhất Khí đã bắn vào chốt gạt, như vậy có thể khiến nút lẫy hoạt động trước. Lỗ Nhất Khí yêu cầu Phật sống dừng lại, chính là muốn lợi dụng khoảng thời gian chênh lệch để né tránh khung cắt hình chữ điền bắn ra đầu tiên.

    - Nhảy! Luân xa hải để! - Lỗ Nhất Khí lại hô lên.

    Phật sống nghe tiếng mà động, thân hình nhảy vọt đi theo trình tự bắn của khung cắt chữ điền. Khi các khung cắt phóng ra hết, họ cũng vừa tới nơi.

    Song vừa tới nơi, thì nút tiếp theo là “vòng ráng mây” được xếp chồng lên nút này vừa hay lại hoạt động. Chớp mắt, vô số vòng thép dẹt với phần lưỡi mài sắc lẹm ào ào phóng ra như mây toả. Mà lần này, hai người họ đang ở chính giữa phạm vi của nút lẫy, không có chỗ né tránh.

    - Phục! - Lỗ Nhất Khí nằm sấp xuống tránh, khẩu súng trong tay cũng nhả đạn liên hồi.

    Đạn tới tấp bay thẳng tới những vòng thép sắc lẹm, song số đạn trong ổ súng lại ít ỏi hơn rất nhiều so với đám vòng thép đang ào ào lao tới. Mặt khác nếu bắn hết đạn, những nút lẫy tiếp theo sẽ không thể đi qua. Nên Lỗ Nhất Khí chỉ bắn năm phát đạn, mỗi phát đều được bắn theo góc độ vô cùng xảo diệu, vòng bay bị bắn trúng lập tức đổi hướng đâm vào vòng thép liền kề, vòng thép này lại va phải vòng thép khác. Bởi vậy, tuy chỉ có năm phát đạn, song số vòng bay bị bắn đi lại nhiều hơn gấp bốn năm lần. Bởi vậy trong đám vòng tuôn ra ào ạt như mây đã xuất hiện một lỗ hổng, vừa đủ cho Phật sống và Lỗ Nhất Khí cúi lom khom mà băng qua.

    Đứng ngoài nhìn vào, có cảm giác như Phật sống và Lỗ Nhất Khí đang biểu diễn một màn kịch múa rối hay kịch đèn chiếu, còn tiếng súng, tiếng chốt bật lẫy bung chính là dàn nhạc đệm cho họ. Động tác của bọn họ trong rất kỳ quặc, lúc đi, lúc dừng, lúc thụp xuống, lúc nhảy lên... Yêu cầu duy nhất là bọn họ cần thực hiện những động tác này một cách liên tục, nhất quán từ đầu tới cuối, cho đến tận vị trí không còn khảm nút nữa mới thôi. Bởi lẽ chỉ cần hơi chậm trễ, hoặc lỡ nhịp mất một thời cơ, thì cái giá phải trả sẽ là hai tính mạng, hai tính mạng cực kỳ đáng giá, không gì có thể thay thế.

    Báo Cơ nương nương kinh ngạc đến sững sờ. Đao Thập Lục sửng sốt đến chết lặng. Chu Chân Mệnh đang ẩn nấp cũng vội vã chạy nhào tới. Không phải hắn muốn chớp thời cơ tấn công Lỗ Nhất Khí, mà là không muốn bỏ lỡ màn trình diễn ngoạn mục không tiền khoáng hậu này. Chu Chân Mệnh không giống những người khác, trong lòng hắn phần nhiều là khâm phục và tán thưởng. Khi hai người bọn họ lao tới ba nút lẫy cuối cùng, hắn thậm chí còn âm thầm cổ vũ trong lòng, thực tâm hy vọng Lỗ Nhất Khí có thể thuận lợi vượt qua, hy vọng cậu có thể sáng lập nên kỳ tích. Người ta nói quả thực không sai, “đối thủ chân chính mới là tri kỷ chân chính”.

    Tổng cộng mười một khảm nút, tuy trong phép phá giải có khi dùng mánh khoé khôn khéo làm cho nút lẫy vận hành trước, tuy quá trình phá giải được hoàn thành bởi hai người, song đích xác là bọn họ đã vượt qua. Không biết kỳ tích lần này của họ có được tính là vượt qua kỷ lục mà “Hắc Bạch song thành” đã lập nên hay không.

    Sau khi đã băng qua trùng khảm, Phật sống không nghĩ ngợi gì thêm, chỉ ổn định lại hơi thở và nhịp tim trong chốc lát, rồi lập tức tiến về phía bậc đá Thiên Thê. Khi đã tới dưới chân bậc thang, bước chân Phật sống đột nhiên chậm lại:

    - Quái lạ thật, đám linh thú của Báo Cơ nương nương sao một con cũng không thấy?

    Đám linh thú mà Phật sống vừa nhắc tới là tam thú ngao mà Chu gia đã phải đổ ra biết bao tâm lực suốt mấy trăm năm mới lai tạo thành công. Theo khảo chứng, đây có lẽ chính là loài giảo, một giống quái thú từng được nhắc tới trong “Sơn hải kinh”. Trong “Sơn hải kinh – Tây thứ tam kinh” có viết: “Ngọc Sơn... có loài thú, hình dáng giống chó, có đốm như báo, có sừng như trâu, gọi là giảo. Tiếng như chó sủa, nếu gặp được thì vùng đó được mùa lớn”.

    Đám linh thú vô cùng ghê gớm đã không canh giữ bên dưới Thiên Thê, vì bọn chúng đang phải đối phó với một người phá khảm rất mực lợi hại, đó là Mạc Thiên Quy. Khi đụng đầu với đám linh thú, Mạc Thiên Quy đã bị thương, bởi vậy chưa kịp ra tay đã bị chúng dồn vào trong hốc tường phía sau một mỏm đá nhô ra.

    Trước đó, khi đang chênh vênh trên cuộn vải kẹp trúc, Mạc Thiên Quy đã chuẩn bị sẵn sàng để mạo hiểm đu sang hành lang vòng quanh tháp. Song vừa chuẩn bị tung người lao đi, thì Đao Thập Lục đã tới. Gã Đao đầu đã chọn phương pháp đơn giản nhất để truy kích Mạc Thiên Quy, đó là cắt đứt cuộn vải kẹp trúc dưới chân lão.

    Mạc Thiên Quy thình lình cảm thấy đao khí ập đến sau lưng, cơ bắp dọc sống lưng bất giác co thắt lại, gai ốc nổi rùng rùng. Song lúc này đã không thể quay lại ứng phó, chi bằng cứ dứt khoát làm theo kế hoạch cũ, tung người lao đi.

    Biện pháp tuy chính xác, song động tác đã hơi chậm. Mà không, có lẽ do đao của Đao Thập Lục quá nhanh. Đao Thập Lục người chính là đao, đao cũng là người. Suy nghĩ vừa loé lên, đao cũng đã tới. Lưỡi đao còn chưa chạm đến, thế đao đã rạch đứt toác cuộn vải kẹp trúc.

    Cuộn vải kẹp trúc đứt phăng, khiến cú tung mình nhảy vọt lên của Mạc Thiên Quy chỉ mượn được một nửa kình lực. Dưới chân thình lình hụt hẫng khiến Mạc Thiên Quy bất giác rú lên một tiếng hãi hùng, vội vàng giật mạnh cánh tay. Tuy rằng mượn sức kéo của sợi dây gai trong tay vẫn có thể giúp cơ thể bay về phía trước, song do sức bật chỉ còn một nửa, bởi vậy góc độ lao chếch xuống dưới cũng lớn hơn. Hơn nữa, khi tác động lực vào cột trụ hành lang, đã động chạm vào chốt lẫy, trên cây cột trụ từ trên xuống dưới lập tức bắn ra bốn tầng dùi hoa sen. Tất cả những điều này đã khiến cho điểm hạ chân cuối cùng của Mạc Thiên Quy vẫn nằm trong phạm vi của bãi Vân thú mây trời chín sắc.

    Điểm tiếp đất có ván lật. Chỉ hơi giẫm nhẹ, tấm ván lập tức lật nghiêng sang bên, từ phía dưới đâm vọt lên một cây trụ trời bắn ngược. Trụ trời bắn ngược là cây trụ đá hình vuông đỉnh nhọn, cao hơn hai trượng tám, to khoảng cánh cửa bốn ô. Nút lẫy này cực nặng, tốc độ đâm lên cũng không nhanh. Bởi vì tác dụng tấn công của loại nút lẫy này chỉ là thứ yếu, còn tác dụng chủ yếu của nó là sau khi tất cả các trụ trời đều đã khởi động sẽ tạo thành một bức tường chắn, ép người vượt khảm đi vào đường chết.

    Sở dĩ Mạc Thiên Quy dám mạo hiểm tại nơi này, vì lão đã có phương pháp đối phó với trụ trời bắn ngược. Khi một chân vừa giẫm xoay ván lật, chân kia lập tức giậm mạnh lên mép hầm bên kia, lấy đà nhảy vọt lên hết cỡ. Hai cây trụ trời bắn ngược lao vụt lên, đuổi theo Mạc Thiên Quy. Do đều là thế vọt lên, hơn nữa Mạc Thiên Quy đã dự đoán được vị trí của đỉnh nhọn trên cây cột trụ, nên lão chỉ bị mặt bên của đỉnh nhọn va phải, đẩy bắn đi. Nhờ vào lực đạo này, lão lập tức điều chỉnh thân hình tiếp tục lao về phía trước.

    Khiến Mạc Thiên Quy bị thương chính là vài mũi tên được bắn ra từ tháp trắng lọng vàng.

    Hai khảm diện liền nhau, lại có rìa khảm giao nhau, nên dùng nút cuối cùng của khảm phía trước để kích hoạt khảm diện phía sau, đây chính là kỹ pháp thường dùng của khảm tử gia. Khi Mạc Thiên Quy bị cây cột trụ trời bắn ngược đẩy văng đi, thì hai cột trụ đã kích hoạt nút Mưa tên bắn của khảm diện tiếp theo. Mạc Thiên Quy còn chưa kịp đáp xuống đất, đã bị ba mũi tên đuôi trâu bắn trúng.

    Vị trí tiếp đất lại ở bên trong khảm diện tháp trắng. Chân Mạc Thiên Quy vừa chạm đất, dưới đất lập tức vọt lên hai gọng kìm tấm móc kẹp chặt lấy đùi trái và cổ chân phải của Mạc Thiên Quy. Gọng kìm tấm móc có hình dạng giống như bẫy kẹp thú, miệng kẹp sắc lẹm, lực kẹp cực mạnh, được nối với phiến đá chôn dưới đất bằng sợi xích sắt. Mạc Thiên Quy bị ám khí kẹp trúng, phần đùi lập tức toạc da nát thịt, xương chày nơi cổ chân bị kẹp gãy rời.

    Mạc Thiên Quy quả nhiên xứng danh thủ lĩnh của Mặc gia, tuy bị thương trầm trọng song không hề nao núng. Lão đưa tay rút soạt thanh kiếm sau lưng, một chớt sáng xanh trầm vụt qua, cắt đứt phăng đầu kìm, rồi bất chấp trên người còn găm mấy mũi tên, lão Mạc lăn tròn trên đất, thẳng tới bên cạnh lan can của hành lang vòng quanh tháp. Trong lúc lăn, thân tên đều bị đè gãy, còn đầu mũi tên càng cắm sâu thêm vào da thịt. Có điều cú lăn vẫn là kịp thời. Trong nháy mắt, hai gọng kìm tấm móc đã bị phủ kín bởi vô số mũi tên và phi tiêu lá phong.

    Dưới móng hành lang chính là rìa khảm của hành lang quanh tháp và tháp trắng lọng vàng, nên đây cũng là vị trí an toàn. Song dù an toàn tới đâu cũng không thể nấn ná lâu. Vấn đề cấp thiết lúc này đã không còn là tiếp cứu cho Lỗ Nhất Khí, mà là phải bảo vệ tính mạng của bản thân. Kẻ sắc bén như đao ở sau lưng đang giải khảm mà tới, trong khi lão lại bị thương nghiêm trọng, quả thực không đủ khả năng để đối đầu với cao thủ tầm cỡ này.

    Mạc Thiên Quy điểm vài huyệt đạo để cầm bớt máu. Sau đó chống kiếm, loạng choạng bước đi, men theo móng hành lang chạy ra khỏi phạm vi của khảm diện tháp trắng lọng vàng. Lão biết, lúc này không thể tiếp tục đi về phía tây. Với bộ dạng hiện giờ, lão đã không thể trợ giúp Lỗ Nhất Khí được nữa, mà ngược lại còn gây thêm rắc rối cho cậu. Vậy lão nên đi về phía đông, hay ở lại đây đợi quân chi viện tới?

    Chính vào lúc này, đột nhiên có âm thanh quái lạ vọng đến từ hai bên. Mạc Thiên Quy lông tóc dựng ngược, lưng rịn mồ hôi. Không có đao khí, sát khí, chỉ có âm thanh lạ và mùi dã thú.
     
  2. hoahongtokyo

    hoahongtokyo C O N T R A

    Tham gia ngày:
    27/2/05
    Bài viết:
    1,814

    Dưới chân núi, phía chính nam là khảm tướng “Quạ vàng đuổi thỏ ngọc”, phía tây là khảm tướng “Lục dương xoay chiếu”, phía đông là khảm tướng “Sao sáng xoay quanh mặt trời”. Mà ở trên núi, có Lỗ Nhất Khí mang theo Thiên bảo cực thuần chính, bảo khí bừng bừng lan toả, rực rỡ hào quang. Thật trùng hợp, tác dụng của các cách cục bốn nơi đã hoà hợp với nhau, tạo nên một đại cục chí dương có thể thay đổi vận đời mệnh nước, được gọi là “Bảo dương điên toả âm hung”. Đại cục này duy nhất chỉ thấy ghi chép trong một cuốn kỳ thư thời thượng cổ có tên “Đế kinh mạch hành trạch”, từ cổ chí kim mới chỉ xuất hiện có một lần, vào lúc Khương Tử Nha dùng hoả công đánh thành Triều Ca, đã dùng cách cục này để lật đổ hoàn toàn vận mệnh của nhà Thương Trụ. Cũng chính vì đã hình thành được cục diện thiên cổ kỳ tuyệt này để cân bằng với Thiên bảo nghìn năm, nên hung huyệt âm mạch ẩn giấu ở chính giữa núi Thiên Thê đã bị chèn ép ra ngoài.

    o O o

    Tiếng động lạ là tiếng thở phì lao động đường phố, khí tướng là hơi của thú. Chỉ không rõ đó là loài thú gì, lại càng không rõ chỗ lợi hại của chúng, chỉ nhận rõ một mối nguy hiểm ghê gớm đang xuất hiện cùng với mùi muông thú. Đối diện với tình trạng này, Mạc Thiên Quy chỉ biết tiếp tục trốn chạy.

    Tuy chân phải đã bị trọng thương, toàn thân đẫm máu, song tốc độ trốn chạy của lão vẫn rất chóng vánh. Sau lưng là khảm diện, hai bên có thú, chỉ còn cách chạy về phía trước. Song phía trước lại là một hốc lõm vào chân núi, không có đường đi, chỉ có vách núi dốc ngược không thể leo lên. Có điều nơi này vẫn chưa phải là tuyệt lộ, chí ít cũng có thể dựa lưng vào vách núi mà chống trả lại đối thủ. Hơn nữa, ở trong hốc đá, phạm vi tấn công của đối thủ cũng bị thu hẹp, là một vị trí tốt để ứng phó với nhiều đối thủ.

    Đám muông thú hai bên cũng bám theo sau Mạc Thiên Quy, tốc độ rất nhanh. Song dường như bọn chúng không vội tiêu diệt lão ngay, nên luôn duy trì một khoảng cách nhất định với lão. Có lẽ Mạc Thiên Quy là đối thủ mà chúng chưa hiểu rõ, nên còn thận trọng dè chừng.

    Khi cơ thể sắp chạm vào vách đá, Mạc Thiên Quy đột nhiên lật tay chém ngược một kiếm. Nhát kiếm này để đề phòng đám muông thú lao tới tấn công vào khoảnh khắc lão dừng bước xoay người, đồng thời, lão cũng muốn mượn lực của cú vung kiếm để ổn định cơ thể đứng vững tại chỗ.

    Đã xoay được người lại, lúc này lão mới nhìn rõ bầy thú đang đuổi theo mình. Thân hình chúng không lớn, nhỏ hơn loài báo một chút, song đầu lại rất to, quanh cổ có bờm lông dày xù ra, trán nhô cao như thể chiếc sừng bằng thịt. Mắt như chuông đồng, miệng như chậu máu, rất giống sư tử đực. Chiếc đuôi tựa cán roi, móng sắc nhọn hoắt như lưỡi câu bằng thép, rất giống hổ; lưng thon bụng hóp, trên mình thấy thấp thoáng đốm hoa, lại giống như báo đốm. Bầy thú thấy Mạc Thiên Quy dừng lại, cũng không đuổi nữa, chỉ vây kín xung quanh, trong tiếng thở phì lao động đường phố có xen lẫn tiếng gầm gừ khe khẽ, vừa như tiếng rống, lại giống tiếng chó điên.

    Vừa giống sư tử, vừa giống hổ, vừa giống báo, vừa giống chó, đây là loại thú gì? Mạc Thiên Quy trong lòng chấn động, đầu óc hoang mang. Thú có kỳ tướng, ắt có kỳ ác. Bị bao vây giữa bầy thú dữ quái ác, liệu có thể sống sót hay không, hoạ có trời mới biết. Mà có lẽ ông trời cũng không biết, chỉ có bầy thú kia mới biết.

    Bầy thú lạ kỳ thực chính là đám linh thú do Báo Cơ nương nương coi sóc – tam thú ngao. Báo Cơ bố trí khảm thú, thường là thả báo hoặc hổ đói ở vòng ngoài cùng, còn nơi quan trọng bên trong mới thả loài tam thú ngao. Tam thú ngao kỳ thực là sản phẩm lai tạo từ bốn loài ác thú sư tử, hổ, báo, chó ngao. Trước hết cho hổ và sư tử giao phối sinh ra thú lai hổ sư tử, sau đó cho báo đốm giao phối với chó ngao Tây Tạng sinh ra thú lai báo đốm chó ngao. Cuối cùng, tiến hành lai giống giữa thú lai hổ sử tử với thú lai báo đốm chó ngao sinh ra tam thú ngao. Đã là thú tạp giao thì thường không có khả năng sinh sản, hàng vạn lần may ra ngẫu nhiên mới có một lần thành công, sinh được ra con. Tuy nhiên cao thủ Chu gia không hiểu từ đâu mà có được phương pháp lai tạo, dùng nội dược kết hợp với thuật kim thạch, cuối cùng vẫn khiến thú lai sư tử hổ với thú lai báo đốm chó ngao giao phối với nhau sinh ra tam thú ngao. Có người dựa vào một số chứng cứ trong sách cổ, nói rằng loài thú có tên là “giảo” trong “Sơn hải kinh” chính là tam thú ngao.

    Đám tam thú ngao đang bao vây Mạc Thiên Quy không vội vã tấn công ngay. Một số con thậm chí còn nằm phục xuống đất. Có điều con nào cũng giương cặp mắt xanh lè hung dữ nhìn trừng trừng vào Mạc Thiên Quy, không để lão có mảy may cơ hội đào tẩu.

    Một lát sau, trong bầy tam thú ngao bỗng tách ra một số con, lững thững tiến về phía Mạc Thiên Quy. Song nó không đi thẳng, mà hết vẹo sang trái lại nghiêng sang phải, thân hình dán xuống đất, nhích dần từng chút tới sát Mạc Thiên Quy.

    Giống thú này rất thông minh, cũng vô cùng thận trọng, về điểm này khá giống với loài sói, song có lẽ chúng còn điềm tĩnh hơn cả loài sói. Nếu là sói, chỉ cần ngửi thấy mùi máu tanh nồng nặc trên khắp cơ thể Mạc Thiên Quy, cả bầy hẳn đã lao tới xâu xé từ lâu. Song tam thú ngao lại không như vậy. Chúng chỉ bao vây, sau đó để một con lên trước dò la bản lĩnh của mục tiêu. Mà con thú đi dò la này lại di chuyển rất chậm rãi với quỹ đạo ngoằn ngoèo. Trạng thái này có lợi cho đột kích, cũng có lợi để né tránh kịp thời, độ xảo quyệt chẳng khác gì loài cáo.

    Song thực bất ngờ, tam thú ngao còn thông minh và xảo trá hơn cả tưởng tượng của Mạc Thiên Quy. Nó không bất ngờ đột kích trong quá trình di chuyển, mà dừng lại ở một bên mặt tường đá rất gần chỗ Mạc Thiên Quy đang đứng. Như vậy, dù Mạc Thiên Quy có bất ngờ tấn công, cũng chỉ có thể đánh vào chính diện và một bên sườn, còn nó tiến lui hay tránh né đều thuận tiện, thậm chí còn có thể nương theo vách đá để nhảy vọt lên trên hoặc lạch sang bên cạnh.

    Mạc Thiên Quy cảm thấy vô cùng kinh ngạc. Giống súc vật kỳ quái này lại có thể suy tính kín kẽ không thua kém gì cao thủ giang hồ.

    Sau khi con tam thú ngao này dừng lại, trong bầy thú lại có một con nữa bước lên, cũng quanh co lượn lờ trái phải. Không cần nhìn, Mạc Thiên Quy cũng biết, con thú này chắc chắn sẽ chiếm lĩnh lấy vị trí đối diện với con thứ nhất. Sau khi chúng đã chiếm cứ được tất cả những vị trí có lợi, sẽ tiếp tục tiến về phía lão, chiếm cứ các vị trí có lợi gần hơn. Khi đó, chúng chỉ cần vươn cổ há miệng, đã có thể xé xác lão lập tức. Trong toàn bộ quá trình này, chỉ cần lão có bất kỳ hành động nào, những con thú đã chiếm được vị trí có lợi sẽ khống chế lão, để những con thú khác nhân cơ hội ồ ạt tấn công hoặc tiếp tục quan sát.

    Nhận rõ tình thế, Mạc Thiên Quy không để con thứ hai kịp chiếm lĩnh vị trí. Lão khó nhọc di chuyển bước chân, thanh kiếm trong tay nhanh như chớp lao vụt về phía con tam thú ngao đầu tiên.

    Kiếm của Mạc Thiên Quy lưỡi rộng sống dày, song trong vẻ nặng nề lại không kém phần linh hoạt. Thế kiếm là lật tay chém ngang, nên phạm vi tấn công khá rộng, con thú có giật lùi hay lao về phía trước, vẫn nằm trong phạm vi của đường kiếm.

    Song con tam thú ngao vẫn đứng im, không lùi cũng chẳng tiến, chỉ vặn lưng một cái, nhổm thẳng thân trước dậy, đã dễ dàng né được thế kiếm chém ngang của Mạc Thiên Quy. Song Mạc Thiên Quy đã tính sẵn từ trước, chiêu thức mới sử ra một nửa, lập tức biến chiêu, thế chém ngang đổi thành thế đâm ngược, mũi kiếm nhằm vào giữa cổ họng tam thú ngao đâm ngược lên trên.

    Song lại xuất hiện một tình thế khiến Mạc Thiên Quy phải kinh hãi. Con thú nhìn thấy kiếm đâm tới, chân trước thình lình tạt mạnh, từ mé bên đập thẳng vào thân kiếm. Không những vị trí chính xác, mà lực đạo cũng cực lớn. Kiếm của Mạc Thiên Quy bị đẩy bật đi, mũi kiếm đâm thẳng vào vách đá, hoa lửa bắn tứ tung. Kinh dị hơn nữa là nhân lúc mũi kiếm đâm vào vách đá, con thú lập tức há miệng ngoạm lấy thân kiếm. Nó muốn cướp kiếm!

    Mạc Thiên Quy trong lòng khiếp đảm, song không hề chùn tay. Lão giật thanh kiếm về được nửa chừng, né khỏi miệng thú, rồi lại đột nhiên đâm thẳng tới phía trước, hướng vào cái miệng còn chưa kịp khép lại của con thú.

    Tam thú ngao vội cúi đầu lao bổ về phía trước, song vẫn hơi chậm. Kiếm đâm xẹt qua đỉnh đầu nó, phạt bay một mảng lông dài.

    Bị trúng đòn, con thú lúc lắc cái đầu to tướng, sau đó vẫn đứng im tại vị trí cũ. Một loạt đòn tấn công của Mạc Thiên Quy vẫn không thể khiến nó lùi lại dù chỉ là một tấc. Khi Mạc Thiên Quy tuyệt vọng lùi vào hốc lõm, thì con tam thú ngao thứ hai đã chiếm được vị trí có lợi ở phía bên kia.

    Tiếp đến, con tam thú ngao thứ ba trong bầy thú bước ra, lại uốn éo như bơi mà xáp tới...

    Dịch Huyệt Mạch vẫn trong cuộc đối đầu với Cao Bôn Lôi. Cao Bôn Lôi không hề tỏ ra coi thường đối thủ trước mặt, đừng nói là đối thủ đang cầm một chiếc kim mềm và mảnh, mà dù là một cọng cỏ héo khô thì hắn cũng sẽ dốc toàn lực để chiến đấu. Tuy nhiên, hắn không thể ngờ được rằng, khi hắn vừa vung chuỳ nhấc chân lao đi, thì chiêu thức xem ra vô cùng mẫu mực ra dáng của đối thủ bỗng chốc biến thành sụp gối quỳ mọp xuống, hướng về phía hắn mà vái lạy sát đất. Thật khó tin nổi, một kẻ bạc nhược vô dụng đến vậy cũng dám xông vào cứ điểm trọng yếu của Chu môn ư? Nhưng suy nghĩ này chỉ thoáng qua trong lúc bàn chân hắn nhấc lên. Khi bàn chân vừa chạm đất, Cao Bôn Lôi lập tức nhận ra mình đã sai lầm. Cao thủ đối trận, sai lầm cũng chính là thất bại, là mất mạng.

    Dịch Huyệt Mạch đã chọn đúng lúc cơ thể Cao Bôn Lôi bắt đầu hơi ngả về phía trước mà quỳ xuống. Cơ thể ngả về phía trước là để bước lên tấn công. Bước lên tấn công, bàn chân sẽ phải đưa về phía trước. Bởi vậy, Dịch Huyệt Mạch không những quỳ sụp xuống, mà còn phải phủ phục sát đất.

    Cao Bôn Lôi chỉ ngập ngừng trong một chốc lát, nếu là khoảnh khắc vừa đưa chân ra, hắn vẫn có thể xoay chuyển tình thế; song đến khi bước chân đã lao xuống, hắn sẽ không thể nào thu lại được.

    Về điều này, Dịch Huyệt Mạch thông thạo hơn cả Cao Bôn Lôi. Người theo nghề y đương nhiên phải hiểu rõ cấu tạo sinh lý của cơ thể con người, cũng rất thông thuộc những phản ứng vô thức giống như phản xạ của xương bánh chè. Cao Bôn Lôi đã rơi vào trạng thái kiểu này, còn Dịch Huyệt Mạch đang bò rạp dưới đất đã cầm sẵn chiếc kim dài mảnh chờ đợi lòng bàn chân không thể kiểm soát của hắn.

    Kim rất dài, không giống với kim châm cứu bình thường, song độ dài như vậy vừa hay có thể đâm tới độ cao mà lòng bàn chân của Cao Bôn Lôi không thể thu về được. Kim rất mảnh, rất mềm, song nhờ kỹ xảo vê xoay của ba đầu ngón tay Dịch Huyệt Mạch, mũi kim đã dễ dàng xuyên qua đáy ủng da bò dày cộm của hắn, tiếp tục đâm xuyên qua lớp chai dày cộm dưới lòng bàn chân, rồi xuyên vào trong huyết quản kinh mạch.

    Theo lý mà nói, một mũi kim như vậy dù có đâm xuyên thấu lòng bàn chân, thậm chí đâm trúng một huyệt vị nào đó trên bàn chân, cũng đều không thể gây tổn thương nghiêm trọng cho người bị đâm, huống hồ cây kim không hề đâm trúng huyệt vị. Thực tế cũng đúng như vậy, tuy bị cây kim dài xuyên sâu vào lòng bàn chân, song Cao Bôn Lôi không hề cảm thấy đau đớn hay khó chịu. Bởi vậy, khi bước chân đã có thể kiểm soát được, hắn không đợi cả bàn chạm đất, đã vội đề khí nhấc chân lên. Song thế đánh xuống của chuỳ bôn lôi lại không hề thay đổi, vẫn giáng thẳng xuống lưng Dịch Huyệt Mạch.

    Y đạo của Dịch Huyệt Mạch là trái ngược với lẽ thường, bởi vậy ông mới được mệnh danh là “nhổ ngược huyệt”. Thế nào là “nhổ ngược huyệt”? Chính là đảo lộn vị trí huyệt đạo, đau đầu chữa ở chân, bệnh bên trong chưa ở bên ngoài. Kỹ xảo châm cứu của ông cũng là dùng nhổ thay cho đâm, thông khí huyết thay cho tụ khí huyết. Tuy vị trí đâm kim không phải là huyệt vị ở bàn chân, song lại là nơi tụ hợp của kinh mạch huyết khí, tương đương với tiểu khí môn. Người luyện công đều có khí môn, hay còn gọi là tráo môn, là điểm yếu ớt nhất, nếu bị tổn thương sẽ gây tiêu tán công lực. Ngoài ra, trên cơ thể họ còn có rất nhiều điểm hội tụ của tinh huyết, chân khí, những vị trí này cũng rất quan trọng, chúng có liên quan tới trạng thái hoạt động của một số bộ phận khác trên cơ thể. Những điểm hội tụ này được gọi là tiểu khí môn.

    Tiểu khí môn thường rất ít người chú ý tới, bởi lẽ đều là nơi da dày nhiều thịt, khó bị tổn thương. Song nếu như bị tổn thương thực sự, thì người luyện võ coi như đã thành tàn phế. Bởi vậy, chỉ có những thầy thuốc trình độ cao siêu mới chú ý tới tiểu khí môn, vì khi chữa trị nội ngoại thương, những vị trí này là nơi thông khí tán ứ rất quan trọng.

    Cao Bôn Lôi vừa đề khí nhấc chân, cây kim lập tức bị nhổ bật khỏi lòng bàn chân, huyết khí cũng trào vọt ra ngoài ngay tức khắc, nguyên khí lập tức tán loạn. Huyết khí tại tiểu khí môn này kiểm soát hành động của hai cánh tay, bởi vậy chuỳ bôn lôi tuy đã nâng lên, song hai cánh tay lập tức cứng đờ không thể đập xuống được.

    Kim bạc đã được nhổ bật ra, Dịch Huyệt Mạch đang quỳ mọp sát đất cũng nhỏm thân trên dậy, song hai đầu gối vẫn quỳ, tiếp tục đâm nhát kim thứ hai.

    Vị trí đâm kim lần này đã khiến Cao Bôn Lôi cảm thấy quả tim tê rần, máu đổ dồn lên mặt, không những không hề cảm thấy khó chịu, ngược lại còn thấy rất sảng khoái. Mũi kim bạc vừa đâm vào giữa đũng quần của Cao Bôn Lôi, chọc trúng vành quy đầu trên dương vật của hắn. Kim vừa đâm vào trong thịt, cổ tay Dịch Huyệt Mạch đã bẻ cong lại, lập tức nhổ kim ra.

    Song lúc này Cao Bôn Lôi đã ý thức được mức độ khủng khiếp của hậu quả, trong lúc khẩn cấp, hắn đã liều mạng đá bàn chân vừa nhấc trở về ra phía trước.

    Dịch Huyệt Mạch đã quá sơ suất. Sự đắc ý sau khi một chiêu đắc thủ đã khiến ông liều lĩnh tiếp tục đâm nhát thứ hai, và cái giá phải trả cho sự liều lĩnh này là đã phải hứng trọn cú đá. Một cước của Cao Bôn Lôi đã giáng trúng ngực ông, Dịch Huyệt Mạch thậm chí không kịp kêu lấy một tiếng, cả thân người văng đi là là mặt đất, sau khi rơi xuống còn lăn lông lốc đến năm sáu vòng, tới khi va vào lan can bằng đá mới dừng lại được. Ông nằm sấp mặt trên nền đất, giống như đã chết rồi.

    Cũng chính vì trúng phải cú đá trời giáng, nên Dịch Huyệt Mạch chưa kịp nhổ hoàn toàn mũi kim bạc ra. Song chiếc kim đã nhổ ra quá nửa cũng đã rút ra một phần huyết khí, đủ để khiến Cao Bôn Lôi không còn cảm giác thư thái và kích thích như khi bị đâm vào. Hắn cảm thấy máu huyết khắp người đều đổ dồn lên mặt, hộp sọ như muốn nổ tung đến nơi. Cuối cùng, hắn gầm lên một tiếng vô cùng khủng khiếp, cùng lúc đó, phần nhân trung dưới mũi bỗng toác ra một lỗ hổng đỏ lòm, một khối máu rung rinh bắn vọt ra, rơi xuống đất bụi, bắn toé tứ tung.

    Nếu như kim bạc được nhổ ra hoàn toàn, thì vị trí nứt toác đáng lẽ phải ở ấn đường. Như vậy Cao Bôn Lôi sẽ bỏ mạng tại chỗ, không còn một cơ may sống sót. Lúc này, tuy vị trí bị nứt toác là nhân trung, song Cao Bôn Lôi vẫn cảm thấy nội khí đan nguyên đang ào ào tuôn ra ngoài qua chỗ nứt, chẳng khác gì nước vỡ đê. Khí đan nguyên ồ ạt tiết ra, sức lực trong cơ thể cũng mau chóng cạn kiệt, hai chân hắn lúc này đứng còn không vững, nói gì tới đánh đá. Cơ thể hắn đổ thẳng cánh về phía sau, nằm nhũn ra như một đống bùn nhão. Cây chuỳ to tướng trong tay cũng rơi đánh rầm trên mặt đất lát đá, nện vỡ liền bốn năm tảng đá, dội lên tiếng va đập vang rền tựa như chuông chùa buổi sớm.

    Chuỳ bôn lôi vừa rơi xuống đất, Dịch Huyệt Mạch đã ngồi bật dậy, sắc mặt xanh lét như chàm, hơi thở tắc nghẽn. Ông thuận tay rút ra một chiếc kim châm cứu trên vạt áo, châm vào đốt giữa ngón út trên bàn tay trái rồi rút ra ngay, lập tức từ miệng phun vọt ra ba ngụm máu ứ tím bầm. Máu ứ đã phun ra hết, sắc mặt Dịch Huyệt Mạch tươi tỉnh hẳn lên, sau vài lần thở sâu vận khí, ông đã có thể bám vào lan can đá, từ từ đứng dậy.

    Nhìn Cao Bôn Lôi vẫn gắng gượng giãy giụa trên mặt đất, Dịch Huyệt Mạch nhếch miệng cười khẽ. Kết quả này vẫn khiến ông rất mãn nguyện. Cao Bôn Lôi tuy không chết ngay, song giờ đây còn không bằng cả một người bình thường, hơn nữa nếu không được chữa trị kịp thời, e rằng tính mạng cũng khó lòng giữ được.

    Sau khi quan sát một lượt tình hình xung quanh, xác nhận không còn mối uy hiếp nào khác, Dịch Huyệt Mạch cũng đi về phía sau toà điện bên trái. Có điều nhìn vào dáng đi của ông, đã không còn vẻ nhanh nhẹn phiêu dật như lúc ban đầu.

    Bị đám cao thủ của Chu gia áp sát, lão Lợi và Dương Tiểu Đao phải liên tục thoái lui. Dương Tiểu Đao tuy đao pháp lợi hại, song tốc độ di chuyển và thân thủ lại chưa đạt đến hàng cao thủ, hơn nữa gã đang phải đi giật lùi, dưới chân lại đầy đá vụn, nên càng không thể thi triển thân hình. Bởi vậy trước sự dồn ép của đối thủ, Dương Tiểu Đao mau chóng rơi vào tình thế hết sức nguy ngập.

    Trong lúc lùi lại, Dương Tiểu Đao loạng choạng liền hai bước, xém chút nữa đã ngã bật ngửa. Đối thủ chớp lấy cơ hội, đao quang loang loáng ập tới gần như đã bao trùm toàn bộ cơ thể gã. Lúc này, chỉ cần gã sơ sểnh thêm một lần nữa, tính mạng sẽ đi đứt như chơi. Trước những đòn tấn công tối tăm mặt mũi của đối thủ và liên tục phải bước giật lùi, sơ hở lại xuất hiện, gã đã thò một nửa cẳng chân vào trong cửa tử.

    Đúng vào thời khắc ngàn cân treo sợi tóc, lão Lợi đang nằm bò dưới đất bất ngờ bật phóc người đứng dậy, đao đầu quỷ trong tay vụt biến thành một vệt sáng loà chém xéo tới, tựa như một luồng lốc xoáy. Tay sát thủ đang dùng xác chết làm lá chắn không kịp rú lên một tiếng đã bị phạt đứt đôi cùng với “lá chắn”. Máu tươi phun vọt tựa mưa rào, vuông nhiễu đỏ bay lên lồng lộng như đám mây, bao trọn lấy màn mưa máu.

    Sau cú ra đòn, lão Lợi tay phải cầm ngang cán đao, tay trái đỡ lấy đầu quỷ trên thân đao, đứng chắn ngang trước mặt Dương Tiểu Đao.

    Dương Tiểu Đao lúc này mới kịp thở lấy một hơi, và cũng phải đến lúc này mới có cơ hội rút lấy thanh đao từ “lá chắn” xác người.

    Đám sát thủ đang dàn hình bán nguyệt bao vây lấy họ đương nhiên sẽ không chịu bỏ cuộc. Lại có hai thân hình lao ra từ hai bên trái phải, một tên nhảy vọt lên tấn công phía trên, một tên khom lưng tấn công phía dưới, mục tiêu đều nhắm vào lão Lợi.

    Lão Lợi bị thương không nhẹ, sắc mặt đã tái xanh tái xám, lưỡi đao trong tay cũng đã chuyển từ màu trắng loà như tuyết sang màu xanh thẫm như nước hồ. Hai tên sát thủ hợp lực đánh tới, song lão Lợi vẫn đứng im bất động, dường như ngay cả một chút khả năng né tránh cũng không còn.

    Dương Tiểu Đao từ phía sau lão Lợi lao vụt lên, vung đao nhằm vào sát thủ tấn công phía dưới. Tay sát thủ dường như đã dự tính từ trước, cơ thể lập tức lướt nghiêng sang bên cạnh, lưỡi đao trong tay Dương Tiểu Đao đánh hụt vào khoảng không. Trong khi tay sát thủ phía trên khí thế tấn công càng thêm dữ dội và nhanh chóng.

    Một tên là mồi nhử, một tên là giết thực, đây là sự kết hợp đúc rút từ vô số lần rèn luyện và vô số lần thực chiến. Trong hai tên sát thủ, dù có đánh tên nào, thì tên đó cũng sẽ lập tức né tránh, biến thành mồi nhử, để tên còn lại tung ra đòn sát thương thực sự.

    Song phản ứng của Dương Tiểu Đao vẫn hết sức nhanh nhạy. Vừa nhìn thấy tên sát thủ thuận thế né tránh, gã lập tức xoay đao sang hướng bên kia, đứng thẳng người giơ đao nghênh chiến. Song đã muộn rồi, đao của sát thủ đã hạ xuống.

    Thanh đao đang xoay ngang của lão Lợi không vung lên đón chiêu, mà lại đâm ngang đi, đây chính là chiêu “lấy công làm thủ”, có thể nhân lúc đối thủ tiếp đất mà đâm thẳng vào bụng dưới và sườn dưới bên phải của hắn. Song chiêu này lại không phải là thượng sách, chỉ cần đối thủ dám chấp nhận bị thương, thì cú hạ đao của đối thủ vẫn có thể dễ dàng tước đi tính mạng của lão Lợi.

    Song vấn đề là ở chỗ, dù sát thủ có lợi hại đến đâu, thì tôn chỉ hàng đầu của chúng vẫn là phải bảo vệ bản thân trước, tiếp đó mới là sát thương kẻ địch. Sát thủ đang lao tới cũng không ngoại lệ, bởi vậy trước mũi đao đang phóng tới, cơ thể hắn lập tức lắc sang một bên né tránh theo phản xạ.
     
  3. hoahongtokyo

    hoahongtokyo C O N T R A

    Tham gia ngày:
    27/2/05
    Bài viết:
    1,814

    Dao của lão Lợi không đâm tới đối thủ, đao của đối thủ cũng không lấy được mạng của lão Lợi.

    Khi sát thủ tiếp đất, đao đầu quỷ của lão Lợi đã chém sang tới bên kia, nhưng không chạm được tới người sát thủ. Tay sát thủ phải xoay người né tránh, nên đường đao hơi chếch đi, song vẫn chém trúng vai phải lão Lợi, nhát chém thấu xương, đau đớn thấu tim gan.

    Đao của Dương Tiểu Đao cũng đã đâm trúng mặt sát thủ. Trong tình trạng này, sát thủ đáng lẽ phải thu đao lùi lại, song hắn chỉ có thể ngửa mặt né tránh, vì khi đao của hắn chém vào vai phải lão Lợi, thì bàn tay trái vốn đang đỡ lấy đầu quỷ của lão Lợi đã bóp chặt lấy cổ tay cầm đao của hắn.

    Dương Tiểu Đao một đao không trúng, lập tức biến chiêu, mũi đao đâm xuống, nhắm thẳng yết hầu của đối phương.

    - Dừng tay! Để tôi!

    Mũi đao vốn đã chạm tới yết hầu của sát thủ, nghe thấy tiếng hét của lão Lợi, Dương Tiểu Đao lập tức dừng ngay thế đao hạ sát. Thanh đao đầu quỷ của lão Lợi đã lại vung lên, từ từ đâm tới trước ngực bụng sát thủ.

    Tốc độ của đao không nhanh, nhưng đâm vào da thịt sát thủ lại hết sức nhẹ nhàng, quả là một thanh đao sắc bén. Máu tươi chảy như tắm trên thân đao, có máu của sát thủ, cũng có máu của lão Lợi. Vuông nhiễu đỏ trên cán đao lần này không thể tung lên gom lấy máu tươi của sát thủ, vì đã thấm đẫm máu của lão Lợi đang chảy xuôi xuống theo cánh tay.

    Lão Lợi lúc này mới buông cổ tay tên sát thủ ra, thuận thế giật đứt vuông nhiễu đỏ trên cán đao, nhét luôn vào trong tay Dương Tiểu Đao đang đứng bên cạnh, nói vội:

    - Đi mau! Nếu có cơ hội, hãy đưa vuông nhiễu đỏ này cho Lỗ môn trưởng.

    Dương Tiểu Đao liếc nhìn lão Lợi. Lúc này mắt lão đã đỏ ngầu, sắc mặt cũng đỏ rực như máu. Đao trong tay cũng không còn thấy màu xanh, mà lấp loáng ánh đỏ. Dương Tiểu Đao không hỏi thêm câu nào nữa, từ giọng nói và ánh mắt của lão Lợi, gã hiểu rằng mình cần phải làm theo lời lão.

    Vòng vây hình cánh cung chỉ còn thiếu bốn năm vị trí nữa là khép kín, bọn họ sắp bị bao vây thực sự, Dương Tiểu Đao có thể xông ra hay không vẫn chưa dám chắc. Đao Bào Đinh trong tay gã múa lên vun vút như màn chớp giật. Dưới sự yểm trợ của thế đao cuồng dại, gã đã xông ra khỏi vòng vây, chạy về phía chân núi Thiên Thê.

    Không ai đuổi theo Dương Tiểu Đao, bởi đám sát thủ đều biết rõ hướng mà Dương Tiểu Đao chạy tới không có đường đi. Ở đó là một vách núi sạt lở đã bị phong hoá nghiêm trọng, đá trên bãi Thần Hô đều do vách núi này vỡ lở mà lăn xuống.

    Lão Lợi tuy cơ thể thấp bé, song lúc này lại toát lên một vẻ ngạo nghễ vô song. Lão gác sống đao lên bờ vai phải đang máu tuôn xối xả, xem ra cánh tay phải bị thương đã không còn đủ sức để nhấc nổi đao lên. Còn tay trái vốc lấy một bụm máu chảy ra từ vết thương trên vai phải, rồi vuốt nhẹ lên đỉnh đầu. Mái tóc được thấm ướt lập tức trở nên suôn mượt, không chút rối loạn.

    Vòng vây của đám sát thủ đã khép kín, lão Lợi đã không còn cơ hội thoát thân. Đại hộ pháp từ trong đám người bước ra, không phải là gã dám đối mặt với đối thủ, mà là gã đã nắm chắc mười phần sẽ chiến thắng lão Lợi. Khi lão Lợi chưa bị thương đã không phải là đối thủ của gã, bây giờ vừa trúng chưởng nội thương, lại bị trúng đao ngoại thương, gã muốn bắt hay giết lão Lợi đều dễ dàng như trở bàn tay.

    Tới sát trước mặt lão Lợi, Đại hộ pháp thủng thẳng giơ bàn tay ra. Gã muốn dùng hành động này để cảnh cáo lão Lợi rằng, gã chỉ cần tung ra Chuyển luân chưởng, lão Lợi sẽ không còn cơ may sống sót.

    Lão Lợi đã không cho Đại hộ pháp cơ hội. Bộ mặt luôn mỉm cười của lão đột nhiên sắt lại, thân đao đầu quỷ đang dựng thẳng trên vai đột ngột lật ngang, lưỡi đao sắc lẹm giật mạnh vào trong. Một màn huyết quang bắn vọt lên, chính giữa cần cổ lão Lợi mở ra một đường đỏ máu tựa như một miệng cười toe toét. Từ miệng lão phun ra một vòi máu, hoà lẫn với màn máu vọt ra bên cổ, nhanh chóng phủ kín thân đao. Thanh đao đầu quỷ bỗng chốc đổi màu đỏ rực, như nở ra, như phát sáng.

    Đại hộ pháp dừng vội tay chưởng. Nhìn thấy nhát đao tự vẫn của lão Lợi, gã không hề cảm thấy ngạc nhiên. Dù sao kết cục cuối cùng vẫn là cái chết, tự vẫn chí ít cũng có thể giữ được chút danh dự của kẻ giang hồ.

    Máu vẫn phun ra thành tia từ cổ lão Lợi, song cơ thể lão cứ đứng trơ trơ, không hề đổ xuống, đôi mắt cũng chưa khép lại. Lão vẫn đang nhìn chằm chằm vào Đại hộ pháp, nhìn chằm chằm vào đám sát thủ kia, trong ánh mắt tràn đầy vẻ khinh miệt và thương hại.

    Lúc này, thanh đao đầu quỷ mặt cười lại càng thêm đỏ rực, càng thêm sáng loá. Quá nhiều nhẫn quang và huyết quang hội tụ trong đó đã khiến thanh đao không thể chịu đựng thêm được nữa.

    - Không ổn! Chạy mau! - Kỳ thực, Đại hộ pháp không biết bất ổn ở chỗ nào, song trong lòng gã bỗng trỗi dậy một cảm giác nguy hiểm vô cùng khủng khiếp, nên bất giác muốn tháo chạy.

    Song đã muộn rồi. Từ thân đao bùng lên một chùm sáng chói lọi, cùng với đó, một khối đỏ rừng rực như máu bắn vọt ra tứ phía. Ánh sáng rực rỡ, huyết quang đỏ loà, song không hề phát ra một mảy âm thanh, đến tiếng mảnh vỡ va đập, tiếng cứa da toác thịt cũng không có, như thể máu tích tụ trên thân đao đã bắn vụt đi.

    Đao đầu quỷ, tên gọi chính xác là đao Bách toái. Càng sát hại nhiều tính mạng, nét cười trên khuôn mặt quỷ trông càng ma quái âm trầm. Trước khi giết đủ trăm mạng, cần đưa vào lò đúc lại, nếu không khi chém đến mạng người thứ một trăm, thân đao sẽ nổ tung thành trăm mảnh, giết người cũng giết luôn cả bản thân. Bởi vậy, những người sử dụng loại đao này, khi chém giết cần phải ghi nhớ kỹ số nhân mạng đã bỏ xác dưới đao.

    Đao Bách toái của lão Lợi là vũ khí gia truyền, đương nhiên lão biết rõ điều này, bởi vậy mọi thứ đều đã được lão tính toán kỹ lưỡng. Sau khi giết chết sát thủ dùng xác người làm lá chắn, thanh đao toả ánh sáng xanh, đã chứng thực số lượng lão ghi nhớ là chính xác. Bởi vậy, lão mới bảo Dương Tiểu Đao đi trước, còn bản thân ở lại để đi về cõi chết.

    Sau khi thanh đao nổ tung, quá nửa cơ thể lão Lợi đã tan nát. Đại hộ pháp đứng gần lão nhất cũng nát bấy non nửa thân người. Đám sát thủ xung quanh thi nhau đổ xuống, đến một tiếng kêu rú trong cơn hấp hối cũng không kịp bật lên. Bởi vì mảnh vỡ vừa lao vào cơ thể, hơi thở đã tuyệt, bước chân chưa kịp di chuyển đã cứng đờ. Cơ thể chúng lập tức co quắp biến dạng, không kịp giãy giụa đã chết cứng, bộ dạng cực kỳ khủng khiếp.

    Khi đao Bách toái nổ tung, đã thấm đẫm tinh huyết và oan độc của trăm tính mạng. Mảnh đao vỡ gặp máu liền hoá, theo máu mà đi. Mảnh vỡ đâm vào cơ thể, không phải là đao đang giết người, mà là cả trăm hung hồn ác quỷ đang giết người.

    Chỉ có hàng sát thủ thứ hai vừa xông vào qua lỗ hổng, do khoảng cách khá xa nên không bị mảnh đao vỡ đâm trúng. Sau khoảnh khắc kinh tâm táng đởm, chúng lập tức vòng qua đám xác chết hình thù rùng rợn, tiếp tục đuổi theo Dương Tiểu Đao. Đây chính là những sát thủ đã được Chu gia huấn luyện kỹ càng, không sợ không lùi, tâm như tử sĩ.

    Dương Tiểu Đao từ xa đã nhìn thấy cảnh tượng lão Lợi nổ đao thảm sát đối thủ, cũng đã ngửi thấy mùi máu tanh lợm bay xộc tới. Không rõ là do cảnh tượng thảm khốc kia, hay do mùi máu tanh hôi quá mức, mà bụng dạ gã bỗng cuộn lên nhộn nhạo, phải gập người oẹ liền mấy cái, song chẳng nôn ra được thứ gì, chỉ khiến hai mắt gã tràn đầy lệ đục, che lấp cả tầm nhìn.

    Gã đưa tay gạt màn nước mắt để nhìn cho rõ, song thứ nhìn thấy lại là đám sát thủ đang vùn vụt lao tới. Quay đầu lại nhìn, trước mặt lại là vách đá vỡ lở, đã hết đường tháo chạy...

    Lúc này Hạ Táo Hoa và Dưỡng Quỷ Tỳ đang dựa sát vai nhau, trước mặt họ là đám sát thủ lợi hại hơn nhiều so với những kẻ bên mảng tường đổ phía tây. Đa phần trong đó là cao thủ do Chu Chân Mệnh đích thân dẫn tới, bao gồm người đao mười sáu lưỡi và hộ vệ tổng đường, cộng thêm những cao thủ hàng đầu do các đường khẩu điều tới. Trước đó, chúng được Chu Chân Mệnh bố trí canh giữ ở quanh chùa, sau đã trở về chùa qua con đường bí mật. Lại thêm Dương Thiên Vương nãy giờ bám theo Hạ Táo Hoa cũng vào nhập bọn.

    Hạ Táo Hoa và Dưỡng Quỷ Tỳ biết mình không phải là đối thủ của đám người này, song hai người họ lại nhất quyết tử thủ tại hành lang quanh tháp. Bởi họ hiểu rõ, nếu để đám cao thủ này đuổi tới, Lỗ Nhất Khí coi như đã hết cơ hội. Họ lựa chọn vị trí cố thủ tại đầu hành lang và mật độ dày đặc của khảm nút xung quanh sẽ gây bất lợi cho tấn công ồ ạt. Dù người của đối phương có đông đảo tới đâu, có thông thạo cách bố trí khảm nút xung quanh thế nào, thì nhiều nhất cũng chỉ đủ không gian cho ba, bốn người cùng tấn công mà thôi.

    Trên thực tế, cuộc giao chiến giữa hai bên vô cùng ngắn ngủi, Hạ Táo Hoa và Dưỡng Quỷ Tỳ vừa triển khai công lực, đối phương đã dừng tấn công. Chúng dừng lại vì đã nhận được một tín hiệu nào đó, một tín hiệu không cho phép phản kháng. Về điểm này, Dưỡng Quỷ Tỳ hiểu rõ hơn Hạ Táo Hoa, dù gì cô cũng lớn lên trong Chu gia, nên đã thông thuộc các quy tắc của bọn họ.

    Người phát tín hiệu chắc hẳn ở gần đây, cục diện đối đầu ở bên này hẳn cũng nằm trong phạm vi quan sát của hắn. Tín hiệu phát ra là muốn phe mình vốn đã chiếm được ưu thế tạm ngừng tấn công, cho thấy chắc chắn đã có bố cục và thủ đoạn nguy hiểm gấp bội dành sẵn cho bọn họ. Dưỡng Quỷ Tỳ cảm thấy nếu bọn họ cứ tiếp tục cố thủ tại đây sẽ càng thêm nguy hiểm, khác nào đám cừu chờ sói tới ăn thịt. Cần phải mau chóng thoát khỏi tình thế này.

    - Chúng ta phải rời khỏi đây ngay lập tức, trước khi đi phải nghĩ cách cản chân đám sát thủ này lại! - Dưỡng Quỷ Tỳ từ nhỏ ít giao thiệp với người khác, bởi vậy cũng không biết cách nói năng cho khách khí.

    Hạ Táo Hoa đã bình tĩnh hơn rất nhiều so với lúc lão mù vừa chết. Cô ta vốn là người thông minh sắc sảo, chỉ cần đầu óc tỉnh táo, sẽ có thể bộc phát một nguồn năng lượng vô cùng khủng khiếp.

    - Cô đi trước đi, khoảng bảy chục bước đứng lại chờ tôi! - Hạ Táo Hoa nói.

    Dưỡng Quỷ Tỳ đi rất nhẹ nhàng. Cô vốn ngây thơ tin người, nên chẳng hề thấy lo lắng cho Hạ Táo Hoa. Dưỡng Quỷ Tỳ đi rất thung dung, hành lang quanh tháp tuy đầy rẫy khảm nút, song những khảm nút mà Chu gia thường xuyên sử dụng đã quá quen thuộc với cô, nên chẳng khác gì đi trên đường về nhà.

    Dưỡng Quỷ Tỳ vừa bước đi, Hạ Táo Hoa lập tức đưa tay vào chiếc túi nhỏ bên hông lôi ra một thứ gì đó, đồng thời bước xéo ra phía sau vài bước. Vài bước này vừa hay đã rẽ vào một khúc ngoặt của đường khảm. Như vậy, giữa cô và đám sát thủ đã có thêm hai điểm giẫm trên nút lẫy, cũng giống như cô đã nấp vào sau một góc tường quanh.

    Hạ Táo Hoa cũng rất thung dung, không cần để ý xem Dưỡng Quỷ Tỳ đã tới đúng chỗ chưa, cũng không để ý xem đám cao thủ trước mặt có hành động khác lạ nào không, chỉ chú tâm vào chiếc túi vải hoa lam vừa lôi ra từ trong túi đeo. Nâng túi vải trên lòng bàn tay, cô bắt đầu lầm rầm tụng niệm:

    - Xanh vàng đỏ trắng đen tuỳ ý, kiếp trước gặp hung kiếp này cát, thu về khí huyết mạch tam kinh, không làm oan hồn nơi âm thế...

    Loại thần chú này vừa không phải xuất phát từ phương thuật Đạo giáo, cũng không bắt nguồn từ tà phái vu thuật của dị tộc. Nếu xét về nguồn gốc, nó cũng ít nhiều có liên quan tới Đạo giáo, chính là lời chú tụng niệm khi hành khí của người luyện Khí Môn tông. Người sáng lập ra Khí Môn tông là một thần y thời Đông Hán có tên là Lục Huyền Nguyệt. Tuy ông tinh thông kim thạch dược lý đến độ xuất thần nhập hoá, song còn ngưỡng mộ đạo thần tiên hơn nữa, nên đã theo học một đạo sĩ nổi tiếng thời Đông Hán tên là Nguỵ Bá Dương, khổ luyện theo trước tác thần kỳ “Tham đồng khế” do Nguỵ Bá Dương kết hợp “Kinh Dịch”, “Lão Tử”, “Trang Tử” mà soạn nên. “Tham đồng khế” là thuỷ tổ của hành khí kinh đan, Lục Huyền Nguyệt chuyên tâm nghiên cứu về hành khí, cuối cùng đã có thành tựu xuất sắc, rời khỏi sư môn tự thành lập phái riêng, gọi là Hợp Đức khí tông. Ý nghĩa của nó được lấy từ câu “Âm dương hợp đức mà cương nhu có thể” trong “Kinh Dịch”. Tông phái này đã suy thoái sau triều Đường Tống, chỉ còn sót lại một ít di mạch ở vùng Tây Bắc.

    Hạ Táo Hoa đã học được công phu của Hợp Đức khí tông từ trong một cuốn sách cổ mà lão mù lấy trộm về. Song công phu đó đã không còn là chính tông, mà pha tạp rất nhiều kỹ xảo vu thuật của người dị tộc. Như lúc này, công phu hành khí của cô tuy tương hợp với Hợp Đức khí tông, song khí được vận hành lại không phải là chính khí âm dương nội tu, mà là chiếc túi vải hoa lam kia.

    Túi vải hoa lam được mở ra, bên trong còn có một gói lụa vàng. Trên tấm lụa thêu đầy kinh văn, còn thấy lờ mờ một ấn phong bằng chu sa.

    Hạ Táo Hoa niệm chú mỗi lúc một lớn tiếng, ngón trỏ tay phải vạch vẽ loằng ngoằng trên gói lụa vàng. Dây buộc trên tấm lụa từ từ lỏng ra, bốn góc gói lụa không gió tự mở, lộ ra thứ được bọc kín bên trong.

    Đó là năm cục màu xám trắng, có dài có ngắn, có to có nhỏ, đều mang hình thù bất quy tắc. Chúng mang theo những khí tướng có độ mạnh và hướng lan toả hoàn toàn khác nhau.

    - Xương! Là xương người! - Kẻ vừa nhận ra là một cao thủ chuyên giải phẫu xác chết của Tam Xuyên đường phía Chu gia.

    - Có cốt khí, có thi khí, còn có độc khí! - Lại một cao thủ luyện khí của Tương Tây đã nhận ra khí tướng của mấy cục xương.

    Tiếng niệm chú của Hạ Táo Hoa đã trở nên vang vọng, tiết tấu cũng được đẩy nhanh. Khí thế của năm cục xương cũng theo đó mà bốc lên dữ dội.

    Năm cục xương, mỗi cục đều đồng thời ẩn chứa cốt khí, thi khí và độc khí. Song khí tướng ẩn chứa trong mỗi cục xương lại khác nhau. Cốt khí có khí xương khô, khí xương non, khí xương vỡ; thi khí có khí xác rữa, khí xác sống, khí xác khô; độc khí lại còn nhiều hơn nữa, mỗi cục xương đều chứa không dưới bốn năm loại.

    Do nguồn gốc của khí không giống nhau, nên khí tướng hiện lên cũng rất khác biệt. Khí tuóng vọt lên từ năm cục xương hiện rõ năm màu xanh, vàng, đỏ, trắng và đen. Khí tướng năm màu này lúc thì hoà quyện vào nhau, lúc lại tản ra bốn phía, bay dật dờ bất định.

    - Luật... cấp... hành! - Hạ Táo Hoa vừa hô lớn, cánh tay đã vung lên. Năm cục xương lập tức văng ra, lăn lông lốc trên nền hành lang, tản ra thành cục tướng Năm cửa ải cửu tuyền.

    Năm cục xương vừa rơi xuống đất, khí tướng lập tức nở phình, xoay tròn, lan toả khắp xung quanh. Khí thế và hướng đi của nó ngầm hợp với cách bố trí của cục tướng Năm cửa ải cửu tuyền, uốn lượn vu hồi, như xúc tu, như rắn trườn, chất độc ngùn ngụt, năm màu rực rỡ, mùi thối rữa nồng nặc, như thể có hồn ma, xác chết đang giãy dụa, đang dật dờ đi lại.

    Đám cao thủ Chu gia nhìn thấy cảnh tượng này, đều bất giác lùi lại hai bước.

    Hạ Táo Hoa vừa hất năm cục xương đi, lập tức quay người chạy thẳng. Nhìn vào tốc độ di chuyển, có thể thấy cô đang cố gắng né tránh làn khí đang lan toả kia, không muốn để bất kỳ một bộ phận nào trên cơ thể chạm vào luồng khí tướng năm màu đó.

    Trong đám cao thủ của Chu gia vẫn có kẻ không rời mắt khỏi Hạ Táo Hoa. Đây chính là kinh nghiệm giang hồ, trước một cục tướng mà bản thân không hay biết, tốt nhất nên quan sát phản ứng của người bố trí cục tướng. Nếu ngay cả bản thân người bố trí cục tướng cũng tỏ ra sợ hãi né tránh, thì những người khác lại càng phải tránh xa. Mấy tên cao thủ này vừa thấy Hạ Táo Hoa phản ứng như vậy, lập tức vội vã thoái lui, chạy dạt đi thật xa. Những cao thủ khác tuy không biết mô tê gì, nhưng thấy đồng bọn lùi lại, cũng cuống quýt lùi theo.

    Dưỡng Quỷ Tỳ vừa đứng lại ở khoảng cách bảy chục bước, Hạ Táo Hoa cũng đã kịp lao tới, kéo lấy cô tiếp tục chạy ào đi.

    - Từ từ, nhìn kỹ xem phía trước có khảm cục không đã. - Dưỡng Quỷ Tỳ biết rõ sự lợi hại của Chu gia, nên vội vã nhắc nhở Hạ Táo Hoa.

    - Anh Nhất Khí đã đi qua, có khảm nút cũng phá giải cả rồi. Tôi vừa rải ra Ngũ cốt hành khí mê, tuy hung dữ, song nhiều nhất cũng chỉ cầm cự được khoảng hai chén trà, sau đó toàn bộ sẽ thành hư tướng!

    Hai chén trà, không phải là dài, cũng không phải là ngắn.

    Thân thủ của Hạ Táo Hoa và Dưỡng Quỷ Tỳ đều cực kỳ nhanh nhẹn, hoàn toàn có thể lợi dụng khoảng thời gian này để đuổi kịp Lỗ Nhất Khí, song với điều kiện là không bị ai ngăn cản. Song hai cô gái quả là không may mắn, vừa tới phía dưới bức bích hoạ, từ trên vách đá bỗng bay vụt xuống một thân hình đầy đặn phì nhiêu, chặn ngay trước mặt. Người này chúi đầu mà lao xuống, khi sắp chạm đất lại uyển chuyển lượn vòng mà lên. Dáng vẻ tuyệt đẹp, áo bay như mây, mặt hồng như ráng, da trắng như tuyết, khác nào tiên nữ giáng trần.

    - Báo Cơ nương nương! - Dưỡng Quỷ Tỳ kêu lên kinh hãi. Tuy cô chưa một lần gặp Báo Cơ, song đã nhiều lần nghe người khác mô tả về dáng vẻ của Báo Cơ. Dưỡng Quỷ Tỳ quả thực cảm thấy khiếp sợ, bởi lẽ công lực của Báo Cơ không hề thua kém sư phụ của cô. Dù cô và Hạ Táo Hoa liên thủ, cũng khó lòng thoát khỏi tay Báo Cơ.

    Hạ Táo Hoa dày dạn kinh nghiệm, từ giọng nói và vẻ mặt của Dưỡng Quỷ Tỳ, cô lập tức hiểu ra rằng mình đã phải đương đầu với một kẻ địch hết sức đáng gờm. Cô nhanh chóng âm thầm tụ lực, chuẩn bị dốc toàn lực lao vào trận quyết tử.

    Vậy là ba người dàn thành hình chạc ba, người chưa động, khí thế đã động. Ba luồng khí tướng cuồn cuộn như mây toả, xoắn xuýt vào nhau, va chạm với nhau...
     
  4. hoahongtokyo

    hoahongtokyo C O N T R A

    Tham gia ngày:
    27/2/05
    Bài viết:
    1,814

    Cao của lão Lợi không đâm tới đối thủ, đao của đối thủ cũng không lấy được mạng của lão Lợi.

    Khi sát thủ tiếp đất, đao đầu quỷ của lão Lợi đã chém sang tới bên kia, nhưng không chạm được tới người sát thủ. Tay sát thủ phải xoay người né tránh, nên đường đao hơi chếch đi, song vẫn chém trúng vai phải lão Lợi, nhát chém thấu xương, đau đớn thấu tim gan.

    Đao của Dương Tiểu Đao cũng đã đâm trúng mặt sát thủ. Trong tình trạng này, sát thủ đáng lẽ phải thu đao lùi lại, song hắn chỉ có thể ngửa mặt né tránh, vì khi đao của hắn chém vào vai phải lão Lợi, thì bàn tay trái vốn đang đỡ lấy đầu quỷ của lão Lợi đã bóp chặt lấy cổ tay cầm đao của hắn.

    Dương Tiểu Đao một đao không trúng, lập tức biến chiêu, mũi đao đâm xuống, nhắm thẳng yết hầu của đối phương.

    - Dừng tay! Để tôi!

    Mũi đao vốn đã chạm tới yết hầu của sát thủ, nghe thấy tiếng hét của lão Lợi, Dương Tiểu Đao lập tức dừng ngay thế đao hạ sát. Thanh đao đầu quỷ của lão Lợi đã lại vung lên, từ từ đâm tới trước ngực bụng sát thủ.

    Tốc độ của đao không nhanh, nhưng đâm vào da thịt sát thủ lại hết sức nhẹ nhàng, quả là một thanh đao sắc bén. Máu tươi chảy như tắm trên thân đao, có máu của sát thủ, cũng có máu của lão Lợi. Vuông nhiễu đỏ trên cán đao lần này không thể tung lên gom lấy máu tươi của sát thủ, vì đã thấm đẫm máu của lão Lợi đang chảy xuôi xuống theo cánh tay.

    Lão Lợi lúc này mới buông cổ tay tên sát thủ ra, thuận thế giật đứt vuông nhiễu đỏ trên cán đao, nhét luôn vào trong tay Dương Tiểu Đao đang đứng bên cạnh, nói vội:

    - Đi mau! Nếu có cơ hội, hãy đưa vuông nhiễu đỏ này cho Lỗ môn trưởng.

    Dương Tiểu Đao liếc nhìn lão Lợi. Lúc này mắt lão đã đỏ ngầu, sắc mặt cũng đỏ rực như máu. Đao trong tay cũng không còn thấy màu xanh, mà lấp loáng ánh đỏ. Dương Tiểu Đao không hỏi thêm câu nào nữa, từ giọng nói và ánh mắt của lão Lợi, gã hiểu rằng mình cần phải làm theo lời lão.

    Vòng vây hình cánh cung chỉ còn thiếu bốn năm vị trí nữa là khép kín, bọn họ sắp bị bao vây thực sự, Dương Tiểu Đao có thể xông ra hay không vẫn chưa dám chắc. Đao Bào Đinh trong tay gã múa lên vun vút như màn chớp giật. Dưới sự yểm trợ của thế đao cuồng dại, gã đã xông ra khỏi vòng vây, chạy về phía chân núi Thiên Thê.

    Không ai đuổi theo Dương Tiểu Đao, bởi đám sát thủ đều biết rõ hướng mà Dương Tiểu Đao chạy tới không có đường đi. Ở đó là một vách núi sạt lở đã bị phong hoá nghiêm trọng, đá trên bãi Thần Hô đều do vách núi này vỡ lở mà lăn xuống.

    Lão Lợi tuy cơ thể thấp bé, song lúc này lại toát lên một vẻ ngạo nghễ vô song. Lão gác sống đao lên bờ vai phải đang máu tuôn xối xả, xem ra cánh tay phải bị thương đã không còn đủ sức để nhấc nổi đao lên. Còn tay trái vốc lấy một bụm máu chảy ra từ vết thương trên vai phải, rồi vuốt nhẹ lên đỉnh đầu. Mái tóc được thấm ướt lập tức trở nên suôn mượt, không chút rối loạn.

    Vòng vây của đám sát thủ đã khép kín, lão Lợi đã không còn cơ hội thoát thân. Đại hộ pháp từ trong đám người bước ra, không phải là gã dám đối mặt với đối thủ, mà là gã đã nắm chắc mười phần sẽ chiến thắng lão Lợi. Khi lão Lợi chưa bị thương đã không phải là đối thủ của gã, bây giờ vừa trúng chưởng nội thương, lại bị trúng đao ngoại thương, gã muốn bắt hay giết lão Lợi đều dễ dàng như trở bàn tay.

    Tới sát trước mặt lão Lợi, Đại hộ pháp thủng thẳng giơ bàn tay ra. Gã muốn dùng hành động này để cảnh cáo lão Lợi rằng, gã chỉ cần tung ra Chuyển luân chưởng, lão Lợi sẽ không còn cơ may sống sót.

    Lão Lợi đã không cho Đại hộ pháp cơ hội. Bộ mặt luôn mỉm cười của lão đột nhiên sắt lại, thân đao đầu quỷ đang dựng thẳng trên vai đột ngột lật ngang, lưỡi đao sắc lẹm giật mạnh vào trong. Một màn huyết quang bắn vọt lên, chính giữa cần cổ lão Lợi mở ra một đường đỏ máu tựa như một miệng cười toe toét. Từ miệng lão phun ra một vòi máu, hoà lẫn với màn máu vọt ra bên cổ, nhanh chóng phủ kín thân đao. Thanh đao đầu quỷ bỗng chốc đổi màu đỏ rực, như nở ra, như phát sáng.

    Đại hộ pháp dừng vội tay chưởng. Nhìn thấy nhát đao tự vẫn của lão Lợi, gã không hề cảm thấy ngạc nhiên. Dù sao kết cục cuối cùng vẫn là cái chết, tự vẫn chí ít cũng có thể giữ được chút danh dự của kẻ giang hồ.

    Máu vẫn phun ra thành tia từ cổ lão Lợi, song cơ thể lão cứ đứng trơ trơ, không hề đổ xuống, đôi mắt cũng chưa khép lại. Lão vẫn đang nhìn chằm chằm vào Đại hộ pháp, nhìn chằm chằm vào đám sát thủ kia, trong ánh mắt tràn đầy vẻ khinh miệt và thương hại.

    Lúc này, thanh đao đầu quỷ mặt cười lại càng thêm đỏ rực, càng thêm sáng loá. Quá nhiều nhẫn quang và huyết quang hội tụ trong đó đã khiến thanh đao không thể chịu đựng thêm được nữa.

    - Không ổn! Chạy mau! - Kỳ thực, Đại hộ pháp không biết bất ổn ở chỗ nào, song trong lòng gã bỗng trỗi dậy một cảm giác nguy hiểm vô cùng khủng khiếp, nên bất giác muốn tháo chạy.

    Song đã muộn rồi. Từ thân đao bùng lên một chùm sáng chói lọi, cùng với đó, một khối đỏ rừng rực như máu bắn vọt ra tứ phía. Ánh sáng rực rỡ, huyết quang đỏ loà, song không hề phát ra một mảy âm thanh, đến tiếng mảnh vỡ va đập, tiếng cứa da toác thịt cũng không có, như thể máu tích tụ trên thân đao đã bắn vụt đi.

    Đao đầu quỷ, tên gọi chính xác là đao Bách toái. Càng sát hại nhiều tính mạng, nét cười trên khuôn mặt quỷ trông càng ma quái âm trầm. Trước khi giết đủ trăm mạng, cần đưa vào lò đúc lại, nếu không khi chém đến mạng người thứ một trăm, thân đao sẽ nổ tung thành trăm mảnh, giết người cũng giết luôn cả bản thân. Bởi vậy, những người sử dụng loại đao này, khi chém giết cần phải ghi nhớ kỹ số nhân mạng đã bỏ xác dưới đao.

    Đao Bách toái của lão Lợi là vũ khí gia truyền, đương nhiên lão biết rõ điều này, bởi vậy mọi thứ đều đã được lão tính toán kỹ lưỡng. Sau khi giết chết sát thủ dùng xác người làm lá chắn, thanh đao toả ánh sáng xanh, đã chứng thực số lượng lão ghi nhớ là chính xác. Bởi vậy, lão mới bảo Dương Tiểu Đao đi trước, còn bản thân ở lại để đi về cõi chết.

    Sau khi thanh đao nổ tung, quá nửa cơ thể lão Lợi đã tan nát. Đại hộ pháp đứng gần lão nhất cũng nát bấy non nửa thân người. Đám sát thủ xung quanh thi nhau đổ xuống, đến một tiếng kêu rú trong cơn hấp hối cũng không kịp bật lên. Bởi vì mảnh vỡ vừa lao vào cơ thể, hơi thở đã tuyệt, bước chân chưa kịp di chuyển đã cứng đờ. Cơ thể chúng lập tức co quắp biến dạng, không kịp giãy giụa đã chết cứng, bộ dạng cực kỳ khủng khiếp.

    Khi đao Bách toái nổ tung, đã thấm đẫm tinh huyết và oan độc của trăm tính mạng. Mảnh đao vỡ gặp máu liền hoá, theo máu mà đi. Mảnh vỡ đâm vào cơ thể, không phải là đao đang giết người, mà là cả trăm hung hồn ác quỷ đang giết người.

    Chỉ có hàng sát thủ thứ hai vừa xông vào qua lỗ hổng, do khoảng cách khá xa nên không bị mảnh đao vỡ đâm trúng. Sau khoảnh khắc kinh tâm táng đởm, chúng lập tức vòng qua đám xác chết hình thù rùng rợn, tiếp tục đuổi theo Dương Tiểu Đao. Đây chính là những sát thủ đã được Chu gia huấn luyện kỹ càng, không sợ không lùi, tâm như tử sĩ.

    Dương Tiểu Đao từ xa đã nhìn thấy cảnh tượng lão Lợi nổ đao thảm sát đối thủ, cũng đã ngửi thấy mùi máu tanh lợm bay xộc tới. Không rõ là do cảnh tượng thảm khốc kia, hay do mùi máu tanh hôi quá mức, mà bụng dạ gã bỗng cuộn lên nhộn nhạo, phải gập người oẹ liền mấy cái, song chẳng nôn ra được thứ gì, chỉ khiến hai mắt gã tràn đầy lệ đục, che lấp cả tầm nhìn.

    Gã đưa tay gạt màn nước mắt để nhìn cho rõ, song thứ nhìn thấy lại là đám sát thủ đang vùn vụt lao tới. Quay đầu lại nhìn, trước mặt lại là vách đá vỡ lở, đã hết đường tháo chạy...

    Lúc này Hạ Táo Hoa và Dưỡng Quỷ Tỳ đang dựa sát vai nhau, trước mặt họ là đám sát thủ lợi hại hơn nhiều so với những kẻ bên mảng tường đổ phía tây. Đa phần trong đó là cao thủ do Chu Chân Mệnh đích thân dẫn tới, bao gồm người đao mười sáu lưỡi và hộ vệ tổng đường, cộng thêm những cao thủ hàng đầu do các đường khẩu điều tới. Trước đó, chúng được Chu Chân Mệnh bố trí canh giữ ở quanh chùa, sau đã trở về chùa qua con đường bí mật. Lại thêm Dương Thiên Vương nãy giờ bám theo Hạ Táo Hoa cũng vào nhập bọn.

    Hạ Táo Hoa và Dưỡng Quỷ Tỳ biết mình không phải là đối thủ của đám người này, song hai người họ lại nhất quyết tử thủ tại hành lang quanh tháp. Bởi họ hiểu rõ, nếu để đám cao thủ này đuổi tới, Lỗ Nhất Khí coi như đã hết cơ hội. Họ lựa chọn vị trí cố thủ tại đầu hành lang và mật độ dày đặc của khảm nút xung quanh sẽ gây bất lợi cho tấn công ồ ạt. Dù người của đối phương có đông đảo tới đâu, có thông thạo cách bố trí khảm nút xung quanh thế nào, thì nhiều nhất cũng chỉ đủ không gian cho ba, bốn người cùng tấn công mà thôi.

    Trên thực tế, cuộc giao chiến giữa hai bên vô cùng ngắn ngủi, Hạ Táo Hoa và Dưỡng Quỷ Tỳ vừa triển khai công lực, đối phương đã dừng tấn công. Chúng dừng lại vì đã nhận được một tín hiệu nào đó, một tín hiệu không cho phép phản kháng. Về điểm này, Dưỡng Quỷ Tỳ hiểu rõ hơn Hạ Táo Hoa, dù gì cô cũng lớn lên trong Chu gia, nên đã thông thuộc các quy tắc của bọn họ.

    Người phát tín hiệu chắc hẳn ở gần đây, cục diện đối đầu ở bên này hẳn cũng nằm trong phạm vi quan sát của hắn. Tín hiệu phát ra là muốn phe mình vốn đã chiếm được ưu thế tạm ngừng tấn công, cho thấy chắc chắn đã có bố cục và thủ đoạn nguy hiểm gấp bội dành sẵn cho bọn họ. Dưỡng Quỷ Tỳ cảm thấy nếu bọn họ cứ tiếp tục cố thủ tại đây sẽ càng thêm nguy hiểm, khác nào đám cừu chờ sói tới ăn thịt. Cần phải mau chóng thoát khỏi tình thế này.

    - Chúng ta phải rời khỏi đây ngay lập tức, trước khi đi phải nghĩ cách cản chân đám sát thủ này lại! - Dưỡng Quỷ Tỳ từ nhỏ ít giao thiệp với người khác, bởi vậy cũng không biết cách nói năng cho khách khí.

    Hạ Táo Hoa đã bình tĩnh hơn rất nhiều so với lúc lão mù vừa chết. Cô ta vốn là người thông minh sắc sảo, chỉ cần đầu óc tỉnh táo, sẽ có thể bộc phát một nguồn năng lượng vô cùng khủng khiếp.

    - Cô đi trước đi, khoảng bảy chục bước đứng lại chờ tôi! - Hạ Táo Hoa nói.

    Dưỡng Quỷ Tỳ đi rất nhẹ nhàng. Cô vốn ngây thơ tin người, nên chẳng hề thấy lo lắng cho Hạ Táo Hoa. Dưỡng Quỷ Tỳ đi rất thung dung, hành lang quanh tháp tuy đầy rẫy khảm nút, song những khảm nút mà Chu gia thường xuyên sử dụng đã quá quen thuộc với cô, nên chẳng khác gì đi trên đường về nhà.

    Dưỡng Quỷ Tỳ vừa bước đi, Hạ Táo Hoa lập tức đưa tay vào chiếc túi nhỏ bên hông lôi ra một thứ gì đó, đồng thời bước xéo ra phía sau vài bước. Vài bước này vừa hay đã rẽ vào một khúc ngoặt của đường khảm. Như vậy, giữa cô và đám sát thủ đã có thêm hai điểm giẫm trên nút lẫy, cũng giống như cô đã nấp vào sau một góc tường quanh.

    Hạ Táo Hoa cũng rất thung dung, không cần để ý xem Dưỡng Quỷ Tỳ đã tới đúng chỗ chưa, cũng không để ý xem đám cao thủ trước mặt có hành động khác lạ nào không, chỉ chú tâm vào chiếc túi vải hoa lam vừa lôi ra từ trong túi đeo. Nâng túi vải trên lòng bàn tay, cô bắt đầu lầm rầm tụng niệm:

    - Xanh vàng đỏ trắng đen tuỳ ý, kiếp trước gặp hung kiếp này cát, thu về khí huyết mạch tam kinh, không làm oan hồn nơi âm thế...

    Loại thần chú này vừa không phải xuất phát từ phương thuật Đạo giáo, cũng không bắt nguồn từ tà phái vu thuật của dị tộc. Nếu xét về nguồn gốc, nó cũng ít nhiều có liên quan tới Đạo giáo, chính là lời chú tụng niệm khi hành khí của người luyện Khí Môn tông. Người sáng lập ra Khí Môn tông là một thần y thời Đông Hán có tên là Lục Huyền Nguyệt. Tuy ông tinh thông kim thạch dược lý đến độ xuất thần nhập hoá, song còn ngưỡng mộ đạo thần tiên hơn nữa, nên đã theo học một đạo sĩ nổi tiếng thời Đông Hán tên là Nguỵ Bá Dương, khổ luyện theo trước tác thần kỳ “Tham đồng khế” do Nguỵ Bá Dương kết hợp “Kinh Dịch”, “Lão Tử”, “Trang Tử” mà soạn nên. “Tham đồng khế” là thuỷ tổ của hành khí kinh đan, Lục Huyền Nguyệt chuyên tâm nghiên cứu về hành khí, cuối cùng đã có thành tựu xuất sắc, rời khỏi sư môn tự thành lập phái riêng, gọi là Hợp Đức khí tông. Ý nghĩa của nó được lấy từ câu “Âm dương hợp đức mà cương nhu có thể” trong “Kinh Dịch”. Tông phái này đã suy thoái sau triều Đường Tống, chỉ còn sót lại một ít di mạch ở vùng Tây Bắc.

    Hạ Táo Hoa đã học được công phu của Hợp Đức khí tông từ trong một cuốn sách cổ mà lão mù lấy trộm về. Song công phu đó đã không còn là chính tông, mà pha tạp rất nhiều kỹ xảo vu thuật của người dị tộc. Như lúc này, công phu hành khí của cô tuy tương hợp với Hợp Đức khí tông, song khí được vận hành lại không phải là chính khí âm dương nội tu, mà là chiếc túi vải hoa lam kia.

    Túi vải hoa lam được mở ra, bên trong còn có một gói lụa vàng. Trên tấm lụa thêu đầy kinh văn, còn thấy lờ mờ một ấn phong bằng chu sa.

    Hạ Táo Hoa niệm chú mỗi lúc một lớn tiếng, ngón trỏ tay phải vạch vẽ loằng ngoằng trên gói lụa vàng. Dây buộc trên tấm lụa từ từ lỏng ra, bốn góc gói lụa không gió tự mở, lộ ra thứ được bọc kín bên trong.

    Đó là năm cục màu xám trắng, có dài có ngắn, có to có nhỏ, đều mang hình thù bất quy tắc. Chúng mang theo những khí tướng có độ mạnh và hướng lan toả hoàn toàn khác nhau.

    - Xương! Là xương người! - Kẻ vừa nhận ra là một cao thủ chuyên giải phẫu xác chết của Tam Xuyên đường phía Chu gia.

    - Có cốt khí, có thi khí, còn có độc khí! - Lại một cao thủ luyện khí của Tương Tây đã nhận ra khí tướng của mấy cục xương.

    Tiếng niệm chú của Hạ Táo Hoa đã trở nên vang vọng, tiết tấu cũng được đẩy nhanh. Khí thế của năm cục xương cũng theo đó mà bốc lên dữ dội.

    Năm cục xương, mỗi cục đều đồng thời ẩn chứa cốt khí, thi khí và độc khí. Song khí tướng ẩn chứa trong mỗi cục xương lại khác nhau. Cốt khí có khí xương khô, khí xương non, khí xương vỡ; thi khí có khí xác rữa, khí xác sống, khí xác khô; độc khí lại còn nhiều hơn nữa, mỗi cục xương đều chứa không dưới bốn năm loại.

    Do nguồn gốc của khí không giống nhau, nên khí tướng hiện lên cũng rất khác biệt. Khí tuóng vọt lên từ năm cục xương hiện rõ năm màu xanh, vàng, đỏ, trắng và đen. Khí tướng năm màu này lúc thì hoà quyện vào nhau, lúc lại tản ra bốn phía, bay dật dờ bất định.

    - Luật... cấp... hành! - Hạ Táo Hoa vừa hô lớn, cánh tay đã vung lên. Năm cục xương lập tức văng ra, lăn lông lốc trên nền hành lang, tản ra thành cục tướng Năm cửa ải cửu tuyền.

    Năm cục xương vừa rơi xuống đất, khí tướng lập tức nở phình, xoay tròn, lan toả khắp xung quanh. Khí thế và hướng đi của nó ngầm hợp với cách bố trí của cục tướng Năm cửa ải cửu tuyền, uốn lượn vu hồi, như xúc tu, như rắn trườn, chất độc ngùn ngụt, năm màu rực rỡ, mùi thối rữa nồng nặc, như thể có hồn ma, xác chết đang giãy dụa, đang dật dờ đi lại.

    Đám cao thủ Chu gia nhìn thấy cảnh tượng này, đều bất giác lùi lại hai bước.

    Hạ Táo Hoa vừa hất năm cục xương đi, lập tức quay người chạy thẳng. Nhìn vào tốc độ di chuyển, có thể thấy cô đang cố gắng né tránh làn khí đang lan toả kia, không muốn để bất kỳ một bộ phận nào trên cơ thể chạm vào luồng khí tướng năm màu đó.

    Trong đám cao thủ của Chu gia vẫn có kẻ không rời mắt khỏi Hạ Táo Hoa. Đây chính là kinh nghiệm giang hồ, trước một cục tướng mà bản thân không hay biết, tốt nhất nên quan sát phản ứng của người bố trí cục tướng. Nếu ngay cả bản thân người bố trí cục tướng cũng tỏ ra sợ hãi né tránh, thì những người khác lại càng phải tránh xa. Mấy tên cao thủ này vừa thấy Hạ Táo Hoa phản ứng như vậy, lập tức vội vã thoái lui, chạy dạt đi thật xa. Những cao thủ khác tuy không biết mô tê gì, nhưng thấy đồng bọn lùi lại, cũng cuống quýt lùi theo.

    Dưỡng Quỷ Tỳ vừa đứng lại ở khoảng cách bảy chục bước, Hạ Táo Hoa cũng đã kịp lao tới, kéo lấy cô tiếp tục chạy ào đi.

    - Từ từ, nhìn kỹ xem phía trước có khảm cục không đã. - Dưỡng Quỷ Tỳ biết rõ sự lợi hại của Chu gia, nên vội vã nhắc nhở Hạ Táo Hoa.

    - Anh Nhất Khí đã đi qua, có khảm nút cũng phá giải cả rồi. Tôi vừa rải ra Ngũ cốt hành khí mê, tuy hung dữ, song nhiều nhất cũng chỉ cầm cự được khoảng hai chén trà, sau đó toàn bộ sẽ thành hư tướng!

    Hai chén trà, không phải là dài, cũng không phải là ngắn.

    Thân thủ của Hạ Táo Hoa và Dưỡng Quỷ Tỳ đều cực kỳ nhanh nhẹn, hoàn toàn có thể lợi dụng khoảng thời gian này để đuổi kịp Lỗ Nhất Khí, song với điều kiện là không bị ai ngăn cản. Song hai cô gái quả là không may mắn, vừa tới phía dưới bức bích hoạ, từ trên vách đá bỗng bay vụt xuống một thân hình đầy đặn phì nhiêu, chặn ngay trước mặt. Người này chúi đầu mà lao xuống, khi sắp chạm đất lại uyển chuyển lượn vòng mà lên. Dáng vẻ tuyệt đẹp, áo bay như mây, mặt hồng như ráng, da trắng như tuyết, khác nào tiên nữ giáng trần.

    - Báo Cơ nương nương! - Dưỡng Quỷ Tỳ kêu lên kinh hãi. Tuy cô chưa một lần gặp Báo Cơ, song đã nhiều lần nghe người khác mô tả về dáng vẻ của Báo Cơ. Dưỡng Quỷ Tỳ quả thực cảm thấy khiếp sợ, bởi lẽ công lực của Báo Cơ không hề thua kém sư phụ của cô. Dù cô và Hạ Táo Hoa liên thủ, cũng khó lòng thoát khỏi tay Báo Cơ.

    Hạ Táo Hoa dày dạn kinh nghiệm, từ giọng nói và vẻ mặt của Dưỡng Quỷ Tỳ, cô lập tức hiểu ra rằng mình đã phải đương đầu với một kẻ địch hết sức đáng gờm. Cô nhanh chóng âm thầm tụ lực, chuẩn bị dốc toàn lực lao vào trận quyết tử.

    Vậy là ba người dàn thành hình chạc ba, người chưa động, khí thế đã động. Ba luồng khí tướng cuồn cuộn như mây toả, xoắn xuýt vào nhau, va chạm với nhau...
     
  5. hoahongtokyo

    hoahongtokyo C O N T R A

    Tham gia ngày:
    27/2/05
    Bài viết:
    1,814

    Dám tam thú ngao dường như đã rút ra kinh nghiệm từ sự việc trước đó, nên bóng người vừa xuất hiện, lập tức ra đòn tấn công. Con tam thú ngao ở gần nhất phóng vụt lên, chân trước giơ cao, hệt như người đứng, vồ thẳng tới trước mặt bóng người.

    Bóng người lập tức nghiêng mình né tránh cái miệng rộng ngoác của tam thú ngao, song đã không tránh kịp bộ vuốt bên chân phải, lập tức trước ngực bị cào rách toạc thành bốn vệt dài máu thịt tanh bành. Cũng may người này mặc áo Tạng bằng da lông thú khá dày dặn, nếu không hẳn là tim phổi cũng đã bị móc ngược ra ngoài.

    Người này tuy đã bị thương, song bước chân vẫn không hề chậm lại. Con tam thú ngao thứ hai lập tức xông lên, cũng nhảy dựng ngược rồi vồ thẳng tới với khí thế hung hãn y như vậy.

    Lần này, cánh tay trái đã bị vuốt thú cào trúng, toàn bộ tay áo trái rách bươm như giẻ, bốn vệt cào chạy dọc từ trên xuống dưới cánh tay, máu tuôn như suối.

    Bị trúng thương hai lần liên tiếp, người này đã nhận ra mình không thể xông qua đàn thú, bèn lập tức thay đổi phương thức, thuận thế ngã chúi xuống đất, cuộn tròn người mà lăn đi.

    Đây là chiêu thức mà chỉ có những người Tạng phải thường xuyên quần nhau với dã thú mới biết được. Thông thường, những con thú lớn khi tấn công mục tiêu có độ cao nhất định, tốc độ và lực độ đều đạt đến mức lý tưởng. Song đối diện với mục tiêu chuyển động sát đất, chúng lại không biết phải ra đòn thế nào.

    - Là Sách Khố Lạt! Mau cứu lấy hắn! - Từ giọng nói và thân hình, Mạc Thiên Quy đã nhận ra Sách Khố Lạt.

    - Sư phụ, mặc kệ hắn, không chừng đó là khổ nhục kế. Cả nhà hắn đều bị Chu gia bắt giữ, rất có thể hắn bị cưỡng ép tới lừa gạt chúng ta! – Lưu Chi Thủ ngoái đầu lại nhìn, vẻ mặt đầy trăn trở, song không hề có ý hành động.

    - A! Có chuyện như vậy sao? – Trong mắt Mạc Thiên Quy loé lên một tia sáng, khiến người khác rất khó đoán lường.

    Lăn với tốc độ nhanh, kỳ thực còn chóng mệt hơn cả chạy, huống hồ trước sau còn có vài bộ vuốt sắc nhọn và hai cái miệng há hoác đuổi sát, cần phải liên tục thay đổi hướng lăn để né tránh. Chẳng mấy chốc, động tác của Sách Khố Lạt đã chậm lại thấy rõ. Tiếp đến là những tiếng rách toạc, những kêu la thảm thiết vang lên không ngớt.

    - Xem ra không giống khổ nhục kế, nếu không trợ giúp, e rằng Sách Khố Lạt không sống nổi! - Mạc Thiên Quy vừa nói vừa đưa mắt tìm kiếm thứ gì đó.

    - Sư phụ, nhân lúc bầy thú đang xúm lại chỗ đó, để con dẫn người xông ra!

    - Con xem ta đầy mình thương tích, sao có thể xông ra nổi! Tốt nhất con hãy chạy một mình, giữ được mạng nào hay mạng đó.

    - Nhưng con không thể vứt bỏ sư phụ!

    - Con cứ mặc kệ ta! Chỉ cần tới được nơi cần đến, làm được việc cần làm là được rồi! – Ánh mắt của Mạc Thiên Quy không những khó hiểu, ngay cả lời nói cũng trở nên hàm hồ không rõ nghĩa.

    - Vậy con xin thề, nếu thoát khỏi nơi đây, con sẽ dốc cả tính mạng trợ giúp Lỗ môn trưởng hoàn thành đại sự!

    Lưu Chi Thủ còn chưa nói dứt câu, Mạc Thiên Quy đã đưa tay ra.

    Lưu Chi Thủ thoạt tiên sững lại, song khi nhìn thấy cuộn thẻ tre trên tay Mạc Thiên Quy, vẻ mặt bỗng chốc trở nên vô cùng kích động và căng thẳng. Đây là cuộn thẻ tre bí mật do môn trưởng Mặc gia đời đời truyền tay gìn giữ, là món bảo bối trấn môn bí mật. Giao cho hắn, cũng có nghĩa là giao phó toàn bộ Mặc môn cho hắn, bao gồm cả những bí mật trong Mặc môn. Hệ trọng như vậy, bảo sao hắn không kích động, không căng thẳng cho được?

    Lưu Chi Thủ cũng đưa tay ra, niềm kích động khó kìm nén trong tâm khảm đã khiến ánh mắt của hắn có phần trôi nổi. Song khi ngón tay hắn vừa chạm lên mép cuộn thẻ, bỗng vài luồng lực đạo dữ dội lao thẳng xuống bụng kèm theo cảm giác nhói buốt đã hất hắn ngã văng ra phía sau.

    Lưu Chi Thủ biết mình đã sai. Cơn kích động vừa rồi khiến hắn không nhận ra lớp vải bọc bên ngoài thẻ tre đã không còn nữa, chỉ còn lại cuộn thẻ tre trần trụi.

    Trong cuộn thẻ tre có nút lẫy “xiên thép hoa mai vót nhọn”. Nếu kéo xuôi vòng dây trên cuộn thẻ tre, những cây xiên thép mũi dài sẽ bật tung ra, tấn công bàn tay của người cầm thẻ tre. Nếu kéo ngược vòng dây, phía dưới cuộn thẻ tre sẽ có xiên thép mũi ngắn phóng ra, cắm thẳng vào bụng ngực của người cầm thẻ tre.

    Nhìn Lưu Chi Thủ bị bắn trúng mà ngã văng xuống đất, đủ biết luồng kình lực của chốt lẫy mạnh tới cỡ nào. Năm cây xiên thép đã găm ngập vào khoảng bụng ngực Lưu Chi Thủ dàn thành hình hoa mai. Nhìn vào phần đuôi xiên thép lộ ra ngoài, biết rằng mũi xiên cắm rất sâu, hẳn là đã vào tới phủ tạng.

    Tuy đã bị trúng chiêu, song Lưu Chi Thủ lại không hề tỏ ra kinh hãi hay hoảng loạn, mà lập tức tay chân cùng vận lực, cố gắng lết người lùi lại, cho tới khi đã ở sau lưng con tam thú ngao ở bên trái.

    Mạc Thiên Quy rút thanh kiếm cắm trên đất lên, cầm chắc trong tay, song vẫn đứng im tại chỗ, không có ý đuổi theo truy kích.

    - Rốt cuộc ta đã để lộ sơ hở ở chỗ nào? – Sau khi đã nấp được sau lưng tam thú ngao, Lưu Chi Thủ cuối cùng mới thở được một hơi mà quát hỏi.

    - Nhìn vào tác phong và phẩm chất của ngươi từ trước đến nay, đúng là ngươi không hề để lộ một sơ hở nào. Sai sót chính là ở bầy súc sinh kia! - Mạc Thiên Quy vẻ đầy khinh miệt – Loài thú có thông minh tới đâu cũng không thể giống con người, thứ bộc lộ ra một cách vô thức chính là thú tính tự nhiên.

    - Là vì chúng bao vây cắn xé Sách Khố Lạp, mà không bao vây cắn xé ta?

    - Không phải! Là ta phát hiện ra sự bất thường trong thần thái của chúng.

    - Thần thái của thú?

    - Đúng vậy! Ngươi đã bao giờ nhìn thấy thần thái của chó ngao Tây Tạng khi đánh hơi tìm kiếm chưa? Ta đã từng nhìn thấy, hơn nữa còn quan sát rất kỹ. Sau khi chúng phát hiện ra mùi vị khác thường, sẽ nghếch mũi, ngó nghiêng hai bên tìm kiếm. Đám súc vật này tuy ta không biết là giống thú tạp giao nào, song có thể khẳng định trong huyết thống của chúng có thành phần của chó ngao Tây Tạng. Thần thái khi chúng đánh hơi giống hết chó ngao Tây Tạng.

    Mạc Thiên Quy vừa nói, vừa kín đáo đưa tay vào trong chiếc túi đeo bên mình.

    - Chó ngao Tây Tạng thông thường có thể đánh hơi từ cách xa trăm bước. Song trước khi ngươi xuất hiện, đám súc sinh này không có bất kỳ thần thái gì khác thường. Đến khi Sách Khố Lạt xuất hiện, chúng lại nghếch mũi hít ngửi liên hồi, ngươi nói xem có hợp lý không?

    - Quả nhiên không hổ danh là sư phụ của ta, một tiểu tiết nhỏ bé như vậy cũng không qua nổi mắt ông!

    - Ta thật hổ thẹn! Lúc nào cũng chăm chăm đề phòng Chu gia mua chuộc người nội bộ làm tai mắt, nhưng lại không bao giờ nghĩ tới ngươi. Ngươi giỏi che đậy quá, đến ta đây là sư phụ ngươi cũng bị che mắt. Than ôi! Đáng hận là ta còn uỷ thác trọng trách cho ngươi. E rằng đại sự đến hôm nay sẽ phải huỷ trong tay lão già hồ đồ này mất rồi! - Mạc Thiên Quy than thở.

    - Kẻ thức thời là trang tuấn kiệt. Sư phụ, ông hãy nhìn cho rõ tình hình trước mắt, mau giao cuộn thẻ tre lại cho ta.

    - Đừng hoang tưởng! Tình hình trước mắt quả thực bất lợi cho ta, song chưa biết chừng viện thủ của ta đã tới rất gần. Hôm nay chỉ cần ta có thể thoát ra, ngày sau nhất định sẽ bắt đồ nghiệt chướng ngươi phải chịu cảnh sát thân diệt môn!

    Mạc Thiên Quy nói ra những lời uất hận này dường như không đúng lúc, khác nào bức bách Lưu Chi Thủ khởi sát tâm, phải tiêu diệt ngay Mạc Thiên Quy mới yên tâm, mới cam lòng.

    Lưu Chi Thủ đích xác cũng đang chuẩn bị phát động bầy tam thú ngao xông lên tàn sát. Chỉ cần Mạc Thiên Quy và Sách Khố Lạt chết đi, bí mật của hắn sẽ không có ai hay biết. Có được tín vật của Mạc Thiên Quy, hắn sẽ có thể thống lĩnh Mặc môn. Mà trước mặt Lỗ Nhất Khí, hắn cũng sẽ trở thành người đáng tin cậy nhất của Mặc gia.

    Đúng lúc Lưu Chi Thủ chuẩn bị ra hiệu và lên tiếng điều động bầy tam thú ngao, tình thế bỗng đột nhiên biến đổi. Lại có một bóng người xông vào vòng vây của tam thú ngao, lao thẳng về phía Sách Khố Lạt.

    Mạc Thiên Quy trước đó đã phát hiện ra trợ thủ của mình đã tới, bởi vậy mới cố tình nói ra những lời căm hận để nhằm thu hút sự chú ý của Lưu Chi Thủ, yểm hộ cho người phe mình.

    Rất kỳ lạ, bầy tam thú ngao không hề hít ngửi mùi của người vừa tới, cũng không dốc sức ngăn cản, mà ngược lại còn có vẻ hơi hoảng sợ. Bởi lẽ người này chính là Dịch Huyệt Mạch, trên người ông ta có mang dược liệu có tác dụng xua đuổi, doạ dẫm muông thú.

    Dịch Huyệt Mạch nhìn thấy Sách Khố Lạt đầu tiên. Tuy không quen biết người này, song nhìn vào tình thế trước mắt, kẻ bị quái thú phía Chu gia bao vây cắn xé, không phải người Lỗ gia cũng là người Mặc gia. Tiếp đến, ông lại nhìn thấy Mạc Thiên Quy bị vây khốn trong hốc lõm vào của vách núi, thế là chẳng kịp suy nghĩ, vội vã rắc lên người “thuốc bột doạ thú”, rồi tung mình nhảy vào vòng vây của bầy thú.

    Thuốc bột của Dịch Huyệt Mạch rất hiệu quả, đám tam thú ngao theo nhau né tránh, mở ra cho ông một lối đi. Khi ông đỡ lấy cơ thể lúc này đã lăn rất chậm của Sách Khố Lạt, đám tam thú ngao lập tức dừng cắn xé, tru lên vài tiếng đầy bất mãn, rồi lúc lắc đuôi mông lùi cả lại.

    Song có một người đã bất chấp tính mạng xông ra cản đường. Chính là Lưu Chi Thủ đang bị thương rất nặng.

    - Có tin ta chỉ cần một chiêu là lấy mạng ngươi không? – Trong mắt Dịch Huyệt Mạch vằn lên từng tia máu đỏ. Ông hiểu rõ bản thân không nên nấn ná lâu ở nơi này, chỉ cần thuốc bột hết tác dụng, đám tam thú ngao trước sau sẽ hợp lại bao vây giáp kích.

    Thực tế cũng đúng như vậy. Đám tam thú ngao phía sau đã bắt đầu lừ lừ tiến lại.

    - Ta tin! – Lưu Chi Thủ trả lời rất thành thật.

    - Người đừng đóng kịch! - Dịch Huyệt Mạch đột nhiên trừng mắt quát lớn. Dù gì ông cũng là bậc thần y hiếm có, từ trung khí và kình đạo trong lời nói của Lưu Chi Thủ, ông lập tức đoán ra Lưu Chi Thủ chưa hề bị trọng thương.

    Quyết đấu sinh tử, đáng sợ nhất là gặp phải kẻ địch nằm ngoài tầm dự đoán. Trạng thái thực tế của Lưu Chi Thủ khiến Dịch Huyệt Mạch bất giác cảm thấy hoang mang trong lòng.

    Lưu Chi Thủ dang rộng cánh tay, chỉ thấy cơ bắp, xương cốt kêu răng rắc, tấm áo Tạng mặc trên người lập tức rách toang. Khí vận kình hành, năm cây xiên thép găm trên cơ thể liền bắn vọt ra ngoài.

    Dịch Huyệt Mạch không cử động. Ông là thần y, cũng là cao thủ võ học, ông đã nhận ra luồng khí kình mà Lưu Chi Thủ vừa vận ra không đủ mạnh để bắn xiên thép gây tổn thương đến người khác. Sự thực cũng đúng như vậy, xiên thép chỉ bắn đi hơn một thước đã rơi xuống đất.

    Song ý đồ của Lưu Chi Thủ không phải muốn bắn xiên thép gây tổn thương cho đối thủ, mà muốn dùng máu tươi diệt địch. Năm cây xiên thép vừa rơi xuống đất, máu tươi từ năm lỗ thủng đã phun vọt ra như tên bắn.

    Dịch Huyệt Mạch không nét tránh, cũng không kịp né tránh. Đây là chiêu thức ông không thể ngờ tới.

    Năm vòi máu đã phun trúng người Dịch Huyệt Mạch, cũng tản ra như hình hoa mai, rất giống “huyết mai phá” trong vu thuật. Song Lưu Chi Thủ không hề biết tới vu thuật, hắn phun máu ra nhằm một mục đích rất đơn giản, chính là làm mồi dụ. Máu tanh phun ra có thể át đi mùi thuốc trên người Dịch Huyệt Mạch, khiến bầy tam thú ngao khát máu lập tức lấy Dịch Huyệt Mạch làm mục tiêu căn xé.

    Máu vừa bắn lên người, bầy tam thú ngao lập tức hoặc phóng thẳng, hoặc nhảy vòng, đồng loạt lao bổ vào Dịch Huyệt Mạch.

    Dịch Huyệt Mạch hiểu rõ tình thế bất lợi, vội vã vung một cánh tay lên, vài chiếc kim bạc phóng thẳng vào Lưu Chi Thủ đang cản đường, đồng thời hai chân tăng tốc, chạy vụt lên theo đám kim bạc.

    Toàn bộ đám kim bạc đã đâm trúng ngực Lưu Chi Thủ, thật không ngờ lực đạo mà chúng mang theo lại có thể đẩy Lưu Chi Thủ bật văng văng về phía sau. Trong lúc dìu Sách Khố Lạt băng qua bên cạnh Lưu Chi Thủ, Dịch Huyệt Mạch tiện tay phóng thêm hai kim nữa vào lưng hắn.

    Từ lúc bầy tam thú ngao ngửi thấy mùi máu tới lúc xông lên tấn công cần có một quá trình. Tuy Dịch Huyệt Mạch phải lôi theo một người, song do hành động trước, nên cuối cùng vẫn thoát khỏi sự truy kích của bầy thú, chạy tới bên cạnh Mạc Thiên Quy.

    Lưu Chi Thủ tuy liên tục trúng chiêu, song vẫn không hề gục ngã. Qua tấm áo Tạng rách bươm, có thể nhìn thấy bên trong còn có một lớp áo giáp da bò dày cộp. Thảo nào xiên thép hoa mai có vẻ đã đâm lút cán, song lại không gây nên tổn thương quá nghiêm trọng cho hắn. Dịch Huyệt Mạch lúc này mới cảm thấy hối hận khi nãy đã không phóng kim vào cổ hoặc đầu hắn. Song tất cả đều đã muộn, Lưu Chi Thủ rút ra một cây đơn đao tuyết hoa, thế vung đao chính là tín hiệu phát động toàn bộ bầy thú xông lên tàn sát.

    Tam thú ngao lập tức hành động, lao lên đầu tiên chính là ba con thú đã chiếm được vị trí đắc địa. Sau khi con này xông lên, những con phía sau sẽ tự khắc thế chỗ cho chúng.

    - Lão Dịch, kim của lão có đối phó được với chúng không? - Mạc Thiên Quy vừa vung kiếm chắn đỡ vừa hét lên với Dịch Huyệt Mạch.

    Song kỳ thực kim bạc trong tay Dịch Huyệt Mạch đã liên tục bắn ra, đều găm trúng những vị trí hiểm yếu trên cơ thể con thú, thế nhưng con thú vẫn tiếp tục nhảy nhót vồ tạt như không, chẳng có lấy mảy may phản ứng. Lúc này ông chỉ có thể dùng một chiếc kim dài nhằm đâm vào mắt con thú, để ngăn cản nó tiếp tục lao tới.

    - Không được! Lũ súc sinh này quái dị, huyệt vị không nằm đúng vị trí! - Dịch Huyệt Mạch trả lời.

    Lời vừa dứt, từ phía chùa Kim Đỉnh bỗng tới tấp bay đến vô số tàn lửa, lao thẳng xuống bầy thú. Đó là do cục tướng của núi Thiên Thê đột ngột biến đổi, thế gió vòng quanh núi biến thành thế gió trùm núi, thổi lửa từ bên ngoài bay dạt vào trong chùa.

    Đám lửa rơi rào rào xuống đất, bầy tam thú ngao lập tức trở nên hỗn loạn.

    Mạc Thiên Quy đương nhiên không chịu bỏ lỡ cơ hội, lập tức vung kiếm chém mạnh kết liễu con tam thú ngao cản đường, sau đó loạng choạng tiến lên vài bước, dùng mũi kiếm khều hất đám lửa, trong nháy mắt đã bày ra một khảm diện “Ba luỹ hai thành” cháy rừng rực.

    Bầy tam thú ngao đã dừng tấn công. Chúng rất sợ lửa, đây cũng là bản tính trời sinh của mọi loài muông thú. Cục tướng Ba luỹ hai thành khiến chúng chỉ cần lao vào trong khảm, sẽ lập tức cảm thấy bị lọt vào vòng lửa, ngọn lửa bao phủ khắp mọi nơi.

    Tuy Lưu Chi Thủ biết phá giải khảm diện này, song hắn lại không dám một mình xông lên. Vừa rồi Dịch Huyệt Mạch không lấy được mạng hắn, chỉ vì hắn nhất thời may mắn. Nếu lại để Dịch Huyệt Mạch có cơ hội áp sát, hắn sẽ không thể gặp may thêm lần nữa. Song hắn có thể chờ đợi, chờ đợi viện thủ phía Chu gia, hoặc đợi tới khi đám lửa tàn lụi.

    Đám Mạc Thiên Quy cũng biết rõ, lửa cháy rồi cũng sẽ tàn, thời gian hẳn cũng không lâu. Tới lúc đó, liệu bản thân còn có phương cách nào khác?

    Ngũ cốt hành khí mê của Hạ Táo Hoa chỉ có thể ngăn cản cao thủ Chu gia trong chốc lát, bởi lẽ thế hung của khảm diện vừa qua đi, một tay cao thủ của Hô Hồn đường tại Phúc Châu đã nhận ra cục tướng biến thành hư giả. Hô Hồn đường chuyên giúp ngư dân gọi những hồn ma tử nạn trên biển trở về, bởi vậy chúng không những có thể nhìn khí nhận hồn, mà còn có thể nhận biết tướng xương, dù là xương cốt ngâm lâu dưới biển. Bởi vậy sau khi thế hung của “Ngũ xương hành khí mê” qua đi, cục tướng tuy không biến đổi bao nhiêu, song cao thủ vẫn nhận ra mánh khoé ẩn giấu bên trong.

    Hạ Táo Hoa, Dưỡng Quỷ Tỳ và Báo Cơ nương nương mỗi người đều thủ thế sẵn sàng chuẩn bị quyết đấu. Đám cao thủ Chu gia cũng đã ra khỏi hành lang vòng quanh tháp, tản ra thành hình rẻ quạt, vây quanh ba người.

    Hạ Táo Hoa và Dưỡng Quỷ Tỳ chỉ có thể đứng im bất động nhìn đám cao thủ vây kín lấy mình. Bởi lẽ đối đầu với một cao thủ tuyệt đỉnh như Báo Cơ nương nương, bất kỳ sơ xuất nào dù là rất nhỏ cũng sẽ mất mạng như chơi, huống hồ cục thế đối quyết giữa ba người lúc này là cục Thiên âm “Song xá đấu Nga Hoàng”[26], khí tướng chí thuần, chí âm lưu chuyển như vòng xoáy, phiêu diêu như gió thổi. Lúc này đừng nói là hành động, mà chỉ một chút sai lầm trong hơi thở cũng sẽ dẫn đến thảm bại.

    Chú thích

    [26] Có nghĩa là hai cô gái đẹp giao đấu với Nga Hoàng. Nga Hoàng là vợ vua Thuần trong truyền thuyết.
     
  6. hoahongtokyo

    hoahongtokyo C O N T R A

    Tham gia ngày:
    27/2/05
    Bài viết:
    1,814

    Viêm Hoá Lôi đã dẫn dắt thế lửa lan toả tới khắp mọi ngóc ngách bên ngoài chùa. Dựa vào thân thủ của ông, trời còn chưa sáng, nơi cần cháy đều đã cháy, nơi cần lan đều đã lan, nơi cần chuẩn bị đều đã chuẩn bị xong xuôi. Bởi vậy Viêm Hoá Lôi bắt đầu lo lắng cho đứa con gái nuôi. Ông biết, chỉ cần Lỗ Nhất Khí vẫn còn ở đây, đứa con gái này nhất quyết sẽ quay lại tìm cậu ta. Nên chỉ cần tìm được Lỗ Nhất Khí, sẽ gặp được Dưỡng Quỷ Tỳ.

    Viêm Hoá Lôi đã lẻn vào chùa qua cửa chính. Tuy ông ta không phải là cao thủ trong nghề khảm tử, song trước đó đã có mấy lượt người ra vào, toàn bộ khảm nút đều được phá giải. Bởi vậy ông cứ thẳng đường mà đi, cho đến tận phía trước vách đá bích hoạ.

    Ông tới thật đúng lúc. Vừa bước lên con đường đá phía trước vách bích hoạ, đã nhìn thấy ba mỹ nữ đang căng thẳng đối đầu, đám cao thủ cũng đã bao vây tới. Thế là Viêm Hoá Lôi đột nhiên lại sa vào giữa cục, một mình đối mặt với vài chục cao thủ.

    Đa số cao thủ đều đã chứng kiến bản lĩnh của Viêm Hoá Lôi khi ở bên hồ Tiên Tề. Bởi vậy vừa nhìn thấy Viêm Hoá Lôi xuất hiện, chúng lập tức dừng ngay lại. Cảnh tượng thảm khốc của đồng bọn sau khi bị lửa độc của Viêm Hoá Lôi thiêu đốt, cho tới lúc này vẫn hiện rõ mồn một trong tâm khảm chúng. Một số ít cao thủ chưa gặp Viêm Hoá Lôi thấy đa số đồng bọn đều khựng lại, cũng vội dừng bước. Cục diện đối đầu của ba mỹ nữ trước vách bích hoạ bỗng chốc biến thành cục diện bất động của cả mấy chục người.

    Song kỳ thực, Viêm Hoá Lôi đang rất hoang mang. Thuốc pháo chứa độc đã dùng hết ngay từ trận chiến bên hồ Tiên Tề, còn hoả liệu bình thường cũng đã dùng gần hết để phóng hoả bên ngoài chùa, giờ chẳng còn lại bao nhiêu. Tuy trận thế hình rẻ quạt của đám cao thủ tạm thời dừng lại, song tại thời điểm này, tại nơi này, xuất hiện cách cục đối đầu bất động như vậy, sẽ vô cùng bất lợi cho bản thân. Ông cần phải tìm ra một phương pháp đáng tin cậy để kết thúc cục diện này. Nghĩ vậy, ông lập tức quan sát kỹ lưỡng tình hình xung quanh, muốn tìm ra cơ hội có thể lợi dụng.

    Song nơi đây lại là cứ địa cực kỳ quan trọng của Chu gia, bố cục thiết kế cực kỳ nghiêm ngặt, muốn tìm ra cơ hội và không gian có thể lợi dụng là rất khó. Chính vào lúc Viêm Hoá Lôi gần như tuyệt vọng, thì thế lửa ngoài chùa đột nhiên biến đổi. Một vầng lửa rừng rực bay dạt theo cơn gió trùm núi táp thẳng vào trong chùa. Lại thêm rất nhiều đốm lửa, tàn lửa bay tới tấp qua chùa, rơi xuống chân núi Thiên Thê.

    Viên Hoá Lôi nhìn thấy cảnh tượng này, thầm reo trong dạ: “Lửa này có thể dùng!”.

    Dương Tiểu Đao đã không còn đường để chạy, đúng hơn là không còn sức để chạy. Vách núi phía trước vỡ lở đổ xuống, có độ dốc, cũng có đá tảng lổn nhổn làm chỗ giẫm chân mượn lực để trèo lên. Nhưng Dương Tiểu Đao biết đã không kịp nữa rồi. Tiếng bước chân đuổi theo đã nghe rõ mồn một, có lẽ chỉ còn cách khoảng năm bước. Bởi vậy, Dương Tiểu Đao thấy leo lên vách đá chẳng bằng quay lại, trốn chạy chẳng bằng liều mạng quyết chiến. Đây là lựa chọn bất đắc dĩ, song trong tình thế này lại không thể không làm.

    Thế là gã xoay người, xuất đao! Phía sau vọng lại tiếng rú thảm thiết.

    Đao chém hụt vào khoảng không. Bởi lẽ chính vào lúc Dương Tiểu Đao dừng bước xoay người, thì hai cao thủ đuổi ở trên cùng cũng khựng lại quay ngoắt ra sau.

    Tiếng rú thảm thiết phát ra từ cuối đoàn cao thủ truy đuổi. Ở đó có thân rắn dài uốn lượn như gió, có xẻng lưỡi cày múa vùn vụt, phản chiếu ánh nắng rạng rỡ và ánh lửa rừng rực quét thành hào quang kín trời. Hào quang tới đâu, kiếm đao gãy vụn, sắt thép đứt lìa.

    Nhìn vào hai món binh khí đặc biệt, đủ để biết kẻ vừa chui từ dưới đất lên là Quỷ Nhãn Tam và Biện Mạc Cập.

    Sau khi hai đệ tử của Mặc gia chết một cách bí hiểm, mọi người rã đám, đường ai nấy đi. Quỷ Nhãn Tam và Biện Mạc Cập trước đó chưa từng giao thiệp, cũng chẳng hiểu rõ về nhau, bởi vậy không đi cùng nhau. Hơn nữa kể từ ngày mặt mũi bị huỷ hoại nghiêm trọng, Quỷ Nhãn Tam không muốn đồng hành với bất cứ ai, trừ khi có Lỗ Nhất Khí đi cùng.

    Quỷ Nhãn Tam đi theo đường âm minh, tức là tìm mộ mà đi. Trên vùng đất Tạng rộng lớn, có rất nhiều ngôi mộ là nơi chôn cất thi thể của thương nhân chết dọc đường. Loại mộ này thông thường đều ở gần đường qua lại, nên cũng tương tự như những mốc lộ giới. Hơn nữa đi theo đường mộ, có thể tránh được nguy cơ đụng độ với quân phục kích phía Chu gia, nên an toàn hơn hẳn.

    Đường Biện Mạc Cập đi là đường người ngựa. Hắn là cao thủ đánh xe ngựa, chỉ cần đường nào có người ngựa đi qua là hắn nhận ra ngay. Trên đường đi, hắn nhặt nhạnh được một số vật liệu phế thải, chế ra một cỗ xe ngựa theo kỹ pháp trong “Ban kinh”. Sau đó lại mượn được một con ngựa cái của một người Tạng gặp trên đường, dùng ngựa cái làm mồi nhử, dụ được hai con ngựa hoang, huấn luyện chúng thành ngựa kéo xe. Và thế là hắn đã có được một cỗ xe ngựa kéo.

    Vài ngày trước, nhân lúc đêm tối, Quỷ Nhãn Tam đã lẻn đến chân núi Thiên Thê. Sau đó dùng phương pháp tìm kiếm tung tích của phái Mao Sơn để lần tìm tông tích khác lạ, phát hiện thấy trong chùa Kim Đỉnh có sự bất thường. Là vì trong vườn thú sau chùa, ngoài bầy thú do Báo Cơ nương nương thuần dưỡng, còn có đám người mất hồn mà lão thầy cúng đã dùng xe chở đến. Người mất hồn thì một nửa đã thành xác chết, nên trên mình cũng mang theo tử khí. Thuật tìm tông tích Mao Sơn của Quỷ Nhãn Tam nhận biết được tử khí.

    Sau khi tìm ra sự khác thường, Quỷ Nhãn Tam bèn âm thầm đào hang từ đầu tường vây phía tây, men theo chân núi mà chui vào chùa Kim Đỉnh. Hắn muốn lẻn vào trong chùa thám thính tình hình, đồng thời cũng muốn thu lượm tin tức của Lỗ Nhất Khí.

    Quỷ Nhãn Tam đào hầm xuyên qua lòng đất vào trong chùa, đây là điều mà người Chu gia không thể ngờ tới. Người Chu gia vốn cho rằng dưới chân núi toàn là đá tảng, không thể đào qua. Bởi vậy, bọn họ đã không bố trí thiết bị cảnh báo và khảm nút ở dưới đất.

    Kỳ thực núi Thiên Thê tuy cao lớn hùng vĩ, song chất đá, chất đất lại rất tơi xốp, đặc biệt là ở dưới chân núi. Nguyên nhân của hiện tượng này có lẽ do đỉnh núi là nơi hút âm, nên chân núi sẽ là nơi phân tán âm. Xẻng lưỡi cày của Quỷ Nhãn Tam cứng rắn sắc bén, công lực dời non phá núi của hắn cũng thuộc dạng siêu phàm, chỉ trong vòng hai ngày, hắn đã đào tới sát vườn thú trong chùa.

    Biện Mạc Cập cũng xâm nhập vào thị trấn lúc nửa đêm. Hắn từng đánh xe chở hàng qua đây, vì thế tình hình nơi này với hắn không hề lạ lẫm. Thật ngẫu nhiên, hắn đã phát hiện ra Quỷ Nhãn Tam, hơn nữa sau khi Quỷ Nhãn Tam chui vào trong hầm để đào bới, hắn đã kết roi ngựa thành một nút thắt đoạn hồn đặt sẵn ở cửa hang. Quỷ Nhãn Tam vừa thò ra khỏi hang, cần cổ lập tức bị khoá chặt. Đương nhiên, Biện Mạc Cập không giết Quỷ Nhãn Tam, không giết Quỷ Nhãn Tam chứng tỏ hắn không giết đám đệ tử Mặc gia.

    Cách làm của Biện Mạc Cập quả nhiên là một chứng cứ hết sức thuyết phục. Quỷ Nhãn Tam đã tin tưởng hắn, và hai người bắt đầu liên thủ, âm thầm theo dõi biến động trong chùa, sẵn sàng tiếp ứng cho Lỗ Nhất Khí.

    Đêm này, Quỷ Nhãn Tam một mình xuống hang, chuẩn bị đào nốt chút đất đá cuối cùng nối thông với vườn thú. Biện Mạc Cập giúp hắn canh gác ở cửa hang. Khi trời gần sáng, trong thị trấn đột nhiên có biến, Biện Mạc Cập lập tức chui xuống thông báo cho Quỷ Nhãn Tam biết. Quỷ Nhãn Tam bèn đào thông đất đá, chui vào vườn thú, dùng bùa chú Mao Sơn phong toả đám người mất hồn. Bởi vậy, mặc dù trong chùa náo động như chợ vỡ, song đám người mất hồn lại không hề ra tay sát phạt.

    Đào hang dưới chân núi, dù đất đá có tơi xốp đến đâu cũng không thể đào quá sâu, nên trên nóc hang chỉ phủ một lượt đất nổi và đá vụn. Khi hai người luồn qua đoạn hầm bên dưới bãi Thần Hô, nhìn qua khe đá lên trên, họ nhìn thấy Dương Tiểu Đao đang lâm vào cảnh nguy khốn, bèn lập tức phá đất xông lên khác nào xác chết đội mồ.

    Xẻng lưỡi cày sắc bén không gì cản nổi, nên đám cao thủ Chu gia liền thay đổi chiến thuật thực hư cùng tồn tại, vài tên dàn hàng cùng giao chiến với Quỷ Nhãn Tam, tên thì xuất dụ chiêu, tên thì xuất hư chiêu, chờ đợi thời cơ để xuất thực chiêu.

    Mãnh hổ khó địch bầy chồn. Một cặp mắt, một đôi tay không thể đối chọi với hơn chục cặp mắt, đôi tay, huống hồ Quỷ Nhãn Tam chỉ còn một mắt. Đối đầu với một dãy cao thủ dàn hàng tần công, tốt nhất nên bắt đầu từ điểm đầu mút rồi hạ từng tên một. Do đó Quỷ Nhãn Tam từ từ di chuyển tới một đầu của đội hình. Song đối thủ nhanh chóng nhận ra ý đồ của Quỷ Nhãn Tam, lập tức phản ứng lại.

    Dương Tiểu Đao và Biện Mạc Cập cũng gặp phải khó khăn tương tự. Dương Tiểu Đao sử đao nhanh, Biện Mạc Cập đánh roi lợi hại, bởi vậy đối thủ cũng dàn thành hàng ngang đối phó với từng người một. Dương Tiểu Đao, Biện Mạc Cập và Quỷ Nhãn Tam cùng nghĩ ra một phương pháp giống nhau, còn đối thủ cũng ứng phó theo cùng một cách. Bởi vậy, bước chân di chuyển mỗi lúc một nhanh, đều muốn đuổi tới phía đầu đội ngũ.

    Cao thủ Chu gia biết rõ, phía mình dàn thành hàng dài, người đông nên tốc độ bước đi không thể thống nhất. Nếu gia tăng tốc độ, nhất định sẽ không thể theo sát nhau. Thế là ba hàng ngang dần dần xoay chuyển áp sát nhau, đầu đuôi nối liền, tạo thành khảm cục Tam giác xoay, tấn công hay phòng thủ đều thuận lợi.

    Tam giác xoay xuất hiện sớm nhất trong “Kiến Đường chí”, Đơn Hùng Tín chỉ dẫn theo sáu mươi tráng sĩ mang đao xông vào doanh trại quân Đường, sáu mươi tráng sĩ đã vận dụng trận pháp “Tam giác xoay”.

    Hình tam giác là hình dạng kiên cố nhất trong các hình hình học. Tam giác xoay chính là ba hàng tổ hợp thành một hình tam giác, có thể liên tục xoay chuyển, co duỗi tuỳ ý. Ngoài ba cạnh đều có thể hướng đao ra ngoài xoay tròn mà tàn sát, vào lúc cần thiết còn có thể nhốt đối thủ ở bên trong, sau đó ba mặt đồng thời xoáy vào trong mà giết.

    Ba người Quỷ Nhãn Tam chưa từng gặp phải khảm trận Tam giác xoay, bởi vậy mới đầu vẫn chưa chú ý tới. Tuy nhiên, rất nhanh sau đó, họ đều cảm giác thấy có điều bất ổn. Bởi lẽ sau khi ba hàng người tụ lại một chỗ, dù họ di chuyển với tốc độ nhanh tới đâu, cũng không thể tìm thấy đầu hàng. Ngược lại, lại thành ra hình tam giác xoay tròn luôn có một cạnh đuổi theo họ, lúc này có muốn dừng cũng không dừng được.

    Ba người tìm cách di chuyển ra ngoài, xông ra khỏi cục thế xoay tròn. Tuy nhiên họ vừa di chuyển, các cạnh của hình tam giác lập tức kéo dài ra, khí thế ép tới càng thêm dữ dội. Đôi bên vô hình trung đã hoán đổi vị thế cho nhau, vừa rồi là vội vã đuổi tới đầu hàng, bây giờ lại trở thành cuống cuồng né tránh. Cả ba người đều hiểu rõ, nếu bị một cạnh chạm phải, sẽ lập tức thịt nát xương tan.

    Và thế là tại mé tây nam của chân núi Thiên Thê, xuất hiện một cảnh tượng vô cùng kỳ quái. Một hình tam giác người đao kiếm tua tủa đang xoay vùn vụt, trước mỗi cạnh của hình tam giác này đều có một người đang cuống cuồng chạy theo vòng xoay, song trông họ hoảng hốt và thảm hại hơn hẳn những người trong đội hình tam giác.

    Trên núi, Chu Chân Mệnh thẳng tay từ chối sự nhiệt tình của Lỗ Nhất Khí. Hắn cảnh giác lùi lại hai bước, không để Lỗ Nhất Khí đang tươi cười hớn hở áp sát.

    Lỗ Nhất Khí không để ý tới điều đó, vẫn nói với Chu Chân Mệnh bằng giọng điệu như một kẻ tri giao:

    - Tôi đang đợi ông đấy! Đã nói là cùng khai quật Thiên bảo, sao giờ mới tới?

    - Vậy hà cớ gì phải lén lút mò vào trong chùa? – Chu Chân Mệnh khinh khỉnh đập lại một câu.

    - Ai nói tôi lén lút? Tôi vào đây ồn ào thế kia mà, chắc chắn ông có nghe thấy! - Lỗ Nhất Khí cười mà nói, song ngữ điệu vẫn có chút ngượng ngập.

    - Nếu như cùng nhau khai quật Thiên bảo, vậy thì ngươi hãy bày tỏ thành ý giống như ta lần trước, giao bảo bối trong tay ngươi cho ta, được chăng? – Chu Chân Mệnh thẳng thừng áp đảo.

    - Đương nhiên là được. Thứ này vốn đã cho Chu gia các người lâu rồi, xưa nay vẫn để nguyên tại viện trong viện ở Bắc Bình, tại các người không cần nên tôi mới mượn tạm dùng trước! - Lỗ Nhất Khí nói đoạn, bèn thò tay vào ngực áo lấy ra tấm thẻ ngọc đánh dấu tám vị trí hung huyệt.

    Chu Chân Mệnh nhất thời không kịp phản ứng, còn Đao Thập Lục chỉ biết trợn mắt ra nhìn.

    Thẻ ngọc đã được lấy ra, chìa về phía trước, song Chu Chân Mệnh vốn dĩ rất mực thận trọng lại không đưa tay ra cầm. Lỗ Nhất Khí bèn ngồi xuống, đặt tấm thẻ ngọc xuống đất, rồi nói:

    - Hãy nhìn xem đây có phải là thứ ông cần không. Nếu còn chưa thoả mãn, chúng ta sẽ thương lượng một điều kiện khác. Tôi qua bên kia thăm dò một chút, nếu ông tin tưởng, có thể đi theo tôi. Quật bảo ở nơi này có lẽ cũng phải nhờ tới ông trợ giúp.

    Nói vừa dứt lời, Lỗ Nhất Khí phăm phăm bước về phía một lối rẽ ngang hướng sang phía tây.

    Lối rẽ này thực tình mà nói không giống một con đường, mà giống như một bậc thang. Nhìn vào vết tích, có cảm giác đoạn đường này khá giống với đoạn bậc thang phía dưới, là do con người tạo ra. Song con đường này không dài, một loáng đã tới tận cùng. Đi tiếp về phía trước, chính là vách núi sạt lở phía trên bãi Thần Hô.

    Lỗ Nhất Khí tiến hành đo đạc bằng mắt và ngón tay, kết hợp với kỹ xảo trong “Ban kinh” và lý luận trong “Cơ xảo tập”, từ đó phán đoán rằng, tại nơi vách núi đổ sập này trước đây có lẽ có một toà kiến trúc trên vách đá.

    Phát hiện này khiến Lỗ Nhất Khí phấn chấn hẳn lên, rất nhiều sự việc bỗng chốc đã sáng tỏ. Đoạn bậc thang phía dưới và lối rẽ ngang đi về phía tây rất có thể là lối đi mà Mặc gia năm xưa đã sử dụng khi xây dựng bảo cấu. Bảo cấu vốn được xây dựng trên vách đá, nhưng về sau không hiểu tại sao đã sập xuống theo sườn núi. Những tảng đá có đục lỗ trên bãi Thần Hô rất có thể là nguyên liệu dùng để xây dựng bảo cấu năm xưa.

    Lỗ Nhất Khí lại quan sát cẩn thận vách đá lở một lần nữa. Bên trên vách đã cũng có nhiều lỗ thủng, kích cỡ khác nhau, vuông tròn có đủ, có lẽ dùng để bắt xà cột vì kèo.

    Trong lúc Lỗ Nhất Khí đang mải quan sát, suy nghĩ thì Chu Chân Mệnh và Đao Thập Lục cũng đã bước tới. Chu Chân Mệnh nắm khư khư tấm thẻ ngọc trên tay, như thể đang nắm lấy tính mạng của chính mình.

    Đao đầu đi phía sau Chu Chân Mệnh, ánh mắt rất đỗi âm trầm tán loạn, khiến người khác không thể đoán lường.

    - Núi này chí âm trên đỉnh, dương ở dưới chân, vốn là cách cục hung tướng đảo lộn vị trí, song lúc này lại biến thành dương tăng âm giảm, cục tướng hoàn toàn đổi ngược! – Lỗ Nhất Khí lẩm bẩm trong miệng, song không nhìn Chu Chân Mệnh.

    - Cho dù có sự bất thường nào làm rối loạn cân bằng âm dương, cũng phải là cái này tăng cái kia giảm, chứ không thể đảo ngược hoàn toàn như vậy! - Lỗ Nhất Khí vẫn lẩm bẩm một mình.

    - Xuất hiện cục tướng như vậy có một khả năng, chính là một trong hai khí âm dương ở trong trạng thái mạch dài, khí còn lại trong trạng thái bao phủ. Khi một trong hai khí tướng đó biến đổi, khí còn lại lập tức xoay ngược. Lý luận này từng được nói sơ qua trong cuốn “Âm dương đạo khí giải” của Phạm Sĩ Đôn thời Nam Đường. – Chu Chân Mệnh tiếp lời Lỗ Nhất Khí.

    Lỗ Nhất Khí như ngủ mê chợt tỉnh, ngoảnh đầu nhìn Chu Chân Mệnh, ánh mắt vô cùng quái dị.

    Chu Chân Mệnh bất giác rùng mình ớn lạnh, như thể có một đường đao lạnh buốt rạch dọc sống lưng.

    Lỗ Nhất Khí đã lập tức hoàn toàn thấu tỏ cách cục phong thuỷ kỳ tuyệt của nơi này. Điểm nghi vấn mà cậu phải vắt óc suy nghĩ suốt bấy lâu vẫn chưa có được lời giải, vậy mà chỉ một câu nói của đối thủ, đã lập tức tìm ra đáp án.

    Hình huyệt của hung huyệt nơi đây có hình mạch dài, nên khí trên dưới lưu thông. Nhìn vào nền móng bảo cấu do Mặc gia xây dựng, thì thấy rằng họ đã lựa chọn được nguyên liệu và nền móng cực tốt, hơn nữa còn chọn áp dụng công nghệ đổ móng bằng sắt, theo lý mà nói thì không thể sụp đổ nhanh như vậy được. Nguyên nhân duy nhất chỉ có thể là vị trí của bảo cấu trực xung với mạch hung, trong khi Thiên bảo mới nhập phàm thế, vẫn chưa trải qua chu kỳ ba hưng ba phục, nên không trấn áp nổi hung huyệt. Do đó, khí của mạch hung mới đánh sập bảo cấu.

    Chu Chân Mệnh rùng mình ớn lạnh chính là vì đao phong. Khi Chu Chân Mệnh đang giúp Lỗ Nhất Khí phân tích cục tướng, trạng thái cơ thể có phần sơ hở, Đao Thập Lục đã chớp lấy cơ hội đột nhiên giở quẻ. Thế xuất đao của gã vô cùng quái dị, dang hết cả hai tay hai chân, rồi rung lắc liên hồi. Bỗng dưng xuất hiện vô số xoáy khí từ cơ thể gã khuếch tán ra ngoài. Nhưng dù là cơ thể đang mở rộng hay xoáy khí đang khuếch tán, cuối cùng cũng là nhằm bọc kín Chu Chân Mệnh vào trong.

    Chu Chân Mệnh đã cảm nhận thấy đao khí, hơn nữa còn nhìn thấy đao quang phản chiếu trong ánh mắt Lỗ Nhất Khí. Thứ đao quang đó ổn định như ráng chiều, chắc chắn như vách núi. Đây là thứ đao được đúc luyện từ cơ thể và tính mệnh.

    Người đao mười sáu lưỡi, mười hai lưỡi trên tứ chi, hai lưỡi dưới bàn chân, một lưỡi ngậm trong miệng, tổng cộng mười lăm lưỡi đao. Còn một lưỡi đao nữa ở nơi nào? Lưỡi đao cuối cùng chính là toàn bộ cơ thể, lấy thân làm đao, lấy xương làm mũi. Khi tấn công, xương cốt ở bất cứ vị trí nào trên cơ thể đều có thể dùng nội lực bẻ gãy, lòi ra ngoài da thịt, đâm chết đối thủ. Như vậy, có thể tuỳ theo ý muốn mà tiến hành tấn công đối thủ tại những vị trí kín đáo nhất, khó lường nhất, và cũng gần sát với vị trí hiểm yếu của đối thủ nhất. Đương nhiên, xuất đao kiểu này càng nhiều, sẽ càng gây tổn thương nặng nề cho bản thân. Chiêu lợi hại nhất chính là ôm lấy đối thủ cùng về cõi chết. Thế đao thứ mười sáu, không phải tất cả người đao mười sáu lưỡi đều biết sử dụng. Song Đao Thập Lục là Đao đầu, là thủ lĩnh, đương nhiên phải biết.

    - Đưa bảo bối cho ta! – Đao Thập Lục chưa động thủ ngay, tuy rằng lúc này kình lực và nội khí của gã đã tích tụ tới cực điểm.

    - Bảo bối nào? – Chu Chân Mệnh trong vẻ điềm tĩnh dấy lên chút nghi hoặc.

    - Bảo bối trong tay môn trưởng!

    - Ngươi cần nó làm gì? – Chu Chân Mệnh vẫn không thể hiểu nổi. Đao đầu Đao Thập Lục do một tay Chu gia nuôi dưỡng huấn luyện, tại sao lúc này lại có hành động kỳ quặc đến thế?

    - Dựa vào bảo bối, sẽ thành bậc chí tôn trong thiên hạ. Việc tốt lành như vậy hôm nay phải thuộc về ta! – Đao Thập Lục đã bị Chu gia yểm bùa chú trùng độc trong người, nhưng lúc này gã dám gây chuyện phản nghịch, chắc hẳn khi ra ngoài đã tìm được cách hoá giải trùng độc.

    - Nói cũng phải lắm! Chu gia các người đã từng làm hoàng đế, giờ nhường lại cho người khác cũng là hợp lý. Hơn nữa, kẻ thức thời là trang tuấn kiệt, tình hình của ông lúc này cũng hệt như tôi vừa nãy, chẳng phải tôi đã vui vẻ đưa bảo bối cho ông rồi ư? - Lỗ Nhất Khí đang cổ vũ Đao Thập Lục tiếp tục làm tới, như vậy có thể tranh thủ thêm chút thời gian.
     
  7. hoahongtokyo

    hoahongtokyo C O N T R A

    Tham gia ngày:
    27/2/05
    Bài viết:
    1,814

    Chu Chân Mệnh không dám hành động, không phải vì đã bị thế tấn công của Đao Thập Lục khống chế, mà vì bên cạnh còn có Lỗ Nhất Khí. Lúc này, hắn và Đao Thập Lục là “cò nghêu tranh hùng”, còn Lỗ Nhất Khí là “ngư ông đắc lợi”.

    - Môn trưởng là bậc kỳ tài, hẳn sẽ hiểu rõ nên bỏ bảo bối hay bỏ tính mạng – Đao Thập Lục lạnh lùng nói.

    - Không phải không nỡ bỏ, chỉ là thứ này ngươi có lấy cũng vô dụng.

    - Thứ này vô dụng, vậy thứ gì mới hữu dụng?

    - Vậy thì phải hỏi hắn! Thứ đó có lẽ đang ở trong tay hắn! – Chu Chân Mệnh quả nhiên lợi hại, chỉ dăm ba câu đã đảo ngược tình thế, chuyển mũi nhọn sang phía Lỗ Nhất Khí.

    - Chu môn trưởng, hắn không ngốc nghếch đến thế đâu. Nếu ta khăng khăng không đưa bảo bối cho hắn, ông lại trách hắn tội phạm thượng, tới lúc đó, hai bên cùng hợp sức tấn công hắn, thì hắn càng không còn cơ hội. Bởi vậy, dù muốn đòi bảo bối từ ai, cũng phải giải quyết ông trước! - Lỗ Nhất Khí lại gạt mũi nhọn về phía Chu Chân Mệnh, khiến hắn vẫn không thể thay đổi được tình thế bất lợi.

    - Nói như vậy là ngươi đã thừa nhận bảo bối đang nằm trong tay ngươi? - Mắt Chu Chân Mệnh sáng rực lên, hắn đã tìm ra sơ hở từ trong lời nói của Lỗ Nhất Khí. Thảo nào khí thế của gã thanh niên này mới có vài ngày đã tăng tiến vượt bậc, vừa rồi vòng hào quang toả ra từ cơ thể hắn đã thổi bạt cả lớp lớp mây mù, thì ra cũng có nguyên nhân.

    Nói lắm tất lỡ lời, lúc này, Lỗ Nhất Khí không còn giữ được vẻ điềm tĩnh vốn có nữa. Trước hai luồng ánh mắt rừng rực như lửa, cậu cảm giác như bị vô số mũi đao kề sát.

    Mồ hôi đã loáng thoáng rịn trên vầng trán Lỗ Nhất Khí. Thật trùng hợp, lúc này trên núi lại có nước tí tách nhỏ xuống. Thì ra tầng mây tản ra, khiến ánh mặt trời chiếu vào nơi tuyết đọng, băng tuyết đông cứng quanh năm bắt đầu tan chảy.

    Mạc Thiên Quy đứng giữa Hoả trận, vừa quan sát, tính toán hình núi thế đất xung quanh, vừa lắng nghe Sách Khố Lạt kể lại toàn bộ sự việc.

    - Khi tôi vừa trở về thì thấy đệ tử Mặc môn và họ hàng thân thích đều bị Chu gia bắt bớ, liền cảm thấy nội bộ Mặc gia tất có kẻ nằm vùng. Đệ tử Mặc môn sống ở nơi này qua bao thế hệ đều chưa từng xảy ra sự biến, vậy mà khi tay họ Lưu kia vừa mới xuất hiện, tai hoạ đã lập tức xảy ra. Sau khi hắn tới, việc đầu tiên là nghe ngóng tình hình của toàn bộ đệ tử nơi đây. Hơn nữa, ám hiệu đánh dấu để lùng bắt đệ tử Mặc gia là một bàn tay. Mới đầu tôi cũng không để ý, về sau nhớ lại, hình như bàn tay đó có sáu ngón bởi vậy tôi nghi ngờ ám hiệu đó tượng trưng cho biệt danh giang hồ của hắn là “Sáu cánh tay”. Quả nhiên, sau khi đốt lửa trên núi Nam Lĩnh, hắn đã quay ngược về thị trấn, lẩn vào trong chùa. Vì muốn giải cứu cho chúng đệ tử Mặc môn và gia quyến của họ, tôi bèn bám theo vào, phát hiện ra hắn phóng phi tiêu báo tin cho đối thủ. – Sách Khố Lạt bị thương trầm trọng, cơ thể suy sụp, giọng nói mỗi lúc một yếu, xem chừng có thể ngất lịm hoặc chết bất cứ lúc nào.

    - Dịch lão đệ, hãy giúp hắn tỉnh táo một chút, lát nữa còn cần tới sức lực của hắn.

    Dịch Huyệt Mạch lập tức lần lượt châm kim vào gáy, hậu tâm và sau thắt lưng Sách Khố Lạt. Sách Khố Lạt như thể choàng tỉnh khỏi giấc mơ, lập tức đứng vụt dậy, chỉ tay vào Lưu Chi Thủ bên ngoài Hoả trận, chửi rống lên:

    - Tên súc sinh thối tha vô liêm sỉ, lừa thầy diệt tổ, dù ta có biến thành ma cũng không tha cho ngươi...

    Mạc Thiên Quy thở dài:

    - Cứ ngỡ rằng đệ tử họ Lưu ở vùng đất tổ của Mạc gia là đáng tin cậy, nhưng ta đã lầm thực rồi. Trên đời có một số kẻ vì vinh hoa phú quý mà sẵn sàng từ bỏ những thứ đáng giá hơn thế, bao gồm cả sự tôn nghiêm và vinh quang của tổ tiên, cả tình thân quê hương bản quán!

    - Môn trưởng, lúc ở Nam Lĩnh tôi có nghe ông già họ Viêm kể lại, hai đệ tử Mặc môn đi cùng đám trợ thủ còn lại của Lỗ gia đều đã lần lượt bị giết hại. Trong số họ nhất định cũng có kẻ nằm vùng. – Sách Khố Lạt nói vậy là muốn an ủi Mạc Thiên Quy.

    - Chưa chắc! Hành động của kẻ nằm vùng có mục đích rất rõ ràng, mà mục đích lần này là muốn Lỗ môn trưởng quật được bảo bối song không giữ được bảo bối. Bởi vậy, khi hắn một mình đưa Lỗ môn trưởng tới đây, chắc hẳn cũng đồng thời tìm cách ly gián, khiến các trợ thủ của Lỗ gia nghi ngờ lẫn nhau mà chia năm xẻ bảy, mỗi người một nơi. Bởi vậy, kẻ gây ra chuyện này chắc chắn là kẻ được hưởng lợi từ đó, cũng không ai khác ngoài Lưu Chi Thủ! - Dịch Huyệt Mạch phân tích rành mạch như thể đang đoán bệnh – Theo tôi được biết, Đông xưởng của triều Minh từng chế ra một loại thuốc độc có tên là “bột phá huyết canh giờ”. Thuốc độc này không mùi không màu, dích vào cơ thể cũng không có cảm giác. Song tới một thời điểm nhất định, da thịt huyết quản sẽ thình lình nứt toác. Hình dạng vết nứt giống hệt với hình dạng của thuốc dính trên cơ thể, nếu là một vệt thẳng sẽ có hình đao chém, là một khối sẽ có hình lỗ thủng. Hai đệ tử Mặc gia đó có lẽ đã trúng phải thứ thuốc độc này. Lưu Chi Thủ, ta đoán có đúng không?

    - Quả nhiên là thần y tuyệt thế, hiểu nhiều mà không nói, suy nghĩ kín kẽ chu toàn. Song cũng vô ích thôi? Lửa sắp tắt rồi, chuyện cần kết thúc cũng sắp kết thúc! – Lưu Chi Thủ đã chỉ ra sự thực.

    - Cũng không hẳn! - Mạc Thiên Quy toát lên vẻ ngạo nghễ hiếm thấy của một vị môn trưởng.

    Sau khi quan sát kỹ lưỡng không gian xung quanh, một kế hoạch liều lĩnh đã hình thành trong đầu Mạc Thiên Quy. Lão muốn dùng một cách cục thần kỳ cổ kim hiếm có để đánh bại Lưu Chi Thủ và bầy tam thú ngao. Điều này sẽ đem lại cho lão một niềm kiêu hãnh lớn lao, vừa chiến thắng được bản thân, lại vừa đánh bại được đối thủ.

    Địa hình hốc núi có hình loa. Từ hình dạng này, Mạc Thiên Quy nhớ tới một trận thế đột phá ra ngoài có tên là “Hoả lân xung huyệt”[27], là cách cục thứ hai mươi ba trong Kỳ môn Độn giáp. Nhưng nếu ba người họ muốn đột phá vòng vây theo thế trận Hoả lân xung huyệt, khả năng thành công sẽ cực thấp. Bởi vậy, điều khiến Mạc Thiên Quy đắc ý không phải là cục thế này, mà là sự biến hoá ngay phía sau Hoả lân xung huyệt. Biến hoá này là một yêu cục, khảm gia chính đạo sẽ không biết sử dụng, song Mạc Thiên Quy đã học được cục diện này trong một cuộc đối đầu với tộc người Ngân Nha tại Quảng Tây năm xưa, yêu cục này có tên là “Ma diệm khúc lưu”[28]. Sử dụng phương thức biến trận này, có thể làm rối loạn đội hình của bầy thú, vây khốn một phần thú dữ. Song khiến Mạc Thiên Quy đắc ý nhất chính là biến hoá thứ ba ngay sau Ma diệm khúc lưu – Tam dương phi tinh[29]. Biến hoá này sẽ quyết định bọn họ có đạt được mục đích cuối cùng hay không.

    Mạc Thiên Quy vừa động vào đám lửa, Lưu Chi Thủ đã biết chắc lão muốn dùng cục thế Hoả lân xung huyệt. Bởi vậy hắn đã âm thầm điều động tam thú ngao chia thành năm nhóm, hai trước và ba sau. Như vậy khi “Hoả lân” xông ra, năm nhóm thú sẽ phân trước tụ sau, biến thành cách cục “Ngũ hành thôn nạp”[30], cách cục thứ năm trong Kỳ môn Độn giáp, vẫn có thể vây kín Hoả lân ở bên trong.

    Mạc Thiên Quy dường như không nhận ra sự biến đổi của bầy thú, chỉ tập trung vào công việc chuẩn bị. Ba người họ mỗi người thu gom được chút ít cành vụn lá khô, đốt thành một bó đuốc nhỏ. Sau đó Mạc Thiên Quy tập tễnh bước đi vài bước, không ai có thể nhận ra, bằng mấy bước đi này, lão đã âm thầm thay đổi Hoả trận.

    Lưu Chi Thủ bắt đầu thấy nghi ngờ. Mạc Thiên Quy không thể mù quáng và khinh suất như vậy được, lẽ nào mình đã phỏng đoán sai ở khâu nào, hay là chưa nhận ra thủ đoạn lợi hại tiếp theo?

    Sách Khố Lạt là người đầu tiên xông ra từ giữa đống lửa sắp tàn, phía sau gã là Dịch Huyệt Mạch, tốc độ của hai người khá nhanh chóng. Cuối cùng là Mạc Thiên Quy, do bị thương ở chân nên tốc độ của lão chậm chạp nhất, bị hai người kia bỏ cách một đoạn.

    Không ổn rồi! Lưu Chi Thủ than thầm trong dạ. Hoả lân xung huyệt đáng lẽ phải là tất cả mọi người cùng xông ra một lượt, nhưng tại sao ba người này lại chia nhau kẻ trước người sau xông ra?

    Vừa xông ra khỏi đống lửa, Sách Khố Lạt lao thẳng tới bầy thú.

    Lưu Chi Thủ nhất thời không biết ứng phó ra sao. Ngũ hành thôn nạp chỉ để đối phó với một mình Sách Khố Lạt thì quá lãng phí. Nhưng nếu để bầy thú trực tiếp lao vào cắn xé, thì khi hai người phía sau xông ra, không còn bố cục sẽ không thể vây khốn được toàn bộ bọn họ.

    Trong lúc Lưu Chi Thủ còn đang do dự, bó đuốc nhỏ trong tay Sách Khố Lạt đột nhiên cháy bùng lên, biến thành một quả cầu lửa ngoại cỡ, với những ngọn lửa xanh lét tưng bừng nhảy nhót, thế lửa cực hung hãn. Ngay lúc đó, Sách Khố Lạt đột ngột thay đổi hướng chạy, lạng người rẽ ngoặt, dường như muốn xông ra từ khe hở giữa các nhóm thú.

    Lưu Chi Thủ lúc này đã kịp phản ứng, lập tức phát tín hiệu điều động bầy thú. Ngay lập tức từ trong bầy xông ra vài con tam thú ngao lao ra vây chặn Sách Khố Lạt.

    Sách Khố Lạt chỉ là đổi hướng tạm thời, ý đồ thực sự của gã lại không phải là xông ra từ đó. Sau khi ngoặt sang một hướng khác, gã lao đi hơn chục bước thì lập tức ngoặt lại, tiếp tục xông thẳng vào giữa bầy thú. Đối mặt với tình thế này, Lưu Chi Thủ có muốn sắp xếp lại đội hình cũng không kịp nữa. Bầy thú lập tức rối loạn, tam thú ngao bản tính thông minh nhìn thấy khối lửa ngùn ngụt lao thẳng tới thì đua nhau né tránh.

    Dịch Huyệt Mạch lúc này cũng đã xông ra, giống như Sách Khố Lạt, chuyển hướng chạy đi rồi lại ngoặt ngược trở lại. Chỉ khác ở chỗ số bước sau khi chuyển hướng nhiều hơn so với Sách Khố Lạt, diện tích vòng vây khi đổi hướng ngoặt ngược lại cũng lớn hơn. Vậy nên vầy thú né tránh lại càng rối loạn.

    Lưu Chi Thủ đã định thần trở lại, liên tục phát tín hiệu. Quá nửa bầy thú liền né tránh về phía tây, một số ít còn lại dàn thành hình vòng cung, tiếp tục chặn đuổi vồ cắn hai người kia. Nhưng không ngờ Sách Khố Lạt lại xông ra lần nữa, tình trạng rối loạn khi nãy tiếp tục lặp lại.

    Đây chính là Ma diệm khúc lưu. Muốn hình thành khảm diện này, nhất thiết phải có đủ hai tiền đề. Thứ nhất, phải hiểu rõ đặc tính của đối thủ. Tam thú ngao thông minh, xảo quyệt, biết phán đoán tình thế, nếu đối thủ né tránh, chúng sẽ đuổi sát không rời; nếu đối thủ dồn ép, chúng sẽ vội vã né tránh. Thứ hai, cần có thứ khiến chúng phải khiếp sợ. Muôn thú bẩm sinh sợ lửa, song thú đã qua huấn luyện nghiêm ngặt có thể chịu đựng được ngọn lửa bình thường. Dịch Huyệt Mạch có loại dược liệu chuyên dùng trong giác hơi bằng lửa, khi đốt lên sức nóng không quá dữ dội, song hình lửa và thế cháy trông ngùn ngụt rất đáng sợ. Hơn nữa, trong đó lại được pha thêm một loại hương liệu kỳ lạ, khiến loài tam thú ngao vốn thận trọng giảo hoạt cảm thấy vô cùng sợ hãi.

    Sách Khố Lạt bắt đầu vòng xung kích thứ hai, Ma diệm khúc lưu đã thành công như mong đợi. Nhưng đúng lúc này lại xảy ra một sự cố bất ngờ, ngọn đuốc trong tay Sách Khố Lạt đột nhiên bập bùng vài cái, sau đó mau chóng thu nhỏ lại. Ngay lúc đó, bó đuốc trong tay Dịch Huyệt Mạch và Mạc Thiên Quy cùng xuất hiện tình trạng tương tự.

    - Lửa sắp tàn rồi! - Dịch Huyệt Mạch hiểu rõ, ngọn lửa được đốt bằng dược liệu dùng cho giác hơi nên thời gian cháy không bền.

    Lúc này Sách Khố Lạt đã xông vào bầy thú lần thứ hai, còn Mạc Thiên Quy đang một mình ngăn cản số tam thú ngao còn lại ở lối ra của Hoả trận. Ngọn lửa vừa mới bập bùng, đám súc sinh xảo quyệt kia lập tức phát giác ra, lập tức dừng bước gần như đồng loạt. Khi nhìn thấy lửa đuốc mau chóng thu nhỏ lại, chúng liền lao vụt trở lại.

    - Tam dương phi tinh! - Mạc Thiên Quy hét lớn.

    - Bay luôn bây giờ? Không chạy vòng nữa à? - Dịch Huyệt Mạch quay đầu lại hỏi.

    - Không cần! Bên này chúng tôi bị chặn, chậm tí nữa thì ông cũng không bay nổi đâu! - Mạc Thiên Quy quát lên như muốn đứt hơi.

    Tam dương phi tinh chính là khi Ma diệm khúc lưu xoay chuyển tới vòng thứ ba, phần lớn dã thú đều đã bị dồn vào trong Hoả trận, người đầu tiên là Sách Khố Lạt tiếp tục xua đuổi số thú còn lại, người thứ ba là Mạc Thiên Quy chặn giữ ở lối ra của Hoả trận, còn Dịch Huyệt Mạch ở giữa không bị bầy thú quấy rầy sẽ lao thẳng vào Lưu Chi Thủ.

    Mạc Thiên Quy bị thương nặng ở chân, Sách Khố Lạt lại không địch nổi Lưu Chi Thủ, bởi vậy ngôi “sao bay” này chỉ có thể là Dịch Huyệt Mạch.

    Ma diện khúc lưu mới xoay chuyển được một vòng, bó đuốc trong tay đã sắp lụi tới nơi. Do đó, cách duy nhất có thể tiếp tục duy trì Tam dương phi tinh chính là hành động sớm hơn.

    Bầy thú vừa nhìn thấy ngọn đuốc trong tay Sách Khố Lạt yếu đi, lập tức lao ngược trở lại. Sách Khố Lạt không thể né tránh, nếu né tránh thì bầy thú sẽ bao vây Dịch Huyệt Mạch, như vậy ngôi “sao bay” này sẽ không thể bay lên được nữa. Sách Khố Lạt không những không được né tránh, mà còn phải tìm cách khiến ngọn đuốc cháy mạnh hơn, dữ dội hơn nữa, để Dịch Huyệt Mạch tuy buộc phải bay đi sớm hơn vẫn có thể thuận lợi lao tới tấn công Lưu Chi Thủ.

    Thế là Sách Khố Lạt nghiến chặt hàm răng, trong lòng sắt lại, bó đuốc trong tay gã lập tức bùng lên dữ dội, trở thành một bó đuốc khổng lồ lao đi vùn vụt.

    Gió vòng quanh núi đột nhiên biến thành gió trùm núi. Gió xoáy tung lửa táp, vô số ngọn lửa bị gió cuốn bay rào rào về phía chính nam của núi Thiên Thê.

    Viêm Hoá Lôi đang lo lắng vì không đủ hoả liệu ứng phó với vài chục cao thủ phía đối phương, nhìn thấy cảnh tượng này, lập tức phấn chấn hẳn lên.

    Tuy trên người ông không có đủ vật liệu gây cháy nổ, song mồi dẫn lửa lại không thiếu. Mồi dẫn lửa là vật dễ cháy có thể bùng cháy trong nháy mắt, song thời gian cháy lại cực ngắn. Thế là Viêm Hoá Lôi đã kết hợp mồi dẫn lửa, hoả liệu còn sót lại với đám tàn lửa đang ào ào rơi xuống. Mồi dẫn lửa sẽ dẫn những đốm lửa rơi rớt bén đến chỗ chính xác, hoả liệu khiến đốm lửa đã lan đến đúng nơi không bị tắt ngay. Ánh sáng rừng rực và cái nóng bỏng rát rùng rùng lan toả, hình thành nên một Hoả cục nhảy nhót giữa không trung và mặt đất, đây là cách cục chín mươi chín trong Kỳ môn Độn giáp – “Phượng vũ cửu thiên”[31]. Cục thế này không những được dùng để ngăn cản vài chục cao thủ Chu gia, mà còn muốn phân tán, đẩy lùi bọn chúng, ép chúng vào trong đám điện gác hành lang đang bốc cháy rừng rực.

    Cao thủ Chu gia đều không phải hạng tầm thường. Sau khi Viêm Hoá Lôi phóng đi hơn chục mồi dẫn lửa, chúng đã đoán ngay ra ý đồ của ông, lập tức lao vọt tới trước khi cục thế Phượng vũ cửu thiên được hình thành.

    Viêm Hoá Lôi đã ý thức được mối nguy hiểm gần kề, cục Phượng vũ cửu thiên của ông không thể ngăn cản nổi những cao thủ Chu gia lão luyện. Nhìn vào tốc độ di chuyển của chúng, chỉ nháy mắt nữa thôi sẽ xông tới cục diện Song xá đấu Nga Hoàng, tạo nên mối uy hiếp trí mạng cho Dưỡng Quỷ Tỳ và Hạ Táo Hoa.

    Song xá đấu Nga Hoàng là khí tướng chí thuần, chí âm. Thế nhưng lúc này, cả một đám nam giới dương cương đạp lửa mà tới, khiến khí tướng chí âm này bắt đầu tán loan, luồng khí lưu, khí thế của nó đã thay đổi trong chớp mắt giống hệt như gió vòng quanh núi.

    Viêm Hoá Lôi tập trung toàn bộ số hoả liệu còn lại trên người, bắn vọt ra theo phương pháp nổ dữ phun mạnh, đã ngăn cản được vài cao thủ Chu gia chạy ở trên đầu. Lửa phụt ra thành dòng dữ dội, hoa lửa tung toé tựa sao sa. Nhưng trong lửa không có độc liệu, làm sao đủ sức ngăn cản đám cao thủ phi phàm. Những tên đi đầu tuy bị bén lửa, song không hề giảm tốc độ, vẫn lao phăng phăng về phía cục diện “Song xá đấu Nga Hoàng” như những dòng suối lửa.

    Cục tướng Song xá đấu Nga Hoàng đã tan rã. Không ai chịu thiệt, cũng không ai được lợi. Cả ba mỹ nữ đã chủ động tản ra, bởi lẽ dù là Báo Cơ nương nương hay Dưỡng Quỷ Tỳ, Hạ Táo Hoa, chẳng ai muốn chạm phải đám người bốc cháy rừng rực như đuốc sống đang chạy điên cuồng.

    Đuổi sát sau lưng đám người này là dòng thác lửa cuồn cuộn đổ ra từ trong khuôn viên của chùa Kim Đỉnh. Trước tình thế đó, cả bọn lập tức tháo chạy tán loạn. Một số người men theo chân núi chạy túa ra hai bên, một số khác bám theo ba cô gái bỏ chạy lên núi. Còn một số ít người giỏi khinh công lập tức bám vào vách bích hoạ thoăn thoắt trèo lên. Toàn bộ cục diện trong nháy mắt đã biến thành “Quạ vàng đuổi thỏ ngọc”, hay “Lửa trời đuổi yêu ma”, là một đại cục, có tác dụng là dùng dương bức âm. Trong “Thế nghiệt bình thu lục” có nhắc tới khảm cục này.

    Chính nhờ sự xuất hiện của cục diện “Quạ vàng đuổi thỏ ngọc”, một đại cục thế đã bắt đầu hé lộ.

    Trong trận Tam giác xoay, đám Quỷ Nhãn Tam chống đỡ vô cùng vất vả, song đám cao thủ Chu gia cũng vất vả không kém. Vì vất vả, khiến động tác và bộ pháp dần dần chệch choạc, nên Tam giác xoay cũng dần dần biến dạng, từng bước chuyển sang cách cục thứ sáu của Kỳ môn Độn giáp là “Lục minh xoay chiếu”. Ba người phía Lỗ gia là Tam minh, ba đội trưởng tại ba hàng của Chu gia cũng là Tam minh. Do trong trận thế toàn là nam giới, mà xẻng lưỡi cày của Quỷ Nhãn Tam, đao Bào Đinh của Dương Tiểu Đao và rọi ngựa dài của Biện Mạc Cập cũng đều là vật chí dương, bởi vậy “Lục minh xoay chiếu” lúc này chính là một cục tướng chí dương chí cương.

    Đặc biệt là sau khi chùa Kim Đỉnh bốc cháy, vô số cụm lửa đáp xuống lả tả như mây, song do cục thế này vẫn vùn vụt xoay tròn, đã cuốn thành một làn gió xoáy, khiến những đám lửa cứ lơ lửng dạt ra mà không rơi xuống. Vô số đốm lửa, tàn lửa, vạt lửa đã dạt cả ra ngoài, kết thành một vòng lửa khổng lồ bên ngoài cục Lục dương, bốc cháy ngút trời, khiến thế lực của cục “Lục dương xoay chiếu” được phát huy tới cực điểm. Bởi đó, đại cục vừa mới manh nha đã có thêm điều kiện thứ hai.

    Song đại cục này vẫn cần thêm một điều kiện thứ ba. Liệu sự trùng hợp may mắn đó có xảy ra không?

    Chú thích

    [27] Có nghĩa là kỳ lân lửa xông ra khỏi hang.

    [28] Có nghĩa là ngọn lửa ma chảy quanh co.

    [29] Có nghĩa là sao ba dương bay.

    [30] Có nghĩa là Ngũ hành thu nuốt.

    [31] Có nghĩa là chim phượng múa trên chín tầng trời.
     
  8. hoahongtokyo

    hoahongtokyo C O N T R A

    Tham gia ngày:
    27/2/05
    Bài viết:
    1,814

    Sách Khố Lạt cầm bó đuốc đã gần tàn quẹt lên khắp cơ thể. Dân Tạng chủ yếu ăn thịt dê, thịt bò, lại có thói quen ăn bốc, sau khi ăn xong thường lau bàn tay dính đầy mỡ lên quần áo. Lâu dần, quần áo thấm mỡ tầng tầng, lửa chạm là bén, hơn nữa còn bốc cháy rất dữ. Sách Khố Lạt trong nháy mắt đã biến thành một bó đuốc khổng lồ mang hình người, lao thẳng vào đám tam thú ngao.

    Bó đuốc trong tay Mạc Thiên Quy cũng sắp lụi đến nơi, mấy con tam thú ngao tại lối ra của Hoả trận đã nhấp nhỏm muốn xông ra. Nhìn thấy Sách Khố Lạt tự thiêu mình, Mạc Thiên Quy chẳng kịp nghĩ gì thêm, cũng tự châm lửa đốt mình. Tuy quần áo của lão không dính mỡ, không thể cháy đùng đùng như Sách Khố Lạt, song cũng đã ép được đám tam thú ngao muốn xông ra phải quay trở lại.

    Đây là cơ hội được thắp lên từ ngọn đuốc trên hai cơ thể sống, Dịch Huyệt Mạch hiểu rằng ông không được phép để vuột mất. Ông giấu kín một chiếc kim bạc trong lòng bàn tay, cơ thể thình lình xoay chuyển, bay vọt lên như một ngôi sao băng xẹt ngang trời, lao thẳng về phía Lưu Chi Thủ.

    Lưu Chi Thủ đột nhiên phát hiện ra mình đã không còn đường tháo chạy. Lửa đã bốc ngùn ngụt trong chùa Kim Đỉnh, thế như sóng dữ ngút trời, con đường rút lui trong dự tính đã chìm trong khói lửa. Dịch Huyệt Mạch lại đang vùn vụt lao tới với đôi mắt rừng rực như lửa cháy, chắc chắn sẽ chỉ mang lại cho hắn con đường chết mà thôi.

    Lưu Chi Thủ cố gắng phát tín hiệu điều khiển đám tam thú ngao còn lại, song đám muông thú cũng đang hoảng loạn giống hệt như hắn. Từ phía sau, lửa cuồn cuộn đổ lại như thác lũ, dù là người hay thú, cũng đều không thể trấn tĩnh tấn công địch thủ trong tình cảnh nguy ngập đến nhường này.

    Dịch Huyệt Mạch xông thẳng qua bầy thú, không gặp phải bất cứ sự cản trở nào. Khi ông lao tới trước mặt Lưu Chi Thủ, cũng không gặp phải sự kháng cự nào đáng kể. Lưu Chi Thủ đao chưởng cùng xuất, vô cùng hung tợn, song chỉ được một chiêu. Dịch Huyệt Mạch đã dừng lại bên ngoài phạm vi tấn công của Lưu Chi Thủ, ngay trước khi Lưu Chi Thủ thu chưởng về chuẩn bị đánh ra chiêu thứ hai, ông ta đã khéo léo đâm cây kim bạc vào ngón áp út của hắn.

    Tuy chỉ là một nhát kim đâm vào ngón áp út, song đã khiến huyết mạch khắp cơ thể Lưu Chi Thủ chớp mắt đã đông cứng tựa băng, hơi thở tắc nghẽn không thể lưu chuyển. Dịch Huyệt Mạch tung chân đạp thẳng vào giữa bụng Lưu Chi Thủ, cú đạp tuy không mạnh, song cũng đủ để đẩy hắn văng vào biển lửa ngùn ngụt đang cuộn tới sau lưng. Sóng lửa càng bùng lên dữ dội, Lưu Chi Thủ cũng lăn lộn rất hăng, song rất nhanh đã không còn phản ứng.

    Dịch Huyệt Mạch nhìn thấy Lưu Chi Thủ đã toàn thân bốc cháy, nằm im không động đậy, bèn quay người trở lại. Lúc này con đường phía trước đã ngập chìm trong lửa, ngôi sao bay trong Tam dương phi tinh đã không còn đường nào để bay, chỉ có thể quay trở lại ứng phó với Tam thú ngao, cứu trợ bằng hữu.

    Chính vào lúc Dịch Huyệt Mạch đang quay người lại, Lưu Chi Thủ đang nằm sõng sượt trong biển lửa thình lình tung mình nhảy vọt lên, lao thẳng về phía Dịch Huyệt Mạch.

    Dịch Huyệt Mạch cảm thấy gió thốc sau lưng, một luồng nóng bỏng ập thẳng tới, bèn vội vã nghiêng người né tránh. Nhưng đã muộn rồi, hai tay Lưu Chi Thủ đã túm chặt lấy vai Dịch Huyệt Mạch, chớp mắt đã hình thành thế ba ngón tay móc đối khoá chặt lấy xương bả vai của ông. Dịch Huyệt Mạch liếc thấy ngón áp út của Lưu Chi Thủ đã cháy đen, đứt lìa. Đúng là một tay cáo già thủ đoạn tàn độc, sau khi rơi vào lửa, Lưu Chi Thủ đã thọc ngón tay áp út bị kim đâm vào trong lửa để đốt đứt kinh mạch, giải được châm pháp “nhổ ngược huyệt” mà thoát thân nhảy ra.

    Tuy Dịch Huyệt Mạch đã bị khoá cứng bả vai, song lập tức dừng bước xoay cổ, lật ngược người lại, khiến hai cánh tay Lưu Chi Thủ thành ra vặn chéo vào nhau, đồng thời giơ hai tay bấm sâu vào huyệt đau phía dưới mạng sườn của Lưu Chi Thủ, hy vọng cơn đau đớn kịch liệt sẽ khiến hắn thả lỏng ngón tay. Nhưng lúc này, Lưu Chi Thủ đã toàn thân bén lửa, hoàn toàn không còn cảm giác đau đớn, hai tay vẫn nhất quyết khoá chặt không buông. Ngọn lửa từ người Lưu Chi Thủ nhanh chóng lan sang Dịch Huyệt Mạch.

    Dịch Huyệt Mạch lập tức xoay tròn bước chân, hai cánh tay vận kình hết sức vung mạnh sang một bên, muốn hất văng Lưu Chi Thủ ra. Song Lưu Chi Thủ dường như vẫn rất tỉnh táo, Dịch Huyệt Mạch vừa hành động, hai chân hắn cũng lập tức xoay tròn tiết lực. Thế là hai người cùng xoay tít mù về phía Hoả trận trong hõm núi, giống như đang cùng múa lửa.

    Lưu Chi Thủ vừa xoay tròn theo Dịch Huyệt Mạch, vừa gầm rống liên hồi. Hắn đang điên cuồng thúc giục bầy thú.

    Tuyệt đại đa số tam thú ngao đã bị vây khốn trong Hoả trận, song nghe thấy tiếng gầm thét của Lưu Chi Thủ, đã bất chấp tính mạng xông bừa ra qua cửa Hoả trận.

    Sách Khố Lạt dang rộng chân tay lao thẳng vào cửa Hoả trận. Ngay từ lúc tự châm lửa đốt mình, gã đã quyết tâm liều chết, lúc này còn tiếc gì nửa cái mạng đang bốc cháy rừng rực.

    Mạc Thiên Quy chưa kịp quyết định nên làm thế nào, Dịch Huyệt Mạch và Lưu Chi Thủ đã xô tới, đâm sầm vào Hoả trận, khiến Hoả trận vỡ ra một mảng. Một đám tam thú ngao phản ứng mau lẹ, nhấp nhỉnh muốn xông ra qua lỗ hổng. Mạc Thiên Quy không kịp nghĩ ngợi, lập tức lao vào lỗ hổng, bó đuốc sống hình người lại một lần nữa ép đám thú lùi lại.

    Nhưng kỳ thực, cuộc tranh giành chí chết giữa bọn họ lúc này đã trở nên vô nghĩa. Đối mặt với cơn bão lửa đang điên cuồng cuộn tới, đáng lẽ họ nên tìm cách trốn chạy mới đúng. Song đằng này, mấy con người và đám muông thú vẫn kiên gan quần thảo, tránh né lẫn nhau, lừa miếng lẫn nhau.

    Hoả trận Ba luỹ hai thành đã tan rã hoàn toàn. Dịch Huyệt Mạch và Lưu Chi Thủ vẫn tiếp tục xoay lòng vòng, lửa đã bén khắp người Dịch Huyệt Mạch. Hai người họ bám cứng lấy nhau, không ai giằng được ra khỏi ai, như một con quay lửa đâm tới đâm lui giữa các vách đá.

    Lửa cũng đã bén lên đám tam thú ngao, chúng càng bổ nháo bổ nhào tháo chạy. Mạc Thiên Quy và Sách Khố Lạt tuy đều bị thương trầm trọng, song vẫn dốc hết sức tàn mà chạy, giống như đang truy bức, giống như đang trốn tránh, lại càng giống như đang giãy giụa trong lò thiêu.

    Hai con người bị thiêu cháy, bầy thú bị thiêu cháy, lao vùn vụt tựa lửa trời, như sao Hoả đổi ngôi, xoay tròn quanh một “con quay lửa”. Mạc Thiên Quy dốc sức bố trí một khảm bốn trận, cuối cùng toàn bộ đã biến thành cục thế “Tinh minh hội nhật lưu”[32]. Đây cũng là một cách cục chí dương, điều kiện thứ ba của đại cục đã được hình thành.

    Ở lưng chừng núi, mây mù đã tản ra gần hết. Ánh mặt trời chói chang của vùng đất Tạng rọi thẳng vào ba người Lỗ Nhất Khí, Chu Chân Mệnh và Đao Thập Lục, cái bóng của họ đổ xuống sẫm đen trên vách đá.

    - Ta biết rồi! – Trong giọng nói của Chu Chân Mệnh bừng lên một niềm hưng phấn khó lòng kiềm chế, trạng thái rất hiếm khi xuất hiện ở hắn.

    - Muộn rồi! - Lỗ Nhất Khí trong lòng căng thẳng, ánh mắt cậu đang gấp rút tìm kiếm sự xuất hiện của một hiện tượng mà cậu hằng chờ đợi.

    Đao Thập Lục có phần ngơ ngác, gã không hiểu hai người đang nói gì.

    - Cũng hơi muộn một chút! Nếu sớm hơn vài canh giờ, ta đã tự mở cửa mời ngươi vào. Bảo bối khoan dung chính trực, có thể ức chế độc sát tà hành, bởi vậy ngươi mới dám liều lĩnh xông vào con đường chết! – Chu Chân Mệnh tỏ ra khâm phục thực sự.

    - Có dám làm hay không, quan trọng nhất là tầm kiến thức. Nhưng ông thiếu thứ này! - Lỗ Nhất Khí cố ý khiêu khích Chu Chân Mệnh. Cậu muốn Chu Chân Mệnh giận dữ mà hành động, như vậy Đao Thập Lục cũng sẽ hành động theo. Nếu hai người bọn họ giằng co, cậu sẽ có thêm thời gian và cơ hội.

    Chu Chân Mệnh đương nhiên nhận ra ý đồ của Lỗ Nhất Khí. Hắn hiểu rõ với tình thế hiện tại và mục đích của bản thân, hắn không được phép nôn nóng xốc nổi. Hắn quyết định không nói gì thêm nữa, im lặng chờ đợi thời cơ.

    Dưới núi lửa cháy đỏ rực một vùng, toàn bộ chùa Kim Đỉnh và thị trấn đều đã chìm trong biển lửa. Gần xa văng vẳng tiếng khóc mẹ hờ cha, tiếng động vật gầm rú. Trên núi nước bắt đầu chảy xuống thành dòng, băng tuyết quanh năm đã tan chảy nhanh chóng. Ban đầu, khi nước băng mới chỉ nhỏ giọt, Lỗ Nhất Khí và Chu Chân Mệnh đều không để ý tới. Song lúc này, từng dòng nước lạnh đã đổ xuống ào ào. Đỉnh núi tuyết phủ băng phong lúc này đã chảy tràn những nước.

    Lỗ Nhất Khí đang căng thẳng tìm kiếm mục tiêu. Kỳ thực ngay từ lúc lên sườn núi Bán Bộ tại Nam Lĩnh, cậu đã nhận ra bảo tướng nơi đây không phải là tướng trang nghiêm[33], mà là tướng tuỳ tính. Điều này khiến cậu vô cùng kinh ngạc, và cũng giúp cậu hiểu ra nơi đây tại sao lại âm dương đảo ngược. Bởi vậy, cậu mới quyết định một mình xông pha, đặt cược ván thứ ba.

    Suy đoán của Chu Chân Mệnh vẫn chưa đúng hoàn toàn. Hắn đinh ninh rằng Lỗ Nhất Khí mang theo bảo bối xông vào chùa, nên mới dám nổ tung tường chùa phía tây, xông vào theo đường chết. Trong khi nguyên nhân thực sự khiến Lỗ Nhất Khí quyết định xông vào từ đây, vì cậu nhìn thấy bảo bối “tuỳ tính tướng” trên bãi Thần Hô trong tường bao phía tây. Cũng chính vì phán đoán này, cậu mới dám to gan nổ tường xông vào. Chương “Bảo tính” trong”Cơ xảo tập” có viết rằng: “Khí linh thiêng của bảo bối, trong phạm vi bao trùm của nó, trăm ác không sinh, trăm sát không khởi”, cũng tương tự như câu nói “bảo bối khoan dung chính trực, có thể ức chế độc sát tà hành”, của Chu Chân Mệnh. Có nghĩa là tại nơi cất giấu Thiên bảo, trải qua một thời gian dài, trong phạm vi bảo khí bao phủ, các cạm bẫy ám khí tàn sát sẽ mất đi khả năng giết chóc.

    Nhưng bảo bối “tuỳ tính tướng” đồng thời cũng phải chịu sự khống chế cân bằng của hung huyệt chí cực, nên khí thế và bảo tướng của nó vô cùng đặc biệt, ngay cả năng lực bẩm sinh phi phàm của Lỗ Nhất Khí cũng không thể nhận biết chính xác. Bởi vậy, việc cậu liều lĩnh xông vào quả thực là đánh cược.

    Sau khi Lỗ Nhất Khí vào được trong chùa, trước tiên đã xác nhận rằng nút lẫy dưới đám đá vụn vẫn chưa vận hành, để khẳng định rằng phán đoán ban đầu là chính xác. Sau đó, cậu đã nhận ra rất nhiều đá lở trên bãi Thần Hô đều là vật liệu dùng trong xây dựng ám cấu, bởi lẽ bề mặt của chúng đều có lỗ thủng để cố định các vật liệu dùng trong kiến trúc. Song không phải tất cả các viên đá có lỗ thủng đều là vật liệu, ví dụ như hai hòn đá mà cậu đã đựng trong túi lưới. Một trong hai hòn đá chính là Thiên bảo dùng để trấn áp hung huyệt phía tây.

    Thiên bảo, tên là Tự Tại Thiên. Theo truyền thuyết, hòn đá này không rõ nguồn gốc, từ trong đám mây ráng rực rỡ bảy màu rơi xuống nóc điện Lăng Tiêu, được Vương Mẫu cất giữ làm món đồ chơi. Trong “Đạo tự tông ý” có chép: “Thiên thạch rơi xuống từ áng mây rực rỡ, hình dạng như khối đá tầm thường, trên đá có lỗ. Nhòm vào trong lỗ, thấy cảnh thần tiên lạ kỳ tươi đẹp, thấy cảnh giới hư vô sau khi chết, biết được kiếp sau về đâu, tâm cảnh tự nhiên thanh thản...”.

    Về Thiên bảo, còn có một giả thuyết khác, trong “Phật thuyết tiền thế chiêm”[34] bản tiếng Phạn của Niết Hách, ở lời phê bên cạnh có thể tìm thấy một đoạn văn tự đại thể có nghĩa là: Tam giáo ở Tây phương mở đàn luận kinh, lấy chủ đề là một hòn đá. Từ nguồn gốc, quá trình tồn tại và chất liệu bên trong của hòn đá để phân tích thành tinh nghĩa của người đời. Hòn đá nhận được sự hun đúc của kinh văn Tam giáo, đột nhiên giác ngộ, thủng ra một lỗ, tiết đi hết sức nặng mà bay vụt lên cao, biến mất giữa trời mây. Nên Phật mới có câu, đến hòn đá còn khai khiếu, giác ngộ ra một trời Đại Tự Tại ở trong tâm, thì chúng sinh làm gì còn ai ngu độn? Từ đấy, hòn đá trong truyền thuyết được gọi tên là Tự Tại Thiên.

    Trước khi Phật sống Kim Đỉnh lâm chung, Lỗ Nhất Khí đã đặt bảo bối trước mặt ông. Nhìn qua lỗ thủng trên hòn đá, Phật sống đã nhìn thấy cảnh giới đại tự tại, nhìn thấy đích đến của cả một cuộc đời hướng Phật, trong lòng tự tại, nên đã ra đi thanh thản.

    Sau khi Lỗ Nhất Khí lấy được Thiên bảo, cậu mới bắt đầu đặt cược ván thứ ba, ván cược này càng mạo hiểm gấp bội. Trong chương “Bảo tính” của “Cơ xảo tập” có viết: “Mang bảo bối mà đi, vận thuận lợi, đi đến nơi”, bởi vậy, trong lần đặt cược này, cậu chỉ đánh cược vận may, hy vọng mang theo Thiên bảo bên mình, vận may sẽ được gia tăng. Nhưng nhìn vào tình thế hiện tại, tuy vận thế của cậu vẫn khá tốt đẹp, song không biết có thể duy trì tới thời khắc cuối cùng hay không.

    Chu Chân Mệnh tuy im lặng, song suy nghĩ không hề tĩnh lặng. Hắn đang âm thầm xâu chuỗi từng sự việc, và một sự thực khiến hắn phải hối hận suốt đời đã dần dần hiển hiện trong trí não.

    Vùng đất quanh chùa Kim Đỉnh, cây cỏ xác xơ, súc vật thưa thớt, thế nhưng phía nam lại có mỏ vàng, phía bắc có mỏ ngọc. Điều kiện nơi đây vốn dĩ không phù hợp với cuộc sống của người dân Tạng, song lại trở thành một thị trấn phồn vinh. Ngôi chùa xây trong một hẻm núi hoang vu, song hương hoả cực vượng. Chu gia chiếm lĩnh chùa Kim Đỉnh, số tiền của cống nạp hàng năm thậm chí đã chiếm phần lớn tổng thu nhập cả năm của Chu gia. Tam thú ngao vốn không thể phối giống ở nơi khác, song lại có thể tạp giao thành công ở trong chùa... Còn vô số sự việc tương tự như vậy nữa, tất cả đều là minh chứng cho một sự thực: bảo cấu cất giấu Thiên bảo có lẽ ở ngay trong phạm vi chùa Kim Đỉnh.

    - Ngươi không phải là mang bảo bối vào chùa, mà là vào chùa quật bảo! – Chu Chân Mệnh đã suy nghĩ thông suốt. Cùng với đó, một mối uất hận, ảo não tự đáy lòng hắn xông thẳng lên ngực, khuấy động máu tanh nhộn nhạo, vị ngọt lợ xộc lên tận họng. Lại một lần nữa, hắn đã phải hoài công gối đầu lên bảo bối mà mơ bảo bối suốt bao năm ròng rã.

    Lỗ Nhất Khí không thèm đếm xỉa tới Chu Chân Mệnh, lúc này cậu đã chìm trong trạng thái tự nhiên hư huyễn, thần hồn phiêu du. Bởi lẽ trong lúc Chu Chân Mệnh còn mải mê chắp nối, cậu đã phát hiện ra một luồng hung tướng dạng đường thẳng thấp thoáng ẩn hiện trên vách núi bên cạnh. Cậu lập tức tụ khí ngưng thần, thả lỏng thân tâm, để xác định xem liệu hung tướng này có phải chính là hung huyệt dạng mạch hay không.

    Chu Chân Mệnh gắng gượng nuốt khối ngọt lợ kia xuống họng, mau chóng vận khí ba vòng. Hắn hiểu rõ, Lỗ Nhất Khí rất đáng gờm, Đao Thập Lục lại đột nhiên tham lam trở mặt, nên hắn nhất định phải duy trì phong độ thật ổn định, mới có thể giành giật lấy một chút cơ hội thành công từ trong cục diện vô cùng bất lợi trước mắt.

    Hơi thở đã bình ổn, khối máu huyết nhộn nhạo đã lắng xuống, lực, khí, ý đã hoà nhập vào trong vòng tuần hoàn ổn định. Chu Chân Mệnh bắt đầu dò xét tỉ mỉ Lỗ Nhất Khí. Hắn muốn tìm ra một điểm khiến cậu trở nên khác hẳn với trước đó, tìm ra một thứ cậu đáng lẽ không có song bây giờ lại xuất hiện trên người, đặc biệt là những thứ vốn thuộc về chùa Kim Đỉnh.

    Đao Thập Lục lật lọng làm phản vào đúng thời khắc then chốt, cho thấy gã là một kẻ vô cùng xảo trá, quỷ quyệt đa đoan. Một kẻ giang hồ cáo già như vậy hoàn toàn có khả năng nhận ra một số điều từ lời nói và vẻ mặt của Chu Chân Mệnh. Bởi vậy gã khẳng định, gã đã uy hiếp nhầm đối tượng, mục tiêu cướp bóc cũng có thể đã sai lầm.

    Đao Thập Lục cũng di chuyển ánh mắt sắc lạnh như lưỡi đao về phía Lỗ Nhất Khí. Khác với Chu Chân Mệnh, gã là một sát thủ tuyệt đỉnh, nên gã chú ý trước tiên tới ý đồ và động tác của người khác. Gã muốn thông qua những ý đồ, động tác vô thức của Lỗ Nhất Khí để tìm ra một thứ thiếu hài hoà trên cơ thể cậu. Rất có thể đó chính là thứ mà người khác và hắn đều muốn có.

    - Đá!

    - Đá!

    Cả Chu Chân Mệnh và Đao đầu đều buột miệng hét lớn, chỉ có điều tiếng hét của Đao đầu có vẻ khủng khiếp, kinh dị hơn nhiều, khiến người nghe lông tóc dựng đứng...

    Dưới chân núi, phía chính nam là khảm tướng “Quạ vàng đuổi thỏ ngọc”, phía tây là khảm tướng “Lục dương xoay chiếu”, phía đông là khảm tướng “Sao sáng xoay quanh mặt trời”. Mà ở trên núi, có Lỗ Nhất Khí mang theo Thiên bảo cực thuần chính, bảo khí bừng bừng lan toả, rực rỡ hào quang. Thật trùng hợp, tác dụng của bốn nơi đã hoà hợp với nhau, tạo nên một đại cục chí dương có thể thay đổi vận đời mệnh nước, được gọi là “Bảo dương điên toả âm hung”[35]. Đại cục này duy nhất chỉ thấy ghi chép trong một cuốn kỳ thư thời thượng cổ có tên “Đế kinh mạch hành trạch”, từ cổ chí kim mới chỉ xuất hiện có một lần, chính là lúc Khương Tử Nha dùng hoả công đánh thành Triều Ca, đã dùng cách cục này để lật đổ hoàn toàn vận mệnh của nhà Thương Trụ. Cũng chính vì đã hình thành được cục diện thiên cổ kỳ tuyệt này để cân bằng với Thiên bảo nghìn năm, nên hung huyệt âm mạch ẩn giấu ở chính giữa núi Thiên Thê đã bị chèn ép ra ngoài.

    Lục dương cương của đại cục chí dương đã bức ép âm trạch trỗi dậy, hung huyệt chấn động, hung khí muốn vọt ra ngoài. Núi Thiên Thê bắt đầu biến đổi, tốc độ mỗi lúc một nhanh, mỗi lúc một thêm dữ dội.

    Tuyết phủ trên núi đã tan chảy gần hết, các lớp băng dày bắt đầu trượt lở. Gió vòng quanh núi đột nhiên chuyển hướng, thổi tan lớp lớp mây mù vốn quanh năm bao phủ lưng chừng núi. Ánh mặt trời sáng loá chiếu thẳng vào vòm băng lõm, khiến chùm sáng khúc xạ thay đổi vị trí. Tầng băng phủ kín ngọn núi Thiên Thê nhanh chóng bị chùm sáng phản xạ hội tụ với sức nóng dữ dội rạch làm đôi, phân thành hai khối băng lớn ở phía nam và phía tây. Lại thêm lớp băng hình vòm trên đỉnh núi do bị tan chảy đã trở nên chênh vênh lỏng lẻo, trông đáng sợ vô cùng, như thể sẵn sàng sập xuống.

    Song đáng sợ nhất không chỉ có thế, mà là hung khí của hung huyệt dạng mạch bị đại cục chí dương bức ép, đã sắp sửa phun trào, hung lực phụt ra tán loạn khiến cho bên trong lòng núi âm thầm rạn nứt.

    Chu Chân Mệnh chợt choàng tỉnh, hét lên một tiếng “đá”, là vì hắn nhìn thấy hai viên đá tròn treo lủng lẳng bên cổ Lỗ Nhất Khí. Đó là đá trên bãi Thần Hô, cũng chính là đá của chùa Kim Đỉnh. Một người đang đi thực hành đại sự, tay cụt bất tiện, song từ đầu tới cuối vẫn giữ khư khư hai hòn đá vốn chẳng giúp ích gì mấy cho hành động của hắn, vậy hòn đá đó có ý nghĩa gì? Để hiểu ra thực không phải dễ dàng, song vẫn hơi muộn. Lúc này, trên vách núi vốn đã sạt lở bỗng toác ra một khe nứt, âm mạch đã lộ. Khí âm hung phụt thẳng ra ngoài, khiến mọi người tâm thần hốt hoảng, cổ họng nghẹn tắc, đầu váng mắt hoa.

    Lỗ Nhất Khí đã phát giác ra đoạn hung huyệt này từ trước, tuy vẫn đang ở trong trạng thái nhập hư, song bàn tay đã cầm lấy Tự Tại Thiên đang đeo trước ngực, sẵn sàng ném thẳng vào hung huyệt. Song vị trí xuất hiện vết nứt lại ở trên vách núi sạt lở, còn cách Lỗ Nhất Khí một khoảng cách khá lớn. Khoảng cách này đối với một người không biết khinh công, lại cụt mất bàn tay phải như Lỗ Nhất Khí, tuyệt đối không thể băng qua.

    Chu Chân Mệnh đã ra tay, bất chấp tất cả mà ra tay, bất chấp Đao Thập Lục đang dốc toàn lực đánh tới, bất chấp vách núi rung lắc nứt toác, bất chấp băng trượt tuyết lở. Lúc này, trong tâm trí hắn chỉ còn lại hai hòn đá, bởi trong hòn đá chứa đựng sứ mệnh và ý nghĩa của cả cuộc đời hắn.

    Đao đầu sau một thoáng ngập ngừng cũng đã ra tay, song gã không triển khai thế đao thứ mười sáu dùng máu xương đoạt mệnh, mà nhảy vọt lên trên, góc độ tấn công vô cùng quái dị.

    Một tia nước lạnh băng vọt xuống trúng người Lỗ Nhất Khí khiến cậu bừng tỉnh. Đúng lúc này, Chu Chân Mệnh đã chụp được một chiếc túi lưới.

    Vào khoảnh khắc Chu Chân Mệnh chụp được hòn đá, hắn đã không còn bất chấp tất cả như vừa mới đó. Bởi vì từ giây phút này trở đi, việc hắn phải làm chính là giữ chắc hòn đá, mà tiền đề của việc này chính là phải giữ được tính mạng của mình.

    Đao Thập Lục còn chưa kịp hạ xuống đã phải hứng chịu một chưởng khủng khiếp của Chu Chân Mệnh, giáng thẳng vào bắp chân của gã. Cùng với tiếng xương chân nứt gãy, còn có cả tiếng vật sắc nhọn xé gió lao đi. Đó là tiếng mảnh xương vỡ đâm thủng da thịt phóng vụt ra ngoài.

    Cùng lúc này, từ phía trên chỗ Đao Thập Lục đang lơ lửng bỗng vọng xuống một âm thanh khủng khiếp đến rợn gáy, là tiếng lưỡi đao sắc nhọn rạch qua vật cứng. Một tảng băng lớn vỡ toác làm đôi trên tỉnh đầu Đao Thập Lục, văng sang hai bên trái phải rồi lao rầm rầm xuống núi. Tiếng “đá” mà Đao Thập Lục vừa rú lên kinh hãi không phải là chỉ hòn đá bảo bối, mà là chỉ tảng đá băng đang rơi thẳng xuống đầu. Cú nhảy vọt lên của gã cũng không nhằm tranh cướp bảo bối hay tấn công ai, mà là tung người lên chém đứt đôi tảng băng rơi, tránh cho ba người khỏi cảnh tan xương nát thịt.

    Chu Chân Mệnh ra đòn với Đao đầu là có dụng ý, hắn muốn mượn thế tấn công này để bật về phía sau, cố gắng kéo giãn khoảng cách với Lỗ Nhất Khí, tránh bị phản công. Đồng thời, chưởng này sẽ đẩy bật Đao Thập Lục văng vào Lỗ Nhất Khí, hắn sẽ nhân lúc Lỗ Nhất Khí mải ứng phó với Đao Thập Lục để cướp lấy hòn đá.

    Song diễn biến của sự việc lại khác hẳn với dự tính của hắn. Hắn còn chưa kịp dốc hết sức lực để giằng giật chiếc túi lưới từ phía Lỗ Nhất Khí, thì Lỗ Nhất Khí đã đột ngột buông tay. Trước sức kéo giật kịch liệt, chiếc túi lưới còn lại đã bật thẳng lên cao. Đao đầu sau khi trúng chưởng lại không rơi thẳng xuống đỉnh đầu Lỗ Nhất Khí, bởi lẽ lực đạo của phát chưởng đó đã bị lực đạo rơi xuống của tảng băng lớn hoá giải hoàn toàn, nên Đao đầu vụt một cái đã rơi thẳng xuống đất. Vừa chạm đất, gã đã bật một chân nhảy vọt lên, lao thẳng về phía chiếc túi lưới vừa bị văng lên.

    Hai hòn đá, không biết hòn nào mới là bảo bối, Chu Chân Mệnh tuyệt đối không cho phép Đao Thập Lục giành được bất cứ hòn nào. Hắn lập tức vận lực vào cánh tay, quật vòng sợi dây thừng nối liền hai túi lưới xuống phía dưới, xoay thành vòng tròn. Hòn đá đang ở phía dưới thân hình Đao Thập Lục lập tức đổi hướng, vạch thành một đường vòng cong lao ngược về phía vách đá.

    Một cơ hội nghìn năm có một, một cơ hội chỉ Lỗ Nhất Khí mới có thể lợi dụng.

    Lỗ Nhất Khí đã ra tay. Không cần tụ khí ngưng thần, cậu đã có thể thực hiện việc nhập vào trạng thái tự nhiên một cách hoàn toàn bản năng, vô thức.

    Súng đã nổ. Chỉ một tiếng. Tốc độ và thời gian đạn bắn, cùng với thời điểm bắn đứt sợi dây thừng đều cực kỳ chuẩn xác. Chuẩn xác đến cực điểm chính là sau khi súng nổ thừng đứt, Tự Tại Thiên vừa bay lên theo túi lưới đã văng về phía vách đá với một góc độ tuyệt vời, lách gọn gàng vào khe hở trên phần hung huyệt vừa nứt toác...

    Tất cả mọi thứ dường như chết lặng, như đóng băng trong khoảnh khắc, tất cả mọi âm thanh đều đột nhiên câm bặt. Chỉ có Lỗ Nhất Khí cảm nhận thấy sự biến hoá của luồng khí đang lưu chuyển, đang cuộn trào. Những luồng khí đang bao trùm xung quanh ngọn núi nhanh chóng được hút về phía khe nứt, cô đặc thành một khối, rồi chui tọt vào trong.

    Ngay lập tức, một dải cầu vồng bừng hiện trên dãy núi Thiên Thê. Khi vừa xuất hiện, dải cầu vòng có dạng quanh co uốn lượn hệt như hung mạch vừa lộ ra trên vách núi, sau đó mau chóng vươn dài về phía nam, uốn thành một vòng cung tròn trịa, hệt như một cánh cung kéo căng hết cỡ.

    Mọi diễn biến tưởng như khá lâu dài, song kỳ thực, đến lúc này, Đao Thập Lục mới kịp hạ xuống.

    Bàn chân gã Đao đầu vừa tiếp đất, núi Thiên Thê đột nhiên rùng rùng chấn động, sau đó toàn bộ trái núi âm thầm phân rã rồi sụp xuống trong lặng lẽ, tựa như một đụn cát khổng lồ đang tan rã. Chỉ có điều những thứ rời rã ra không phải là cát, mà là vô số băng, tuyết và đá tảng.

    - Băng lở rồi! Chạy mau!

    Xa xăm dưới chân núi vẳng lại tiếng gào thét tới lạc giọng, song vừa kịp cất lên, đã mau chóng chìm nghỉm trong hàng tràng những tiếng lăn trượt động trời.

    Chu Chân Mệnh hành động nhanh nhất. Hắn tung người nhảy vọt lên, lao thẳng về phía những khối băng tuyết và đá tảng đang sầm sập trượt xuống. Đối với những cao thủ công lực siêu phàm, cách này có lẽ sẽ khả quan hơn so với bỏ chạy xuống phía dưới. Chỉ cần di chuyển thân hình mau lẹ, né tránh những cú đâm trời giáng của băng tuyết và đá tảng, sẽ hạn chế được thấp nhất khả năng bị chôn vùi dưới băng đá.

    Tuy Đao Thập Lục đã bị thương một bên chân, song cả bốn chân tay hợp lực, vừa lăn vừa bò, tốc độ không hề chậm chạp. Gã lao chênh chếch xuống phía dưới, đây là một lựa chọn đầy kinh nghiệm. Nếu phương hướng chính xác, tốc độ đủ nhanh, vẫn có thể thoát ra khỏi phạm vi bao phủ của trận băng lở.

    Chỉ còn Lỗ Nhất Khí vẫn đứng im tại chỗ. Không phải cậu không muốn bỏ chạy, mà vì choáng ngợp và sửng sốt quá mức nên không còn biết phải bước đi như thế nào. Chính vào lúc đó, chợt có hai bóng dáng thướt tha lướt băng băng tới bên cậu, là Dưỡng Quỷ Tỳ và Hạ Táo Hoa. Hai người mỗi người một bên, xốc ngay Lỗ Nhất Khí lên, rồi lập tức vòng ngược trở lại.

    Lỗ Nhất Khí quả quyết kêu lên:

    - Nhảy xuống đây!

    Rồi kéo theo hai cô gái, tung người nhảy vụt xuống vách đá sạt lở mà xưa kia vốn là nơi xây dựng bảo cấu...

    Băng tuyết và đá lở trút xuống rào rào như mưa mùa hạ, núi Thiên Thê mau chóng thấp xuống, nhỏ lại, cuối cùng chỉ còn là một sườn dốc thấp lè tè chếch về phía nam. Còn chùa Kim Đỉnh và thị trấn đều biến mất không còn tăm tích, đoạn thung lũng kẹp giữa hai trái núi hầu như đã bị đá tảng lấp bằng.

    Tất cả đã trở về tĩnh mịch. Một bầu tĩnh mịch chết chóc kéo dài. Không còn ai sống sót. Cũng không nhìn thấy một con vật sống. Chỉ còn một con chim ưng săn mỏ hoa Trường Bạch lông lá xác xơ đang chập choạng lê lết giữa đám đá băng lởm chởm.

    Rất lâu, rất lâu sau đó, mặt trời đã rụng xuống trời tây, vạn vật lại chìm vào đêm tối. Lúc này, trong một bầu chết lặng trải dài, mới vang lên vài âm thanh khe khẽ, tựa như xác chết đội đất chui lên, lại tựa như hồn ma lang thang trong đêm tối.

    Vào ngày hôm sau, một số dân cư may mắn thoát chết mới dám trở về, đào bới tìm kiếm người thân, chòm xóm. Sau khi cơn hoả hoạn bốc lên, do gió đột ngột đổi hướng, nên đại đa số dân cư đã bị ngọn lửa bủa vây trong trấn, chỉ một số ít thoát được ra ngoài. Núi sập đá lở, sức mạnh huỷ diệt khủng khiếp khó bì, bởi vậy dù đã dốc hết sức bình sinh đào bới, cũng chỉ có thể lôi lên được vài cỗ xác người giập nát. Còn những mẩu tay chân, những mảng thi thể, những bãi máu vương vãi đâu đâu cũng gặp. Tiếng khóc hờ thảm thiết ai oán cứ nối nhau suốt mấy ngày trời không dứt.

    Trong đám người đào xới tìm kiếm, ngoài dân Tạng trong vùng, còn có một số người Trung Nguyên phục sức kỳ lạ, chỉ tìm kiếm qua loa nửa ngày, rồi tuần tự bỏ đi.

    Nửa tháng sau, băng tuyết lở xuống cùng đá vụn đã tan chảy hết, nước băng tuyết đổ về tích tụ tại vị trí lõm xuống trong đám đá vụn, hình thành một con hồ. Bên hồ còn xuất hiện một vài nguồn suối, trong đó có cả suối nước nóng phun trào, hơi nước toả mù mịt, bay lãng đãng trên mặt hồ xanh biêng biếc, trông chẳng khác gì tiên cảnh.

    Trong “Tạng địa lý chính chí” có chép: “Vào ngày dương tiết giữa theo lịch Tạng, hẻm núi hoang vu phía tây xảy ra hiện tượng băng trôi đá lở, vùi lấp một thị trấn lớn. Dân cư, súc vật tử thương nhiều không kể xiết. Khe núi bị đá lấp thành hồ, có suối nước nóng phun ra”.

    Trong “Bách niên Tạng Phật thông ký” có đoạn: “Chùa Kim Đỉnh chưa nhập vào Phật tông, Phật sống chùa Kim Đỉnh chưa được chép chính thức trong tăng phả. Tuy truyền thụ Phật lý cực tinh thâm, song không luận giảng cho người. Núi sập, cả chùa và sư đều bị huỷ diệt”.

    Trong dân gian vùng đất Tạng truyền rằng, chùa Kim Đỉnh dưới núi Thiên Thê mượn danh nghĩa Phật vơ vét của cải, bị trời Phật trừng phạt, cho núi sập mà san phẳng.

    Chú thích

    [32] Có nghĩa là sao sáng xoay quanh mặt trời.

    [33] Tướng trang nghiêm ý nói nơi tàng bảo cần có đài đỡ, có mái che, có nơi cúng tế để hấp thu tinh hoa nhật nguyệt.

    [34] Có nghĩa là Phật giảng giải về việc nhìn thấy kiếp trước.

    [35] Có nghĩa là khí dương của bảo bối đảo lộn, khoá kín khí âm hung.
     

Chia sẻ trang này