Lời Nguyền Lỗ Ban Quyển 3 - Chương 20: Bôn hồng đạo Spoiler: Click vào để đọc – Không phải, không tinh xảo bằng điên phốc đạo, đây gọi là bôn hồng đạo*. Điên phốc đạo có thể bố trí ở tất cả mọi nơi, còn bôn hồng dạo nhất thiết phải đặt ở sườn dốc mới phát huy được tác dụng. Song khảm diện ở đây không chỉ dựa vào hình mà còn dựa vào vật, đối thủ đã đầm tuyết thật cứng làm nút lẫy bốn bước, sau đó phủ tuyết xốp lên trên để che giấu nút lẫy phía dưới, dù có là khảm tử gia cũng khó mà phát hiện! * Có nghĩa là con đường lũ đổ. (Nd) – Thuỷ Băng Hoa đến giờ mới có cơ hội lên tiếng. – Ồ! Hành lang yến quy cũng có cùng nguyên lý này! – Lão mù bỗng như bừng tỉnh – Bôn hồng đạo chắc chắn là đối thủ vừa mới bày ra, chứ không phải là khảm diện bảo vệ bảo cấu! – Phát hiện của lão thật thừa thãi. Khảm diện dùng tuyết làm nút lẫy, làm sao có thể là khảm diện nghìn năm bảo vệ bảo bối của Lỗ gia? – Chị phát hiện ra nhờ cục cứng dưới đế giày? – Lỗ Nhất Khí tiếp lời, giọng điệu hết sức lạ lùng, không biết là đang hỏi hay đang phán đoán. Thuỷ Băng Hoa sững người một chốc, hai bên má thoáng ửng đỏ, khẽ hỏi: – Ô, cậu biết cả rồi ư? – Không, tôi không biết! Tôi không biết rốt cục chị là thần thánh phương nào? – Câu nói điềm tĩnh của Lỗ Nhất Khí khiến khuôn mặt Thuỷ Băng Hoa càng đỏ bừng lên, bối rối đến mức quên bẵng mất cần phải tiếp lời cậu. Nói xong câu này, Lỗ Nhất Khí cũng cảm thấy mình có vẻ hơi nặng lời, song người phụ nữ này quả thực là một ẩn số. Cô ta thông thạo cách bố trí khảm diện, lại thêm mảnh da khâu trên quần, khối cứng giấu dưới giày đều là những thứ đáng ngờ vẫn chưa được giải thích. Vừa rồi Nhậm Hoả Cuồng cố tình nhắc đến cách cục “rào trúc cắm nghiêng” làm mồi nhử, trong những kẻ khả nghi có cả cô ta. Hơn nữa, nếu suy xét kỹ hơn, thì cho tới giờ phút này, cô ta chỉ giúp được cậu một việc duy nhất, đó là mảnh da kỳ quái kia. Song đối thủ không hề có mảnh da mà vẫn tới đây sớm hơn họ. Phải chăng cô ta đã dùng một tin tức lỗi thời để chiếm lấy niềm tin của cậu? – Khảm này dễ giải, làm cho tuyết tan ra, hoặc nện chắc luôn cả lớp tuyết xốp trên bề mặt là xong! – Thuỷ Băng Hoa không tiếp lời Lỗ Nhất Khí, mà quay sang nói về cách phá giải khảm diện. Muốn làm tan chảy toàn bộ lớp tuyết trên sườn dốc là không hề đơn giản, song nện cho chắc lớp tuyết xốp lại chẳng mấy khó khăn, bởi trong số họ có một cao thủ có khả năng dời đá phá núi. Quỷ Nhãn Tam đi lên phía trước, cây xẻng thép múa sang tả hữu loang loáng như bay, vừa đi vừa đập, tốc độ không hề chậm chạp. Đi xuống sườn dốc trơ trụi một đoạn không xa, đã sắp tới gốc cây lớn đầu tiên. Đột nhiên, lão mù chụp lấy bả vai Quỷ Nhãn Tam giữ hắn dừng lại, rồi nghếch mũi lên hít hít vài cái, trầm giọng mà nói: – Có mùi máu tanh! Đúng là có mùi máu tanh! Ngay sau đó Quỷ Nhãn Tam và Nhậm Hoả Cuồng đều ngửi thấy. Đến khi họ hết sức thận trọng bước lại gần gốc cây đầu tiên, một cảnh tượng chết chóc kinh hoàng đập ngay vào mắt. Một thân người bị đóng chặt trên thân cây, hai bàn chân cách mặt đất hơn hai thước, dưới bàn chân là hai vệt máu đỏ buốt đã đông cứng thành băng. Người chết mắt mở trừng trừng, bộ dạng của kẻ chết không nhắm mắt. Chính là tay nỏ bắn yêu cung xạ nguyệt, đang bị ghim chặt trên cây bởi mũi phi mâu sương sớm thấm tóc! Một cao thủ hiếm có đã bị ngọn phi mâu ghim chết tức khắc trên cây cao mà không cả kịp kháng cự, đủ biết kẻ hạ sát gã bản lĩnh phi thường tới mức nào. Vì sao phải giết tay nỏ cao thủ này? Có lẽ chỉ có một nguyên nhân, chính là gã đã phạm sai lầm, một sai lầm vô cùng nghiêm trọng: trong lúc bỏ chạy đã làm bại lộ con đường bí mật, khiến những kẻ không nên tới đã tới được nơi này quá sớm. Ngọn phi mâu tàn sát không những kéo bật cả một thân người sống bay lên khỏi mặt đất, mà mũi nhọn còn tiếp tục xuyên thấu thân cây to ngang chum vại. Lực đạo khủng khiếp nhường đấy đã khiến trí não Lỗ Nhất Khí một lần nữa lại xáo động lên một lượt. Đúng là cậu đã mắc phải quá nhiều sơ suất, đã bị quá nhiều hiên tượng giả đánh lừa. Chẳng nói đâu xa, ngay như ngọn phi mâu sương sớm thấm tóc trước mắt, với uy lực tàn bạo nhường này, cây Vũ Kim Cương của Quỷ Nhãn Tam tuyệt đối không thể ngăn cản nổi. Nghĩ tới đây, cậu bỗng đột nhiên choàng tỉnh. Thì ra hôm đó Dưỡng Quỷ Tỳ ra tay không phải để trợ lực cho sương sớm thấm tóc, mà là muốn ngăn cản nó. Tuy không thể ngăn chặn, song chí ít đã khiến lực đạo của phi mâu giảm đi đáng kể, nếu không, kết cục của cậu và Quỷ Nhãn Tam hẳn cũng chẳng dễ coi hơn tay nỏ chết thảm trước mắt. Thì ra khi ở Kim gia trại, Dưỡng Quỷ Tỳ- vẫn âm thầm trợ giúp cậu; ánh mắt của cô lúc đó tràn đầy hoang mang lo lắng, trước khi phi mâu bay đến còn giục cậu đi mau. Thì ra, cô vẫn luôn quan tâm đến cậu, sẵn sàng bảo vệ cho cậu. Đến tận lúc này, Lỗ Nhất Khí mới hiểu được tâm ý của Dưỡng Quỷ Tỳ mấy hôm về trước. Tuy có chút muộn màng, song vẫn khiến cậu lâng lâng vui sướng, một cảm giác ngọt ngào khó tả len lỏi trong tim, cơ thể như chìm trong một niềm ấm áp. Đối diện với dốc núi dài dằng dặc phía trước, Lỗ Nhất Khí khép hờ đôi mắt, hít vào một hơi thật sâu, rồi nín lại rất lâu. Cậu hy vọng luồng khí sẽ giúp cậu cuốn đi những thứ hỗn loạn, vẩn đục đang lởn vởn trong trí não. – Đi tiếp thôi, trước mắt chưa có gì nguy hiểm! Cậu lên tiếng, chứng tỏ luồng khí vừa rồi đã thở hết ra, chỉ là hơi thở ra rất mực chậm rãi và bình ổn, khiến người khác không thể nhận ra. Phương pháp hít thở này Đạo giáo gọi là “quỵ tán tức”. Không ai tỏ ý nghi ngờ trước phán đoán của Lỗ Nhất Khí, nên lập tức cất bước đi xuống sườn dốc. Hướng đi không thay đổi, vẫn tiến về phía bắc. Kỳ thực từ đường mòn Sam Đỏ rẽ vào đường nhỏ, rồi xuyên qua cánh rừng, họ vẫn luôn đi về hướng bắc. Khi đi tới gốc cây lớn thứ hai, lớp tuyết trên đất đã mỏng đi rõ rệt, chắc chắn không thể tiếp tục thiết kế khảm diện ở đây. Khi xuống tới chân dốc, mọi người đều cảm thấy bước chân có vẻ nặng nề. Tiếp nữa là dốc lên liên tục, tuyết phủ càng mỏng, bởi vậy họ bước đi cũng dễ dàng nhanh chóng hơn nhiều. – Phía trước có lẽ rất ấm, không thấy tuyết phủ nữa! – Dù Phó Lợi Khai không nói, mọi người cũng đã phát giác ra. Đặc biệt, khi nhìn về khe núi phía xa, lại thấy phảng phất một làn khói sương uốn lượn. Thoạt tiên Lỗ Nhất Khí cho rằng đó chỉ là làn khí tướng trong cảm giác của cậu, song sau đó cậu phát hiện ra mình đã lầm, nơi đó quả thực có sương mù. Trong cánh rừng già phương bắc buổi giữa đông, lại có sương mù xuất hiện, vấn vít không tan, thì chắc chắn nơi đó là một vùng đất dị thường với nhiệt độ cao hơn hẳn. Còn chưa đi tới khe núi Hai Gối, họ đã nhìn thấy rất nhiều cảnh tượng kỳ quái. Trước tiên, ở hai dãy cây bụi dày đặc bên dốc, xuất hiện rất nhiều lỗ hổng rộng hẹp sâu nông khác nhau, nhiều lỗ hổng chạy dài môt đoạn khá xa về phía rừng cây rậm rịt, thậm chí còn có chỗ rẽ ngoặt, không biết có thông ra khỏi rừng cây hay không. Có thể nhận ra, những lỗ hổng này có cái là do chặt đẵn, có cái là do bị vật gì rẽ ra, cũng có cái là do bị thiêu đốt mà thành. Hẳn là chúng mới xuất hiện trước đó chưa lâu, nếu không với tốc độ sinh trưởng nhanh chóng của cây bụi, chúng đã bị lấp kín rồi. Tiếp theo, họ nhìn thấy những bộ hài cốt rải rác trên dốc núi và bên rìa rừng cây bụi. Có hài cốt của người, cũng có hài cốt của động vật. Nhìn màu mà đoán, có lẽ chúng đã phải dầu dãi ở đây khá lâu rồi. Đi tiếp về phía trước, họ bắt gặp một vài nấm mộ sơ sài lẫn trong rừng cây bụi, có lẽ là ai đó đã phát quang hoặc đốt cháy cây cối rồi mới đào mồ chôn xác. Bởi vậy những nấm mộ đã bị cây cối mới mọc lên bao bọc tầng tầng lớp lớp, nếu không nhìn kỹ thật khó nhận ra, vì trông chúng giống hệt như những mô đất mọc đầy cây bụi. Họ là ai? Tất cả mọi người đều có chung một thắc mắc trong lòng. – Có lẽ là những thợ rừng đến tìm báu vật không thể sống sót trở về chăng? – Thuỷ Băng Hoa nói khẽ một câu, song mọi người đều nghe thấy. – Ở đây có hài cốt, nhưng tại sao trong cánh rừng khi nãy lại không có nhỉ? – Tùng Đắc Kim thắc mắc. – Nếu là ngươi, thì ngươi thích chặt phá rừng sam đỏ mà chạy, hay thích phạt đám cây bụi kia? Hơn nữa, có ai dám đảm bảo bên rừng sam đỏ không có hài cốt? Đám hài cốt ven đường vừa rồi ngươi đã thấy chưa, hình như mới được gom nhặt lại. Đối phương muốn bố trí khảm diện bôn hồng đạo ngoài kia, chắc chắn sẽ phải dọn dẹp hài cốt ở đó. Hơn nữa, ta đoán rằng những kẻ phải bỏ xác ở đây đã không còn đủ sức để chạy tới rừng sam đỏ nữa. Đứng từ đây nhìn thấy cánh rừng sam đỏ rậm rạp ở tít xa, họ đã cảm thấy không thể vượt qua được, thà chặt phá đám cây bụi ở ngay trước mặt khẩn cấp tìm đường thoát thân còn hơn. Song bọn chúng làm sao hiểu được rằng, bên trong khảm diện nơi không có đường chính là đường chết! – Phó Lợi Khai lại giảng giải một tràng, trong đôi mắt to nhỏ loé lên những tia sáng rất tinh khôn. Lỗ Nhất Khí đưa mắt liếc nhìn rừng cây tạp nham bên cạnh. Đúng vậy, vào mùa này mà còn rậm rạp như vậy, nếu vào xuân hạ, cây cối trổ mầm đâm nhánh, thì có khác nào một bức tường? Một bức tường không biết dày tới đâu mà kể. – Đám cây tạp này phần lớn là đều là cây ôn văn** và cây điều khích***, thân cây tích rất nhiều nước, chất gỗ cực dai bền, muốn chặt phá vô cùng tốn sức, lại rất khó đốt cháy, dù có bắt lửa cũng không thể cháy lan ra. Tuy chúng không xếp theo cách cục “rào trúc cắm nghiêng” song chắc chắn cũng do người ta cố ý trồng nên, nếu không chủng loại sẽ không thể đơn thuần như vậy! – Kiến thức về cây rừng của Phó Lợi Khai quả nhiên uyên bác khác thường. ** Một loại cây bụi nhỏ, chất gỗ khá xốp, thớ gỗ cong queo rời rạc, thân cây nước rất nhiều, không dễ cháy. *** Một loại cây bụi nhỏ, thớ gỗ thẳng đứng, giữa các thớ có khe hở. Đoạn dốc lên không quá dốc, nên đoàn người bước đi khá nhẹ nhàng, vừa đi vừa trò chuyện, chân bước mỗi lúc một nhanh, chẳng bao lâu đỉnh dốc đã hiện ra ngay trước mặt. Vượt qua đỉnh dốc này đã có thể nhìn thấy lối vào của khe núi Hai Gối. Một tia chớp bỗng xẹt qua trí não Lỗ Nhất Khí, cậu đột nhiên sực nhớ tới một điều gì, buột miệng nói liền: – Trong khảm diện nơi không có đường chính là đường chết. Anh Phó, anh vừa nói đám hài cốt kia bỏ mạng vì sa vào đường chết, song ở đây lại không có khảm diện. Hay là chúng ta đã rơi vào khảm diện rồi mà không biết? Lời vừa nói ra, cả đám đều giật nảy mình vã mồ hôi lạnh, Quỷ Nhãn Tam đi đầu hai chân bủn rủn suýt ngã nhào, may mà kịp chống cây xẻng lưỡi cày trong tay xuống đất. Song Quỷ Nhãn Tam vẫn ngã lăn chiêng. Không chỉ mình hắn, mà Thuỷ Băng Hoa và Phó Lợi Khai cũng ngã dúi dụi. Do hai người đi ngay sau Quỷ Nhãn Tam, nên khi bước chân của hắn đột ngột thay đổi, họ đã không kịp dừng lại, xô cả vào hắn mà ngã chồng chéo lên nhau. Sau lưng họ là lão mù, lão khựng lại ngay tại chỗ, khiến ba người ở phía sau bị bất ngờ mà đâm sầm phải lão, song cánh tay khẳng khiu của lão đã kịp giơ sang ngang chặn ngay họ lại. – Gì mà phải sợ đến thế? Cậu cả và các người đều không phát hiện ra khảm diện, thì ở đây làm quái gì có khảm diện nào! – Giọng lão mù đầy vẻ trách cứ. Câu nói của lão khiến mọi người bất giác đỏ mặt. Đúng vậy, dù gì đi nữa cũng không nên khiếp sợ đến nỗi ngã sấp ngã ngửa. – Cẩn thận một chút vẫn hơn! Mọi người nhìn thật kỹ thêm lần nữa, đừng bỏ sót thứ gì! – Nhậm Hoả Cuồng giọng đầy lo lắng, ông ta không sợ bỏ sót thứ gì, mà là sợ không phát hiện ra điều gì. Mọi người đều thận trọng quét mắt nhìn khắp xung quanh. Lỗ Nhất Khí đưa tay lên điểm vạch đo đạc một hồi. Quỷ Nhãn Tam vung xẻng gõ đập trên lớp tuyết mỏng xung quanh, song họ không hề phát hiện thấy điểm gì bất thường. – Chẳng có gì đâu, cứ đi tiếp đi! – Phó Lợi Khai vốn dĩ ít hào hứng nhất với việc tìm bảo cấu quật báu vật, lúc này lại tỏ ra phấn khích và nóng vội khác thường, phải chăng ngọn núi hệt như cơ thể đàn bà kia đã hấp dẫn gã? – Không được! Đợi đã! – Lỗ Nhất Khí vội nói rồi ngoảnh nhìn Nhậm Hoả Cuồng. Từ đường mòn Sam Đỏ cho tới lối vào dốc núi, Nhậm Hoả Cuồng vẫn luôn đi trước dẫn đường, chắc hẳn ông ta biết rõ con đường này. Không biết giờ đây liệu ông ta có thể hé lộ cho cậu một vài thông tin khác? Nhậm Hoả Cuồng hiểu ý của Lỗ Nhất Khí, song chỉ cười nhăn nhó rồi lắc đầu, tiếp tục quay đi xem xét đia hình địa thế. Tuy không nhận được câu trả lời, song Lỗ Nhất Khí vẫn cảm thấy thái độ của ông ta trước sau đối lập, chắc chắn là có lý do riêng. Thuỷ Băng Hoa lặng lẽ đi bên cạnh Lỗ Nhất Khí kín đáo nắm lấy tay cậu. Lỗ Nhất Khí biết rằng cô ta muốn cậu cảm nhận thêm lần nữa về mảnh da bản đồ, xem liệu có tìm ra manh mối gì khác, song khi những ngón tay mềm ấm dịu dàng luồn vào bàn tay cậu, tim cậu vẫn nảy lên một nhịp. Song cậu không chịu để cô ta kéo bàn tay xuống dưới, mà chỉ cười ngượng nghịu rồi lắc đầu. Mảnh da kia cậu chỉ chạm vào một lần đã in sâu vào tâm trí, trên đó không hề ghi chép một bố cục khảm diện nào. – Hay là cứ nghỉ chân một lát đi, dù sao cũng sắp tới nơi rồi, qua đỉnh dốc sẽ nhìn thấy lối vào khe núi! – Tùng Đắc Kim bình thường có vẻ khù khờ, song vào lúc cấp bách lại trở nên sáng suốt. Không ai đáp lời, chỉ có Lỗ Nhất Khí mỉm cười đầy ẩn ý, hết nhìn Tùng Đắc Kim lại nhìn Thuỷ Băng Hoa. – Vẫn đi tiếp là hơn, đối thủ rõ ràng đã tới trước chúng ta, nếu còn chần chừ, đối thủ cướp được rồi thì trắng tay cả nút! – Lời Phó Lợi Khai cũng rất có lý. Nhưng Phó Lợi Khai còn chưa nói dứt câu, lão mù bỗng đột ngột lướt về phía Tùng Đắc Kim như một bóng ma giơ tay xuất trảo chụp lấy cánh tay gã. Tùng Đắc Kim vội xoạc chân né người sang bên cạnh, tránh ngay được cú chộp thình lình. Lão mù tai nghe âm thanh tay tiếp tục chộp tới, Tùng Đắc Kim lại thụt lùi né được. Bàn tay lão mù hệt như một tia chớp đen vụt ngay đến trước người Tùng Đắc Kim, lao ngược lên trên. Tùng Đắc Kim hết cách tránh né, bàn tay lão mù đã chụp cứng bả vai gã. – Ông… ông làm cái gì thế? – Tùng Đắc Kim kinh hãi kêu lên. – Ngươi vừa nói đỉnh dốc là có ý gì? – Lão mù cất giọng lạnh lẽo hỏi. – Ý gì là ý gì? – Tùng Đắc Kim đương nhiên không hiểu câu hỏi của lão mù. Không chỉ mình gã, mà những người khác cũng ngẩn ra chẳng hiểu chuyện gì. – Ngươi vừa nói rằng chúng ta đang đi lên đỉnh dốc? – Câu này thì mọi người đều hiểu. Tùng Đắc Kim thở phào một cái, đáp: – Đúng vậy, đang đi lên đỉnh dốc, cái này mà cũng phải hỏi? – A! Không đúng, không đúng rồi! – Giọng lão mù trở nên gấp gáp và hoảng sợ – Sao bước chân của ta lại cảm thấy như đang xuống dốc? Tất cả mọi người đều sững cả lại. Người phản ứng đầu tiên là Phó Lợi Khai. Gã rút từ trong tay nải ra một quả cầu gỗ, đưa bàn chân đi qua đi lại mấy lần gạt đám tuyết đi, lộ ra một khoảng đất rồi đặt quả cầu gỗ vào giữa. – Quả cầu tìm dốc! Hoá ra không phải là quả cầu bằng sứ chứa thuỷ ngân à? – Nhậm Hoả Cuồng vừa liếc qua đã biết ngay gốc gác của quả cầu. – Quả cầu sứ dễ vỡ, sư phụ của tôi dạy tôi dùng quả cầu bằng gỗ, là cầu trong cầu. Đây là quả cầu rỗng bên trong còn một quả cầu nhỏ đặc ruột nữa, tác dụng như nhau… Nói tới đây, Phó Lợi Khai chợt khựng lại, bởi lẽ trước mắt gã đã hiện lên một cảnh tượng quái dị. Quả cầu gỗ chậm rãi xoay một vòng nhỏ tại chỗ, rồi từ từ lăn về phía đỉnh dốc. Mọi người gần như không tin nổi vào mắt mình. Quả cầu đã lăn lên đỉnh dốc! Quỷ Nhãn Tam thấy quả cầu sắp lăn đến chỗ tuyết đọng, bèn vội vàng dùng xẻng hớt tuyết đi. Đúng vậy, trên cả một đoạn dốc dài, chỉ một khúc nghiêng xuống vẫn chưa đủ để kết luận về hướng dốc của toàn bộ sườn núi, nên Quỷ Nhãn Tam muốn kéo dài đường lăn cho quả cầu tìm dốc. – Thế nào rồi? – Lão mù không hỏi kết quả, lão đã nghe thấy hướng lăn của quả cầu gỗ, lão đang muốn hỏi nơi này rốt cuộc là loại khảm diện gì. Không ai trả lời. Tất cả mọi người đều hiểu rõ, họ đã rơi vào khảm diện, song không ai biết đây là khảm diện gì. Lý luận điểm huyệt biện hình trong phong thuỷ học, phương pháp “định hình tìm cát vị” trong công pháp của Lỗ gia, phương pháp “xây dựng theo hình, bố trí theo hình” của Thuỷ Băng Hoa, tất cả đều không hề ăn nhập với khảm diện này. Trong khảm diện đã không thể dùng thị giác thông thường để biện nhận sự cao thấp thật giả của địa hình. Đầu óc Lỗ Nhất Khí có phần rối loạn, thậm chí cậu đã hoài nghi đây là một con đường ma quỷ. Tuy nhiên trạng thái rối loạn chỉ vụt qua trong thoáng chốc, rồi mọi tư duy đều mau chóng tập trung vào “Cơ xảo tập”. Quỷ Nhãn Tam lập tức nghĩ đến cú ngã hết sức vô lý của mình lúc nãy, chắc chắn vì khảm diện đã phát huy tác dụng. Song một khảm diện bố cục rộng lớn tinh xảo tuyệt luân nhường kia chỉ để đẩy người ta ngã một cú thì quả thực lãng phí quá mức. Mọi người đều cảm thấy khảm diện này bố trí rất vi diệu, song tác dụng lại vô cùng bí hiểm. – Hay là cứ trèo lên xem sao rồi tính! – Phó Lợi Khai đưa ra một ý kiến rất thực tế. Gặp phải quá nhiều điều khó hiểu, nhưng không chừng đáp án lại ở ngay phía trước, đi vài bước nữa sự thể sẽ rõ ràng. – Được, mọi người đứng yên, để tôi thử xem! – Quỷ Nhãn Tam lúc nào cũng kiệm lời, trừ phi lâm vào tình thế nguy cấp. – Cứ để tôi đi! Mà cậu Tam, tốt nhất hãy cho tôi một sợi dây bảo hiểm! – Phó Lợi Khai nói. Quỷ Nhãn Tam không phản đối, vốn dĩ hắn cũng không muốn rời khỏi Lỗ Nhât Khí quá xa. Hắn bèn gỡ lấy một nắm thừng gai nhỏ ở bên thắt lưng. Đây là sợi thừng gai mà hắn đã mua sau khi thoát khỏi sống núi Phân Thuỷ ở khe Long Môn, còn sợi Thiên Hồ giao liên đã đưa lại cho Lỗ Nhất Khí. Sợi dây thừng được buộc lên cây xẻng lưỡi cày. Cây xẻng được rèn bởi tay Nhậm Hoả Cuồng quả thực phi phàm, chỉ vài nhát đâm đã cắm ngập sâu xuống lớp đất đá trên sườn núi. Đầu kia của sợi thừng thắt thành nút bài triền**** buộc vào cổ tay trái Phó Lợi Khai. Cách thắt nút kiểu này sẽ giúp cổ tay ít bị tổn thương hơn, đồng thời cũng rất hữu hiệu khi phải thoái lui cấp tốc. Nếu gặp nguy hiểm, có thể đưa tay phải bám lên trên kéo mạnh, sẽ nhanh chóng lôi được người trở về. **** Dây thừng được quấn làm nhiều vòng, sau mỗi vòng lại kết một nút kéo, các nút kéo nối liền thành một dây, nên hướng chịu lực biến thành hướng thẳng đứng. Nhiều vòng quấn cộng thêm hướng tác dụng lực thẳng lên trên sẽ giúp người hoặc vật giảm bớt được tổn thương tại vị trí bị buộc. Họ chỉ còn cách đỉnh dốc vài bước chân, đỉnh dốc lại chỉ thoai thoải, nên Phó Lợi Khai nhanh chóng đến nơi. Song vừa đặt chân lên đỉnh dốc, gã đột ngột biến mất tăm. Quỷ Nhãn Tam phản ứng rất nhanh, lập tức vung tay chụp ngay lấy cán xẻng, một chân giẫm chặt lên mặt đất nơi lưỡi xẻng đang cắm xuống, người ngả ra phía sau. Đúng lúc hắn vừa vận lực, thì sợi dây thừng lập tức bị giật căng, bật lên tưng tưng như gảy đàn. Chỉ nghe tiếng rung đã dủ biết, sức kéo ờ đầu thừng bên kia rất lớn. Cơ thể Quỷ Nhãn Tam đã đổ hẳn về phía trước, vẻ như Phó Lợi Khai đang rơi thẳng xuống dưới. Nhậm Hoả Cuồng vội vã ôm chặt lấy vai Quỷ Nhãn Tam, giữ được hắn lại không đến nỗi ngã sấp. Lão mù vung tay, đẩy mạnh Tùng Đắc Kim đi, nói lớn: – Mau giúp họ! Sợi dây thừng thẳng căng vẫn rung lên bần bật, may mà Tùng Đắc Kim đã chụp được sợi dây, cánh tay lực sĩ của gã trở nên đặc biệt hữu dụng. Ba người cùng hợp sức giữ sợi dây thật vững, cây xẻng vẫn được cố định nguyên chỗ cũ, không xê dịch một ly. Phó Lợi Khai hai tay bắt chéo, dốc hết sức lực tự lôi cơ thể lên đỉnh dốc, khuôn mặt cứng nhắc giờ rúm ró méo xệch. Gã gào lớn: – Đừng lại gần! Đừng ai lại gần! Nút lẫy của khảm diện ở đây! Lỗ Nhất Khí nhìn gã bò trườn một cách khiếp đảm trên đỉnh dốc, cảm thấy kinh ngạc vô cùng, nghĩ thầm: “Không biết là thứ gì đã khiến hắn sợ hãi đến nỗi không cả dám đứng dậy mà đi?” Phó Lợi Khai cứ thế bò thẳng tới bên chân Lỗ Nhất Khí, Lỗ Nhất Khí phải đưa tay đỡ, gã mới đứng dậy nổi, giọng nói còn chưa hết run rẩy: – Người chết! Toàn là người chết! – Người chết cái gì? Nói cho rõ ràng xem nào, không đầu không cuối ai mà hiểu nổi! Chẳng lẽ người chết kéo anh xuống à? – Không phải Thuỷ Băng Hoa muốn làm cho không khí thêm căng thẳng, mà là vì vẻ mặt của Phó Lợi Khai khiến cô ta không thể không căng thẳng Lỗ Nhất Khí vỗ nhẹ vào vai Phó Lợi Khai, nói: – Cứ bình tĩnh, nói rõ xem nào! Phó Lợi Khai thở lấy thở để vài nhịp mới lấy lại bình tĩnh mà nói: – Đi qua đỉnh dốc là một sườn núi dốc đứng, trên dốc không hề có tuyết phủ mà chỉ có mặt băng trơn trượt. Dưới dốc toàn xác chết, đều chết vì bị ngã! – Tôi hiểu rồi! Đây là khảm diện điên đảo hình dốc, mục đích của nó là khiến cho người rơi vào trong khảm tự nhiên tích tụ thế lao lên một cách vô thức, sau khi lên tới đỉnh dốc, lập tức tự rơi xuống vực! – Thuỷ Băng Hoa vừa nghe Phó Lợi Khai thuật lại, đã quả quyết. – Đúng đấy! Đúng đấy! Vừa rồi tôi đã cảm thấy khảm diện này không hề dùng đến phép che mắt, mà chỉ là “dựa hình dần biến đổi, tích thế trong vô hình”. Trước đây sư phụ tôi từng nói đến nguyên lý này, song tôi lại không chú ý lắng nghe! – Lời của Thuỷ Băng Hoa như một gợi ý khiến Phó Lợi Khai bừng tỉnh. Song người bừng tỉnh thực sự lại không phải là Phó Lợi Khai, mà là Lỗ Nhất Khí. Trong đoạn đối thoại giữa Thuỷ Băng Hoa và Phó Lợi Khai, có một chữ cậu nghe rõ nhất, đó là chữ “biến”. Một đoạn văn tự trong “Cơ xảo tập”lập tức hiện lên trong trí não… “Hình không phải là nhìn thấy, hình không phải là cảm thấy, nhìn và cảm xuất phát từ tâm, tâm thường biến, biến thì hình đó không phải là hình…” “Không phải là hình cũng là vô hình, không biết lực đi đến đâu, thế từ đâu tới…” “Biến tròn vuông, biến lên xuống, biến xa gần. Khéo dùng một cây, một đá, dáng núi, sắc rừng, mắt nhìn sai, cảm biết loạn…”
Lời Nguyền Lỗ Ban Quyển 3 - Chương 21: Loạn cao thấp Spoiler: Click vào để đọc Những nguyên lý trong “Cơ xảo tập” đang lần lần tương ứng với cảnh tượng trước mắt. Đột nhiên, Lỗ Nhất Khí nhãn thần bừng sáng, tựa như vừa bừng tỉnh khỏi cơn mơ. Cậu chậm rãi nói: – Lần này đúng là đã tới đích rồi! Đây chính là khảm diện bảo vệ báu vật mà tổ tiên để lại. – Khảm diện này quả là hoành tráng, để tạo ra nó không biết phải tiêu tốn bao nhiêu thời gian sức lực! – Nhậm Hoả Cuồng trông xa nhìn gần một hồi, bất giác thốt lên lời cảm thán. – “Dựa hình dần biến đổi, tích thế trong vô hình”, anh Phó nói đúng, khảm diện này đã lợi dụng địa hình vốn có, lại dùng cây cối đất đá để che chắn nguỵ trang nhằm đánh lừa thị giác con người. Anh Phó, anh cho tôi mượn bức tranh Lộng phủ của sư phụ anh xem một lát, chưa biết chừng tiền bối đã lưu lại manh mối gì trong đó cũng nên! – Lỗ Nhất Khí chợt nhớ tới bức tranh với thủ pháp lạ lùng trong tay Phó Lợi Khai. Phó Lợi Khai không chút chần chừ lập tức lấy bức tranh ra đưa cho Lỗ Nhất Khí. Lỗ Nhất Khí dùng năm đầu ngón tay trái đỡ lấy bên dưới bức tranh, sau đó đưa mu bàn tay xoa nhẹ trên mặt tranh một lát. Xúc giác mẫn cảm đã cho cậu thấy bề mặt bức tranh không hề bằng phẳng. Cậu bèn quay người hướng về phía mặt trời, năm đầu ngón tay vẫn đỡ lấy bức tranh, đưa bức tranh nằm trên cùng một mặt phẳng với đôi mắt, sau đó liên tục thay đổi cách nhìn, tìm kiếm xem liệu có huyền cơ nào ẩn chứa bên trong. Đến khi Lỗ Nhất Khí nheo mắt thành bên to bên nhỏ, thì Phó Lợi Khai kinh ngạc đến há hốc cả miệng mồm, khuôn mặt lệch hẳn sang một phía. Và Lỗ Nhất Khí đã nhìn thấy! Cậu đã phát hiện ra một thế giới lung linh huyền diệu ẩn giấu trong bức tranh. Trong tranh có núi, có rừng, có nước, còn có những văn tự đủ màu sặc sỡ. Chỉ có thứ màu Cung hội thái đời Nguyên mới tạo nên được hiệu quả thần kỳ đến vậy. Cung hội thái pha với dầu băng tinh, độ đậm đặc kết dính rất cao, nên có thể phủ nhiều lớp màu lên nhau tạo thành một độ dày nhất định. Lợi dụng độ dày của màu dầu để ẩn tàng một địa đồ lập thể là không quá khó khăn, thế nhưng phải lợi dụng ánh sáng chiếu nghiêng và góc nhìn thích hợp mới có thể nhận ra. Lỗ Nhất Khí không chỉ nhìn thấy địa đồ, mà còn nhìn thấy một đường chỉ dẫn màu đỏ, vị trí mà nó chạy qua chính là lối đi từ đường mòn Sam Đỏ tới trước khe núi Hai Gối. Chỉ khác ở chỗ, trên tấm địa đồ lập thể, từ rừng sam đỏ tới trước khe núi không phải là dốc lên xuống nhấp nhô, mà là một đường dốc xuống liên tục gồm ba khúc với ba độ dốc khác nhau, khúc sau dốc hơn khúc trước. Tấm địa đồ còn cho cậu biết ở đây có một khảm diện lớn, do vài dốc núi nối tiếp tạo thành, kết hợp với những rừng cây, đỉnh núi xung quanh mà phát huy tác dụng. Đáng tiếc là tấm địa đồ phát hiện hơi muộn, nên cũng chẳng còn ý nghĩa gì. Song vẫn còn một thứ hữu ích, chính là những văn tự màu sắc rực rỡ trên tấm địa đồ. Trong đó có những điều mà bác cậu chưa kịp nói, mà thậm chí có lẽ bản thân ông cũng không biết. Đoạn văn tự chép rằng, hơn hai nghìn năm trước, Lỗ Ban cùng đệ tử phải tìm hung huyệt, điểm cát địa, dựng ám cấu, giấu ngũ bảo, nên nhân lực vật lực đều cạn kiệt. Sau khi xây xong ám cấu giấu ba bảo bối đầu tiên, Lỗ gia đã hao hụt nguyên khí nặng nề, bởi vậy việc chôn giấu hai bảo bối cuối cùng có phần lao lực. Để đưa địa bảo đi chôn giấu ở phía đông, Lỗ gia đã dốc hết toàn bộ nguyên vật liệu quý hiếm trong nhà, chế tạo nên một con thuyền đi biển vô cùng kiên cố. Khi đó một đệ tử Lỗ gia tên gọi Lỗ Tử Lang mang theo Địa bảo, dắt môt người con, một người cháu ruột, một người cháu họ khởi hành từ trên sông Dương Tử, theo sông ra biển, từ đó biệt tăm biệt tích không một hồi âm. Bảo bối cuối cùng là Kim bảo ở phía đông bắc, Lỗ gia quyết định cất giấu cuối cùng, là vì đông bắc rừng núi rậm rạp, có thể lấy nguyên liệu tại chỗ, nhanh chóng hoàn thành đại nghiệp. Lúc này Lỗ gia chỉ còn lại chín đệ tử tráng niên, nhất tề mang theo Kim bảo ngược lên đông bắc, cũng không thấy quay về. Đến tận một nghìn năm sau, Lỗ gia hưng thịnh trở lại, nhân tài Ban môn mới ngược lên vùng đông bắc tìm kiếm hậu duệ của người cất giấu và bảo vệ bảo bối năm xưa. Hậu duệ Ban môn nơi đây tuy số người thưa thớt, song đã tự thành phái riêng, không muốn quay trở lại Trung Nguyên, mà nguyện lưu lại nơi đây đời đời kiếp kiếp truyền thừa nhiệm vụ bảo vệ bảo bối cho tới ngày nay. Mọi người chỉ biết đứng im nhìn Lỗ Nhất Khí không chớp mắt. Không ai nói câu nào, vì sợ ảnh hưởng tới cậu. Cuối cùng, Lỗ Nhất Khí cũng đã rời mắt khỏi bức tranh, quay sang nhìn Phó Lợi Khai mà nói: – Nội dung trên bức tranh này là bí mật môn phái của anh, cũng là bí mật của Ban môn. Phó Lợi Khai lúc này mới khép miệng lại, lắp bắp: – Cậu nói xem! – Một địa đồ ẩn tàng, dẫn tới nơi giấu bảo. Giữ bảo đời đời truyền, không chịu về Trung Nguyên! – Lời Lỗ Nhất Khí có phần kín đáo vắn tắt, song Phó Lợi Khai đã hiểu. Trong mắt gã ánh lên những tia sáng tinh nhanh, khuôn mặt cứng nhắc chợt hoạt bát hẳn lên bởi một vẻ hưng phấn và xúc động lạ thường. Gã chăm chú nghe như nuốt từng câu, từng chữ của Lỗ Nhất Khí. Sau cùng, ánh sáng trong mắt chợt mờ đi, cần cổ căng thẳng cũng hơi chùng xuống. – Không sai! Cậu quả đúng là người tôi chờ đợi. Thực ra ngay từ đầu tôi đã không hề nói dối, tôi thực sự không biết mình có phải là đệ tử Ban môn hay không. Sư phụ chưa từng nói cho tôi biết, chỉ căn dặn tôi ở yên nơi này đợi người mang tín vật Lộng phủ tới, hơn nữa, người này phải nhận ra được bí ẩn giấu trong bức tranh, hoặc có thể nói ra sự tích về tổ sư của tôi. Ban đầu, cậu không phát hiện ra bí mật trong tranh, cũng không kể gì về tổ sư gia, nên tôi đã nghi ngờ cậu. Song từ khi gặp cậu, tôi đã thấy cậu bản lĩnh phi phàm, nên muốn nhập bọn đi theo, tìm kiếm bảo cấu hung huyệt, khai quật bảo bối, hoàn thành di nguyện của tổ tiên. – Cho nên ngay từ đầu ngươi đã giả ngây giả ngô, tới khi chúng ta thay đổi đường lối, đi về phía đường mòn Sam Đỏ, ngươi mới cảm thấy hào hứng, bắt đầu thể hiện bản thân? – Lời Nhậm Hoả Cuồng hệt như búa thợ rèn, nhát nào cũng trúng. Khuôn mặt méo xệch của Phó Lợi Khai giật lên một cái, không biết là muốn bày tỏ sự hối lỗi hay hổ thẹn: – Khu vực này thực sự tôi chưa từng tới, khảm diện lại càng mù tịt, có điều sư phụ trước đây đã từng nhiều lần dẫn tôi tới đường mòn Sam Đỏ, bởi vậy tôi khá thông thạo con đường dẫn đến nơi này. Sư phụ còn dặn rằng, các vị tổ tiên năm xưa khi đến đây xây dựng ám cấu đã không ngờ rằng phương đông bắc giá rét không có nhiều gỗ lạt như lời đồn đại, nên đành phải căn cứ theo địa hình địa thế tự nhiên để tiến hành cải tạo, việc đó đòi hỏi một khoảng thời gian rất dài, trước sau đã tiêu hao tinh lực của vài thế hệ. Hơn nữa, do môi trường biến hoá, cây cối sinh trưởng, nên phải liên tục tu sửa chỉnh đốn. Song trước khi về chầu trời, sư phụ bảo tôi không cần phải làm những việc này nữa, vì người dự đoán rằng chỉ qua vài năm, người tìm bảo bối sẽ tới. Phó Lợi Khai không còn phải giả bộ ngây ngô thô vụng để che giấu bản thân, nên nói năng cũng thoải mái hơn, thi thoảng lại chêm vào một vài thuật ngữ của kẻ đi rừng. – Sao cơ? Ban môn làm nhiệm vụ bảo vệ báu vật ở đây, lại chỉ lưu lại có một mình ngươi? – Lão mù ngạc nhiên hỏi. Phó Lợi Khai cười nhăn nhó mà nói: – Nơi đây dân cư thưa thớt, xây dựng nhà cửa cũng đại khái qua loa, không cần đến thợ khéo. Bởi vậy, ở đây không thể kiếm sống nhờ kỹ nghệ, nên tôi mới phải chuyển sang buôn bán gỗ rừng. Thu nạp đồ đệ lại càng khó khăn. Hơn nữa từ đời sư phụ tôi trở về trước còn phải liên tục sửa sang giữ gìn khảm diện, làm những công việc tiêu tốn sức lực mà chẳng được lợi lộc gì. Ngoài những người chịu ơn sư phụ giữ hồn (cứu mạng) như tôi đây, không có kẻ nào muốn theo nghề cả. – Bức tranh Lộng phủ của anh tuy dùng màu vẽ cổ xưa, song độ tuổi giấy vẽ lại chưa đầy trăm năm, tức là thời gian vẽ chưa lâu, phải chăng do sư phụ của anh vẽ ra rồi lưu lại? – Lỗ Nhất Khí vẫn rất tò mò với bức tranh đang cầm trên tay. – Đúng vậy! Sư phụ tôi nói rằng, những bậc tổ tiên bảo vệ bảo bối vốn không để lại bất kỳ hình vẽ nào, song vì thợ rừng qua lại ngày một đông đúc, bảo cấu đã nhiều lần bị người ta phát giác, song may là các bậc tổ tiên đã thiết kế nên khảm diện thần kỳ, nhờ vậy mà chưa ai phá được ám cấu. Song cũng có hai cao nhân từng lần được vào bên trong, nên các bậc tổ tiên đã phải liều mạng mới tiêu diệt được họ. Không ai dám đảm bảo ngày sau lại có cao nhân bản lĩnh cao siêu đột nhập, phát hiện ra bảo bối. Thế là khoảng trăm năm trước, các vị sư gia, tằng sư gia đã quyết định trồng cây bụi theo cách cục “rào trúc cắm nghiêng” tại lối vào, bít chặt đường đi, lại trồng cây bụi dày đặc bên rìa khảm diện, biến rìa khảm thành tường khảm. – Nói như vậy thì anh đã biết rõ đường đi từ trước, hoá ra suốt dọc đường anh coi chúng tôi là trò hề à? – Thuỷ Băng Hoa có phần tức tối. – Không phải không phải! Tôi biết cách xem bức tranh, song lại không thể nhìn ra con đường này. Cô nhìn tôi mà xem, tôi luyện chiêu “ngược sáng tìm gai”, luyện đến mặt mũi méo xệch đến thế này đây! Nghe Phó Lợi Khai nói vậy, lại nhìn vào bộ mặt của gã, Thuỷ Băng Hoa không nhịn được phải phì cười. – Nói mãi từ nãy đến giờ, vậy rốt cuộc đây là khảm diện gì? – Tùng Đắc Kim đứng cạnh đã bắt đầu sốt ruột. Bầu không khí bỗng trở nên lặng phắc, một hồi lâu sau, vẫn là Lỗ Nhất Khí lên tiếng trước: – Khảm diện này chưa từng có sách nào nhắc tới bởi vậy không biết gọi tên là gì. Nó dựa vào địa hình địa thế tự nhiên vốn có rồi tu sửa, cải tạo thêm mà thành. Mọi người hãy nhìn mấy gốc cây to lớn trên sườn dốc xem, có phát hiện ra điều gì bất thường không? Chúng chính là một trong những vật che mắt, là mồi nhử! – Có thấy gì đâu! – Tùng Đắc Kim không biết là mắt mờ hay đầu đất mà không nhận ra có điểm gì khác thường. – Hãy nhìn kỹ mà xem! Có phải tỷ lệ giữa tán cây và thân cây có sự khác biệt hay không? Anh đừng so sánh hai cây ở gần nhau, vì độ chênh lệnh quá nhỏ. Anh hãy so sánh cây đầu tiên với cây cuối cùng sẽ thấy rõ. Chúng tuy cao lớn, song tuổi cây lại chưa lâu, có lẽ do người ta bứng đến trồng ở đây! – Lỗ Nhất Khí giải thích. – Cái này có thể nhìn ra, song vẫn có thứ không thể nhìn ra được. Ví dụ những ngọn núi mà đứng từ đây có thể nhìn thấy, do bị rừng rậm chạy dài che phủ nên không thể nhìn rõ phần chân núi. Bởi vậy, không còn thứ gì để đối chiếu, nên chúng ta không thể nhận ra rằng những ngọn núi kia vì bị ăn mòn phong hoá nên biến dạng cùng nghiêng về một phía. Tập hợp tất cả những yếu tố này lại sẽ gây ra sai lệch về thị giác, dốc xuống lại ngỡ là dốc lên. Nên đỉnh dốc kỳ thực là một chỗ ngoặt đột ngột chuyển sang con dốc dựng đứng. Trên suốt đường đi, chúng ta vô thức lầm tưởng xuống dốc là lên dốc, sau ba lần gấp khúc liên tiếp, bước chân đã tích tụ dược một sức mạnh tiềm tàng rất lớn. Khi đến chỗ chuyển ngoặt cuối cùng, người trong khảm diện sẽ chẳng khác nào lao chân xuống vực, tự quăng mình xuống dốc núi thẳng đứng. Lỗ Nhất Khí nhìn lướt qua một lượt những khuôn mặt chăm chú lắng nghe, rồi nói tiếp: – Lần này may mà có chú Hạ! Chú đã dựa vào cảm giác của bước chân để phân biệt độ dốc, nếu không chúng ta đều đã bỏ mạng trong chính khảm diện bảo vệ bảo bối của nhà mình. Kỳ thực, chúng ta đều ít nhiều cảm thấy bước chân có chỗ bất thường, song lại quá tin tưởng vào cặp mắt. Nguyên lý của khảm diện đã sáng tỏ, nhưng vẫn phải tìm cách để vượt qua khảm diện. Thuỷ Băng Hoa đã đưa ra một phương pháp chuẩn xác đáng tin: đi theo khảm diên, tức rìa khảm. Rìa khảm đã biến thành một bức tường cây ken dày rậm rạp, nhưng Tùng Đắc Kim và Quỷ Nhãn Tam kẻ chém người phạt một hồi, bên rìa rừng cây bụi đã mau chóng xuất hiện một lối đi rộng chừng một thước. Đi lại trên con đường hẹp này vài bước, lập tức cảm thấy độ lên xuống của dốc núi đảo ngược trở lại. Họ cứ phạt cây mà đi, cuối cùng đã thuận lợi vượt qua “đỉnh dốc”. Tình hình dưới dốc giống hệt như Phó Lợi Khai đã miêu tả, đầy rẫy xác chết. Cảnh tượng vô cùng thảm khốc, sặc mùi máu tanh, khiến Thuỷ Băng Hoa phải quay đi nôn thốc nôn tháo. Băng phủ kín trên dốc xuống, dưới chân dốc là nguyên một khối băng dày. Trên vách đá gần chân dốc là tầng tầng lớp lớp nhũ băng. Bên dưới còn có rất nhiều hài cốt, phần lớn đã bị chôn vùi dưới lớp băng, chỉ có rải rác vài cỗ thi hài dựng đứng trên mặt băng, chĩa thẳng lên bầu trời xám xịt. Trên bề mặt khối băng dưới chân dốc đã đóng cứng một lớp băng đỏ sẫm, là do máu người đông kết mà thành. Những người này trông như mới chết chưa lâu, bị ướp trong băng giá bên ngoài và nhũ băng trong cơ thể, cảnh tượng sống động đến kinh hoàng. Đây mới là nút lẫy chết cuối cùng của khảm diện dốc ba đoạn, từ đỉnh dốc trượt chân lao xuống theo vách băng trơn trượt, càng trượt càng nhanh, cho tới khi đâm vào tảng đá phủ kín nhũ băng. Cú va đập rất mạnh sẽ khiến cho nhũ băng gãy rời, ào ào lao xuống, xuyên suốt cơ thể. Có thể thấy khi trời ấm băng tan, nơi đây là một thác nước, nếu trượt chân sẽ ngã xuống đầm sâu bên dưới thác nước, kết cục sẽ là bị vòng xoáy trong đầm nhận xuống đáy sâu hun hút. Trong những xác chết còn mới, có sát thủ áo đen của hội Minh tử tiêm đao, có đao thủ trong khảm diện Công tập vi. Nhưng chỉ có thể phân biệt dựa vào trang phục và vũ khí bên người, vì cơ thể mặt mày đều đã giập nát đến không thể nhận ra. Tư thế tử vong đã đóng băng nỗi đau đớn tuyệt vọng của họ trong cơn giãy giụa cuối cùng, mặt băng phía trước bị cào bới thành nhiều rãnh sâu hoắm, và những đầu ngón tay đều trơ xương trắng nhởn. Người của đối thủ đã vượt qua đây khá lâu, cũng có nghĩa là họ phải hành động thật cấp tốc. Mọi người vô cùng thận trọng giẫm lên mặt băng dày vượt qua vách núi, không phải vì sợ mặt băng rạn nứt, mà e ngại bên dưới lớp băng có bố trí khảm diện. Nhưng những bậc tiền bối của Lỗ gia xem ra đều là những người trung hậu, từ lúc vượt qua đầm băng cho tới khi đến trước khe núi Hai Gối, bọn họ không còn gặp thêm khảm diện nào nữa. Kỳ thực “bố trí theo hình, theo hình mà biến” nói thì dễ, song bắt tay vào thực hiện không những vô cùng gian khổ, phức tạp, mà còn phải chịu sự hạn chế của rất nhiều nhân tố khác như địa hình, địa thế, cục diện rất đồ sộ đến khó tưởng tượng. Nhìn từ xa lại, lối vào khe núi Hai Gối khói sương vấn vít như chốn thần tiên. Song khi tới gần, mới biết bên trong sương mù cuồn cuộn, chỉ cách vài bước đã không nhìn rõ mặt người, khác gì động yêu hang quỷ. Lại thêm hơi nóng dồn dập phả ra, khiến dám sương mù hệt như hơi nước đang ngùn ngụt bốc lên từ một chảo nước sôi khổng lồ. Cả đám đều sững sờ khựng lại, không ai dám phán đoán trước mặt họ là một thế giới quái dị ra sao. Chỉ nhìn vào hơi sương mù mịt, chí ít có thể đoán rằng nhiệt độ trước khe núi rất cao, chưa biết chừng bên trong còn cao hơn nữa. Lẽ nào họ sắp phải bước vào quỷ vực băng hoả giao tranh? Trời đã xế chiều, ánh tịch dương trải dài trên rừng núi, nhuốm sắc vàng kim lên những ngọn cao. Từ lưng núi trở xuống sắc ngả âm trầm, đặc biệt là những sườn dốc sấp bóng mặt trời lại càng thẫm đen u ám, tựa như trời đất sắp đến hồi tàn, khiến lòng người cũng ngột ngạt nặng trĩu. Bước vào trong khe núi, sương mù càng dày đặc, trong hoàn cảnh này, con mắt nhìn thấu đêm đen của Quỷ Nhãn Tam cũng trở nên vô dụng. Lối vào tuy không rộng, song bước vào trong lại phân thành mấy ngả đường, không biết được đâu mới là lối đi chính xác. Cảm giác của Lỗ Nhất Khí bắt đầu trở nên rối loạn, không phải do sương mù dày đặc, cũng không phải do đường đi phức tạp, mà do bên trong có một làn khí lớp lớp lan toả, đợt đợt tràn trề, xuyên qua sương mù mà tới. Trong làn khí hỗn độn rất nhiều thứ, may mắn có, nguy hiểm có, trong trẻo có, tanh tưởi có, khiến Lỗ Nhất Khí tâm tư xáo trộn dữ dội, trong lòng dấy lên một nỗi bồn chồn giận dữ khó mà kiểm soát nổi. Cậu hiểu rằng, đây là nơi giao thoa tụ hội của những thứ tốt đẹp nhất và hung dữ nhất, nếu muốn hoàn thành đại sự, trước hết phải trấn tĩnh tư duy, điều hoà tâm thái. – Hãy dừng lại đây nghỉ ngơi một lát! Mọi người đã đi hơn một ngày trời mà chưa ăn uống gì! – Lỗ Nhất Khí nói xong câu này, cũng cảm thấy lấy làm lạ. Lao lực suốt một ngày đêm, tại sao không ai cảm thấy mệt mỏi hay đói khát? Sức hấp dẫn của bảo bối quả thực đáng sợ. – Đây là lối ra vào thung lũng, phía trước lại có sương mù dày đặc che mắt. Dừng chân ở đây, nếu đối thủ lén lút tiếp cận, bất ngờ đánh lén, chúng ta sẽ trở tay không kịp. Cho dù đối thủ không có ý định tập kích, song nơi đây cũng là con đường tất yếu phải đi qua, chẳng may đụng đầu, khó tránh một trường kịch chiến. Lại thêm hai bên đều là vách núi dựng đứng, kiểu gì cũng là chỗ nguy hiểm cần phải tránh xa! – Lão mù nói rất có lý, hơn nữa câu cuối cùng không chỉ là kinh nghiệm giang hồ mà còn là thường thức trong quân sự. Quỷ Nhãn Tam chọn lấy một con đường, và mọi người lại tiếp tục đi về phía trước. Nhìn vào hướng nghiêng của cây cỏ và đá vụn hai bên đường để phán đoán, có vẻ như con dường chạy dốc lên trên. Đi lên trên cao sẽ thoát khỏi đám sương mù, nguy hiểm sẽ giảm bớt, khả năng đụng đầu đối thủ cũng thấp hơn. Đoàn người cứ đi cho đến tận khi nhìn thấy ánh tà dương mới dừng lại. Núi Hai Gối không cao, lên tới đoạn này, lớp sương mù đã ở dưới chân họ. Họ chia nhau chỗ lương khô cuối cùng còn sót lại, rồi đổ đầy tuyết vào trong những vật đựng mang theo. Bởi vì sau khi tiếp tục hành trình, không ai biết trước liệu mình có còn sống sót để ăn bữa tiếp hay không. Nhân lúc trời còn chưa tối hẳn, Lỗ Nhất Khí và mọi người đứng ở trên cao quan sát kỹ lưỡng địa hình trong thung lũng. Địa thế dưới lòng thung lũng không thực bằng phẳng, có hình chữ nhật hẹp dài, song chính giữa có môt vùng hơi nhô cao so với xung quanh. Trong thung lũng không có cây cối, chỉ có một lớp cỏ khô rất dày che phủ – Ồ, hình như đây chính là “Thần ngao phụ đỉnh”*! – Nhậm Hoả Cuồng kêu lên. – Không phải! Có lẽ là “Long bàn ngao đỉnh”**. Lão Nhậm mới chỉ thấy bên dưới thung lũng địa thế bằng phẳng, ở giữa nhô lên, xung quanh lõm xuống, hình giống mai rùa; bốn xung quanh là vách núi, bốn góc là đỉnh núi, toàn bộ hình thành cách cục Ngao đỉnh. Nhưng mọi người hãy chú ý quan sát mà xem, thế núi xung quanh thung lũng lên xuống nhấp nhô, trập trùng không dứt, nổi lên từ cửa thung lũng, rồi lại quay về cửa thung lũng, giống hệt con rồng lớn cuộn tròn, rõ ràng là cách cục Bàn long. Hai cách cục này kết hợp với nhau, hẳn là cục tướng Long bàn ngao đỉnh! – Phó Lợi Khai phóng tay chỉ trỏ, nói thao thao đến mức nước bọt toé tung, bộ dạng vô cùng đắc ý. * Có nghĩa là rùa thần cõng vạc. (Nd) ** Có nghĩa là rồng cuộn vạc rùa. (Nd) – Thần ngao phụ đỉnh là bảo địa phong thuỷ thuộc hàng công hầu khanh tướng, tìm được bảo địa như vậy đã là hiếm có. Nếu đặt mộ tổ phía dưới đầu ngao, có thể đời đời quyền cao chức trọng. Còn Long bàn ngao đỉnh lại càng thần kỳ, đó là cục tướng nắm giữ thiên hạ. Không biết con cháu nhà ai có được phúc phận này? – Lão mù nghe Nhậm Hoả Cuồng và Phó Lợi Khai bàn luận, bất giác cũng thốt lên đầy cảm khái. – Nghe nói gần đây có vùng đất cư trú và cúng tế của tổ tiên người Mãn. Tộc Mãn năm xưa mẹ goá con côi nhập quan mà giành được thiên hạ, không chừng là nhờ phúc của phong thuỷ chôn này! – Lỗ Nhất Khí đã có dự cảm này từ trước. Hốt Tất Liệt nhờ Thổ bảo đoạt thiên hạ, Chu Nguyên Chương nhờ Hoả bảo nắm cực quyền, người Mãn giành được Trung Nguyên, chưa biết chừng cũng có liên quan tới Kim bảo vùng đông bắc.
Lời Nguyền Lỗ Ban Quyển 3 - Chương 22: Ngói mai rùa Spoiler: Click vào để đọc - Vốn dĩ nơi tôi định dẫn mọi người tới là một vùng đất tế lễ cổ xưa. – Tùng Đắc Kim bỗng phấn chấn hẳn lên – Tổ tiên tôi từng nói ở đó mọc đầy nhân sâm, linh chi, trùng thảo, trăn ma*, là vùng bảo địa! * Một loại nấm nhỏ mọc ô trên cây phỉ (cây trăn), hơi giống nấm hương, do có hương thơm của gỗ cây phỉ nên loại nấm này mùi vị rất thơm ngon, số lượng rất ít nên rất quý hiếm, đặc biệt là loại nấm rừng mọc tự nhiên. - Vậy không chừng đấy chính là vùng đất tế lễ của tổ tiên người Mãn, cũng là một lối vào khác của bảo cục phong thuỷ! – Lỗ Nhất Khí có vẻ như an ủi gã. - Cũng đúng! Chúng ta đã phải đi một vòng, con đường mà chúng ta vừa đi có hình vòng cung, đầu bên kia của khe núi chắc chắn chỉ cách hẻm rừng (đường mòn trong rừng) mà chúng ta đã đi khi chưa đổi đường chẳng bao xa! – Phó Lợi Khai vẻ như đột nhiên bừng tỉnh, bộ dạng đầy hối hận và tiếc nuối. Song chẳng ai thèm để ý tới gã. Mọi người đều biết, trong cánh rừng già Đông Bắc này, lời lẽ của phường lái gỗ là khó tin nhất. Trời đã sập tối, của Lỗ Nhất Khí cuối cùng cũng đã bình ổn trở lại. Không hiểu tại sao, sau khi biết được mình đang ở trong cục tướng kỳ tuyệt Long bàn ngao đỉnh, tâm tư rối bời của cậu lập tức lắng dịu ngay xuống. Đường đi trong khe núi vẫn khói sương mờ mịt, lại thêm trời chiều nhá nhem, tầm nhìn càng thêm hạn hẹp. Song dù cho con đường trước mặt có hiểm trở đến đâu, họ vẫn phải kiên định dấn bước. Có cả thảy sáu con đường. Ngoài con đường họ vừa đi theo để leo lên núi, còn lại năm con đường. Không thể lần lượt đi hết cả năm, như vậy có tới mùa quýt sang năm cũng chưa tìm được nơi cần đến. Họ quyết định chia hai đường đi tiếp. Nhậm Hoả Cuồng, Phó Lợi Khai, Tùng Đắc Kim đi theo một ngả; Lỗ Nhất Khí, lão mù và Quỷ Nhãn Tam đi theo một ngả. Còn Thuỷ Băng Hoa, mọi người để cô ta tự quyết định, thích đi theo nhóm nào thì đi, hoặc cũng có thể ẩn mình trên núi đợi bọn họ trở ra. Trước khi ai theo đường nấy, Quỷ Nhãn Tam đề xuất nên dùng ám hiệu để có thể nhận ra đối phương trong sương mù. Gã Tùng Đắc Kim khù khờ lại đưa ra được một ý kiến khá hay: - Chẳng cần ám hiệu gì đâu! Nhìn thấy nhau thì xướng tên mình lên là xong! Phó Lợi Khai và Nhậm Hoả Cuồng chẳng nói gì thêm, lập tức quay người bước theo Tùng Đắc Kim, tiến vào trong màn sương dày đặc. Đám Lỗ Nhất Khí sắp xếp trình tự trước sau xong xuôi mới tiến vào một con đường. Lúc này, con mắt cú đêm của Quỷ Nhãn Tam đã trở nên vô dụng, nên thính giác nhạy bén của lão mù trở thành công cụ tìm kiếm và phòng bị đắc lực nhất. Lỗ Nhất Khí và Thuỷ Băng Hoa lần lượt đi phía sau lão mù. Lỗ Nhất Khí cầm ngang khẩu súng trường Mauser trong tay, lên đạn sẵn sàng, tay phải đặt sẵn vào cò súng, gác thân súng lên trên cánh tay trái; bàn tay trái còn nắm chặt một quả lựu đạn trứng vịt, ngón giữa ngoắc sẵn vào chốt an toàn. Thuỷ Băng Hoa đi sát sau lưng Lỗ Nhất Khí, một tay rất tự nhiên túm lấy vạt áo cậu. Quỷ Nhãn Tam đi cuối cùng. Không gian mịt mù hỗn độn nơi đây chợt khơi dậy trong Quỷ Nhãn Tam một cảm giác đã lâu lắm rồi không xuất hiện, cảm giác đã từng đeo đuổi hắn khi bị nhốt kín trong mộ thất chìm dưới rừng rậm thâm u trước khi luyện thành tựu dạ nhãn. Dường như trong bóng tối có vô số đôi mắt ma quái đang nhìn hắn chằm chằm. Con đường tuy quanh co lắt léo, song lại không dài, khoảng ba, bốn trăm bước đã kết thúc. Trước mặt họ chính là vùng đất phẳng dài hẹp trong lòng thung lũng - Cẩn thận, có rãnh! – Quỷ Nhãn Tam lên tiếng nhắc nhở. Không gian đã mở rộng, sương mù cũng khó tụ, bởi vậy tuy trong khe núi tối tăm xoè bàn tay không thấy ngón, nhưng con mắt của Quỷ Nhãn Tam vẫn nhìn rõ mồn một. Lỗ Nhất Khí ngồi thụp xuống bên cạnh khe rãnh, đặt súng trường và lựu đạn xuống, lôi viên đá huỳnh quang Ba Tư trong túi ra, dùng ba ngón tay đỡ lấy, bàn tay còn lại khum khum che chắn, như vậy có thể soi sáng trước mặt mình, mà người ở phía xa cũng không phát hiện ra. Đây là một rãnh băng không rộng, chính là nơi lõm xuống ở bên rìa “mai rùa” mà họ đã quan sát được khi còn trên núi. Song rãnh băng trông rất quái lạ, vẻ như không phải do nước đọng đóng băng mà thành. Lớp băng ở phía gần Lỗ Nhất Khí rất mỏng, song càng sang bờ bên kia càng dày, khiến bề mặt băng lượn thành hình vòng cung. Đến rìa “mai rùa” thậm chí còn đóng kết thành vô số cột băng, nhũ băng với hình thù kỳ quái. - Mặt băng này là do hơi nước bốc lên đông lại mà thành! – Lỗ Nhất Khí đã được học về sự hình thành của hiện tượng này ở trường Tây học. - Nhìn độ dày của băng, hơi nước dưới mé cạnh! – Quỷ Nhãn Tam nói cụt lủn đến khó hiểu, nhưng cũng chẳng thèm giải thích thêm, chỉ tung một bước dài nhảy qua rãnh băng, rút phắt cây xẻng lưỡi cày, đập thẳng cánh vào đám cột băng, nhũ băng ken kín bên cạnh “mai rùa”. Tiếng va đập vang khắp khe núi, trộn lẫn với dư âm vọng lại từ vách đá, văng vẳng mãi không thôi. - Nghê Tam! Dừng tay! Đừng phí sức phá băng, xem xét dưới chân ngươi đi! – Lão mù dường như đã nghe tháy có âm thanh bất thường vang lên từ chỗ đặt chân của Quỷ Nhãn Tam. Quỷ Nhãn Tam bèn quay xuống đào bới dưới chân, cứ đào xuống vài tấc, lại đưa ngón tay vê vê đất bùn, đưa lên mũi ngửi, thi thoảng lại thè cả lưỡi ra liếm. Đây là kỹ pháp của gia tộc trộm mộ. Tầng đất nện quanh mộ cổ thường cứng hơn so với chất đất bình thường, không dễ thấm hút nước, bởi vậy có thể căn cứ vào màu sắc, độ cứng và hàm lượng muối của bùn đất đào ra để phán đoán sơ bộ về tình hình bên dưới. Lỗ Nhất Khí nheo nheo đôi mắt, dùng tâm thái tự nhiên để cảm nhận về mọi thứ xung quanh, hy vọng có thể phát hiện ra điều gì đó. Quỷ Nhãn Tam đào xuống chưa đầy hai thước thì dừng lại, nằm rạp xuống đất, đưa tay thọc sâu xuống hố. - A! Gỗ? Là gỗ rất cứng! Lỗ Nhất Khí đứng dậy, tung người nhảy qua rãnh băng, đưa viên đá huỳnh quang Ba Tư xuống lỗ soi, quả nhiên phía dưới là gỗ. - Không phải đâu anh Tam. Anh lấy một miếng lên xem sao! May thay cây xẻng do Nhậm Hoả Cuồng rèn ra cực kỳ cứng rắn, nên sau mấy nhát bổ mạnh đến toé lửa, một miếng gỗ nhỏ đã bật ra. Quỷ Nhãn Tam nhặt lấy đưa cho Lỗ Nhất Khí. Lỗ Nhất Khí hết săm soi lại sờ nắn, rồi lẩm bẩm: - Đúng là gỗ thật, lại còn là gỗ hoá thạch! Anh Tam, có đào rộng thêm được không? Quỷ Nhãn Tam thẳng tay múa xẻng, một loáng sau đã lộ ra một bề mặt gỗ hoá thạch rộng chừng mặt bàn. Bề mặt được ghép bằng những miếng gỗ hoá thạch hình lục lăng diện tích chừng năm thước vuông, tuy không tiếp tục đào bới đám bùn đất xung quanh, song chỉ nhìn vào quy luật sắp xếp của các miếng gỗ, có thể thấy rằng toàn bộ bề mặt ghép nối được kéo dài về phía trung tâm “mai rùa”. - Mai rùa? – Cục tướng ngao đỉnh và mảnh gỗ hình lục lăng dễ dàng gợi lên một liên tưởng trong đầu Lỗ Nhất Khí. - Mái ngói! – Quỷ Nhãn Tam thẳng thừng phủ nhận suy đoán của Lỗ Nhất Khí. Hắn đã được học công phu Phô thạch của Lỗ gia, nên gần như thuộc làu tất cả mọi phương pháp lợp ngói. Huống gì cách ghép các miếng gỗ lục lăng ở đây chính là kỹ pháp chính tông của Lỗ gia. - Mái ngói? – Thuỷ Băng Hoa đang đứng bên cạnh rõ ràng có vẻ kích động. - Đúng vậy! Là mái ngói ghép từ các mảnh gỗ hoá thạch hình lục lăng, chị… – Lỗ Nhất Khí nhìn Thuỷ Băng Hoa, chờ đợi cô ta nói tiếp. - Mái ngói đều lợp phía trên nóc nhà, tại sao mái ngói ở đây lại nằm dưới đất? Lẽ nào là mộ cổ? – Lão mù nói xen vào. - Có lẽ là mái nhà! – Giọng nói của Thuỷ Băng Hoa bỗng phiêu diêu như gió thoảng – Mọi người nhìn địa hình nơi đây mà xem, nếu muốn xây nhà trong thung lũng, nhất thiết phải tương ứng với địa hình, đặc biệt nếu muốn xây dựng công trình kiến trúc có diện tích rộng lớn thì không đủ không gian, chỉ có thể thuận theo thế núi ở hai bên. Mặt khác, muốn ngăn chặn cây đổ đá lăn từ trên núi xuống, cần phải đào rãnh quanh nhà, như vậy vừa bảo vệ được công trình, cũng thuận lợi cho việc thoát nước bẩn. - Toàn bộ mai rùa đều là mái nhà? – Quỷ Nhãn Tam không nén nổi tò mò hỏi. Thuỷ Băng Hoa không để tâm tới Quỷ Nhãn Tam, nói tiếp: - Dựa vào hình thế mà xây dựng, nên công trình trong thung lũng chỉ có thể xây lớn mà không thể xây, bởi lẽ cửa khe chính là cửa thông gió, bên trong lại bị phân cắt bởi những con đường nhỏ trong vách đá chật hẹp khiến gió thổi càng mạnh, nếu xây cao sẽ mau chóng bị sức gió phá huỷ. Không tin mọi người thử nhìn xem, cây cối trong thung lũng chẳng có cây nào cao quá đầu người! - Bởi vậy ngôi nhà này hoặc là cực thấp, hoặc là có một bộ phận được xây chìm dưới đất? – Lỗ Nhất Khí tiếp lời Thuỷ Băng Hoa. Giọng nói của Thuỷ Băng Hoa vẫn khẽ khàng như gió, song ngữ điệu có chút hân hoan: - Cậu thật thông minh, tuy nhiên điều này còn liên quan tới thời gian. Khi công trình này mới được xây dựng, phần nhô lên khỏi mặt đất hẳn không hề thấp. Song lâu dần, bùn đất ở hai bên vách núi liên tục chảy xuống, dần dần phủ kín những bộ phận lộ ra ngoài. - Năm tháng dài lâu, bùn đất chảy xuống về cơ bản sẽ được phân bố đồng đều. Bởi vậy, rãnh sâu bảo vệ quanh ngôi nhà tuy cũng bị bùn đất chảy vào, song dù sao vẫn có khác biệt so với địa hình xung quanh, nên giờ đây vẫn còn lại một vòng rãnh nông. – Lỗ Nhất Khí tiếp lời. Thuỷ Băng Hoa bèn nói: - Phải! Khe rãnh này năm xưa có lẽ sâu hơn rất nhiều. Khi đó, nơi đây tuy cũng là cách cục Bàn long, song là rồng bay trên vực, chứ không phải là cách cục Ngao đỉnh, nhiều nhất cũng chỉ là cách cục Lưu tào**. Sở dĩ ngày nay biến thành cục tướng Long bàn ngao đỉnh, là do kiến trúc nhân tạo đã làm thay đổi địa mạo. Đương nhiên, bên trong toà kiến trúc cũng cần phải có bảo bối thần kỳ trấn giữ thì cục tướng mới có thể biến hoá thành. ** Có nghĩa là máng nước chảy. (Nd) Lỗ Nhất Khí liền bổ sung thêm: - Từ thời Đường Tống trở về sau, Phong thuỷ học đã hình thành một phái độc lập ở phương bắc, kiến giải khác hẳn với phái Loan đầu của Dương Công***phái Giang Tây cực thịnh đương thời. Phái Loan đầu lấy lý luận hình thế làm căn cứ, còn phái này lại chủ trương “hình thế có thể dựa vào, cũng có thể biến đổi”. Tương truyền kiến giải của phái này xuất phát từ những kỹ nghệ cao siêu của một số thợ mộc, bởi vậy có tên là phái Công thế. *** Dương Quân Tùng, đại sư phong thuỷ phái Loan đầu. (Nd) - Tôi hiểu cậu nói vậy là có ý gì, song tôi hoàn toàn không phải là truyền nhân của môn phái nào. Tôi chỉ là một người đàn bà bất hạnh, song tại một nơi tôi không nên đến, tôi đã gặp được một ông lão giúp tôi phán đoán số mệnh nửa đời sau. Ông lão đã dạy tôi một số thứ, nói rằng tôi có thể vận dụng những thứ này để giúp đỡ cho vận mệnh nửa đời sau của mình! – Thuỷ Băng Hoa nói đến đây, giọng điệu đã có phần cứng cỏi. Lỗ Nhất Khí hiểu rằng, giờ đây không phải lúc để tìm hiểu về lai lịch của người phụ nữ này, mà nên tiếp tục chủ đề lúc nãy, như vậy mới có thể mang những thứ mà cậu đã biết và những thứ cô ta biết kết hợp với nhau như vậy sẽ thuận lợi hơn trong việc phân tích ám cấu cất giữ bảo bối. Cậu nói tiếp: - Nếu quả thực phía dưới kia là ám cấu cất giấu bảo bối, để phòng ngừa gió thổi khiến bảo khí thất tán, thì lối vào cần phải quanh co uốn lượn, như vậy mới có thể tàng phong tụ khí. Lối vào của công trình cũng phải được đóng kín che kỹ, đề phòng gió thổi xuyên qua, tạo thành thế gió lùa khí tán! – Nói tới đây, trong tâm Lỗ Nhất Khí đột ngột bùng lên một nỗi hoang mang bất thường, mí mắt bên phải giật liền mấy cái. - Không chỉ có vậy, nếu đây thực sự là nơi ẩn tàng bảo bối, còn cần phải đón được mặt trời mặt trăng lên xuống, hấp thu tinh hoa nhật nguyệt, bởi vậy phần cửa của công trình hẳn có hướng nam lệch đông. Khi mặt trời mặt trăng mới mọc, sẽ chiếu sáng từ phía tây đến giữa thung lũng; khi mặt trời mặt trăng lặn xuống, sẽ chiếu sáng cho phía đông; vào lúc giữa trưa, mặt trời sẽ soi sáng quá nửa thung lũng. Bởi vậy, vị trí luôn có tinh hoa nhật nguyệt soi rọi chính là phía đông bắc, gần như tương ứng với phần tim của quần thể núi hình người đàn bà, cũng nhiều khả năng là nơi cất giấu bảo bối nhất! – Thuỷ Băng Hoa nói xong, tự nhiên đưa mắt liếc nhìn mảnh trăng lưỡi liềm lờ mờ phản chiếu trên mặt băng trong rãnh. - Cũng giống với Kim gia trại, mặt trời chuyển động theo hình núi, từ lúc mọc tới lúc lặn, tất cả mọi ngôi nhà đều được chiếu sáng. Góc nhà đối với vách tường, cách âm cực tốt, không thể nghe thấy động tĩnh từ nhà bên anh. Song ở phía vách tường có góc nhà chĩa vào, không biết sẽ có hiệu quả gì! – Nghe Thuỷ Băng Hoa phân tích, Lỗ Nhất Khí đột nhiên nhớ tới kết cấu nhà gỗ trong Kim gia trại. Không hiểu tại sao, trong lòng cậu mỗi lúc một hoang mang, từ mí mắt đến huyệt Thái dương co giật rùng rùng. Cảm giác mách bảo cậu rằng có một thứ gì đó đang tiến lại gần, song nó trong suốt hệt như không khí, không thể cảm nhận ra hình dạng. Thuỷ Băng Hoa cười khẽ hai tiếng rồi nói: - Cậu cũng có chỗ không hiểu ư? Những căn nhà đó là kiểu “một nhà kín, một nhà rõ”. Căn nhà cậu ở là cách âm, còn căn nhà bên cạnh có thể nghe tường tận mọi âm thanh phát ra từ căn nhà của cậu. Cậu cho rằng những tin tức mà Kim gia trại thu thập đều được moi ra nhờ thức ăn và cơ thể đàn bà ư? Bọn thợ rừng đều là một phường gian trả, muốn có được thông tin quan trọng đều phải nhờ vào nghe lén. Khi cậu vừa tới Kim gia trại, đã lọt ngay vào tầm ngắm của tôi rồi. Ngay giữa ban ngày ban mặt mà nhất cử nhất động của bản thân đều bị người khác theo dõi sát sao, thì giờ đây, bên dưới chân núi tối tăm, bên trong thung lũng hoang vu vắng lặng, chẳng phải lại càng dễ dàng bị người ta ngấm ngầm theo dõi? Nghĩ tới đây, Lỗ Nhất Khí đột nhiên tim đập thình thình, cơn co giật tại mí mắt và huyệt Thái dương như đông cứng lại. Thình lình, cảm giác bị vật lạ áp sát vụt lên thật rõ ràng. - Á! Cái gì kia? – Thuỷ Băng Hoa bỗng kêu lên thất thanh. Vừa nghe tiếng kêu, Quỷ Nhãn Tam lập tức giơ ngang cây xẻng chắn trước cơ thể, tay còn lại chụp mạnh vào bả vai Lỗ Nhất Khí, ấn cậu thụp xuống. Lão mù không nhìn thấy gì, song cùng với tiếng kêu của Thuỷ Băng Hoa, dường như lão đã nghe thấy một âm thanh khác lạ. Cây gậy trên tay lão rùng khẽ một cái đâm chếch xuống rãnh băng dưới chân. Lỗ Nhất Khí bất ngờ bị Quỷ Nhãn Tam ấn mạnh viên đá huỳnh quang Ba Tư bật khỏi tay rơi xuống, lăn tới bên mép rãnh băng. Thuỷ Băng Hoa đã nhìn thấy rõ hơn, mảnh trăng lưỡi liềm đang ẩn trong một vật gì như khối bông màu lục âm trầm, khối bông giống như sương khói, giống như sa mỏng, lại giống như cỏ mềm dật dờ trong nước, rất đỗi mềm mại, phiêu diêu. Đầu gậy đã đâm trúng khối tơ bông mềm mại, không một âm thanh. Khối tơ bông vẫn ở nguyên tại chỗ, không hề nhúc nhích, tiếp tục phất phơ như cũ. Vừa đâm trúng, lão mù lập tức rút ngay gậy về, song cây gậy của lão cũng không thể nhúc nhích lấy một ly. Đây là điều lão không hề ngờ tới, nên không phản ứng kịp, bàn tay đang nắm chặt cây gậy trượt thẳng đi một khúc. Lão mù lập tức vận lực rút cây gậy ra lần nữa, song lực đạo đang giữ chặt đầu gậy đột nhiên tiêu biến sạch trơn. Lão mù đã vận hết lực đạo toàn thân, bất ngờ bị hẫng lập tức ngã bật ngửa. Song phản ứng của lão tặc vương nhanh nhẹn phi thường, hai chân gắng sức thu về, cơ thể như gập làm đôi. Nửa thân trên ấn xuống hai chân, hai chân vận lực một cái, cả người đã bật thẳng trở lại. Song lực ngã về sau vẫn chưa tiêu hết, hai mũi chân trượt trên mặt đất ba, bốn bước mới trụ vững thân hình. Lỗ Nhất Khí nhặt lại viên đá huỳnh quang Ba Tư, quan sát mảnh trăng lưỡi liềm đang nhấp nháy bên trong đám tơ bông dập dờn. Mảnh trăng cũng đã nhìn thấy Lỗ Nhất Khí, ngay lập tức đám tơ bông bềnh bồng trồi lên, từ từ nở bung thành một hình người.
Lời Nguyền Lỗ Ban Quyển 3 - Chương 23: Ma hay người Spoiler: Click vào để đọc Đám tơ bông không phải là cỏ nước, không phải là khói mây, song quả nhiên là một làn sa mỏng. Từ trong dải sa hình người, bỗng thò ra một bàn tay mềm mại vén làn sa hờ hững sang một bên, cũng vén lên mái tóc phất phơ như tơ lụa. Lỗ Nhất Khí đã nhìn thấy hai vầng trăng khuyết kèn trong dải sa mềm, và cảm thấy một luồng khí băng hàn lạnh thấu xương tủy chiếu ra từ trong vầng trăng khuyết. Trong luồng hàn khí, cậu đã nhận ra hơi hướng âm tà ám muội. Là ma khí! Một thứ ma khí nặng nề gấp bội so với Dưỡng Quỷ Tỳ. Luồng ma khí nặng nề đến vậy có thể âm thầm tiếp cận Lỗ Nhất Khí, là vì được bao bọc bên trong làn sa mỏng. Làn sa màu xanh đen, lấp lánh một thứ ánh sáng của băng tuyết. Đây chính là khăn bao hồn được dệt thành từ tơ do loài tằm tuyết ngọc Thánh Sơn nhả ra. Trong “Dị khai vật” có viết: “Tơ của loài tằm tuyết ngọc Thánh Sơn giống như tuyết Đằng Lục*, chặn tà che ám, dùng nó dệt thành khăn bao hồn, có thể thu hồn, chứa phách, che khuất hồn khí”. Hai vầng trăng lưỡi liềm uốn cong, sáng ngời đẹp đẽ. Song nếu hai vầng trăng khuyết diễm lệ trong sáng nhường kia được gắn trên một khuôn mặt trắng xanh, thì chỉ có thể hình dung bằng một từ: khủng khiếp. Khuôn mặt trắng xanh mang theo một cái mỉm cười, trông giống hệt như bức chân dung người chết vừa được vẽ. - Dưỡng quỷ… Lỗ Nhất Khí buột miệng bật ra hai tiếng. - Dưỡng Quỷ Nương! – Từ hình người bồng bềnh phát ra một giọng nói mơ hồ phảng phất, song lạnh lẽo còn hơn cả tiếng cú rúc thình lĩnh trong bãi tha ma, khiến người ta nghe mà sởn tóc gáy, buốt sống lưng. * Tên của vị thần tuyết trong truyền thuyết Trung Quốc. (Nd) Không ai nhúc nhích. Tuy Quỷ Nhãn Tam rất muốn bước lên che chắn cho Lỗ Nhất Khí như thường lệ, song không thể nhấc nổi bàn chân. Lão mù không có ý định hành động, vì qua cú giao thủ vừa nãy, lão đã hiểu ra, bản lĩnh hai bên chênh lệch quá lớn. Trước một đối thủ như vậy, lão vẫn còn đứng vững được đã là quá tốt rồi. Thuỷ Băng Hoa đã hành động theo phản xạ. Một hình người giống hệt như ma quỷ chờn vờn ngay trước mặt, nếu là phụ nữ bình thường, phản ứng đầu tiên hẳn sẽ là hét toáng lên. Song Thuỷ Băng Hoa không phải là phụ nữ bình thường, bởi vậy cô ta không la hét, mà giơ ngay súng lên. Nhưng nòng súng mới nâng, lên chừng hai tấc, cô ta chợt cảm thấy có một sức mạnh dữ dội ập tới. Cánh tay của cô ta vẫn tiếp tục thuận thế nâng cao tới bốn tấc, song lúc này cô ta đã chủ động dừng lại, bởi lẽ khẩu pạc hoọc trong tay đã rơi xuống bên chân. - Các ngươi vẫn chưa tìm thấy… – Khi nói câu này, tuy Lỗ Nhất Khí không hề cử động, song trí não đã kịp xoay chuyển đến mấy vòng. Dưỡng Quỷ Nương có thể lấy mạng bọn họ dễ dàng như trở bàn tay, song lại âm thầm tiếp cận bọn họ, hẳn là muốn nghe lén thông tin. Phải nghe lén thông tin, chứng tỏ cho đến lúc này đối thủ vẫn chưa tìm ra nơi cất giấu bảo bối. Cậu nói tiếp – nên tới dây nghe lén phải không? Bốn mắt nhìn nhau. Lỗ Nhất Khí biết, đối phương đến nghe lén bị bắt quả tang, nên xét về khí thế, mình đã chiếm thượng phong. Do đó, cậu vẫn đứng hiên ngang, không hề có ý thoái lui, duy chỉ có ánh mắt trở nên mờ mịt. Thời gian đối đầu kỳ thực không dài, song Lỗ Nhất Khí và Dưỡng Quỷ Nương đều cảm thấy như thời gian như ngưng đọng. Mồ hôi đã túa ra ướt lạnh sau lưng Lỗ Nhất Khí, còn thân hình mềm mại phiêu diêu của Dưỡng Quỷ Nương mỗi lúc một thêm cứng nhắc. Bỗng nhiên một tiếng chim ưng rít vang xé toạc ngang trời, khiến Quỷ Nhãn Tam và Thuỷ Băng Hoa bất giác rùng mình ớn lạnh, còn khuôn mặt của lão mù cũng giật lên mấy cái. Từ mé bên trong của rãnh băng, từ từ phun ra một vành sương trắng dày đặc. Làn sương âm thầm lan toả; cuộn trào, trông chẳng khác gì một trời mây đang quay cuồng trong gió lốc. Sương mù trắng sà xuống rãnh băng bao quanh bốn phía, mau chóng lấp đầy lòng rãnh, rồi trào lên trên, tràn vào từng ngóc ngách trong khe núi. Những người đứng đó nửa thân dưới đã chìm trong sương mù dày đặc. Dưỡng Quỷ Nương đang trôi nổi trong rãnh băng cũng bị sương che mất quá nửa thân người, chỉ còn phần đầu bồng bềnh trong biển sương cuồn cuộn. Vầng trăng khuyết lại càng cong vút, khuôn mặt trắng xanh có phần biến dạng. Đúng vậy, khoé miệng mỉm cười trên khuôn mặt Dưỡng Quỷ Nương đã mở ra thành một nụ cười thật rộng. Nếu không có làn ma khí âm u và đôi mắt sáng trắng, nụ cười đó hẳn là vô cùng rạng rỡ. - Cậu thực phi thường! – Giọng nói của Dưỡng Quỷ Nương đã ôn hoà êm dịu hơn rất nhiều, ngoài sự khen ngợi còn có chút gì như hài lòng yên ủi. Sương mù bỗng tràn lên một đợt trong rãnh băng, tựa như sóng bạc đầu cuộn trào trên mặt biển, còn chưa kịp lắng xuống thì Dưỡng Quỷ Nương đã biến mất tăm, không thấy đâu nữa. Dưỡng Quỷ Nương đi rồi, Lỗ Nhất Khí vẫn đứng như trời trồng ở đó. Cậu chỉ nhấc bàn tay khỏi lớp sương mù, ra hiệu cho ba người kia tạm thời chưa nên hành động. Cậu hoài nghi Dưỡng Quỷ Nương chỉ giả vờ rút lui, sau đó lại nấp ở đâu đó lén lút theo dõi họ, quan sát mọi động tĩnh của họ, chớp lấy khoảnh khắc họ sơ suất để ra tay. Động tác giơ tay rất đơn giản và tự nhiên của Lỗ Nhất Khí đã khiến cho vô số cao thủ đang ẩn nấp quanh đó hiểu thêm một điều, cậu thanh niên này không chỉ có khí thế uy lẫm phi phàm, mà còn vô cùng thận trọng và trầm tĩnh. Lỗ Nhất Khí đợi đến khi sương mù phủ kín toàn bộ cơ thể họ, mới kéo Quỷ Nhãn Tam nhảy về bờ kia của rãnh băng, nhặt khẩu súng trường và lựu đạn lên, men theo dường mòn chạy ngược trở lại. Lui về đến cửa vào thung lũng, thì sương mù nơi đây đã không còn mù mịt như khi mới tới. Dưới ánh trăng soi, cảnh tượng trở nên hết sức rõ ràng. Lối vào khe núi cũng khác hẳn so với khi nãy, con đường bằng phẳng giờ đây đã trở nên chật hẹp, vì có thêm những bóng đen thù lù rải rác đang đứng bất động, che kín toàn bộ cửa vào. Cảnh tượng này khiến Lỗ Nhất Khí cảm thấy tò mò định bước lại gần để nhìn cho rõ. Lão mù và Quỷ Nhãn Tam ở hai bên lập tức cùng đưa tay giữ chặt cậu lại. - Có mùi thú! Không chỉ một loại! – Lão mù khẳng định. - Là sói, cả gấu nữa! – Quỷ Nhãn Tam nói cụ thể hơn, Lỗ Nhất Khí nhìn vào hình dạng của những bóng đen, cũng lập tức nhận ra. Thời điểm này loài gấu vốn không thể xuất hiện, nhưng ở đây lại lù lù những hai con gấu to tướng, kích thước lớn hơn rất nhiều so với gấu bình thường. Mấy đêm trước khi thú rừng mò tới chỗ họ ngủ, Phó Lợi Khai nói là gấu, mọi người nhất định không tin, giờ đây mới biết có lẽ gã không nói dối. Hai con gấu lớn bị một bầy sói dữ bao vây, song cả sói lẫn gấu đều im lìm bất động như tượng đất, chỉ còn những đôi mắt phát sáng xanh lè chứng tỏ chúng là vật sống. Đó là một cuộc đối đầu, hoặc giả càng giống một cuộc đọ sức hơn, cũng như cuộc đối đầu giữa Lỗ Nhất Khí và Dưỡng Quỷ Nương vừa nãy. - Hình như đây là lũ sói đã giúp chúng ta đối phó với ba tay nỏ hôm trước! – Quỷ Nhãn Tam không thật chắc chắn. Kỳ thực Lỗ Nhất Khí cũng đã suy đoán như vậy, nên lúc này, cậu đang cố gắng dùng cảm giác để tìm ra một cuộc đối đầu khác. Bầy sói và hai con gấu lớn đang trong thế đương đầu, vậy chủ nhân của chúng ở đâu? Và bọn họ đang ở trong trạng thái đối địch ra sao? - Bên Nhậm Hoả Cuồng chưa thấy quay về, không biết có phải đã tìm ra điểm đích hay không? – Thuỷ Băng Hoa đột nhiên lên tiếng. Quả đúng như vậy, trên mặt băng mỏng nơi lối vào chỉ thấy những vết chân hướng vào bên trong của ba người bọn họ. - Hay là đã rơi vào tay đối thủ rồi? – Hai khả năng mà Thuỷ Băng Hoa vừa đưa ra đều có thể xảy ra, song dù là khả năng nào, cũng phải đi vào trong mới biết. Lần này, họ quyết định châm lên hai bó đuốc to. Đã giáp mặt với đối thủ, chứng tỏ nhất cử nhất động của họ đã nằm trong tầm mắt của đối phương, vậy thì còn sợ gì mà không đường đường chính chính xông vào bên trong tìm kiếm? Con đường mòn này quả nhiên khác hẳn con đường mà họ vừa đi, hai bên đường là vách đá thẳng đứng như dao gọt, bề mặt được bao phủ một lớp băng trong suốt tựa lưu ly, cũng là do hơi nước bốc lên đông kết lại. Mới đi được hơn ba mươi bước đã đến một chỗ ngoặt, rồi một ngã ba hiện ra trước mắt họ. Xuất hiện ngã ba vẫn chưa phải là điều bất ngờ, mà bất ngờ là ở ngay giữa ngã ba có một người đang đứng. Là một thiếu nữ áo trắng được bao bọc trong làn ma khí trắng xanh phảng phất. Là Dưỡng Quỷ Tỳ! Vừa nhìn thấy cô, trong lòng Lỗ Nhất Khí bỗng rộn lên một nỗi vui mừng không thể kìm nén, thậm chí chỉ muốn chạy tới ôm chầm lấy cô. Câu nghĩ thầm, đáng lẽ cậu phải biết trước Dưỡng Quỷ Tỳ sẽ ở đây mới đúng. Vừa nãy Dưỡng Quỷ Nương có phần e sự cậu, sau đó lại bỏ đi, rất có thể do Dưỡng Quỷ Tỳ đã kể cho cô ta nghe về cuộc quyết đấu ở Bắc Bình. Lỗ Nhất Khí bước về phía Dưỡng Quỷ Tỳ. Thuỷ Băng Hoa vội kéo cậu lại, nhưng cậu đã hất tay cô ta ra. Dưới ánh đuốc bập bùng, Lỗ Nhất Khí nhận thấy Dưỡng Quỷ Tỳ đã tiều tụy hơn rất nhiều so với lúc ở Bắc Bình. - Đừng đi nữa! – Đây là lần thứ hai cậu nghe Dưỡng Quỷ Tỳ lên tiếng. Lỗ Nhất Khí không đáp, chỉ nhìn Dưỡng Quỷ Tỳ rồi mỉm cười. Trong nụ cười, ánh mắt cậu lấp lánh một niềm kiên định. Không biết Dưỡng Quỷ Tỳ đã nhìn thấy gì từ ánh mắt đó, song cô không nói thêm gì nữa, mà lùi vào trong bóng tối ven đường nhường lối cho Lỗ Nhất Khí, nhưng đôi mắt trong suốt vẫn nhìn hút vào cậu, không muốn rời đi, lại càng không muốn để cậu đi. Phía trước có hai ngả rẽ, không biết ba người kia đã đi theo đường nào? Quỷ Nhãn Tam đã phát hiện ra dấu chân của Nhậm Hoả Cuồng ở đầu một ngả rẽ, bởi trong lúc quyết đấu với khảm diện Công tập vi, đôi giày của ông ta đã bị lửa than đốt cháy nhiều chỗ, nên dấu chân rất dễ nhận. Hơn nữa các vết chân nối nhau tiến về phía trước, không hề có dấu vết quay lại, nên họ quyết định đi theo đường này. Đi được khoảng ba, bốn chục bước, lại gặp một ngã rẽ, họ tiếp tục đi theo vết chân. Khi ngã rẽ thứ ba xuất hiện, tuy Quỷ Nhãn Tam vẫn tìm thấy dấu chân, song Lỗ Nhất Khí và lão mù đều đã phát giác có điều gì bất ổn. Quả nhiên là bất ổn. Nghe theo lời lão mù, Quỷ Nhãn Tam đi sang ngã rẽ còn lại xem xét. Thật không ngờ, bên con đường đó cũng xuất hiện những dấu chân y hệt, cũng hướng vào phía trong, không hề có dấu quay ra. - Thế này là thế nào? – Thuỷ Băng Hoa hơi xây xẩm mặt mày, tim như nảy vọt lên tận họng. - Là vòng ma vẽ! – Quỷ Nhãn Tam đáp. Quỷ Nhãn Tam đã dùng thuật ngữ của nghề trộm mộ, còn Khảm tử gia gọi đó là đường tuần hoàn hoặc đường mê dấu. Có hai cách bố trí thường gặp nhất, thứ nhất là bố trí theo tám cửa tám vòng của Độn giáp, cứ trong tám cửa lại có hai cửa sinh và sáu cửa tử, sau đó lặp đi lặp lại tám tám sáu mươi tư lần, lại thêm các vòng đan xen chồng chéo lên nhau, các cửa có thể hoán đổi vị trí cho nhau. Trong một phạm vi không quá rộng, nếu không hiểu được quy luật bố trí, có đi cả năm cũng không thể thoát ra. Thứ hai là bố trí kiểu xếp chồng Bát quái hư mãn, phương pháp này “nhân đạo” hơn rất nhiều, chỉ cần diện tích của hình Bát quái không lớn, biết đánh ký hiệu dọc đường đi, chừng hai ba ngày là có thể thoát ra. Song nếu diện tích hình Bát quái được khuếch đại, bên trong bố trí đồng thời chính phản Bát quái, lại thêm đảo lộn một số vị trí hư mãn, có muốn thoát ra e rằng cũng phải lần mò cả năm trời. Còn những cách bố trí đặc biệt hiếm thấy khác đều là bí mật bất truyền của các môn phái, bố cục chỉnh thể không phức tạp như hai kiểu trên, chỉ cần tìm ra một hai điểm then chốt là có thể thoát ra. Song trên thực tế, cách bố trí như vậy lại càng khó phá, bởi lẽ không có quy luật, cũng không có vết tích để lần theo. Trừ phi số may được ông trời phù hộ, nếu không chỉ có nước chết rục xương. - Có nhìn ra quy luật nào không? – Lão mù hỏi Quỷ Nhãn Tam. - Không thấy! Hiếm gặp! – Quỷ Nhãn Tam trả lời rất dứt khoát. - Lui ra ngoài! – Lão mù dạn dày kinh nghiệm, nên hiểu rõ chuyện trong giang hồ không được liều lĩnh, vào thời khắc then chốt, phải biết đương đầu, cũng phải biết thoái lui. Song lùi ra chưa được bao xa, đã không tìm thấy đường đâu nữa! Khi đi vào họ chỉ lần theo vết chân, còn bản thân chẳng để lại ký hiệu gì. Lùi lại đến ngã ba đường, trước măt họ vẫn là hai ngả rẽ, đều có dấu chần bước vào, song không hề thấy dấu chân của họ. - Chúng ta không có dấu chân! – Lời Quỷ Nhãn Tam vừa thốt ra, tất cả mọi người đều kinh hãi đến rụng rời. - Gì cơ? Chúng ta không có dấu chân ư? – Lão mù bàng hoàng. - Đúng là không có! Nhiều khả năng đã bị san bằng. Song dấu chân trên mặt băng không giống như trên tuyết làm sao có thể xoá đi nhanh chóng không một tiếng động như vậy được? - Vừa rồi chúng ta đi bên trái, bây giờ cứ đi ra theo đường này là được thôi! – Thuỷ Băng Hoa nói một cách tự tin. - Chưa chắc! – Lỗ Nhất Khí đột nhiên có một cảm giác rất đỗi quen thuộc với cảnh tượng nơi đây. Cảnh tượng này cậu đã gặp ở đâu nhỉ? Đúng rồi! Mắt cá dương. Lớp băng trên vách đá khiến Lỗ Nhất Khí liên tưởng tới mặt gương, và rất tự nhiên, cậu chợt nhớ tới Mắt cá dương. Trong Mắt cá dương, đường không thành đường, đi lối nào cũng đụng phải tường. Vậy trong vòng ma vẽ, phải chăng cũng có chuyện lấy đường này làm đường kia, hoặc lấy đường giả làm đường thật. Mới đi khoảng hai ba chục bước đã gặp ngã rẽ, khoảng cách ngắn như vậy, lại thêm mặt băng phủ kín vách đá, hoàn toàn có thể phản chiếu đường đi của ngã rẽ tiếp theo, nên người ta tự khắc sẽ lần theo đó mà đi đến ngã rẽ tiếp đó, mà bỏ qua những lối đi khác ẩn sau chỗ khuất bóng trong đoạn đường. Lỗ Nhất Khí còn đang suy nghĩ thì lão mù đã ngồi thụp xuống ngã ba, thận trọng lần sờ các dấu chân. - Anh nhìn thấy gì? - Không thấy dấu chân nữa! – Nhãn lực của Quỷ Nhãn Tam quả thực phi thường. - Dấu chân nào không thấy nữa? – Lão mù cảm thấy sự việc có phần quái lạ. Dấu chân bước lùi tới đây đã biến mất! – Hiếm thấy Quỷ Nhãn Tam kiên nhẫn với lão mù như lúc này. Lão mù ngồi thụp xuống, mò mẫm kỹ lưỡng một hồi, đúng là đã không thấy dấu chân đâu nữa. Lão vội nói: - Nhìn kỹ hai bên xem có lối đi ngầm ẩn nào không! Lời nói này rất hữu lý, dấu chân đột ngột biến mất, không chừng gần đấy có lối ngầm thoát thân. Lỗ Nhất Khí, Quỷ Nhãn Tam và cả Thuỷ Băng Hoa đều dán người vào hai bên vách đá quan sát kỹ lưỡng, song kết quả đã khiến họ phải thất vọng, quanh đó không hề có chút vết tích nào của đường ngầm hay cơ quan. Kỳ quái! Thật là kỳ quái! Không có lối ngầm, kẻ đi giật lùi kia chẳng lẽ biết bay? Hay hắn đã giẫm lên vách băng mà đi? Bị giam trong căn phòng băng hỏa sâu dưới lòng đất Bên dưới lòng đất chắc chắn có một hệ thống vô cùng đồ sộ và phức tạp, còn gian ám thất đang cầm chân họ chỉ là một mắt xích nhỏ trong cả hệ thống, một mắt xích có thể dùng làm nút lẫy. Dòng sông ngầm trong tầng nham thạch dưới lòng đất bị địa nhiệt nung nóng đến sôi sục, cứ cách một khoảng thời gian lại trào lên tuôn chảy, tương tự với nguyên lý phun trào gián đoạn của suối nước nóng. Nhưng khác ở chỗ, dòng sông ngầm tuần hoàn khép kín, nước ở bên trong không chảy ra ngoài, chỉ có hơi nước bốc lên, rồi trào ra ngoài qua các khe nứt, lỗ hổng trên vách núi, gặp lạnh liền ngưng tụ thành sương mù. Hơi nước nóng bên trong hệ thống sẽ khiến áp suất tăng cao. Khi áp suất bên trong đạt tới một mức độ nhất định sẽ đẩy bật một cửa van nào đó, mau chóng xả ra. Bản thân địa nhiệt vào lúc lạm dừng cũng sẽ khiến nhiệt độ sụt giảm, lại thêm áp suất tụt xuống nhanh chóng sẽ lập tức lấy đi rất nhiều nhiệt năng. Thực chất, đây chính là quy trình làm lạnh, khiến cho toàn bộ hệ thống chỉ trong một thời gian rất ngắn đã chuyển từ nóng nực ngột ngạt sang lạnh giá cực độ.
Lời Nguyền Lỗ Ban Quyển 3 - Chương 24: Tam phong hồi Spoiler: Click vào để đọc Sương mù mỗi lúc một dày đặc. Rõ ràng không có gió, nhưng trong làn sương vẫn kèm theo tiếng gió rất quái dị, nghe âm u hun hút như tiếng ma quỷ thầm thì. Cơ bắp trên khuôn mặt lão mù lai bắt đầu co giật liên hồi. Tiếng gió quái dị đã quấy nhiễu tư duy, cũng ảnh hưởng tới thính giác của lão. – Ai? Đôi tai nhạy bén của lão mù không nghe được động tĩnh gì, song thị lực siêu phàm của Quỷ Nhãn Tam đã phát hiện ra một cái bóng bờm xờm như một quả cầu đầy lông lá, song hắn không lao về phía dó. Trong tình cánh này, tách khỏi mọi người để tấn công đối phương là hành động rất thiếu sáng suốt. – Lỗ Nhất Khí! – Lỗ Nhất Khí không quên ám hiệu đã giao hẹn trước khi chia tay, lập tức lớn giọng xướng tên mình. – Tùng Đắc Kim! – Đối phương lập tức đáp lời. Đúng là Tùng Đắc Kim. Tên vừa xướng ra, mọi người đã nhận ra gã qua trang phục trên người. Song kỳ lạ là Tùng Đắc Kim không tiến về phía họ, cũng không dừng bước hay ngoảnh dầu lại, mà chỉ giơ tay vẫy vẫy, rồi thoắt một cái đã biến mất vào một ngã rẽ khác. – Là hắn! – Lỗ Nhất Khí bất giác chau mày, một chi tiết trong ký ức bất chợt hiện về khiến trí não cậu bỗng nhói buốt như thể bị kim châm. – Đúng là hắn! Đang làm chuyên ngu ngốc gì không biết? Tôi phải đi gọi hắn lại! – Thuỷ Băng Hoa nói đoạn lập tức nhấc chân định tiến lên. Lão mù vung tay chụp lấy cô ta, cú chụp rất mạnh, khiến cô ta đau đến tê dại. Song cô ta chịu đựng rất giỏi, chỉ bặm môi cắn răng mà không kêu lên tiếng nào. – Ở đó còn có động vật sống, đừng cử động! – Lão mù nói rất nhỏ, song mọi người đều nghe rõ. Lại thêm một cái bóng lông lá hiện ra, song lần này là rạp trên mặt đất mà bò đi. Thứ đó ngoảnh đầu nhìn về phía họ, trong ánh mắt sáng xanh có lẫn vài lằn máu đỏ, tràn ngập vẻ khát máu và chết chóc. Không ai dám lên tiếng, đến thở cũng không dám thở mạnh, cho tới khi con quái vật cũng biến mất vào trong ngả rẽ mà Tùng Đắc Kim vừa lẩn vào. Sương mù càng dày đặc hơn, hơi nước ẩm ướt lởn vởn trên da thịt, song lại mang đến một cảm giác ấm nóng. – Chốn ma quỷ! Mẹ kiếp, giống y lỗ đít! – Quỷ Nhãn Tam bật ra một câu chửi thô thiển, phá tan bầu không khí tĩnh lặng. – Ngươi nói gì? – Thuỷ Băng Hoa chắc hẳn đã nghe thấy, nếu không cô ta đã không hỏi lại. Tuy giọng điệu của cô ta không hề có vẻ trách móc hay giận dữ, song Quỷ Nhãn Tam lại ngại ngần không dám nhắc lại. – Đều đi về phía kia, vậy hướng đi của chúng ta đã sai? – Lỗ Nhất Khí tự lẩm bẩm một mình, song đã có người trả lời giúp cậu: – Có lẽ không sai đâu, mà là chứa đi đến nơi! – Thủy Băng Hoa khẽ liếm vào vết răng hằn trên môi dưới, xoa nhẹ cánh tay vừa bị lão mù túm chặt, rồi nói tiếp: – Lời của Nghê Tam đã khiến tôi nhớ ra môt điều, vị trí mà chúng ta đang đứng chính là chỗ giao nhau của hai ngọn núi Đầu Gối, cũng chính là vị trí hạ bộ của hình người đàn bà, điều này làm tôi nhớ tới một kỹ xảo trong “Ngự nữ bí quyết” có tên là “tam phong tam hồi”. Tức là tiến năm phần, rút về ba phần; tiến tiếp tám phần rút về năm phần; cuối cùng tiến mười phần, rút về tám phần. Lặp đi lặp lại ba bước như vậy cho đến cao trào. Mấy câu đầu, Lỗ Nhất Khí nghe lơ mơ chẳng hiểu gì, cho tới tận câu cuối cùng, cậu mới hiểu ra. Quả không hổ danh là bà chủ cầm đầu đám đàn bà hành nghề buôn hương bán phấn, am tường chuyện trai gái cũng là điều đương nhiên. Quỷ Nhãn Tam khẽ cười một tiếng. Nghe thấy tiếng cười, Thuỷ Băng Hoa phản ứng vô cùng dữ dội: – Cười cái gì mà cười! Ngươi hiểu thì nói đi. Các người nghĩ rằng Kim gia trại dễ làm ăn lắm à? Đám đàn bà ở đấy nhan sắc tầm thường, không thông thạo mấy chuyện này, làm sao giữ chân được đám đàn ông thối tha các người? Lỗ Nhất Khí gượng cười nhăn nhó. Chỉ một câu nói, mấy người bọn họ đã bị quy tập vào trong hàng ngũ “thối tha”. Thuỷ Băng Hoa ngừng lại, nhổ một bãi nước bọt tỏ rõ sự bất mãn, rồi mới nói tiếp: – Đường đi ở đây tôi cảm thấy cũng giống như vậy, không phải cứ vào thẳng ra thẳng, mà là có tiến có lùi, lặp đi lặp lại cho đến khi chấm dứt. Hiện giờ, có lẽ chúng ta đang đứng trên khúc đường lui lại, hơn nữa đã lùi đến hết. Nên lúc này cần tìm bước chân đi lên. Quy luật bước đi mà Thuỷ Băng Hoa vừa nói, Lỗ Nhất Khí vẫn chưa thể hiểu ngay. Song một gã giang hồ không từ tửu sắc như Quỷ Nhãn Tam đã có phản ứng ngay lập tức. Hắn nhanh chóng tìm ra dấu chân ở rìa bên kia của con đường, đó là những dấu chân nối liền bước về phía trước. Có thể nhận ra, điểm xuất phát của hàng dấu chân này chính là ở đây, chứ không phải từ bên ngoài tới. Lần theo hàng dấu chân, bọn họ đã đi vào một lối rẽ, chính là lối rẽ mà Tùng Đắc Kim vừa lẩn vào. Tiếp tục đi về phía trước lại gặp một ngã ba nữa. Sau khi vượt qua thêm hai ngã ba, lại không thấy dấu chân đâu. Y theo lời của Thuỷ Băng Hoa, họ đã tìm ra một hàng dấu chân giật lùi tại mé bên kia của con đường. Phương pháp của cô ta quả thực không sai, đây lại là một chỗ lùi lại nữa. Lỗ Nhất Khí đi giật lùi dẫn ba người tiếp tục đi ngược theo dấu chân. Khi đến ngã ba mà họ vừa đi qua, họ lại lùi vào một ngả rẽ mới. Sau khj lùi vào bên trong lối rẽ, Lỗ Nhất Khí cảm thấy hơi lo lắng, bèn nói: – Liệu có phải đối thủ cố tình tạo ra vết chân để dụ chúng ta không? Nếu thực sự là mồi nhử của đối thủ, Thuỷ Băng Hoa chắc chắn sẽ có liên quan, vì lối đi hoàn toàn toàn khớp với nguyên tắc “tam phong tam hồi” mà cô ta vừa nói. Một khảm diện lại được thiết kế theo kỹ xảo giường chiếu của nam nữ, chuyện này quả là kỳ quặc. Một cái bóng màu xám đột ngột vụt qua phía trước khiến mọi người giật thót mình, cây Vũ Kim Cương trong tay Quỷ Nhãn Tam bật ra đánh “keng” một tiếng. – Là thú! Nghê Tam, có nhận ra giống thú gì không? – Lão mù đã nghe thấy tiếng bước chân rất khẽ vừa lướt qua, bốn chân thoăn thoắt chạm nhẹ trên mặt đất, chỉ có thể là thú. Quỷ Nhãn Tam cũng chưa kịp nhìn rõ nó là giống gì, Cái bóng xám xuất hiện và biến mất quá nhanh và bất ngờ, lại thêm sương mù đã dày đặc hơn rất nhiều so với lức trước. Hắn chỉ lờ mờ cảm thấy có vẻ giống như con sói mắt xanh lè vừa nãy bám theo sau lưng Tùng Đắc Kim. Họ tiến về phía trước một cách vô cùng thận trọng. Sương dày đặc đến nỗi không thể nhìn xa quá mười bước. Theo hướng lan toả của khói sương, Lỗ Nhất Khí bắt đầu cảm thấy bên trong vòng ma vẽ quái đản có rất nhiều thứ đang âm thầm tiến sát lại gần. – Ai? Lần này Quỷ Nhãn Tam đã phát hiện ra sự bất thường trước cả lão mù. Tiếng quát vừa bật ra, hắn đã giương ngay Vũ Kim Cương chắn trước mặt Lỗ Nhất Khí. Mười bước, đối với cao thủ võ thuật chỉ là một cự ly cực ngắn, còn đối với kẻ ngoại đạo như Lỗ Nhất Khí và Thuỷ Băng Hoa, lại là một khoảng cách vô cùng nguy hiểm. Cách đó hơn mười bước, thấp thoáng có một bóng đen lờ mờ đứng sừng sững. Cái bóng không nói gì, cũng không cử động, đầu nghiêng sang một bên, dường như đang kinh sợ, cũng giống như đang quan sát. Trong mắt Lỗ Nhất Khí, bóng người trông nhoè nhoẹt hơn rất nhiều so với trong mắt Quỷ Nhãn Tam, cậu chỉ nhìn thấy sương mù ở phía đó có vẻ dày hơn những chỗ khác một chút. Cậu giương cao súng trường, nhắm vào đúng khoảng sương dày đặc, sau đó mới bình tĩnh xướng tên: – Lỗ Nhất Khí! – Cậu nói không lớn, song vừa dứt lời, cơ thể của đối phương bỗng giật nảy lên một cái – Nhậm Hoả Cuồng! – Từ trong đám sương mù vang lên giọng nói của ông thợ rèn. Bóng người nhanh chóng tiến lại gần, quả nhiên là Nhậm Hoả Cuồng. – Mình ông à? Bọn họ đâu? – Quỷ Nhãn Tam ngạc nhiên khi thấy ông ta chỉ có một mình. Nhậm Hoả Cuồng đi thẳng đến trước mặt Lỗ Nhất Khí, không nói câu nào, giật phăng bó đuốc, vung tay quăng thật xa về phía sau lưng. Sau đó chụp lấy cổ tay cậu, kéo cậu bước phăm phăm về phía ngã ba mà họ vừa đi qua. Bước được bốn năm bước mới kịp mở miệng mà nói: – Mau lên, đi theo tôi! Hành vi đột ngột của Nhậm Hoả Cuồng khiến cả đám đều ngạc nhiên ngơ ngác, song cũng quay người sải bước theo ông ta. Chỉ có một người vẫn đứng ngẩn ra tại chỗ bất động. Vào lúc bó đuốc bay vụt qua không trung, ánh mắt của người này đã phát giác ra một phương vị. – Đợi đã! – Thuỷ Băng Hoa kêu lên, giọng đầy hưng phấn. Cả đám đã đi được một đoạn khá xa, lúc này mới phát hiện ra Thuỷ Băng Hoa chưa hề nhúc nhích. Cô ta giơ tay lên chỉ về một chỗ phía trước. Bó đuốc vừa rơi xuống đất vẫn chưa tắt, ánh lửa bập bùng hắt cái bóng của cô ta in trên vách đá, thành một hình thù to lớn quái dị, lay động liên hồi. – Đằng kia! Mọi người nhìn kìa! Bọn họ không nhìn thấy vị trí cô ta đang chỉ, càng không biết ở đó có thứ kỳ quái gì khiến cô ta hưng phấn tới vậy, vì lúc đó ánh lửa đã sắp tàn, bó đuốc chỉ còn hai đốm lửa nhỏ còn ngoan cố cháy leo lét. Lỗ Nhất Khí không nói gì, song đã quả quyết quay người bước lại. Bởi lẽ cậu cảm thấy nơi mà Thuỷ Băng Hoa đang chỉ chính là nơi mà cậu buộc phải đến trong sự an bài của vận mệnh. Quỷ Nhãn Tam cũng không nói gì. Khi lửa đuốc lụi dần, con mắt cú đêm của hắn lại tinh tường hơn rất nhiều. Và ở một chỗ không xa phía trước, hắn đã nhìn thấy điểm giao hội của hai vách đá. Nơi đó có lẽ là điểm tận cùng của con đường, bên trên không có lớp băng bao phủ, mà mọc chi chít cây cỏ tạp nham, sương mù trắng xoá đang phả ra nghi ngút từ phía đó. – Chỗ đó không có đường đâu! Ba người bọn tôi lòng vòng mãi ở đó mà vẫn không ra được, đành phải chia nhau đi tìm, kết quả là tôi đã sa vào ngõ cụt này. Hai người kia không biết bây giờ ra sao, hy vọng là đã thoát được! – Câu nói cuối cùng của Nhậm Hoả Cuồng tràn đầy lo lắng. Thuỷ Băng Hoa vẫn nhìn chằm chằm vào vách đá, nói: – Ở đây có lẽ dễ đi hơn chăng? Nhìn xem chỗ đó giống cái gì? Trong giọng nói của cô ta, Lỗ Nhất Khí nghe thấy có chút gì như ngượng ngập. – Không biết! – Quỷ Nhãn Tam trả lời rất dứt khoát. – Có giống cái quái gì thi cũng không phải là đường đi! – Nhậm Hoả Cuồng có phần bực bội, vì Thuỷ Băng Hoa có vẻ đang muốn chứng minh ông ta đã sai, cũng là cho thấy ông ta không đáng tin cậy. Thuỷ Băng Hoa không để ý tới thái độ của Nhậm Hoả Cuồng, thản nhiên nói tiếp: – Các người mang tiếng là đã biết mùi đời, rõ ràng đến thế mà còn nhìn không ra! Nếu lúc nãy tôi không nhìn nhầm thì cái góc cuối ngõ cụt phía trước giống như cái âm hộ của đàn bà. Cả mấy người đều đứng đực cả ra. Quỷ Nhãn Tam đưa tay dụi dụi mắt, rồi bước lên hai bước cẩn thận quan sát vị trí đó. – Theo truyền thuyết, mấy ngọn núi này là do người phụ nữ sinh ra rồng hoá thành. Nếu quả thực có bảo bối cất giấu ở vùng đất mẹ này, cũng chính là giấu ở trong cơ thể của người mẹ. Vậy thì đi qua khe giữa hai đầu gối dựng lên để vào bên trong cơ thể người mẹ, lối vào sẽ là chỗ nào? Mở lối vào một ám cấu vốn chẳng có gì khó khăn đối với con cháu Nghê gia vốn có bản lĩnh dời non phá núi, huống hồ lối vào ở đây chỉ bị che chắn qua loa sau đám cây cối tạp nham. Lối vào không lớn, chỉ đủ cho một người chui qua. Từ trong lối đi, sương mù liên tục phả ra dày đặc. Lúc nãy còn có cây cối che phủ, sương mù luồn lách qua khe hở của đám cỏ cây mà lọt ra ngoài thành từng dải phất phơ. Sau khi Quỷ Nhãn Tam vung xẻng phạt bay hết cây bụi, sương mù tuôn ra cuồn cuộn như tháo cống. Lão mù mò mẫm tới mé bên của lối vào, thọc cây gậy vào sâu bên trong một lát, sau đó rút ra, đưa ngón tay vuốt dọc trên gậy. Trên đầu ngón tay lão đọng lại hai giọt nước. Lão nhỏ giọt nước lên đầu lưỡi, chép chép mấy cái rồi nhổ liền ra, nói: – Hơi nước, có mùi lưu huỳnh, là nước trong tầng khoáng thạch, không độc, không hại. Quý Nhfln Tam tuy không ưa gì lão mù, song rất khâm phục bản lĩnh của lão. Lão mù đã nói vậy, hắn liền chui ngay vào bên trong không chút đo dự. Lối vào rất hẹp, Vũ Kim Cương không thể sử dụng, nên hắn đưa cây xẻng lưỡi cày về phía trước, khua đập lên xuống một hồi, không thấy có dấu hiệu gì bất thường, mới tiến thêm hai bước vào trong. Hắn tiếp tục lặp di lặp lại trình tự này để tiến lên, di chuyển tuy chậm, song rất an toàn. Địa thế của con đường dốc dần xuống dưới. Đừng nói là cao thủ trộm mộ như Quỷ Nhãn Tam, mà đến cả Lỗ Nhất Khí củng đã nhận ra họ đang đi xuống. Khi lối đi đã thu hẹp đến độ một người cũng sắp không lách được qua, lưỡi xẻng đang khua khoắng phía trước của Quỷ Nhãn Tam bỗng đập vào khoảng không. Lối đi phía trước đã đột ngột mở rộng. Ở đó có thứ gì? Không ai biết được. Quỷ Nhãn Tam cúi người hết cỡ khua xẻng xuống dưới, hắn muốn thăm dò nền đất. Nếu thấy được nền đất, thì phía trước họ chỉ là một đoạn đường nở rộng. Nhưng nếu không thấy nền đất thì rất khó nói, chưa biết chừng đây chính là một giếng đá ngầm trong núi, hoặc là một vực sâu khổng lồ. Lão mù vốn lão luyện giang hồ, Quỷ Nhãn Tam vừa dừng bước, lão đã cảm thấy phía trước có biến. Cũng như nghề trộm cướp của lão trước đây, hành động của khảm tử gia tuyệt đối không cho phép liều lĩnh, mà cần phải kiên nhẫn. Để đạt được mục đích, phải biết rút lui kịp thời, dù có phải lặp đi lặp lại cùng một hành động nhiều lần cũng không được nản chí. – Lui ra ngoài! Lui ra rồi tính tiếp! Lão mù cất giọng khàn đục hét thật lớn với Quỷ Nhãn Tam. Quỷ Nhãn Tam còn chưa kịp nghe xem lão mù nói gì, thì từ phía trước vọng lại hàng tràng những tiếng oang oang vang dội, át mất hoàn toàn mấy tiếng sau cùng. Những tiếng âm vang vẫn tiếp tục ầm ù không dứt, càng lúc càng vang, đến cả vách núi cũng chấn động theo, bùn đất rơi xuống lả tả. Mọi người đều cảm thấy bất ổn, tiếng hét của lão mù không thể vang vọng liên tục như vậy được. Lão mù cũng thấy bất thường, không hiểu tại sao tiếng kêu của lão lại trở nên ầm ào vô nghĩa tựa như tiếng thú gầm hỗn loạn. Chính xác là có tiếng thú gầm! Có tiếng rống hung dữ, lại có cả tiếng hú não nuột. Chúng đều vọng lại từ phía cửa vào, ồn ào hỗn loạn và quái đản tựa như đang ở trong một cuộc săn rừng quy mô lớn. – Không ra được nữa! Không ra được nữa! – Nhậm Hoả Cuồng kêu lớn. Quả thực bọn họ đã không còn đường thoái lui, lối vào con đường nhỏ mà họ vừa đi qua giờ đấy đã lúc nhúc những thú lớn thú bé. Lũ thú hoang đang đua nhau gầm rống, tiếng gầm vang động rung chuyển cả vách núi, khiến những người đang chen chúc trong đường hầm nhỏ hẹp màng nhĩ đau buốt muốn thủng, tim đập thình thình như trống. – Gì thế này? Không phải là bầy sói đã giúp chúng ta ư? – Lỗ Nhất Khí hỏi lớn. – Không phải! – Nhậm Hoả Cuồng chỉ đáp một tiếng mà không hề giải thích gì thêm. – Vậy thì dấu chân của chúng ta khi tiến vào rất có thể đã bị đám muông thú kia liếm mất! – Lão mù đã từng trải qua sự việc tương tự. Tình hình trước mắt cho thấy bọn họ chỉ còn một cách duy nhất, đó là mạo hiểm xông lên phía trước. Người hiểu rõ nhất điều này đương nhiên là Quỷ Nhãn Tam, hắn biết mình phải hành động lập tức, nếu còn chần chừ, ác thú theo dấu đuổi tới, chỉ còn nước bó tay chờ chúng xơi thịt. Tình thế đã cấp bách tới nước này, Quỷ Nhãn Tam thậm chí không còn cả thời gian để hạ quyết tâm, lập tức hóp bụng thu mình, lách người qua khe đá hẹp, bật tung người lao vào bóng tối thăm thẳm trong màn sương dày đặc, tựa như muốn hoà mình vào trong những tràng tiếng vang liên tu bất tận. Quỷ Nhãn Tam đã ngã một cú trời giáng, bộ dạng thảm hại vô cùng. Đó là một cú ngã hết sức bất ngờ, vì phía sau khe hẹp, nền đất chỉ hạ thấp xuống chừng nửa thân người, trong khi Quỷ Nhãn Tam đã chuẩn bị tinh thần để rơi xuống một khoảng cách rât sâu. Mũi chân của hắn nện xuống đất, toàn bộ cơ thể giáng thẳng cánh xuống một tảng đá phẳng lì. – Vào! Mau vào đi! – Quỷ Nhãn Tam ngã bất ngờ mà vùng dậy cũng chớp nhoáng, tách một cái đã bật người đứng thẳng lên, thò đầu qua khe đá gọi lớn. Lão mù không hiểu vì sao, khi bước vào cũng suýt nữa thì ngã bổ chửng như Quỷ Nhãn Tam, may mà đươc Quỷ Nhãn Tam đỡ lấy. Nhậm Hoả Cuồng đi vào sau cùng, do cơ thể to cao vạm vỡ, phải len lách vùng vẫy một hồi mới chen qua được, quần áo và cả mảng da trước ngực đều bị cọ xát đến trầy sứt. Thấy mọi người đã vào cả, Quỷ Nhãn Tam liền móc từ trong người ra một lá bùa vẽ trên giấy vàng, bắt đầu lầm rầm tụng niệm: – Dữ tới dữ đi, ác có ác chế, mượn lực bốn phương, nặn hình tám hướng, nạp khí tại đây, pháp lực vô hạn, ma núi tại vị, rụt cổ cúp đuôi. Thái Thượng Lão Quân, gấp rút như luật lệnh! Niệm xong, rũ lá bùa một cái, lửa lập tức bùng lên. Hắn liền cầm lá bùa cháy bừng bừng trên tay, vẽ một tự quyết “kinh” vào khoảng không phía trước khe đá. Tự quyết viết xong, hắn thu thế bằng cách dùng hai ngón tay búng non nửa lá bùa còn lại chếch lên không, ngụ ý chỉ xin một nửa sức mạnh của trời, không làm phiền tới thần tiên ở xa xôi. Khi đốm lửa vọt lên không trung, mọi người theo phản xạ đưa mắt nhìn quanh, muốn quan sát kỹ hơn tình hình quanh họ. Song ngoài bóng tối, họ chỉ nhìn thấy có sương mù dày đặc, không thể phát hiện ra bất cứ thứ gì. Nhưng Thuỷ Băng Hoa vẫn có thói quen nhìn theo đốm lửa cho đến khi nó rơi xuống đất. Đột nhiên, cô ta túm chặt lấy tay Lỗ Nhất Khí, bấu mạnh tới mức cậu cảm thấy móng tay cô ta sắp xuyên thủng cả da thịt. Lỗ Nhất Khí không biết đã xảy ra chuyện gì, vội quay đầu lại, và nhìn thấy bàn tay còn lại của Thuỷ Băng Hoa đang chỉ chếch xuống dưới. Lỗ Nhất Khí vội nhìn theo hướng chỉ. Chỗ đó, lá bùa đã cháy hết, chỉ còn chút tàn lửa đang loé lên đốm sáng yếu ớt cuối cùng. Thuỷ Băng Hoa đang chỉ tay vào một đôi chân xỏ trong ủng da thú. Đôi ủng quả là tuyệt tác, da phẳng phiu, lông dày dặn, dế mềm mại, lại được khâu bằng sợi da, vô cùng bền chắc. Đôi ủng này từ khâu săn thú, lột da, thuộc da, chế tác hẳn đều cần đến kỹ nghệ cực cao siêu, người bình thường tuyệt đối không thể sở hữu được. Tất cả bọn họ không ai có đôi ủng này, vậy thì nó là của ai? Lẽ nào đã có người đứng sẵn ở đây? Hay là trong một lúc không ngờ nào đó đã có kẻ lén lút trà trộn vào bọn họ, mà cảm giác của Lỗ Nhất Khí, đôi tai của lão mù và con mắt của Quỷ Nhãn Tam đều không nhận thấy. Ngọn lửa đã tắt lịm hoàn toàn. Lỗ Nhất Khí không nói gì, Thuỷ Băng Hoa càng không dám lên tiếng. Còn Quỷ Nhãn Tam vẫn đứng đó lảm nhảm không ngừng, nghi lễ của hắn vẫn chưa đến hồi kết thúc. Tên này bình thường kiệm lời như vàng, song hễ niệm chú thì một chữ cũng không chịu bỏ, chẳng quản rườm rà. Không biết có phải bùa chú của Quỷ Nhãn phát huy tác dụng hay không mà tiếng thú gầm gừ ở bên ngoài đã thưa dần, tiếng vọng cũng dần dần im ắng – Hắn đang làm gì thế? – Lão mù hình như đắn đo đến hai lần mới hạ giọng thì thào hỏi Nhậm Hoả Cuồng. Lão biết ở đây không được nói lớn, vì tiếng vọng rất vang, nói to một chút là không thể nghe thấy gì. – Hình như đang yểm tự quyết “kinh” của phái Mao Sơn! – Nhậm Hoả Cuồng đáp. – Ở đây có ma à? Nên hắn mới giở chiêu doạ ma đuổi quỷ! – Giọng lão mù có vẻ nhẹ nhõm hơn nhiều. – Không phải! Hình như hắn đang niệm huyền ngữ “doạ linh sống” để hù doạ vật sống! – Nhậm Hoả Cuồng nói. – Ồ, ta hiểu rồi! Thằng nhãi Nghê Tam muốn hù doạ bầy thú hoang bên ngoài, khiến chúng tạm thời không thể tiến vào… tiến vào… tiến vào… – Giọng lão mù càng lúc càng lớn hơn, nên những tiếng sau cùng lại kéo theo một chuỗi tiếng vọng.
Lời Nguyền Lỗ Ban Quyển 3 - Chương 25: Vách nén khí Spoiler: Click vào để đọc Cuối cùng thì Quỷ Nhãn Tam cũng đã xong việc, lúc này hắn mới lia ánh mắt cú vọ quan sát kỹ lưỡng xung quanh. Song hắn chẳng nhìn thấy gì, bởi lẽ sương mù đã dày đặc trong bóng tối. Song từ tiếng ầm vang của lời nói có thể biết rằng nơi đây rất rộng, rất cao. – Tôi đi trước thăm dò! Quỷ Nhãn Tam nói xong, liền cất bước đi lên phía trước một đoạn chừng chiều sâu của hai căn nhà, song mới cách một đoạn ngắn ngủi như vậy, sương mù đã dày đặc hơn rất nhiều, thậm chí giơ tay không nhìn thấy ngón. Quỷ Nhãn Tam đành phải quay trở lại. Lão mù nghe thấy tiếng bước chân của Quỷ Nhãn Tam liền hỏi: – Sao rồi, không thể đi tiếp được phải không? Hãy đợi chút xem sao, chưa biết chừng chốc nữa tình hình sẽ thay đổi. – Ừm! – Lần này Quỷ Nhãn Tam không đôi co với lão mù. Song hắn đột ngột nhận ra nãy giờ không hề thấy Lỗ Nhất Khí lên tiếng, bèn vội vã hỏi gấp: – Cậu cả, vẫn ổn chứ? – Ừ! – Lỗ Nhất Khí cũng chỉ ậm ừ một tiếng. – Làm gì đây? – Quỷ Nhãn Tam hỏi. Với hắn, chỉ có Lỗ Nhất Khí mới có thể đưa ra quyết định – Đợi! – Lỗ Nhất Khí cũng trả lời gọn lỏn hệt như Quỷ Nhãn Tam. Kỳ thực lúc này Lỗ Nhất Khí đang ở trong trạng thái căng thẳng cực độ, vì đôi chân rất bất thường vừa nãy. Người có đôi chân này không phải là thần tiên, cũng không phải là âm hồn, mà là một con người bằng xương bằng thịt, một người có quá nhiều điểm không thể đoán lường: Nhậm Hoả Cuồng! Đúng vậy! Ông thợ rèn đang đi dưới chân một đôi ủng da rất tốt, rất đẹp, chứ không phải đôi giày bông đã cháy nham nhở như họ vẫn nghĩ. Đôi ủng da kia từ đâu mà có? Dấu chân tẩu thoát một mình vứt bỏ đồng bạn trong vòng ma vẽ rốt cuộc là của ai? Tại sao ông ta lại phải vội vã lôi mọi người bỏ chạy như thế? Sương mù vẫn đặc quánh không tan, còn chưa đợi được thời cơ tốt hơn để thăm dò phía trước, thì âm thanh chết chóc đã ập lại gần. Trong con đường nhỏ ồn ào vọng lại những tiếng phì lao động đường phố và gầm rống náo loạn của bầy dã thú. Bầy ác thú khát máu đã kéo tới. Nhìn vào tốc độ di chuyển của chúng, có thể thấy rằng bùa chú của Quỷ Nhãn Tam không có tác dụng gì. – Mẹ kiếp! Đáng lẽ phải chặn được ba canh giờ! Quái lạ! Nơi này tà quái! – Quỷ Nhãn Tam vừa giận dữ vừa cuống quýt. – Mau đi thôi, sớm muộn gì cũng phải xông lên, cứ tuỳ số mệnh an bài! Tất cả đi theo tôi, cây gậy này ít nhiều cũng có thể thăm dò đường lối. Người nắm lấy lão mù đầu tiên là Nhậm Hoả Cuồng, phía sau lần lượt là Lỗ Nhất Khí và Thuỷ Băng Hoa. Quỷ Nhãn Tam vẫn chưa vội đi ngay, mà quay người lại thò đầu qua khe đá hẹp, phồng mang trợn mắt thổi một hơi dài, khiến đám sương mù trước mặt bay bạt đi để nhìn được rõ hơn. Hắn vừa thổi, vừa quan sát kỹ lưỡng hai bên vách đá của lối vào. Trên một bên vách đá, Quỷ Nhãn Tam đã nhìn thấy một vết máu tươi, hắn đoán là máu của Nhậm Hoả Cuồng lưu lại sau khi gắng sức lách mình qua khe đá hẹp. Song hắn vô cùng kinh ngạc khi phát hiện ra vết máu có hình dạng của ấn phá tường. Ân phá tường được vẽ bằng máu tươi có thể hoá giải bùa chú, dẫn đường cho muông thú ma quỷ. Tuy đã biết rõ nguyên nhân, song muôn đổi hình yểm lại đã không còn kịp nữa. Bầy dã thú đang lao đến chính là chó sói, hơi thở tanh tưởi của chúng đã sắp xộc đến tận mũi Quỷ Nhãn Tam. Nhưng vào lúc hắn quay người định đi, hắn thấp thoáng liếc thấy có một vật gì giống như trụ xoay ở bên một vách đá, song đã không còn thời gian để quan sát kỹ. Lão mù kéo theo cả đoàn người rồng rắn di chuyển rất nhanh, bởi lẽ cây gậy thép của lão đã dò thấy mặt đất bằng phẳng, hai bên phải trái đều không vấp phải thứ gì, xem ra nơi này rất rộng rãi. Quỷ Nhãn Tam tuy rớt lại phía sau, con mắt cú đêm cũng đã trở nên vô dụng, song dù sao hắn cũng là người luyện võ, chỉ cần nghe tiếng bước chân phía trước, sau vài bước nhảy dài đã đuổi kịp đoàn người, chụp lấy cánh tay của Thuỷ Băng Hoa đang đi sau cùng. Thuỷ Băng Hoa giật bắn mình bật kêu lên một tiếng. Vốn dĩ từ lúc nhìn thấy đôi giày bất thường kia, trong lòng cô ta lúc nào cũng thấy rờn rợn. Cây gậy của lão mù đã chạm phải một thứ, đó là một bức tường cao lớn. Bức tường không phải ở hai bên mà sừng sững ngay trước mặt. “Hết đường rồi!” – Ý nghĩ này lập tức loé lên trong đầu lão. Bức tường chặn ngang phía trước không biết cao bao nhiêu, rộng bao nhiêu, lại không phải được xây bằng gạch đá, khi điểm đầu gậy vào không có cảm giác cứng rắn như gạch đá bình thường. – Đi thôi! – Sao thế? – Hết đường rồi à? Mọi người đều gấp rút hỏi lão mù. Giờ đây bọn họ sống chết đều chung một con thuyền, mà lão mù chính là người cầm lái. Người cầm lái mất phương hướng, thì sinh mệnh của họ khác gì con thuyền mắc cạn. Lão mù không trả lời, lão đang tập trung toàn bộ sức chú ý vào bức tường phía trước. Bức tường không rõ làm bằng chất liệu gì. Hai bàn tay lão run run đưa lên phía trước, lần mò về phía mặt tường. Song đầu ngón tay vừa chạm tới nơi, bức tường đột nhiên co rúm lại như một cơ thể sợ nhột. Mồ hôi lập tức túa ra khắp người khiến lão mù toàn thân lạnh toát. Lão cố gắng trấn tĩnh, xác nhận chắc chắn tình hình vừa nãy không phải là ảo giác, sau đó tiếp tục hết sức thận trọng đưa tay về phía trước. Không thấy bức tường đâu nữa! Cánh tay tiếp tục nhích lên phía trước, vẫn không thấy bức tường đâu! Thế là lão mù quyết định dấn lên một bước. Lần này ngón tay lão đã chạm vào bức tường, song bức tường vụt một cái đã tránh đi, tốc độ hình như còn nhanh hơn cả lần trước. – Tường chuyển động! – Sương chuyển động! Lão mù vừa hô khẽ, lập tức bị tiếng kêu kinh hãi của Quỷ Nhãn Tam át hẳn đi. Lời Quỷ Nhãn Tam còn chưa kịp dứt, cũng lập tức chìm nghỉm trong tiếng gió gầm rú dữ dội và tiếng cọ rít kèn kẹt quái dị. Cùng lúc đó, mồi lửa trong tay Nhậm Hoả Cuồng loé sáng. Quả không hổ danh là thiết thủ kỳ công, khả năng kiểm soát lửa cháy cực kỳ vững vàng. Chỉ một đốm lửa mong manh từ mồi lửa trên tay, song những luồng gió ma quái dữ dội lại không thể dập tắt nổi. Sương mù dày đặc phía sau đang lớp lớp cuộn trào, ùn ùn kéo về phía họ, rồi băng qua họ, tụ về cùng một hướng. Tiếp đó là một luồng gió cực mạnh ào ào thổi tới, liên tục không ngừng nghỉ, mỗi lúc một dữ dội, cuốn áo xống của mọi người bay lên phần phật, quất vào da thịt đau rát. Trong tiếng gió rít còn lác đác vài tiếng sói tru. Sương mù bị hút tới trước bức tường. Cùng với sự dịch chuyển của bức tường, thế gió càng thêm hung hãn, tiếng cọ rít càng chói tai và rùng rợn hơn, màn sương càng đặc quánh lại như hồ. Màn sương mù chạy đi mỗi lúc một xa, đã ra khỏi tầm chiếu sáng của ngọn lửa trong tay họ. Đột ngột, tiếng gió thổi, tiếng cọ rít đều câm bặt, chỉ còn tiếng tru âm trầm của bầy sói phía sau, khiến không gian đột nhiên tĩnh lặng tới rùng rợn. Một làn sương nhạt phất phơ bay ngược trở lại từ chỗ màn sương dày đặc vừa rút đi, lững lờ lướt qua phạm vi chiếu sáng, tựa như một dải sa mong manh đang phiêu diêu trôi theo làn nước. Lớp sương đặc quánh khi nãy đã bắt đầu tản ra. “Cạch” Một tiếng động lớn nghe rất quái dị vọng lại từ phía trước, khác nào tiếng gỗ đập bàn của Diêm La Vương, khiến tất cả sinh linh đều im hơi nín thở, cả bầy sói cũng không ngoại lệ. “Cạch! Cạch! Rầm! Rầm!” Những tiếng vang động hỗn tạp tiếp tục dồn dập vọng đến, còn kèm theo sự rung lắc dữ dội. – Chạy mau! Có vật gì đang tiến lại! Chạy mau! Có… Lão mù đã nghe thấy tiếng chuyển động của một vật nào đó đang ép về phía họ, tuy còn cách họ một quãng xa, song áp lực mà nó đẩy tới đã khiến nửa câu nói sau cùng của lão mù nghẹn cứng trong cổ họng. – Lui! Nhậm Hoả Cuồng vận đủ khí vào trong lồng ngực rồi mới bật ra được một từ. Áp lực quá lớn khiến ông không thể nói thêm dù là nửa chữ. Giờ đây người hiểu rõ nhất tình thế xung quanh chính là Quỷ Nhãn Tam. Vừa nãy, sau khi sương mù tụ lại, con mắt cú đêm của hắn lập tức phát huy tác dụng. Kỳ thực bọn họ đã sa vào một con đường đá vuông vắn thẳng tắp, rộng lớn một cách dị thường. Năm xưa dòng họ Nghê đã tìm được mộ huyệt của Thiên Tế quốc sư nước Tây Linh* ở đầm Hắc Thuỷ, con đường trong huyệt mộ rộng bằng sáu càng xe đã khiến bọn họ phải trợn mắt há miệng, nhưng so với con đường trước mặt, có lẽ nó chỉ bằng một phần năm. * Một nước nhỏ thời cổ đại trong truyền thuyết, ở phía nam Trung Quốc. Vừa nãy sương mù tụ lại thành một lớp dày, nhìn vào sự phân bố của chúng, có thể thấy rằng lớp sương mù bám chặt sát vào một bức tường, một bức tường đang thoái lui chóng vánh. Hiện giờ, bức tường đột nhiên dừng lại, khiến làn sương mù đặc quánh đang dán chặt vào đó nhanh chóng bung ra như tấm mút xốp bị nén chặt giờ đột ngột buông lỏng. Chỉ một thoáng sau, bức tường lại tiếp tục chuyển động, song hướng di chuyển đã ngược lại, ép thẳng về phía họ. Bức tường vừa dịch chuyển, Quỷ Nhãn Tam lập tức khẳng định, đây là một khảm diện đồ sộ có tên gọi “ép một bên”. Bức tường rất có thể sẽ ép thẳng tới vách đá ở lối vào. Như vậy, trừ phi họ kịp thời chui ra khỏi khe đá, nếu không toàn bộ sẽ bị ép dẹp thành bánh thịt nghiền. Song áp lực dữ dội ập đến ngay sau đó đã cho Quỷ Nhãn Tam biết rằng, khảm diện này tuyệt đối đơn giản như hắn tưởng tượng. Nhậm Hoả Cuồng vừa kêu lên một tiếng “Lui” thì Quỷ Nhãn Tam đã kịp xoay người, song không chạy ngay, mà vội đưa mắt tìm kiếm khe đá lúc nãy. Tại nơi họ vừa tới chỉ có một vài đốm sáng lạnh lẽo chập chờn lên xuống. Là mắt sói. Còn khe đá không thấy đâu nữa. Lúc này Quỷ Nhãn Tam mới chợt nghĩ ra, vật giống trụ xoay mà hắn đã thấy thấp thoáng trên vách đá khi nãy chắc hẳn là trục xoay của cánh cửa ngầm. Giờ đây khảm diện khởi động, cửa ngầm hẳn đã đóng chặt. Từ âm thanh vọng tới, có thể nhận ra rằng, lực đạo đang đẩy vào bức tường khổng lồ trước mặt dữ dội đến khó tưởng tượng, không biết là từ đâu tới. Bức tường vừa đẩy tới, áp lực xung quanh đột nhiên tăng vọt, không chỉ là áp lực do bức tường dồn tới, mà từ bốn phương tám hướng ập lại. Áp lực đè chặt lấy cơ thể họ, khiến động tác của họ trở nên hết sức khó khăn. Xem ra nếu bức tường cứ tiếp tục áp sát, thì lực nén khủng khiếp kia hẳn sẽ nghiền nát lục phủ ngũ tạng của họ thành cám vụn. – Nguyên lý bơm tiêm, nén không khí! – Lỗ Nhất Khí chợt nhớ tới kiến thức vật lý đã học ở trường Tây. Muốn thoát khỏi đây cần phải tìm ra lỗ kim, lỗ kim có lẽ chính là lối vào khi nãy, phải mau chóng thoát ra từ đó, nếu không họ sẽ nhanh chóng bị ép đến chết. Cùng chung suy nghĩ với Lỗ Nhất Khí không chỉ có một người, song khi bọn họ lật đật bước về phía lối vào. Quỷ Nhãn Tam lập tức đoán ngay ra ý đồ của họ, nên gắng vận hết công lực, đưa khí từ ngực bụng lên, bật ra từng tiếng một: – Lối… vào… đã… bịt! Hết… đường! Tiếng kêu của Quỷ Nhãn Tam đã dập tắt hoàn toàn mọi hy vọng của bọn họ. Bức tường đã tới gần hơn, áp lực càng dữ dội. Lỗ Nhất Khí bắt đầu cảm thấy khó thở, chóng mặt, mắt loè đom đóm. Cậu cố gắng điều hoà hơi thở, dựa theo nguyên lý của Đạo gia để đưa bản thân vào trong trạng thái tự nhiên, đây là kinh nghiệm mà cậu đúc kết được từ sau cuộc vật lộn trong vòng xoáy áp lực Ngũ quỷ thôi đảo sơn của Dưỡng Quỷ Tỳ. Song áp lực ở đây lại khác với Ngũ quỷ thôi đảo sơn, áp lực của ngũ quỷ là chuyển động, có phương hướng, và điểm quan trọng nhất là sức mạnh của ngũ quỷ đa phần chỉ tác động lên ý thức, có thể dùng trạng thái tâm lý và tư duy tự nhiên để tránh né và phân tán. Còn áp lực ở đây thực sự tồn tại không thể tránh né, không thể phân tán, phải dùng thân xác để gánh đỡ. Lúc này, người khổ sở nhất trong bọn chính là Lỗ Nhất Khí. Cậu chưa từng luyện võ công, cũng chưa từng trải qua sự giày vò rèn giũa lâu dài về thể xác, Cậu còn không bằng cả Thuỷ Băng Hoa, thân thể mềm mại dẻo dai của cô ta bẩm sinh đã có sức chịu đựng rất tốt. Những tiếng huỳnh huỵch phát ra từ bức tường đang chuyển động mỗi lúc một gần, tốc độ có phần giảm bớt, song hoàn toàn không có vẻ muốn dừng lại. Trí não của Lỗ Nhất Khí lại gấp rút chuyển động, tìm kiếm. Trong “Công binh giới chế”** có chép: “Hai ống trúc lồng vào nhau, vừa khít. Ống bên ngoài rỗng và có lỗ, ống bên trong đặc dùng để đẩy ép. Ống bên trong rút lại hút đầy dầu nóng vào trong, ống bên trong đẩy ra sẽ khiến dầu nóng phụt xa trăm bước”. Trong “Cửu lưu ngoạn khí chư ban” *** có viết: “Người đất Tương làm pháo trúc không lửa, ống giấy quấn quanh que gỗ cùng đường kính, trong ống chứa rất nhiều vụn giấy sặc sỡ, phía trước có van. Khi kéo que gỗ về phía sau, van mở, hút khí vào bên trong. Khi đẩy que về phía trước, van đóng, khí ép ống vỡ, vụn giấy nhiều màu bắn tứ tung như pháo hoa”. ** Đây là một bộ sách huấn luyện quân sự rất thịnh hành vào đầu đời Nguyên, do chính phủ triều Nguyên mang dã tâm mở rộng lãnh thổ, liên tục phá thành cướp đất, bởi vậy trong quân đội cũng rất coi trọng các vũ khí thiết bị đánh thành và phương pháp sử dụng của chúng, nên đã cho biên soạn bộ sách này. Số lượng in không nhiều, ban đầu chỉ lưu hành trong quân đội, sau đời Nguyên mới có một số ít lưu truyền trong dân gian. Những bản incòn lại hiện có giá trị rất cao trong giới tàng thư và sưu tầm đổ cổ. *** Vào giữa đời Thanh, xưởng in Tập Thành Sơn Tây đã lần lượt cho in ba bản, do nhiều người biên soạn. Cuốn sách sưu tầm và ghi chép phương pháp chế tạo và sử dụng các loại đồ chơi của Tam giáo Cửu lưu. Do có một số nội dung quá dâm đãng, nên sau đời Dân Quốc đã bị cấm lưu hành. Hai đoạn văn trên khiến Lỗ Nhất Khí lập tức liên tưởng tới một đoạn trong thiên “Xảo tự’ trong “Cơ xảo tập”: “Khoang đóng, nút động. Cửa tự động, rút mở, đẩy đóng, khí ra, là dụng”. – Rút… mở, đẩy… đóng! Khí… ra! – Nếu không phải Lỗ Nhất Khí đã từng luyện công phu Quy tán tức của Đạo gia, chắc chắn giờ đây cậu đã không thể nói liền một mạch sáu chữ này. Đáng tiếc là sức của cậu chỉ có thể nói ra nguyên văn trong sách một cách vô thức, mà không thể giải thích thêm. Cả Nhậm Hoả Cuồng và Quỷ Nhãn Tam lập tức lao vụt đi một cách vội vã và chệnh choạng, phương hướng cũng giống hệt nhau, đều nhắm vào phía bên phải của khoảng không gian. Nơi đó có một bức tường tuy không nhìn rõ, song chắc chắn là có tồn tại. Những chữ mà Lỗ Nhất Khí vừa bật ra chính là sáu tự quyết được truyền miệng từ đời tổ sư Lỗ Ban. Sáu chữ này không viết trong ”Ban kinh”, bởi lẽ đây không phải là bí mật khảm tử, mà là một nguyên lý kỹ thuật được lưu truyền rộng rãi trong nhân gian. Những người từng làm ra hay sử dụng những thứ này hầu như đều hiểu sáu chữ đó. Ông thợ rèn biết, vì công việc của ông ta không thể thiếu thứ đó; Quỷ Nhãn Tam cũng biết, vì gia tộc của hắn thường xuyên sử dụng thứ này. Đó là thứ gì? Chính là ống bễ, là thứ được gắn ở bên cạnh bếp lò dùng để thổi lửa vào bếp. Nguyên lý của khảm diện này tương tự như ống bễ khổng lồ. Lối vào chật hẹp khi nãy chính là cửa hút khí, còn bức tường giống như một pit tông khổng lồ. Khi pit tông bị kéo vào trong, khí sẽ bị hút vào; khi pit tông đẩy ra, cửa hút khí bị ép nên đóng lại. Theo lý mà nói, ống bễ sẽ có một lỗ thoát khí khác nối liền, như vậy có thể đưa khí nén thổi đến một nơi cần thiết. Nhậm Hoả Cuồng và Quỷ Nhãn Tam đều đang tìm kiếm vị trí của lỗ thoát khí. Ông bễ thường được đặt ở bên trái bếp lò, như vậy có thể dùng tay trái đẩy kéo thổi gió, tay phải cho củi vào lò, bởi vậy lỗ thoát khí của ông bễ thường sẽ ở trên cạnh bên phải của ống bễ. Họ còn chưa kịp di chuyển tới vách tường bên phải thì Lỗ Nhất Khí đã không chịu đựng thêm được nữa, cơ thể mềm nhũn đổ vật trên nền đất. Vách tường bên phải không có cái lỗ nào cả, chỉ có mặt đá nhẵn bóng như dao gọt, cũng chỉ có độ nhẵn bóng nhường đấy mới có thể đảm bảo được độ kín của ông bễ. Quỷ Nhãn Tam và Nhậm Hoả Cuồng dán người vào vách đá, hối hả sờ soạng liên tay, hy vọng có thể tìm ra chút dấu vết nào. Đây chính là cơ hội cuối cùng của họ. Bức tường di động vẫn tiếp tục tiến lại gần. Những con người đang bị nhốt trong ống bễ khổng lồ lại một lần nữa căng thẳng cực độ, khắp người như cứng lại. Một vài con sói cùng chung cảnh ngộ cũng rên lên từng hồi thảm thiết. Mau lên! Phải mau lên! Thời gian không còn nhiều nữa. Quỷ Nhãn Tam vô cùng lo sợ. Nếu nơi này quả thực không có lỗ thông khí, phải làm sao đây? Nhậm Hoả Cuồng cũng vô cùng lo sợ. Nếu như bức tường đã đi qua vị trí lỗ thông khí, phải làm sao đây?
Lời Nguyền Lỗ Ban Quyển 3 - Chương 26: Ba bông lúa Spoiler: Click vào để đọc Muốn giấu lẫy kéo, lưu chỗ khuyết trên bức tường nhẵn nhụi, phải có quy tắc nhất định. Khảm tử gia đã tổng kết quy tắc này trong sáu chữ: “bình án, ao hoàn, lưu tào”. Bởi vì trên các bề mặt bằng phẳng thường sẽ có các bộ phận khác trượt qua hoặc dùng để đóng kín. “Binh án” tức là trên bề mặt sẽ thiết kế một khối có khả năng di động làm chỗ khuyết, khối này có thể ép xuống hoặc rút lên. Do nó có thể di động, nên xung quanh khối này sẽ có khe rãnh hoặc đường vân, tạo thành một hình vẽ không thật rõ ràng. “Ao hoàn” tức là một tay nắm ngầm ẩn. Nếu tay nghề kém, liếc mắt nhìn qua cũng phát hiện ra; nếu tay nghề giỏi, sẽ liền thành một khối với bề mặt, so với “bình án” còn khó phát hiện hơn nữa. “Lưu tào” tức là rãnh chảy, dễ nhận ra nhất, song lại khó giải nhất, vì chủng loại đa dạng, ví dụ như nước chảy, cát chảy, đá chảy, thuỷ ngân chảy, chỉ cần sai sót một ly, thì khảm nửa sống nửa chết sẽ lập tức biến thành khảm tuyệt sát. Quỷ Nhãn Tam và Nhậm Hoả Cuồng đều hiểu rõ điều này, họ phối hợp rất ăn ý, vừa chạm tay vào tường, lập tức chia nhau lần tìm ở hai bên trái phải. Bức tường vẫn tiếp tục ép tới, áp lực đã lớn tới mức dường như không khí cũng bắt đầu rung chuyển. Lỗ Nhất Khí lúc này đã thần trí mê man, nước tiểu bật ra ướt sũng cả đũng quần. Cậu đã buông xuôi số phận, chỉ mong được chết ngay để thoát khỏi nỗi giày vò khủng khiếp. Thuỷ Băng Hoa cũng đã ngã sấp trên đất, các ngón tay rũ rượi gác hờ lên cánh tay Lỗ Nhất Khí, toàn thân co giật từng hồi. Lão mù cũng thôi không còn kéo Lỗ Nhất Khí nữa, chỉ gắng gượng tì cây gậy lên mặt đất chống đỡ không để mình đổ xuống. Động tác của Quỷ Nhãn Tam và Nhậm Hoả Cuồng trở nên vô cùng trì độn, mỗi một cử động đều phải dùng sức gấp mấy lần bình thường, lại thêm tai ù như sấm, mắt toé sao vàng, hít thở khó khăn, ý thức mờ mịt. Vách đá trơn bóng nhẵn nhụi, bởi vậy chỉ cần có chút vết gợn loáng thoáng đã sờ thấy ngay, huống hồ lại là một hố lõm rất rõ ràng. Trong hố lõm có một cái khoen kéo bằng đá. Quỷ Nhãn Tam móc tay vào khoen song không kéo nó ra, chỉ bám vào nó để giữ cho bản thân đứng vững, sau đó chật vật lắm mới có thể dùng bàn tay còn lại móc ra hộp diêm. Que diêm run rẩy trên tay cuối cùng đã được đánh lên, rồi bật ra, vừa lộn nhào vừa bay đi koảng năm, sáu bước về phía Nhậm Hoả Cuồng. Dẫu rằng quanh họ sương mù mờ mịt, dẫu rằng lửa diêm chỉ leo lét, dẫu rằng ánh sáng chỉ tồn tại trong khoảnh khắc, song Nhậm Hoả Cuồng đã nhìn thấy. Bởi vậy, không đợi Quỷ Nhãn Tam bật ra que diêm thứ hai, ông ta đã loạng choạng lao đến trước mặt Quỷ Nhãn Tam. Trạng thái của ông thợ rèn tốt hơn Quỷ Nhãn Tam một chút, cũng vì ông ta đã quen với chuyện quanh năm làm việc bên bếp lò rừng rực lửa. Nhậm Hoả Cuồng cũng nắm chặt lấy khoen đá, song không dốc sức kéo ra phía ngoài như Quỷ Nhãn Tam, mà lần lượt kéo ngang sang phải trái trên dưới. Khi bị kéo sang phải, khoen đá kêu “cạch” một tiếng, dường như đã khớp vào rãnh, song Quỷ Nhãn Tam và Nhậm Hoả Cuồng đều không nghe thấy, vì bên tai họ chỉ lùng bùng tiếng máu chảy ràn rạt trong huyết quản. Song họ đều cảm thấy những chấn động mạnh mẽ khi khoen đá khớp rãnh, bèn hè nhau kéo chiếc khoen ra phía ngoài ba tấc. Một khối đá hình tròn diện tích chừng sáu thước vuông đột ngột bung ra dưới áp lực dữ dội từ bên trong, đẩy Quỷ Nhãn Tam và Nhậm Hoả Cuồng lúc này đã gần như mất hết tri giác ngã nhào vào một thế giới tối tăm khác. Cửa đá bật mở giống như một cái miệng há hoác, gầm thét hung tợn, nhanh chóng nuốt chửng đám Lỗ Nhất Khí cùng sói hoang, sương mù, đá vỡ, bụi bặm vào bên trong. Khi tỉnh lại, Lỗ Nhất Khí thấy toàn thân ướt sũng, tựa như bị ngâm trong nước. Đúng vậy, trong khảm diện vừa rồi, mồ hôi đã vã ra ướt đẫm lớp quần áo bên trong, đặc biệt là ở đũng quần, không chỉ có mồ hôi, mà còn lẫn cả nước tiểu. Xung quanh lặng ngắt như tờ, không một tiếng động. Hình như có chút ánh sáng lờ mờ phát ra tại một vị trí nào đó trên cơ thể cậu. Lỗ Nhất Khí không dám cử động, vì có một bàn tay lạnh ngắt như băng đang vắt ngang trên cổ. Đây là nơi nào? Cậu còn sống hay dã chết? Những người khác đâu cả rồi? Giờ đây, Lỗ Nhất Khí đã thấm thìa thế nào là rùng rợn. Cậu cảm thấy giờ đây tốt nhất nên nằm im lặng, để tránh làm kinh động tới thứ vẫn chưa biết là cái gì kia. Một lúc lâu sau, bàn tay lạnh buốt kia đã ấm lên một chút, các ngón tay giật khẽ một cái, đồng thời bên cạnh cậu vang lên một tiếng rên mơ hồ. Một hơi thở âm ấm phả vào vành tai nhạy cảm của cậu, khiến cậu khắp người sởn da gà, bụng dưới căng cứng. Bên cạnh cậu có một thứ gì đang động đậy, bàn tay cũng di chuyển từ cổ tới trước ngực cậu. Một bóng đen từ từ nhổm dậy, chầm chậm vươn đến trước mặt cậu… Lỗ Nhất Khí chưa bao giờ kích động như lúc này. Đó chính là khuôn mặt xinh đẹp của Thủy Băng Hoa, dẫu rằng lúc này lem nhem bùn đất, đầy vết xây xước, tóc tai rối bù như tổ quạ. Nhờ ánh sáng từ viên đá huỳnh quang Ba Tư, lỗ Nhất Khi phát hiện ra không chỉ mặt mũi tả tơi, mà quần áo trên người cũng xộc xệch lỏng lẻo, rất nhiều chỗ đáng lẽ phải được che đậy đã phơi ra cả. Cảnh tượng này khiến Lỗ Nhất Khí cảm thấy luống cuống, bèn vội vàng đẩy Thuỷ Băng Hoa ra. Thuỷ Băng Hoa cúi đầu không nói gì, ngồi lặng lẽ trên đất với một tư thế mềm mại tuyệt đẹp. Lỗ Nhất Khí không nhìn cô ta nữa, mà giơ cao viên đá huỳnh quang Ba Tư trong tay lên. Cậu muốn biết đây là nơi nào, quanh họ có còn ai nữa hay không. Song cậu không nhìn thấy gì, cũng không tìm thấy một ai khác. Tuy có Thuỷ Băng Hoa bên cạnh, song nỗi cô đơn vẫn bất chợt bao trùm lấy cậu. Không có Quỷ Nhãn Tam, cũng giống như mất đi tất cả sự chở che; không có lão mù, cũng giống như mất đi tất cả mọi chỗ dựa. Họ đang ờ đâu? Còn sống hay đã chết? Vì sao ở đây chỉ có cậu và Thuỷ Băng Hoa? Vây kín xung quanh họ là tường, những vách tường rất cao. Cũng có đường đi, song rất hẹp. Căn cứ vào hai điểm này, Lỗ Nhất Khí phán đoán rằng cậu và Thuỷ Băng Hoa đang ở trong một góc nào đó của một kiến trúc đồ sộ. – Kỳ lạ thật, tại sao lại tới nơi này? Những người khác đâu cả rồi? – Lỗ Nhất Khí băn khoăn tự hỏi. Nhưng cậu không nghĩ rằng ở đây lại có người trả lời được câu hỏi này. – Cái hộp đá kín mít vừa rồi đột ngột mở ra một lỗ khiến chúng ta đều bị hút ra ngoài, có lẽ là luồng khí đã đẩy chúng ta tới đây. Cũng không biết đã hôn mê bao lâu. Có lẽ mọi người đã bị thổi tan tác khắp nơi rồi! – Thuỷ Băng Hoa vừa nói vừa chậm chạp chỉnh đốn lại áo xống. Nghe cô ta nói, chứng tỏ chí ít khi cửa thổi gió bật ra, cô ta vẫn chưa hoàn toàn mê man. Lỗ Nhất Khí đứng dậy để mở rộng phạm vi chiếu sáng của viên đá. Dưới ánh sáng lờ mờ, cậu đã thấy nơi mình đang đứng chỉ rộng cỡ một gian bếp, có hình vòng tròn bất quy tắc. Vách tường không xây bằng gạch đá, vừa chạm tay vào cậu đã nhận ra, vì cảm giác không cứng và lạnh như gạch đá. Lỗ Nhất Khí nắm bàn tay lại, đấm vào tường hai cái, âm thanh phát ra có vẻ vang hơn gạch đá. Độ cứng của bức tường có lẽ thấp hơn gạch đá song cao hơn gỗ. Lỗ Nhất Khí giơ cao viên đá, dò dẫm sờ soạng một vòng. Cậu đã bất ngờ tìm thấy khẩu súng trường trên nền đất. Cầm súng trong tay, cậu cảm thấy vững dạ hơn đến bảy phần. Lỗ Nhất Khí đưa viên đá soi vào trong lối đi, rồi bước một chân vào bên trong. Phán đoán của cậu về cơ bản là chính xác, góc này chính là một con đường, cậu và Thuỷ Băng Hoa đều đã theo con đường này mà lọt vào trong. Khi vào đã không sao, đi ra có lẽ cũng không có vấn đề gì. – Đợi tôi với! – Thuỷ Băng Hoa gọi với theo. Trong bóng đêm, ánh mắt của cô ta chiếu ra những tia ai oán. Không phải Lỗ Nhất Khí đã bỏ quên cô ta, mà chỉ muốn thử vào thăm dò trước, nếu an toàn sẽ đưa cô ta đi cùng. Thuỷ Băng Hoa đứng dậy, tiến đến sau lưng Lỗ Nhất Khí, nói khẽ: – Cẩn thận! Quan sát kỹ rồi hãy vượt chạc (bước đi)! Thuỷ Băng Hoa dùng tiếng lóng của những người sống trong rừng sâu, song Lỗ Nhất Khí vẫn hiểu. Từ khi đến vùng Quan Ngoại, ngày nào cậu chẳng nghe thứ tiếng này. Thuỷ Băng Hoa là bà chủ của trại đàn bà, tiếp đủ các hạng khách từ nam chí bắc, các kiểu ám ngữ trên trời dưới biển hẳn cũng nghe không ít, biết mấy tiếng lóng này cũng là chuyên đương nhiên. Lỗ Nhất Khí tiếp tục tiến lên phía trước. Trong con đường uốn lượn quanh co không hề có một thứ gì, đến một mảy sương mù cũng không thấy. Kỳ lạ hơn nữa là chưa đi được mấy bước, cậu lại gặp một khoang tròn, rất giống với cái khoang mà cậu vừa rơi vào. Đứng ở lối vào của khoang này, có thể nhìn thấy thấp thoáng ở phía đối diện chéo góc cách đó vài bước cũng có một lối vào nữa. Lỗ Nhất Khí quay đầu lại nhìn, Thuỷ Băng Hoa vẫn bám sát phía sau cậu, điều này khiến cậu cảm thấy hơi ngượng nghịu, chỉ mong cô ta đừng ngửi thấy mùi khai trên người mình. Cậu lại bước lên vài bước, thì thấy lối đi bên đó cũng nối liền với một không gian hình tròn bất quy tắc nữa, bèn quyết định bước tiếp. Đi qua đoạn đó, lại có lối đi, lối đi cũng nối với một không gian hình tròn, nhưng khác ở chỗ mé bên kia của không gian này còn có một lối đi nữa, cũng lại nối liền với một không gian hình tròn khác. Lỗ Nhất Khí lùi trở về ngã rẽ phía trước, men theo con đường khi nãy tiếp tục tiến lên, và cậu còn gặp càng nhiều hơn những khoang hình tròn nối liền với nhau. Một toà kiến trúc sẽ không thể chỉ có lối đi. Những khoảng không gian nhỏ hẹp với hình tròn bất quy tắc kia có lẽ là phòng ở, tuy cách tạo hình chẳng ra sao, song xét về cách thức tổ hợp lại rất được chú trọng, có phòng đơn, có phòng đôi, cũng có chỗ nhiều phòng nối liền. Trong đó có quy tắc nhất định, những lối đi nối liền với những căn phòng có số lượng như nhau, giống như những phiến lá đối nhau ở hai bên trên chạc cây. Lỗ Nhất Khí dừng lại, cậu cảm thấy cần phải làm rõ chuyện này trước đã rồi mới đi tiếp. Cách thức xây dựng và hình thái kiến trúc nơi đây quá đỗi kỳ lạ, hoàn toàn không giống chỗ ở của con người. Vừa rồi Thuỷ Băng Hoa có nói “vượt chạc”, không biết có huyền cơ gì ẩn giấu trong đó không? Con đường này chẳng phải rất giống với nguyên tắc bố trí của chạc cây hay sao? Trong suốt chặng đường, cô ta chưa từng thốt ra một tiếng lóng hay ám ngữ nào, sao vừa rồi đột nhiên lại nói như vậy? Không biết đó chỉ là tiếng lóng, hay là cô ta đã nhận ra khảm diện trước mắt? – Không biết khảm diện này phải đi như thế nào! Hay là chúng ta nghỉ chân một lát đợi những người kia đến tìm? – Nói xong, Lỗ Nhất Khí không tìm chỗ nghỉ chân mà lại liếc sang Thuỷ Băng Hoa. Trong ánh mắt của Thuỷ Băng Hoa thoáng qua một nét cười, song cô ta lập tức bặm môi lại, nói một cách miễn cưỡng: – Biết được quy luật bên trong thì không phải là khảm diện. Nếu không nhận ra được quy luật, đó chính là khảm diện. – Ồ? – Lỗ Nhất Khí kêu lên một tiếng khiến Thuỷ Băng Hoa bất giác thảng thốt trong lòng. – Tôi sẽ nhắc cậu một đoạn: “Chân lả lướt, mặc áo thêu, mừng may mắn, thu hoạch nhiều…” – “Cầu gió hoà, cúng ba lúa, cầu mọi năm, như năm qua!” – Lỗ Nhất Khí lập tức tiếp lời đọc theo, đấy là một đoạn trong phần “Bố cát” của “Ban kinh”. Cậu đã thuộc lòng, và cũng hiểu rõ ý nghĩa của chúng. Ngay từ trước khi được đưa tới núi Thiên Giám, Lỗ Nhất Khí đã hiểu bài vè này nói về cái gì. Hồi đó cha cậu, ông Lỗ Thịnh Nghĩa, sau khi khắc xong một bức tranh gỗ cát tường, đã chỉ vào các đồ hình bên trên rồi thích cho cậu nghe. Khi ấy cậu mới năm tuổi. Tranh gỗ cát tường còn được gọi là tấm gỗ may mắn, là một tấm gỗ trang trí có khắc những đồ hình ngụ ý cầu mong may mắn, đuổi uế trấn tà, thường được lắp dưới mái hiên, mi cửa, giường ngủ, cửa bếp. Trong thời cổ đại, dân chúng không được phép sử dụng các hình ảnh rồng, phượng, hổ, voi, vì phạm vào cấm kỵ của hoàng gia; cũng không được chạm khắc thần tiên, Bồ tát, bởi vì giường, bếp đa phần ở trong nhà, mái hiên cũng có khi ở trong nhà, dưới mái, nên khi nam nữ quan hệ trong nhà sẽ là bất kính đốì với Bồ tát, thần tiên. Do vậy dân chúng thường chỉ sử dụng hình vẽ người, đa phần là trẻ nhỏ, nam giới, ngụ ý “dùng dương đuổi tà”. Song để đảm bảo mỹ quan, tạo hình của trẻ nhỏ hay nam giới thường có nét mặt nhu hoà, tư thái uyển chuyển, thủ pháp khắc hoạ thường cố ý thiên về xu thế mềm mại nữ tính, nên mới có câu “chân lả lướt, mặc áo thêu”. Tranh gỗ cát tường dân gian đa phần là miêu tả cảnh lao động, thu hoạch, đọc sách, vui chơi, đôi khi cũng mô tả các điển cố, ngụ ngôn, như Phong hầu ký*, Thám tiên sơn**, cao sĩ trong rừng,… * Tên một tích truyện dân gian, vốn kể về người tú tài nghèo khổ bất đắc chí tên là Vương Cát An, là người chân thật, nhân hậu, luôn giúp đỡ người nghèo. Một ngày nọ, anh ta được một ông lăo tặng cho một cây bút quản ngọc, trở nên vô cùng tự tin, văn chương tài giỏi, đỗ liền tam nguyên, cuối cùng được ban tước phong hầu, chọn làm lao động đường phố mã. Câu chuyện có rất nhiều phiên bản, có bản cho rằng ông lão là sao Văn Khúc giáng trần, có bản nói rằng ông lão là hoàng đế vi hành. ** Tên một tích truyện dân gian, kể chuyện một thanh niên tên là Hứa Thiên Bảo vì muốn chữa bệnh cho mẹ già đã một mình lên núi tiên, trên đường đi phải vượt qua vô số gian nan thử thách, cuối cùng đã khiến cho thần nữ trên núi tiên xúc động, tặng cho anh ta cỏ tiên và chậu tụ bảo, lại theo anh ta xuống trần gian kết tóc xe duyên vợ chồng. Tuy thủ pháp điêu khắc tranh gỗ cát tường của Lỗ gia rất mực cao siêu, song trong “Ban kinh” lại chỉ dùng một bức “Mừng bội thu” để giải thích về toàn bộ đao pháp khắc gỗ. Trong bức “Mừng bội thu”, nổi bật nhất là hình tượng hai nhân vật, một người ôm bông lúa tượng trưng cho ngũ cốc bội thu, còn một người ôm một thứ trông giống như chiếc rương, trong dân gian gọi là rương trăm báu. Trong “Bách cát đồ giải thuyết” *** đời Thanh có giải thích rằng, khi con người bắt đầu biết làm nông nghiệp, họ cúng tế thần gió đầu tiên. Bởi lẽ thuở xa xưa, loài người chỉ biết thu lượm mà không gieo trồng. Năm nay thu hoạch xong, tới năm sau trên mặt đất lại mọc lên rất nhiều cây mới, họ cho rằng nhờ có gió mới được như vậy, do đó đã gọi thu hoạch dồi dào là “phong thu” (thu hoạch nhờ gió), về sau người ta mới dần dần đổi chữ “phong” là gió thành chữ “phong” có nghĩa là dồi dào. Sự sùng bái sai lầm này vẫn còn tồn tại tới hiện nay, người nông dân muốn có vụ mùa bội thu, trước tiên vẫn cầu gió thuận, sau mới đến mưa hoà. Mà trong truyền thuyết dân gian, bảo bối dùng để tạo gió của thần gió chính là một chiếc rương, bởi vậy chiếc rương trăm báu trong tranh gỗ cát tường thực chất chính là ông bễ, vật tượng trưng sớm nhất cho thần gió. *** Do dân chúng Chiết Giang tự in vào đầu đời Thanh, chủ yếu là hướng dẫn về cách chế tạo dồ gia dụng, ngày nay vẫn còn lại khá nhiều, phần lớn đó là những nghệ nhân tài giỏi và chuyên gia điêu khắc gỗ lưu giữ, song song phần lớn nội dung đã không còn là nguyên bản đời Thanh, mà do con người sao chép đời sau thêm vào. Đây là kiểu nhà liền**** hình bông lúa. – Lỗ Nhất Khí tựa như choàng tỉnh khỏi giấc mơ, cậu hết sức kinh ngạc trước kiểu kiến trúc này, lại càng ngạc nhiên vì Thuỷ Băng Hoa lại thông thạo kỹ pháp của Lỗ gia đến vậy – Có lẽ đây chính là khảm diện do tổ tiên Lỗ gia thiết kế để bảo vệ bảo cấu. Khảm diện rất giống với bức hoạ “Mừng bội thu” trong “Ban kinh”. Nơi “kéo mở, đẩy đóng, khí ra” vừa rồi chính là ống bễ, còn ở đây là ba bông lúa. Nhìn vào hình dạng của những căn phòng này quả thực rất giống hình bông lúa. Có lẽ cũng chỉ có kiểu kết cấu tổ ong với phòng tròn nối phòng tròn, phòng tròn lồng phòng tròn như thế này mới có thể dần dần tiêu tán được sức gió khủng khiếp thổi ra từ cái ống bễ khổng lồ như vừa nãy! – Trong khi nói, Lỗ Nhất Khí phát hiện ra ánh mắt của Thuỷ Băng Hoa cứ mơ màng nhìn dán vào cậu từ đầu tới cuối. **** Nhà liền, tức liên cư, là một hình thức nhà ở thời cổ đại, dùng đường đi để nối liền rất nhiều căn nhà nhỏ với nhau, tạo thành một chỉnh thể khép kín với bên ngoài, cư trú trong chỉnh thể này đều là người cùng một thị tộc. Nó tựa như là một thành luỹ độc lập. – Ba bông lúa. Bông lúa trên kính trời, dân coi ăn là trời, cầu được đủ ăn. Bông lúa giữa kính thần, thần phù hộ thân tâm, cầu được an khang; bông lúa dưới kính đất, cúi đầu đào bảo kim, cầu được giàu sang. Cúi đầu đào bảo kim… ở đây giấu Kim bảo, có lẽ đi về phía bông lúa thứ ba sẽ là lối đi chính xác! – Đưa ra được kết luận này, Lỗ Nhất Khí vô cùng mừng rỡ. – Vậy thì đi thôi! – Thuỷ Băng Hoa tỏ vẻ rất thuận tùng, giống như một đứa trẻ không hề có chủ kiến. – Vừa rồi là hạt lúa đơn độc đầu tiên, sau đó là các hạt lúa xếp thành hai hàng, từng cặp so le nhau. Chúng ta cứ theo đó mà đi, tìm ra cọng lá phía cuối bông lúa rồi tính tiếp. Chưa biết chừng mọi người đang đợi chúng ta ở đó cũng nên! – Lúc này, mạch tư duy của Lỗ Nhất Khí vô cùng tỉnh táo, hình ảnh bông lúa khắc trên tranh gỗ cát tường hiển hiện rõ nét trong trí não cậu. Thủ pháp điêu khắc ở đây có phần khoa trương tả ý. Một bông lúa thường chỉ có một phiến lá đỡ, hạt cũng không nhiều, song rất dày và chắc mẩy, được sắp xếp theo trật tự nhất định, thứ nhất là đảm bảo mỹ quan, thứ hai là không thể xuất hiện chỗ khuyết và hạt rụng. Vì như vậy sẽ thành bông lúa phá, đọc là “phá huệ”, đồng âm với “phá toái”, nên tranh gỗ cát tường sẽ trở thành ám chú. – Dạ vâng! Kể từ khi gặp Thuỷ Băng Hoa, đây là lần đầu tiên Lỗ Nhất Khí nghe thấy cô ta trả lời mình với thái độ phục tùng tuyệt đối đến vậy. Giọng miền Đông Bắc ngọt ngào mềm nuột, vừa nghe đã biết là cô ta học theo một ả đàn bà rất giỏi nghề trói chặt đàn ông trên giường lò ấm sực, vì trong giọng nói toả ra vẻ ấm nồng của bếp lửa, khiến Lỗ Nhất Khí trong lòng nôn nao, tim đập rộn lên như trống. – Ồ, phải rồi, nếu khảm diện ở đây đúng là như vậy, thì con đường hẹp dẫn từ bên ngoài tới đây không phải là theo nguyên lý phòng the “tam phong tam hồi” như chị dã nói, mà là hoa văn “sóng ba hồi” bên dưới bức tranh gỗ cát tường, ám chỉ nước đến kênh thành, việc tự thành công. – Lúc này, những văn tự, hình vẽ tản mạn từng được ghi lại trong trí não Lỗ Nhất Khí cũng chẳng khác nào nước đến kênh thành, tự nhiên thông suốt – À, té ra từ nãy tới giờ cậu vẫn nghiền ngẫm về “tam phong tam hồi” ư? – Thuỷ Băng Hoa nửa đùa nửa thật. Song cô ta lại không biết được phản ứng của Lỗ Nhất Khí ra sao, vì cô ta vừa lên tiếng, cậu đã quay người đi về phía trước. Đi ra khỏi dãy nhà liền hình bông lúa, Lỗ Nhất Khí bỗng thốt lên đầy cảm khái: – Đây quả thực là do các vị tổ tiên để lại! Nếu không dựa theo nguyên lý của bức “Mừng bội thu”, thực khó mà thoát ra được! Nghe Lỗ Nhất Khí nói vậy, Thuỷ Băng Hoa cũng thốt lên: – Cũng thật đáng sợ! Suýt chút nữa đã bỏ mạng ở trong cái ống bễ do tổ tiên nhà cậu để lại rồi! Đi theo lối đi ra khỏi bông lúa, họ lại gặp một căn phòng dài và hẹp, có lẽ chính là vị trí của lá đỡ. Theo phương pháp khắc hoạ thông thường trong tranh gỗ của Lỗ gia, trong ba bông lúa, chỉ có bông thứ hai có lá đỡ ở bên trái, lại ôm quanh bông lúa. Còn hai bông lúa còn lại, phiến lá đều ở bên phải và chúc xuống phía dưới. Nhìn vào vị trí tương đối giữa gian phòng này và bông lúa, cùng hình dạng của gian phòng lá lúa trước mặt, Lỗ Nhất Khí đã phán đoán được rằng, bông lúa cậu vừa ra khỏi chính là bông lúa thứ hai, bông lúa kính thần. Bởi vậy, giờ đây có lẽ nên đi dọc theo cuống bông lúa sang bên trái, ở đó chắc hẳn sẽ có bông lúa thứ ba, bông lúa kính đất. – Đi về phía này! – Lỗ Nhất Khí quay đầu lại gọi Thủy Băng Hoa. – Dạ vâng!
Lời Nguyền Lỗ Ban Quyển 3 - Chương 27: Điện không xà Spoiler: Click vào để đọc Lỗ Nhất Khí chọn đường rất dứt khoát, bởi lẽ chỉ cần khảm diện bảo vệ bảo bối nơi này thực sự do tiền bối Lỗ gia để lại, chắc chắn sẽ có phương pháp hoá giải. “Ban kinh” đã ở trong tay, vạn biến không lìa tông, tìm ra ngọn rồi thể nào cũng lần được tới gốc, chỉ cần không để mình lao thẳng vào nút lẫy là được. Thực tế cũng đã chứng thực cho tư duy duy của cậu. Lỗ Nhất Khí cứ theo suy đoán của mình mà đi, không hề gặp phải trở ngại, cũng không đi nhầm đường, cuối cùng đã thuận lợi bước vào một gian đại điện. Đó là một gian đại điện với phần nóc lợp bằng ngói lục lăng, một gian đại diện hầu như bị chôn vùi hoàn toàn dưới lòng đất. Đại điện không hoàn toàn tăm tối, vì xung quanh nóc điện có một dãy cửa sổ trời trong mờ. Ánh sáng rọi qua dãy cửa sổ trời tạo thành một bức tường ánh sáng vây quanh đại điện. Lỗ Nhất Khí suy đoán có lẽ dãy cửa sổ trời trên kia chính là rãnh băng vòng quanh mai rùa trên mặt đất. Có ánh sáng chiếu vào, cho thấy bên ngoài trời đã sáng. Không chỉ có ánh sáng trời, mà ở hai bên lối đi trong đại điện còn có hai dãy dài những đĩa đèn đang cháy sáng. Còn nữa, ở chính giữa lối đi, cứ cách hai mươi bước lại đặt một vạc lửa, ngọn lửa trong vạc nhảy nhót không ngừng. Vạc lửa và đĩa đèn đều có hình dạng giống chiếc liễn bụng phình. Bên dưới vạc lửa là đế chân quỳ, bên dưới đĩa đèn là giá ba chân tạo hình dây leo, chân đỡ được cố định trên mặt đất, có vẻ chắc chắn vô cùng. Tất cả đều được chế tác bằng đồng, bề mặt sáng bóng toả ánh vàng lấp lánh. Song kỳ lạ là ở chỗ không biết chúng được bày ở đây từ lúc nào? Bởi lẽ dù là do tiền bối đời nào sắp đặt, chúng cũng không thể sáng bóng như mới thế này, trừ phi có người thường xuyên lau chùi đánh cọ. Hơn nữa, các đĩa đèn và vạc lửa tại sao lại cháy được? Dù là con người thắp lên hay tự nhiên bốc cháy, đều phải có một lượng dưỡng khí lớn tràn vào đây, phá vỡ môi trường vốn rất nghèo dưỡng khí nơỉ này. Nhưng dù là nguyên nhân gì đi nữa, chắc chắn đã có người tiến vào gian điện. Nếu đây vẫn là khảm diện do tổ tiên Lỗ gia thiết kế thì còn có thể đánh liều mà tiến lên. Nhưng đã có người khác xông vào, khảm diện ban đầu rất có thể đã thay đổi, khảm diện mới có lẽ đã bày xong, con đường phía trước càng trở nên nguy hiểm khó lường. Bởi vậy Lỗ Nhất Khí và Thuỷ Băng Hoa đã đứng lại trước cửa gian điện không dám bước tiếp, thận trọng quan sát kỹ lưỡng không gian bên trong. Đại điện quả thực rất rộng lớn, có hình chữ nhật kéo dài giống hệt như những gì Thuỷ Băng Hoa đã phán đoán khi còn ở trên mặt đất. Tuy rằng có đèn chiếu sáng, song nhìn sâu vào trong vẫn rất tối tăm, không thể nhìn đến tận cùng. Đường đi trong đại điện rất bằng phẳng. Lỗ Nhất Khí quan sát kỹ lưỡng một hồi, liền phát hiện ra đó chính là mặt đá núi tự nhiên nguyên khối. Người ta đã tạc thành các đường ngang dọc trên bề mặt, nên thoạt nhìn chẳng khác gì lát đá. Từ đó có thể phán đoán rằng, nền móng của đại diện chính là cả khối núi đá, gian điện được xây theo thủ pháp “đào lỗ dựng cột”. Trên điện không có rường xà, nóc điện khum khum nhô lên phía trên, rất giống mai rùa. Trong “Ban kinh” cũng có viết về kỹ pháp này, bởi vậy Lỗ Nhất Khí không cảm thấy quá kinh ngạc. Vì không có xà nên đại điện mới phải lợp bằng ngói gỗ lục lăng, chỉ có hình dạng này các viên ngói mới có thể chống đỡ lẫn nhau, hơn nữa lực tác động cũng sẽ được phân chia đều đặn. Sau khi nóc nhà đã lợp xong, sẽ để lại những mép hình tam giác bên rìa có tác dụng chống đỡ rất tốt đối với lực đạo toả ra bốn phía của mái ngói. Nếu cậu đoán không lầm, thì chính giữa nóc đại điện còn có một khoảng trống hình lục lăng, đây chính là mặt chống đỡ của lực đạo hướng vào giữa sau khi mặt ngói được lợp xong. – Điện không xà không hiên! – Thuỷ Băng Hoa nói nhỏ một câu. – Chính xác hơn phải gọi là điện không xà không sống không hiên, kiến trúc này thường gặp trước thời Tam Quốc, đa phần là kết cấu gỗ, bởi lẽ kết cấu ngói đất nung có trọng lượng quá lớn. Ở đây dùng ngói gỗ hoá thạch, còn cứng hơn cả ngói đất nung, song trọng lượng lại nhẹ hơn rất nhiều. – Lỗ Nhất Khí nói. Thứ cần tìm chắc chắn ở trong đại điện này! Chúng ta có vào không? – Vào chứ! Nhưng vào thế nào đây? – Lỗ Nhất Khí nói rất đúng, ám cấu đã vào đến đây, cho dù do tổ tiên Lỗ gia để lại, hay là cao thủ của đối thủ bày ra, e rằng đều là khảm nút tất chết. Trong lúc hai người còn đang chần chừ do dự, thì từ phía sau vạc lửa đầu tiên trên lối đi bỗng vang lên những tiếng “gừ gừ” kỳ quái, khiến Lỗ Nhất Khí và Thuỷ Băng Hoa đều giật bắn mình. Tiếng kêu đứt quãng kéo dài một lúc thì chấm dứt. Tim Lỗ Nhất Khí nhảy loạn trong lồng ngực, song mặt vẫn không biến sắc. Cậu ra hiệu cho Thuỷ Băng Hoa đứng yên ở đó, còn mình bước chậm rãi vào trong. Thuỷ Băng Hoa không chịu đứng lại, tuy vẻ mặt của cô ta hoang mang cực độ, song vẫn bám sát sau lưng Lỗ Nhất Khí. Lỗ Nhất Khí quay người lại nhìn Thuỷ Băng Hoa, nhưng không ngăn cô ta lại, chỉ thầm nghĩ bụng: “Cồ ả này thật lạ, chẳng lẽ không sợ mùi khai rình trên người mình hay sao?”. Phía sau vạc lửa là một con sói đang giãy chết, tuy đôi mắt vẫn quắc lên những ánh lạnh lẽo hung hãn, song đã nhanh chóng tối dần. Không biết đây có phải là con sói bị giam cùng họ trong ống bễ hay không, song nó chắc chắn không phải bị thương vì sức ép trong ống bễ. Trên người nó có tới mấy chục vết thương đẫm máu, cả cơ thể gần như bị ngâm trong vũng máu đỏ bầm. Phía trước vẫn còn vết máu, chứng tỏ có người hoặc con vật bị thương đã đi qua. Nơi mà người hoặc động vật có thể đi qua hẳn không có khảm diện. Thế là Lỗ Nhất Khí dẫn Thuỷ Băng Hoa thận trọng bám theo vết máu tiến vào bên trong. Nơi kết thúc của vệt máu lại là xác một con sói khác, thân thể của nó như một đoá hoa đỏ nở xoè, với tầng tầng lớp lớp các vết thương khủng khiếp, có lẽ là bị ai đó đâm chém tơi bời chỉ trong nháy mắt. Nếu không, với sự lanh lẹ và xảo quyệt của loài sói, chỉ cần bị ăn một nhát dao, vẫn có thể mau chóng chạy thoát. Tiếp theo không còn vết máu nào nữa, chỉ có nền đá sạch bong, đến một mảy bụi cũng không có. Thật khó mà tưởng tượng, một đại điện đã tồn tại hơn hai nghìn năm mà trên nền diện lại không vương chút đất bụi, chẳng lẽ quả thực có người tới đây quét dọn hàng ngày? Cách con sói chết hơn chục bước về bên trái còn có một thứ nữa. Đó là một thây người, một cái xác mang trang phục đen kín mít. Lỗ Nhất Khí và Thuỷ Băng Hoa đều không tỏ vẻ kinh sợ. Ở những nơi như thế này, xuất hiện xác người còn bình thường hơn là xuất hiện xác sói. Lỗ Nhất Khí từ từ tiến về phía đó. Kẻ này chết rất quái dị, thất khiếu trào máu, con ngươi lồi hẳn ra ngoài, cơ thể hơi biến dạng song không thấy có vết thương, thân dưới máu chảy thành vũng lớn. – Kẻ này có lẽ trúng độc mà chết! – Thuỷ Băng Hoa đã từng chứng kiến người chết vì trúng độc. Một số thợ rừng bị lạc trong núi ăn phải nấm độc, bộ dạng khi chết cũng y hệt thế này. – Cũng có thể là bị ép chết! – Lỗ Nhất Khi chọc chọc nòng súng vào cái xác, thấy mềm nhũn như bông, dường như toàn bộ xương cốt đều đã nát bấy. Hiển nhiên giả thuyết của Lỗ Nhất Khí thiếu hợp lý hơn. Gian đại điên rộng thênh thang lại trống trải nhường này, chẳng có thứ gì có thể tạo thành khảm kẹp (khảm diện hai bên kẹp lại) hay khảm dập (khảm diện có vật nặng đập xuống) để ép chết người, trừ phi người này đã bị ép chết ở nơi khác rồi lôi thi thể tới đây. Song có cần thiết phải cầu kỳ như thế hay không? Đứng vào lúc này, một cơn gió quái dị ập tới từ phía sau Lỗ Nhất Khí, thổi sát nền điện, xoáy tít như lốc, khiến lửa trong các đĩa đèn chao đảo ngả nghiêng. Lực đạo của trận gió xoáy cực mạnh, cả xác người lẫn xác sói đều bị thổi bạt về phía trước. Gió thổi tới cuốn theo cát bụi, đập rào rào vào vạc lửa và đĩa đèn phát ra những tiếng ken két nghe sởn tóc gáy. Xác người và xác sói mau chóng mất hút trong bóng tối cuối đại điện. Lỗ Nhất Khí và Thuỷ Băng Hoa bám chặt vào nhau, gồng mình chống đỡ trước cơn gió dữ dội, song chân họ vẫn bị đẩy trượt đi. Lỗ Nhất Khí không biết trận cuồng phong sẽ thổi họ tới nơi nào, liệu có khảm diện khủng khiếp gì đang chờ họ phía trước? Song cơn lốc cùng với đám bụi cát mà nó cuốn theo cũng đã giải thích cho cậu biết tại sao nền điện lại sạch sẽ đến vậy, vạc lửa và đĩa đèn tại sao lại sáng bóng đến thế. Lỗ Nhất Khí và Thuỷ Băng Hoa đều không biết võ công, bởi vậy đã trở nên vô cùng yếu ớt thảm thương trong cơn gió lốc. Sau khi bị thổi trượt đi đến vài bước, họ đã không thể trụ vững, chao đảo ngả nghiêng một chốc, rồi ngã dúi dụi trên lối đi của đại điện. Vào đúng khoảnh khắc họ ngã xuống, có hai bóng đen to lớn cùng lúc xồ ra từ hai bên lối đi, đập thẳng cánh vào nhau sát sạt bên cạnh Lỗ Nhất Khí và Thuỷ Băng Hoa lúc này đang nằm bò trên nền điện. Một tiếng “rầm” dữ dội vang lên, kèm theo một chấn động cực mạnh khiến Lỗ Nhất Khí và Thuỷ Băng Hoa gần như nảy bật lên khỏi nền đá. Gió thốc ra từ cú va đập quét qua mặt họ đau rát. Sau cú va đập dữ dội, từ hai bóng đen bắn ra vô số mảnh vụn rơi đầy trên đầu và mặt Lỗ Nhất Khí. Là vụn gỗ! Thì ra hai bóng đen chính là hai khúc gỗ rất lớn trông giống hệt như vách tường, còn cái xác vừa nãy đúng là bị đập bẹp mà chết. Hai khối gỗ khổng lồ hai phía đập thẳng lại, khác nào hai bàn tay to khoe vố chết con muỗi nhép. Lỗ Nhất Khí thầm cảm tạ vận may nếu cậu và Thuỷ Băng Hoa không ngã nhào vào đúng lúc đó, thì giờ đây họ cũng đã biến thành hai cái thây ma xương cốt nát nhừ, nội tạng vỡ bung rồi. Sau khi đập mạnh vào nhau, hai khối gỗ liền nảy trở lại, nhanh chóng biến mất tăm vào khoảng tối hai bên đại điện. Lỗ Nhất Khí và Thuỷ Băng Hoa vẫn nằm sóng soài, cố gắng ép thật sát cơ thể xuống nền đá. Họ đã không còn đủ sức để kháng cự lại cơn gió lốc, tiếp tục bị thổi bạt về phía trước. Họ trượt tiếp khoảng năm, sáu bước nữa thì dừng lại. Hai bàn tay họ nắm vào nhau thật chặt, giờ đã ướt nhèm trơn trượt vì mồ hôi. Họ vẫn nằm bẹp trên nền điện, không dám đứng dậy. Trong gian đại điện thênh thang nhường này, khảm diện gỗ đập chắc hẳn không chỉ có một đôi. Xung quanh lại trở nên tĩnh lặng, chỉ còn tiếng lửa bập bùng. Lỗ Nhất Khí giằng giật mãi mới rút được tay ra khỏi bàn tay bóp chặt như thể không muốn rời của Thuỷ Băng Hoa. Rút được tay ra rồi, việc đầu tiên là cậu mò mẫm xung quanh để tìm khẩu súng trường. Nhưng khi đã nắm được khẩu súng trong tay, cậu chợt cảm thấy mình thật nực cười. Với một khảm diện như thế này thì súng có tác dụng gì kia chứ? Dù súng có tác dụng hay không, người cũng không thể cứ nằm bẹp mãi như vậy. Lỗ Nhất Khí từ từ lật người, nằm sấp trên mặt đất, mắt nhìn chằm chằm vào một vạc lửa phía trước. Độ cao của khối gỗ vừa nãy thấp hơn vạc lửa, vậy thì vị trí của nó chắc hẳn sẽ phải tránh khỏi vạc lửa. – Bò tới bên cạnh vạc lửa sẽ an toàn! – Thuỷ Băng Hoa không biết từ lúc nào cũng đã bò tới bên cạnh Lỗ Nhất Khí. Lời nói của cô ta không đầu không cuối, song Lỗ Nhất Khí vẫn hiểu cô ta muốn nói gì. Thuỷ Băng Hoa đột nhiên dùng cả tay lẫn chân bò rất nhanh về phía vạc lửa. Khảm diện này vẫn có liên quan với ống bễ và ba bông lúa ở phía trước, ý nghĩa lấy từ hình tượng nhân vật trong tranh gỗ “Mừng bội thu”. Nhân vật trong tranh đa phần ở trong tư thế vỗ tay nhảy múa, thuật ngữ trong ngành gọi là “vui vỗ tay”, bởi vậy khảm diện vừa rồi cũng là do tổ tiên Lỗ gia để lại. Nếu Thuỷ Băng Hoa hiểu rõ khảm diện này, chứng tỏ cô ta có mối quan hệ rất mật thiết với hậu duệ Lỗ gia bảo vê báu vật ở nơi đây. Nếu cô ta không hiểu gì về khảm diện này, song vẫn liều mạng lên trước dò đường, cho thấy cô ta rất quan tâm đến Lỗ Nhất Khí. Bởi vậy, dù lập trường của cô ta thế nào, cô ta hẳn cũng không phải là người của đối thủ. Không đợi Thuỷ Băng Hoa bò tới bên vạc lửa, Lỗ Nhất Khí cũng vội bò theo. Khi cô ta dừng lại bên vạc lửa, quay đầu lại vẫy tay với cậu, thì cậu đã bò đươc một nửa đường. Họ đã bò được một đoạn khá dài, song lại không thấy có thêm khảm nút nào hoạt động, vậy thì khảm diện vừa rồi được điều khiển bằng thứ cơ quát gì? Lối đi trong đại điện rất bằng phẳng, Lỗ Nhất Khí và Thuỷ Băng Hoa không hề vấp phải dây, động phải lẫy, liệu có phải họ đã giẫm lên thứ gì không? Cũng không thể, nền điện là cả khối núi đá, không thể đặt nút lẫy kiểu giẫm được. Có lẽ là ở phía trên chăng? Nhiều khả năng nhất chính là thân người đã ngăn cản đường gió thổi, khiến cho một bộ phận nào đó chịu lực không đều dẫn đến cơ quan khởi động. Phán đoán này đã khiến Lỗ Nhất Khí quyết định đưa ra một hành động liều lĩnh. Hiện giờ gió đã ngừng thổi, cơ quát hẳn cũng không thể hoạt động. Thế là cậu tự tin đứng bật dậy, tiếp tục tiến về phía trước. Để đề phòng bất trắc, Lỗ Nhất Khí đã gắng sức nâng cao khả năng cảm nhận, song đối với dạng khảm diện cơ quát như thế này, cảm giác siêu phàm của cậu cũng không thể phát huy tác dụng, chỉ có thể dựa vào thị giác để tìm kiếm cơ quát. Quá trình tìm kiếm cơ quát cũng là quá trình tìm kiếm những chỗ hổng trong mạch suy nghĩ của bản thân. Một sai lầm trí mạng! Một sơ suất trí mạng! Nền móng của đại điện không hẳn là một khối đá nguyên vẹn! Vẫn có thể có khe nứt, hoặc lỗ, hốc. Hơn nữa, cho dù vốn là một khối chỉnh thể, khi xây đại điện vẫn có thể đào lỗ dựng cột, thì tại sao lại không thể đào lỗ bố trí nút lẫy cơ quát? Còn những vạch khắc trên mặt đá khiến cả khối đá liền tấm trông giống hệt như nhiều viên gạch nhỏ ghép thành, liệu có cần thiết phải như vậy không? Chắc chắn đây là một hiện tượng giả, một mồi nhử, một màn che mắt. Thậm chí hai khối gỗ to lớn vừa rồi cũng rất có thể chỉ là màn che mắt, là khúc dạo đầu, còn nút chết thực sự vẫn đang ở phía sau. Lỗ Nhất Khí đã nhận ra, song muộn mất rồi! Cậu còn chưa kịp rụt ngón chân lại, mặt lối đi bỗng nhiên sạt xuống một mảng lớn, hai chân cậu đột nhiên bị hẫng lơ lửng trên không. Lỗ Nhất Khí đã không thoát khỏi phạm vi của cái phễu khổng lồ, cả thân người rơi tuột ngay xuống. Còn Thuỷ Băng Hoa vừa hay đứng ngay miệng phễu nên vô thức dang tay ra theo phản xạ để giữ cho cơ thể thăng bằng. Song chỉ một khoảnh khắc sau, đúng lúc cô ta đã gần như đứng vững được, thì cô ta lại đột nhiên bỏ cuộc, buông xuôi thân người trượt xuống miệng phễu theo Lỗ Nhất Khí. Nền đá chỉ phát ra một tiếng vang khe khẽ, sau đó lập tức khôi phục lại trạng thái ban đầu, như thể chưa hề có chuyện gì xảy ra. Ánh lửa trong các đĩa đèn và vạc lửa dần dần trở nên yếu ớt. Lỗ Nhất Khí không biết đã ở dưới mặt đất bao lâu. Cậu vẫn chìm trong giấc mơ. Trong cơn mơ, quá trình rơi xuống vừa rồi cứ liên tục lặp đi lặp lại: trượt xuống rơi xuống, đâm bật toang cánh cửa; lại trượt xuống, rơi xuống, đâm xoay ván lật… Khi tỉnh dậy, cậu thấy khuôn mặt mình ướt đẫm, mát lạnh. Mới đầu cậu ngỡ là máu, sau đó, từ bên trên nhỏ xuống một giọt nước, cậu mới mới biết rằng nhờ những giọt nước này nên cậu mới tỉnh dậy được. Cảm giác và trí nhớ dần dần hồi phục, và cậu bắt đầu cảm thấy toàn thân đau nhức như dần. Lỗ Nhất Khí mò được khẩu súng trường ở ngay bên cạnh, song chốt an toàn đã rơi mất, khiến nó giờ đây chẳng khác gì que sắt cời lửa. Đụng phải một thứ gì mềm như bông, Lỗ Nhất Khí giật mình toát mồ hôi lạnh, song cậu lập tức nhận ra đó là Thuỷ Băng Hoa, vì tay cậu đã chạm vào miếng da kỳ quái ở trên quần của cô ta. Hơi thở của cô ta vẫn đều đều, chắc là không sao. Thế là cậu bắt đầu mò mẫm rộng ra xung quanh. Ngoài Thuỷ Băng Hoa, cậu không mò thấy bất cứ vật sống nào khác. Cậu bèn lôi viên đá huỳnh quang Ba Tư ra để soi cho rõ. Đây là một gian ám thất phong kín hoàn toàn, diện tích không rộng, nền đất phân thành hai tầng cao thấp rõ ràng, Lỗ Nhất Khí và Thuỷ Băng Hoa đang ở tầng trên, còn tầng dưới thấp hơn tầng trên khoảng hơn ba thước, có chứa nước. Tường xung quanh rất kiên cố, song không ngay ngắn phẳng phiu, bên trên phủ kia một lớp rêu dày. Trên vách tường còn có rất nhiều lỗ và khe hở với đủ loại hình thù, tựa như mặt cắt của khối bột mì lên men. Thuỷ Băng Hoa cũng dần dần tỉnh lại. Cô ta nhìn thấy Lỗ Nhất Khí đang chăm chú quan sát xung quanh thì chưa vội bò dậy, vẫn nằm bẹp tại chỗ, chỉ hỏi khẽ một câu: – Đây là đâu? – Không biết! Có vẻ giống như nút cuối*. – Tìm ra chốt lẫy chưa? – Thuỷ Băng Hoa lại hỏi. – Có lẽ là trên nóc, mà hình như là nút phong một mặt! – Khi nói ra lời này, Lỗ Nhất Khí cảm thấy rất lo lắng, không biết Thuỷ Băng Hoa liệu có chịu đựng nổi sự thực này không. Phong một mặt thực chất là loại cửa xoay một hướng, chỉ có thể mở ra từ một mặt, vì tất cả cơ quát điều khiển đều được đặt ở phía mặt có thể mở ra. Bởi vậy những người sa vào trong nút này sẽ không bao giờ có được cơ hội phá giải nút lẫy. * Là nút lẫy cuối cùng hoặc nút lẫy không thể tiếp tục hoạt động biến hoá thêm được nữa trong khảm diện. Song phản ứng của Thuỷ Băng Hoa lại điềm tĩnh đến không ngờ: – Thôi kệ đi! Chuyến đi này là số mệnh an bài, sống hay chết không thể tự quyết được!
Lời Nguyền Lỗ Ban Quyển 3 - Chương 28: Nóng lạnh đổi Spoiler: Click vào để đọc Đương nhiên Lỗ Nhất Khí sẽ không chịu buông xuôi dễ dàng như vậy. Nghỉ ngơi một lát, cậu lại tiếp tục quan sát, tìm kiếm xung quanh ám thất. Cậu dùng báng súng nạy thử các khe hở, bám vào các lỗ thủng thử trèo lên trên, rồi dùng báng súng gõ, đẩy phần nóc. Nhưng kết quả vẫn là uổng công vô ích. Không tìm ra chỗ khuyết. Vậy liệu có thể tìm ra chỗ khuyết từ những phương diện khác hay không? Nghĩ vậy, cậu lại tiếp tục quan sát tỉ mỉ chất liệu của bức tường. Bởi vì đây là nút cuối của khảm phong một mặt, nên sẽ không thể tiếp tục biến đổi khảm hình nữa. Khi bố trí khảm diện này, các vị tổ tiên vẫn chỉ là thợ mộc, chưa phải là khảm tử gia, nên khảm diện chắc hẳn sẽ không theo thuyết “nơi không có đường chính là đường chết”. Như vậy không biết có thể phá tường tìm đường thoát thân hay không? Nhìn từ bề ngoài, chất liệu của bức tường trong ám thất cũng giống như tường vách của dãy nhà liền hình ba bông lúa. Lỗ Nhất Khí lấy một con dao găm từ chỗ Thuỷ Băng Hoa, đây là món vũ khí phòng thân mà cô ta luôn mang theo bên bắp chân, rồi cạo mạnh vào bên mép một lỗ hổng. Song cậu không thể cạo ra dù chi một chút mạt vụn. Cậu tiếp tục cạo bỏ một mảng rêu bám vốc nước rửa sạch mặt tường, thì phát hiện ra những đường vân trên mặt tường chính là vân gỗ. Trước tiên, Lỗ Nhất Khí xác định được rằng chất gỗ của bức tường không giống như chất liệu gỗ hoá thạch của mái ngói lục lăng trên chính điện. Tuy gỗ hoá thạch rất cứng, song vẫn giòn hơn so với chất liệu ở đây. Cậu lập tức nhớ tới loại gỗ thần cương. Gỗ thần cương có nhiều ở vùng đông bắc, trong “Yên bắc phong vật tạp ký”* đời Nguyên có chép: “Cây cao hơn một trăm trượng, chặt làm gỗ. Chặt rồi mới cứng, để càng lâu chất gỗ càng cứng”, có nghĩa là loài gỗ này tuy rất cao lớn, song không cứng lắm, chỉ sau khi chặt xuống mới bắt đầu cứng lên, thời gian càng lâu thì độ cứng càng cao. Xem ra chất gỗ ở đây chính là loại gỗ thần cương. * Là tác phẩm của Lý Thuận Lễ (Lee Soon-Lye) người Triều Tiên đời Nguyên, chủ yếu ghi chép những truyền thuyết thần kỳ và nhân vật sự kiện ở vùng phía bắc nước Yên cổ đại. Do có sự cách bỉệt về địa lý nên sách này còn lại rất ít, từ trước giảỉ phóng đã rất hiếm thấy bản gốc. Nếu bức tường bằng gỗ thần cương ở đây được các bậc tiền bối tạo ra từ hơn hai nghìn năm về trước thì giờ đây hẳn đã cứng rắn đến nỗi có dùng lựu đạn nhét vào khe hở hay lỗ thủng cũng chưa chắc đã làm sứt mẻ được bao nhiêu. – Nghỉ một lát đi! Ánh mắt của Thuỷ Băng Hoa nãy tới giờ vẫn theo sát mọi hành động của Lỗ Nhất Khí. Lúc này, thấy Lỗ Nhất Khí đứng thần ra ở đó, cô ta mới nói khẽ một câu. Câu nói này dường như đã thức tỉnh nỗi mệt mỏi trong cơ thể cậu. Suốt mấy ngày lao tâm lao lực không ngừng đến giờ cậu đã thực sự khó mà trụ nổi. Lỗ Nhất Khí buông mình ngồi phịch xuống bên cạnh Thuỷ Băng Hoa, đưa ánh mắt mệt mỏi nhìn về phía cô. Thuỷ Băng Hoa không để ý tới ánh mắt của cậu, chỉ lấy một tấm khăn tay nhúng nước chậm rãi lau mặt và cổ. Nhìn dáng vẻ mềm mại uyển chuyển của Thuỷ Băng Hoa, trong lòng Lỗ Nhất Khí bỗng dấy lên một niềm thương cảm, và còn một cảm xúc kỳ lạ khác nữa cũng bắt đầu manh nha trong tâm trí cậu. Sau khi lau xong, Thuỷ Băng Hoa bèn ngồi xuống trước mặt Lỗ Nhất Khí, định giúp cậu lau sạch bụi bẩn và các vết trầy xước trên mặt. Khi bàn tay cô ta vừa chạm vào khuôn mặt Lỗ Nhất Khí, cậu giật nảy người lên một cái, song không hề tránh né, dường như cậu rất vui lòng đón nhận sự chăm sóc của cô ta. Song những gì diễn ra sau đó quả là cực hình đối với Lỗ Nhất Khí. Trong lúc cánh tay Thuỷ Băng Hoa chuyển động, khuôn ngực đầy đặn của cô ta cũng nhấp nhô lên xuống ngay trước mắt cậu, khiến cậu bất giác khép chặt hai chân lại, hai bàn tay bấu chặt lấy hai đầu gối quần bông, đến nỗi vải quần tại đó rúm lại thành một nắm. Lau xong, Thuỷ Băng Hoa khẽ thở dài một tiếng rồi quay vào một góc, ngồi dựa lưng vào tường, ngửa đầu thẫn thờ nhìn lên nóc trần ám thất. Phải một lúc lâu sau, Lỗ Nhất Khí mới thả lỏng được cơ thể. Cậu chẳng thiết nói gì, buông người nằm vật trên nền đất, nhanh chóng ngủ thiếp đi. Trong mơ, cậu lại quay trở về bến dòng sông lớn, bên tảng đá đen tuyền và rặng liễu phất phơ. Trên tảng đá vẫn là ba vị cổ nhân áo chùng tóc búi. Cậu muốn đi tới chỗ họ, song lại không thể nhúc nhích, vì đã bị một người phía sau giữ chặt. Cậu ngoảnh lại nhìn, hoá ra là Thuỷ Băng Hoa. Sương mù khởi lên, mỗi lúc một dày, cảnh tượng trước mắt mờ mịt dần trong sương khói. Cậu muốn kêu lên, song không thể cất nên lời. Cậu đã cuống quýt đến nỗi khắp người nóng ran. Mắt nhìn mọi thứ đang tan biến trong sương mù dày đặc, cậu dồn hết sức lực hét lên một tiếng xé họng. Lỗ Nhất Khí choàng tỉnh từ trong tiếng hét, giật bắn mình bởi tiếng hét của chính mình. Ánh sáng toả ra từ viên đá huỳnh quang Ba Tư dã không còn rõ ràng như khi nãy, bởi lẽ giống hệt như trong giấc mơ của cậu, trong gian ám thất đã giăng kín một lớp sương mù ấm nóng. Cũng chính làn sương vây quanh đã khiến cậu có cảm giác nóng ran trong người. Trong ám thất còn có tiếng động lạ, vẳng đến từ tầng thấp hơn dưới nền ám thất, là tiếng róc rách của nước chảy. Lỗ Nhất Khí bật ngay dậy, cầm lấy viên đá huỳnh quang thận trọng đi về phía bên kia ám thất. Mới đi được hai bước, thì Thuỷ Băng Hoa đã kéo giật cậu lại, y hệt như cảnh tượng trong mơ, khác chăng ở chỗ cô ta không bám chặt không buông. Ở đó chẳng có gì, chỉ có vũng nước sâu hơn một thước đang bắt đầu lưu chuyển. Liệu trong nước có thứ gì kỳ quái? Không thể biết được! Thuỷ Băng Hoa thấy Lỗ Nhất Khí im lặng hồi lâu không có động tĩnh gì thì bước lại bên cậu. Nhìn thấy vũng nước chảy, cô ta thở phào mà nói: – Dưới mặt nước không có nút lẫy sống, mà có mạch nước ngầm! – Thuỷ Băng Hoa rất có kinh nghiệm về dòng nước chảy kiểu này, bởi lẽ vào mùa đông, tới bờ sông đập băng lấy nước, sau khi băng bị đập vỡ, dòng nước phía dưới mặt băng cũng thường có tình trạng tương tự. – Nói như vậy thì hai bên vũng nước hẳn là có đường thông? – Lỗ Nhất Khí nói đoạn, không đợi Thuỷ Băng Hoa trả lời, đã nhảy ngay xuống nước. Dưới mặt nước quả thật có mạch nước ngầm, hai bên vách tường cũng thực sự có đường nước ra vào. Có điều lỗ thông tuy rộng hơn hai thước, song lại chỉ cao bằng bàn tay, không đủ cho người bình thường chui qua. Mặc dù không thể chui qua đường nước chảy, song Lỗ Nhất Khí vẫn chưa vội lên ngay, mà tiếp tục mò mẫm quan sát kỹ lưỡng hai bên vũng nước, hy vọng có thể phát hiện ra điều gì đó hữu dụng. – Mau lên đi! Nước dâng cao hơn nhiều rồi! Mặt nước cũng bốc sương mù rồi kìa! – Thuỷ Băng Hoa nói đúng, không những nước đã dâng cao mà sương mù cùng dày đặc thêm nhiều. Ban đầu, sương mù chỉ toả ra từ các khe nứt, lỗ hổng trên tường, nhưng giờ đây, ngay cả mặt nước cũng bốc sương mù nghi ngút. Mặt nước bốc sương mù mới chính là trọng điểm, câu nói của Thuỷ Băng Hoa đã khiến cậu đột nhiên phát giác nhiệt độ của nước đã biến đổi rõ rệt. – Cậu có ngửi thấy không, trong sương mù có thứ mùi gì rất lạ? – Thuỷ Băng Hoa hỏi. Quả đúng vậy. Thứ mùi này dường như cậu đã từng ngửi thấy trước đó. Chinh là lúc Thuỷ Băng Hoa lau mặt cho cậu, trên mảnh khăn ướt cũng có mùi này. Mảnh khăn là của cô ta, vậy thì thứ mùi đó chỉ có thể xuất hiện trong nước. – Mùi vị này hình như hơi cay mũi! – Thuỷ Băng Hoa nói. Những hiện tượng này Lỗ Nhất Khí đều đã cảm nhận được, song đó vẫn chưa phải là điều cậu lo lắng nhất. Điều đáng sợ hơn cả chính là nước vẫn đang tiếp tục dâng cao, và nhiệt độ của nước cũng tăng lên một cách mau chóng. – Cậu có nóng không? Tôi thấy nóng chết đi được! – Thuỷ Băng Hoa vừa nói, vừa cởi áo bông ra. Lỗ Nhất Khí không trả lời, song cậu cũng bắt đầu cởi bỏ áo ngoài. Sương mù phun ra phì phì từ các kẽ nứt trên tường không những dày đặc mà còn nóng bỏng, mặt nước cũng bắt đầu sủi lên lục bục. – A! Hình như nước sôi rồi! Nếu nó dâng đến tận đây thì chúng ta biết làm thế nào? – Phát hiện của Thuỷ Băng Hoa cũng chính là điều Lỗ Nhất Khí đang lo lắng. Mặt nước đã dâng lên chỉ còn cách phần nền cao chưa đầy một thước, song vẫn không hề có dấu hiệu hạ xuống. Mồ hôi đã ròng ròng trên mặt Lỗ Nhất Khí, không chỉ vì quá nóng, mà còn vì trong lòng cậu đang lo lắng vô cùng. Nếu nước cứ tiếp tục dâng lên, cả cậu và Thuỷ Băng Hoa đều sẽ bị luộc chín. Nước không dâng lên nữa, mà bắt đầu sôi sùng sục, cuồn cuộn chảy qua trước mặt họ, hơi nước bốc lên nóng muốn lột da. Sương mù phun ra qua khe nứt và lỗ hổng trên tường cũng vô cùng nóng bỏng, nhiệt độ không hề thua kém so với hơi nước bốc lên từ dòng nước sôi sùng sục bên nửa còn lại của ám thất. Hơi nước bỏng rát và mồ hôi mặn chát khiến cho mắt họ cay xè. Thuỷ Băng Hoa đã trút hết quần áo ngoài, trên mình chỉ còn độc chiếc yếm màu hồng và manh quần cộc. Hơi nước và mồ hồi đã khiến mảnh yếm lụa ướt đẫm, dán chặt vào da thịt, nhìn thấy rõ hai núm tròn hằn lên trước ngực. Cô ta nằm cuộn tròn trên nền đất, hy vọng mặt đất sẽ mang lại chút hơi mát cho cơ thể. Trên người Lỗ Nhất Khí cũng chỉ còn lại một chiếc quần lót rộng màu trắng, hơi nước và mồ hôi cũng đã khiến manh quần giờ đây có cũng như không. Đã không còn chỗ nào để náu mình, đến mặt đất cũng bắt đầu nóng giãy, toàn bộ gian ám thất đã trở thành một chiếc nồi hấp khổng lồ. Vào đúng lúc đó, dưới con dốc ba khúc mà họ đã đi qua, trên đầm băng cứng, có một bóng người quái dị đang đâm từng cây kim dài đuôi đỏ vào một số thi thể còn mới, sau đó đốt một đạo bùa, miệng lầm rầm niệm chú. Cùng với tiếng tụng niệm mỗi lúc một vang, những cỗ xác bắt đầu động cựa, quẫy đạp, đẩy bật những khối băng dang đè trên cơ thể, lật tung lớp băng đang phong kín thân mình, đập vỡ những nhũ băng nhọn hoắt đang xuyên qua xác thịt, lần lượt đứng bật dậy với đủ mọi tư thế kỳ quặc quái đản, rồi bắt đầu bước đi. Một đám thi thể tả tơi lại có thể cất bước mà đi, không hề chậm chạp, tiến thẳng về phía lối vào thung lũng. Bọn chúng không phải là hồn ma, bọn chúng chỉ là công cụ, là vũ khí. Đây là thi khảm** trong truyền thuyết – thuật ngự thi (điều khiển xác chết). ** Tức sử dụng xác chết làm thành cạm bẫy. (Nd) Cũng cùng lúc đó, một tiếng súng đanh sắc xé tai và một tiếng súng hoả mai nặng trịch đồng thời vang lên tại lối vào thung lũng. Tiếng súng vừa vang lên, bầy sói liền thình lình hành động, không hề chuẩn bị, cũng không tru lên lấy một tiếng. Đây là một bầy sói đã được huấn luyện kỹ lưỡng, cũng là bầy sói hung hãn và xảo quyệt hạng nhất. Mục tiêu tấn công của chúng chính là hai con gấu khổng lồ. Hai con gấu bắt đầu rống lên vì giận dữ, cũng vì đau đớn. Bên dưới lòng đất có một đám người đang cuống cuồng bỏ chạy, phía sau là một đoàn người vung đao truy sát. Trong số những người bỏ chạy có lão mù, Quỷ Nhãn Tam, Nhậm Hoả Cuồng và Phó Lợi Khai. Còn những kẻ đang đuổi sát sau lưng, họ đều không quen biết. Có kẻ là đao thủ trong hội Minh tử tiêm đao, có kẻ là nút lẫy trong khảm diện Công tập vi, cũng có những kẻ họ chưa từng gặp mặt. Những kẻ mới xuất hiện còn lợi hại hơn nữa, tuy không cầm đao, chỉ dùng tay không, song toàn bộ cơ thể chúng hệt như một lưỡi đao sắc lạnh. Lão mù vừa giao thủ với chúng, chưa xuất được nửa chiêu, thì trên cơ thể đã thình lình bị rạch vài đường tứa máu. Dường như khắp người chúng đâu đâu cũng là đao nhọn, hơn nữa lại không thể nhận ra chúng xuất đao như thế nào. Còn may là bọn họ đang ở trong con đường hầm chật chội, còn may là trên tay Quỷ Nhãn Tam còn có cây Vũ Kim Cương giống như một tấm khiên lớn…. Lỗ Nhất Khí không biết mình đã ngất đi vì nóng từ lúc nào, song cậu biết mình đã bừng tỉnh vì giá lạnh. Khi cậu mở mắt ra, trong ám thất đã không còn một mảy sương mù, trên vách tường bao phủ một lớp sương trắng dày đặc. Thuỷ Băng Hoa vẫn cuộn tròn trên nền nhà, không biết là còn sống hay đã chết. Lỗ Nhất Khí không kịp cả mặc quần áo, vội vàng bò tới bên cạnh Thuỷ Băng Hoa. Cô ta vẫn chưa chết, đang rên rỉ khe khẽ, rồi bất giác ôm chầm lấy Lỗ Nhất Khí. Cô ta vẫn chưa hoàn toàn tình lại, song trong lúc hôn mê cô ta vẫn cảm thấy lạnh thấu xương. Một đôi nam nữ gần như hoàn toàn loã thể ôm chặt lấy nhau, chỉ là để truyền cho nhau ít nhiều hơi ấm. Lỗ Nhất Khí một tay ôm lấy Thuỷ Băng Hoa, tay kia nhặt đám quần áo vương vãì trên nền đất, quấn nháo nhào lên người cho Thuỷ Băng Hoa và cho chính cậu. Nhiệt độ trong ám thất tiếp tục sụt xuống nhanh chóng, cũng tựa như tốc độ tăng lên trước khi họ hôn mê. Luồng khí nhanh chóng phụt qua các khe nứt và lỗ hổng trên tường, phát ra những tiếng “ù ù” nặng nề. Lỗ Nhất Khí thậm chí đã nhìn thấy sương trắng từ từ ngưng tụ thành băng bám trên tường, tiếng nước chảy phía nửa bên kia của ám thất cũng chậm lại thấy rõ, trong tiếng nước róc rách dường như đã xen lẫn tiếng các mảnh băng va đập lanh canh. Thuỷ Băng Hoa cũng mau chóng tỉnh lại, song cơ thể vẫn chưa hết tê cứng. Lỗ Nhất Khí cũng vậy, các đầu ngón tay của cậu đã cứng đờ tới mức không giữ nổi quần áo. Trước tình trạng này, người đàn bà vốn đã nhiều năm sinh sống trong rừng già Đông Bắc đương nhiên sẽ giàu kinh nghiệm hơn. Cô ta ngồi phắt dậy, dùng hai lòng bàn tay chà xát lên khắp người Lỗ Nhất Khí. Động tác của Thuỷ Băng Hoa mới đầu còn chậm chạp, vì hai tay cô ta cũng đã lạnh tới tê cứng. Đến khi lòng bàn tay đã dược chà xát nóng lên, động tác của cô ta cũng trở nên thoăn thoắt. Cô ta mau chóng chà xát khắp người Lỗ Nhất Khí, từ cánh tay, lồng ngực, sau lưng cho tới hai chân. Lỗ Nhất Khí bắt đầu cảm thấy dễ chịu, không chỉ do cơ thể đã ấm lên, mà hình như còn vì những phản ứng tự nhiên khác trong cơ thể. Khi làn da khắp người cậu đã đỏ ửng và ấm nóng, Thuỷ Băng Hoa bèn giục cậu mặc quần áo vào. Quả là một phương pháp hiệu nghiệm! Lỗ Nhất Khí chẳng nghĩ ngợi gì, cũng lập tức đưa tay ra chà xát lên người Thuỷ Băng Hoa. Thuỷ Băng Hoa chỉ ngồi im bất động, hai mắt khép hờ, kệ cho hai bàn tay Lỗ Nhất Khí chà xát khắp cơ thể. Nhiệt độ vẫn tiếp tục giảm xuống, song Lỗ Nhất Khí lại bắt đầu cảm thấy bên trong cơ thể như bùng lên một ngọn lửa rạo rực, đã châm lên thì khó bề dập tắt. Cậu vẫn tiếp tục kiên nhẫn làm ấm cho Thuỷ Băng Hoa, từ tay vai cho tới tận bàn chân, dù cậu đã thấy thấm mệt, mệt đến nỗi hơi thở bắt đầu hổn hển. “Cách! Cách! Cách” Một tràng những tiếng động khe khẽ vẳng lại. Lỗ Nhất Khí vội dừng tay, cảnh giác quan sát xung quanh. Tiếng động cũng khiến Thuỷ Băng Hoa giật mình choàng tỉnh, và biết ngay mình phải làm gì. Nhân lúc cơ thể vẫn còn ấm nóng, cô ta vội vàng mặc hết quần áo lên người. – Mặt nước đóng băng rồi! Mau! Mau đứng dậy vận động chân tay, đừng ngồi nữa, nếu không chúng ta sẽ chết cóng! – Thuỷ Băng Hoa vội giục giã Lỗ Nhất Khí. Tiếng mặt nước đóng băng như thế này, cô ta đã nghe không biết bao lần. Trong ám thất, dưới ánh sáng lờ mờ toả ra từ viên đá huỳnh quang Ba Tư, hai người mũi miệng phả đầy khói trắng, lập cà lập cập chạy qua chạy lại. Cái bóng của họ run rẩy phản chiếu trên vách tường, lúc to lúc nhỏ, lúc lại vặn vẹo méo mó, trông vô cùng quái dị. Tiếng chuyển động của luồng khí đã trở nên mơ hồ, lúc này Lỗ Nhất Khí chỉ nghe thấy tiếng thở phì lao động đường phố của mình và tiếng mặt băng căng phồng nứt vỡ. Thuỷ Băng Hoa thò đầu ra nhìn, rồi vừa thở vừa run rẩy nói với Lỗ Nhất Khí: – Băng kết thành… nguyên một khối băng rồi! Không biết lúc nào… mới hết… lạnh đây! Họ đều đã mệt rã rời, không thể chạy thêm được nữa. Song họ không thể dừng lại, dừng lại sẽ lập tức chết cóng. Bởi nhiệt độ vẫn tiếp tục sụt xuống, sương giá đã ngưng đọng đầy trên mặt họ.
Lời Nguyền Lỗ Ban Quyển 3 - Chương 29: Trương phá huyệt Spoiler: Click vào để đọc – Gắng lên! Đừng để… không bị nấu chín… lại bị chết cóng! – Lỗ Nhất Khí vừa thở hổn hển vừa thều thào, song cậu không biết mình và Thuỷ Băng Hoa có thể gắng gượng được bao lâu nữa. Cuối cùng, Thuỷ Băng Hoa đã không còn đủ sức để vận động nữa. Cô ta loạng choạng hai bước tới trước mặt Lỗ Nhất Khí, vừa thở hổn hển, vừa nhìn Lỗ Nhất Khí với ánh mắt tràn đầy bất lực, tiếc nuối, tuyệt vọng và xen lẫn cả sự vỗ về an ủi. Lỗ Nhất Khí cũng dừng lại, cậu đã nhìn thấy ánh mắt lạ kỳ của Thuỷ Băng Hoa, và nhìn thấy hai giọt nước mắt trong suốt lăn ra từ khoé mắt. Song nước mắt còn chưa kịp lăn tới gò má, đã đông cứng lại trên khuôn mặt trắng nhợt. Thuỷ Băng Hoa đổ người về phía trước, ôm chầm lấy Lỗ Nhất Khí. Cậu cũng vòng tay ôm lấy cô ta. Hai người ôm chặt lấy nhau, đứng im lìm bất động như pho tượng đá. Không biết thời gian đã trôi qua bao lâu, xung quanh họ đột nhiên im ắng trở lại. Song chỉ một lát sau, từ khe tường bỗng có gió ấm thổi vào. Hai giọt nước mắt đóng băng dưới mắt Thuỷ Băng Hoa lập tức tan ra, lăn xuống hai gò má, giọt xuống cổ Lỗ Nhất Khí. Nhiệt độ trong ám thất lại trở về trạng thái bình thường. Song chỉ là tạm thời. Họ hoàn toàn không biết rằng nơi đây nóng lạnh luân phiên, tuần hoàn không ngừng nghỉ. – Giờ đây vẫn chưa đến lượt chúng ta chết! – Thuỷ Băng Hoa nói xong, liền buông tay khỏi Lỗ Nhất Khí, rút dao găm ra, đi tới bên vách tường, cạo xuống một mảng rêu ở đó. Đúng vậy, vẫn còn những người khác, như Quỷ Nhản Tam, lão mù, Phó Lợi Khai… Họ đều là người thân, là anh em tốt của cậu, họ coi trọng mạng sống của cậu hơn cả chính mình. Nếu bây giờ cậu buông xuôi, không những có lỗi với bản thân mà còn có lỗi lớn với họ. Nhưng giờ đây họ đang ở đâu? Liệu họ có giống như cậu lúc này, sống không bằng chết, đang khắc khoải chờ cậu đến cứu? Bởi vậy cậu không thể chết! Cậu phải nghĩ cách thoát khỏi nơi đây, đi tìm những người anh em của mình, hoàn thành đại sự mà tổ tiên để lại. Nghĩ tới đây, ánh mắt Lỗ Nhất Khí sáng bừng, vẻ mặt lại toát lên vẻ kiên định và điềm tĩnh vốn có. Thuỷ Băng Hoa đưa cho Lỗ Nhất Khí một mảng rêu, rồi nói: – Ăn đi! Đây là nấm sợi rêu. Tuy trông giống rêu xanh, song kỳ thực chính là nấm. Ăn nhiều vào, rồi uống thêm một chút nước! Không biết sẽ bị kẹt trong đây bao lâu nữa, không ăn gì sẽ không thể trụ nổi! Lúc này Lỗ Nhất Khí mới cảm thấy bụng đói cồn cào như dao cứa, lập tức cầm lấy mảng rêu, cho cả vào miệng nhai ngấu nghiến. Mùi vị của nấm sợi rêu không quá khó ăn, chỉ hơi chát như cỏ. Lỗ Nhất Khí ăn liền vài mảng lớn, sau đó tới bên vũng nước vốc nước lên uống. Song mùi vị của nước khó uống hơn nấm sợi rêu rất nhiều, khiến cậu suýt sặc. Ăn uống xong xuôi, hai người không ai nói câu nào. Lỗ Nhất Khí ngồi xếp bằng, song không thể định thần nổi. Thuỷ Băng Hoa nằm co quắp ở một góc nhà, mắt nhắm nghiền không biết đang suy nghĩ điều gì. Càng lúc Lỗ Nhít Khí càng bứt rứt không thể ngồi yên. Rồi đột ngột, cậu tựa như phát điên, chạy bổ tới bên tường, cạy liền mấy mảng rêu, bỏ vào miệng nhai nuốt nhồm nhoàm. Thuỷ Băng Hoa chau mày thót tim, song cô ta cũng không biết phải làm thế nào, chỉ biết cầu trời phù hộ. Sương mù loáng thoáng bay vào trong ám thất, dòng nước cũng bắt dầu chảy đi chầm chậm. Nhiệt độ trong mật thất đang tăng dần. Lỗ Nhất Khí vừa đấm thùm thụp vào vách tường, vừa lảm nhảm như mê sảng: – Nóng quá! Khó chịu quá! Ta phải thoát ra! Ta sẽ cho nổ tung chỗ này ra! Nổ tung chỗ này ra! Thuỷ Băng Hoa giật mình kinh hãi, vội vàng chụp lấy chiếc túi vải có đựng lựu đạn của Lỗ Nhất Khí giấu ra sau lưng. Ám thất càng lúc càng nóng nực, Lỗ Nhất Khí điên cuồng cởi bỏ quần áo vứt xuống nền nhà, miệng lầm bầm không ngớt: – Ta sẽ cho nó nổ tung! Ta sẽ cho nó nổ tung! – Rồi quay người đi tìm chiếc túi. Không thấy túi vải dâu nữa. Lỗ Nhất Khí quét mắt một vòng trong ám thất, rồi ánh mắt dừng lại trên người Thuỷ Băng Hoa. Lỗ Nhất Khí lừ lừ bước lại gần, vung tay chụp lấy cánh tay Thuỷ Băng Hoa, lôi cô ta ra khỏi góc tường. Thuỷ Báng Hoa tay đấm chân đá, chống cự quyết liệt. Cô ta biết cho nổ lựu đạn ở nơi này là hạ sách, chắc chắn sẽ hại đến bản thân. Song cô ta làm sao có thể kháng cự nổi Lỗ Nhất Khí đang trong cơn điên loạn. Cậu đã giằng dược chiếc túi đựng lựu đạn, hằm hằm bước tới bèn tường. Thuý Băng Hoa lồm cồm bò dậy, nhặt ngay lấy khẩu súng trường vô dụng đang chỏng chơ dưới đất, giơ cao báng súng, giáng thẳng cánh xuống đầu Lỗ Nhất Khí. Lỗ Nhất Khí lập tức đổ gục xuống đất giống như thân cây bị đốn ngang. Khi Lỗ Nhất Khí tỉnh lại, cậu thấy mình đang nằm trên nền nhà, gối đầu lên đùi Thuỷ Băng Hoa. Cô ta đang đưa đôi tay lạnh cóng và run rẩy chà xát trên cơ thể cậu. Đầu cậu đau như búa bổ, nỗi đau đớn khiến cậu nhớ lại hành động ngu xuẩn mà mình suýt nữa đã gây ra. – Xem ra chúng ta phải chết trong hai tầng băng lửa này rồi… – Thuỷ Băng Hoa ngoảnh đầu sang một bên, đờ đẫn mà nói. Tuy Lỗ Nhất Khí đã bình tĩnh hơn, đầu óc củng đã tỉnh táo trở lại, song cùng với động tác chà xát của đôi bàn tay trên da thịt, trong lòng cậu như có một ngọn lửa cháy bừng bừng không tài nào kiếm soát nổi. Nhìn bộ ngực căng tròn phập phồng dưới lớp yếm lụa trơn bóng, liên tục nhấp nhô theo cử động của đôi tay, ngọn lửa trong tâm càng trở nên dữ dội. Cậu đột ngột đưa tay lên giật phăng mảnh yếm mong manh trước ngực Thuỷ Băng Hoa. Thuỷ Băng Hoa không hề tỏ vẻ ngạc nhiên hay giận dữ. Lúc này, Lỗ Nhất Khí đã trở nên cuồng loạn chẳng khác gì lúc muốn nổ tung bức tường khi nãy, lập tức bật người dậy, đè chặt lấy Thuỷ Băng Hoa. Rồi giống hệt như con bò tót trong trường đấu bò, cúi gằm đầu hùng hục lao thẳng vào. Thuỷ Băng Hoa rú lên thảm thiết như xé gan xé ruột. Bình yên rồi cũng đến sau mấy trận mây mưa, lúc này trong gian ám thất cũng đã hết lạnh giá. Lỗ Nhất Khí chui ra từ trong đống quần áo rối loạn, tiện tay nhặt lấy một tấm áo bông quấn vội lên người, rồi ngồi xuống bên tường, mắt dán vào vách, không dám nói gì, càng không dám nhìn Thuỷ Băng Hoa. Cậu cảm thấy vô cùng hổ thẹn và quái lạ, không hiểu tại sao mình đột nhiên lại trở nên thú tính như vậy. Lại còn người đàn bà cầm đầu ổ chứa kia, tại sao vẫn là trinh nữ? Thuỷ Băng Hoa đang thu vén cho bản thân. Trên hai bắp đùi trắng nõn như tuyết của cô ta đỏ loang những máu, nhiều đến khó tưởng tượng. Cô ta nhúng tấm khăn bông xuống nước, cẩn thận lau chùi thật kỹ. – Tôi vốn là thạch nữ, nên kết hôn mới được ba ngày, chồng tôi đã vứt bỏ tôi đi ra Quan Ngoại. Tôi đi tìm anh ta là muốn xoá bỏ hôn ước cho anh ta lấy vợ mới. Song tìm được đến đây, tôi mới biết anh ta vừa lên núi không lâu đã bị gỗ đổ đè chết. Tôi cảm thấy rất có lỗi với anh ta, cũng chẳng còn mặt mũi nào trở về gặp mặt người thân bên nhà chồng. Đang lúc băn khoăn không biết đi đâu về đâu, trời xui đất khiến thế nào lại gặp được một ông lão kỳ dị. Ông lão đã giúp tôi xem mệnh cho nửa đời còn lại, rồi bảo tôi hãy đợi ở dây để gặp một người của Lỗ gia đi tìm bảo vật. Người này chính là một con người đá, chỉ có người đá mới có thể phá giải mệnh thạch nữ. Chính ông lão đã giúp tôi xây dựng Kim gia trại. Ông ta bảo tôi hãy lợi dụng bọn đàn bà trong trại để nghe ngóng, thu thập tất cả những thông tin có liên quan tới việc tìm kiếm báo bối và ám cấu nơi cất giấu bảo bối. Ông ta còn dạy tôi một số nguyên lý về phong thuỷ, khảm diện. Theo như lời ông ta thì truyền nhân Ban môn tại vùng đất này đã dung hoà một số học thuyết phong thuỷ đặc biệt vào trong kỹ thuật, vừa có thể theo hình mà xây dựng, theo hình mà bố trí, còn có thể mượn thuật đổi hình, mượn vật đổi hình. Song ông ta chưa từng nói cho tôì biết thân phận của mình. Ngưng một lát, cô ta nói tiếp: – Những thứ tôi học được chỉ là hời hợt bề ngoài, cũng chẳng mấy để tâm tới nhiệm vụ mà ông lão đã giao cho. Trong lòng tôi chỉ mong ngóng sớm gặp được người quyết đinh nửa đời sau của tôi. – Người đá? – Lời nói của Thuỷ Băng Hoa đã gợi nên sự hiếu kỳ trong lòng Lỗ Nhất Khí, nên cậu bất giác nhắc lại. – Ông lão có nói rằng, người đá mặt như đá núi, tim như lửa cháy. Người này tích tụ trong mình một năng lượng rất lớn, vào một thời khắc nào đó sẽ bùng nổ, phá giải được mệnh thạch nữ. Trong số những người tìm đến, tuy không chỉ có một mình cậu là truyền nhân của Lỗ gia, song tôi quan sát thấy cậu lúc nào cũng điềm nhiên như đá, không chút kinh động, song mỗi lời nói việc làm đều khác hẳn bình thường, nên đoán chắc rằng cậu chính là người tôi cần tìm. Lời đoán mệnh năm xưa quả nhiên đã chứng nghiệm. Cậu quả là lợi hại! – Mấy chữ cuối cùng của Thuỷ Băng Hoa tình tứ vô hạn, xuân ý tràn trề. – Bởi lẽ thứ tôi vừa ăn không phải là nấm sợi rêu! – Lỗ Nhất Khí đang ngồi quay mặt vào bức vách đột nhiên kêu lên kinh ngạc – Chị lại đây xem này! Thuỷ Băng Hoa cũng ngạc nhiên không kém, vội vã nhặt viên đá huỳnh quang Ba Tư lên chạy lại xem. Hai người châu đầu lại với nhau, cùng quan sát kỹ lưỡng một mảng nấm giống hệt rêu đóng rất dày trên tường. Quả nhiên sau khi nhìn kỹ, mới thấy chúng có chỗ không giống. Loài thực vật này đứng là loài nấm, song chắc chắn không phải là nấm sợi rêu. Trên nấm sợi rêu đáng lẽ phải mọc chi chít những sợi lông nhọn màu nâu, còn trên loài nấm này lại mọc đầy những sợi lông nhỏ dầu tròn, trông giống như vô số bộ phận sinh dục đàn ông bé xíu. – Bì thung dung! – Dường như Thuỷ Băng Hoa có biết thứ này. – Chị nói là bì thung dung trong mười tám vị tiên dược ư? – Tôi không biết có phải hay không, song nghe nói hơn mười năm trước, có người từng hái được nửa sớ*, bán được giá tiền ngang với ba cân sâm già. Nó là bảo bối cực phẩm trong tam bảo Quan Đông, có công hiệu gấp mấy chục lần so với thung dung bình thường. * Sớ là đơn vị tính trọng lượng thường được sử dụng trong kỹ viện thời xưa. một sớ có kích thước bằng khoảng một quân bài tú lơ khơ. Tương truyền xưa kia khi rồng trời và ngựa hoang giao hợp, tinh của rồng nhỏ xuống đất mà mọc thành thung dung, có tác dụng tráng dương bổ thận vô cùng kỳ điệu. Giống bì thung dung công hiệu còn mạnh gấp mấy chục lần thung dung bình thường, có thể tưởng tượng nó kỳ điệu đến thế nào. Trong “Phương ngoại kỳ dược tam giai luận”** thời Nam Bắc triều có chép rằng, kỳ dược trên thế gian phân thành ba cấp độ, là thiên đan, tiên dược và thảo tinh. Bì thung dung được liệt vào trong mười tám vị tiên dược, đầu tiên được các đạo sĩ luyện đan trong cung đình dùng để luyện đan. Tương truyền sau khi luyện thành đan hoàn, nam giới ăn vào dương vật cứng như thép, có thể quan hệ liên tục với mười nữ mà không mềm không phóng tinh. Người đời sau không luyện đan nữa, có dược sư đã dùng lưu huỳnh để xông, sau đó sử đụng trực tiếp, song hiệu quả còn hơn cả đan hoàn. ** Đây kỳ thực không phải là một cuốn sách, mà chỉ là một bài viết khá dài. Về tác giả, có ý kiến cho rằng là quan Thái y Tư Mã Chỉ Căn, cùng có ý kiến cho là thầy thuốc dân gian Phùng Sĩ Thịnh. Tác phẩm này đã kết hợp nhiều loại truyền thuyết và điển tích về y dược để tiến hành phân tích và giải thích về các loại thảo dược kỳ lạ hiếm có. Đương nhiên trong đó cũng có một số nội dung sai lệch thiếu chính xác, song vẫn có không ít nội dung rất được Đông y coi trọng. – Tôi biết rồi, bản thân bì thung dung đã là vị thuốc tráng dương, mà hơi nước và nước ở nơi đây đều có thứ mùi quái lạ, lúc trước chú Hạ có nói là mùi lưu huỳnh. Lúc nãy khi ở dưới nước, tôi không hề cảm thấy nước nóng lên, có lẽ đã bị lựu huỳnh trong nước hun cho tê dại. Bì thung dung sinh trưởng ở đây không cần phải xông qua lưu huỳnh cũng đã là vị thuốc tráng dương rất mạnh, mà tôi còn uống thêm mấy ngụm nước chứa lưu huỳnh. Thảo nào…, tôi cứ nghĩ mình không thể làm chuyện sai lầm như thế… – Lỗ Nhất Khí nói rất thực thà, song cũng là để tìm ra lý do để biện hộ cho hành động của mình. Thuỷ Băng Hoa liếc xéo Lỗ Nhất Khí với ánh mắt trách móc: – Cậu nói vừa rồi cậu đã làm chuyện sai lầm? – Phải… à, không phải… À phải! Không phải… Thì ra Lỗ Nhất Khí cũng có lúc lóng ngóng cuống quýt. Thuỷ Băng Hoa không nhịn được bèn phì cười. – Có điều cậu nói rất đúng. Tôi cũng từng nghe nói trước đây có người dùng bì thung dung chế biến xuân dược. Người địa phương gọi nó là “trương phá huyệt”. Thế nhưng, cho dù bì thung dung là thứ thuốc gì, muốn sống sót vẫn cứ phải ăn. Tuy Lỗ Nhất Khí có định lực siêu phàm, nhưng ăn thêm hai ba lần nữa, vẫn kiềm chế không được mà lại lao vào cơ thể Thuỷ Băng Hoa. Nhưng lần giao hợp thứ ba đã diễn ra trong lúc Lỗ Nhất Khí vẫn còn tỉnh táo. Có lẽ vì mới được nếm mùi hoan lạc của chuyện gái trai, cũng có lẽ vì muốn tận hưởng những thời khắc cuối cùng của cuộc đời, nên khi Thuỷ Băng Hoa vừa kín đáo gợi ý, hai người đã nhanh chóng đi vào một cuộc giao hoan mỹ mãn đầu tiên, và rất có thể cũng là cuối cùng trong cả cuộc đời. Một vòng nóng lạnh mới lại tiếp diễn, cả hai người đều cảm giác cái chết đã cận kề. Họ ôm chặt lấy nhau, co quắp trong một góc tường, gắng gượng duy trì chút hơi ấm đang mỗi lúc một nguội lạnh. Thuỷ Băng Hoa không biết Lỗ Nhất Khí đang nghĩ gì, khó mà dò đoán được tâm tư của cậu qua vẻ mặt lúc nào cũng điềm nhiên tĩnh lặng. Song cô ta cảm thấy giờ đây Lỗ Nhất Khí đã là người đàn ông của mình, nên cần phải tìm cách khiến cậu cảm thấy vui vẻ, cho dù đã đi đến thời khắc cuối cùng của cuộc đời. Thuỷ Băng Hoa cắn nhẹ vào vành tai của Lỗ Nhất Khí, khẽ nói: – Cậu thật tuyệt vời! Với tôi, cậu chính là “trương phá huyệt” thực thụ! Lỗ Nhất Khí đột nhiên hưng phấn lạ thường, vội đẩy Thuỷ Băng Hoa ra, đứng phắt dậy mà nói: – Chị vừa nói gì? Chị nhắc lại xem nào! Thuỷ Băng Hoa đã hiểu lầm nguyên do khiến Lỗ Nhất Khí trở nên hào hứng, bèn tình tứ nhìn Lỗ Nhất Khí, đôi mắt long lanh mà nói: – Cậu chính là “trương phá huyệt” thực thụ! – Phải rồi! Chúng ta cần phải “trương phá huyệt” cho nơi đây! – Lỗ Nhất Khí nắm chặt tay lại, đấm mạnh lên bức tường ám thất. Kỳ thực, từ trước đó Lỗ Nhất Khí đã nghĩ rằng, bên dưới lòng đất chắc chắn có một hệ thống vô cùng đồ sộ và phức tạp, còn gian ám thất đang cầm chân họ chỉ là một mắt xích nhỏ trong cả hệ thống, một mắt xích có thể dùng làm nút lẫy. Dòng sông ngầm trong tầng nham thạch dưới lòng đất bị địa nhiệt nung nóng đến sôi sục, cứ cách một khoảng thời gian lại trào lên tuôn chảy, tương tự với nguyên lý phun trào gián đoạn của suối nước nóng. Nhưng khác ở chỗ, dòng sông ngầm tuần hoàn khép kín, nước ở bên trong không chảy ra ngoài, chỉ có hơi nước bốc lên, rồi trào ra ngoài qua các khe nứt, lỗ hổng trên vách núi, gặp lạnh liền ngưng tụ thành sương mù. Hơi nước nóng bên trong hệ thống sẽ khiến áp suất tăng cao. Khi áp suất bên trong đạt tới một mức độ nhất đinh sẽ đẩy bật một cửa van nào đó, mau chóng xả ra. Bản thân địa nhiệt vào lúc tạm dừng cũng sẽ khiến nhiệt độ sụt giảm, lại thêm áp suất tụt xuống nhanh chóng sẽ lập tức lấy đi rất nhiều nhiệt năng. Thực chất, đây chính là quy trình làm lạnh, khiến cho toàn bộ hệ thống chỉ trong một thời gian rất ngắn đã chuyển từ nóng nực ngột ngạt sang lạnh giá cực độ. Trong trường Tây học, Lỗ Nhất Khí đã học được rằng, nước gần tới lúc đóng băng sẽ có thể tích nhỏ nhất, sau đó dù nhiệt độ tăng lên hay hạ xuống, thể tích của nước cũng tăng lên theo tỉ lệ nhất đinh. Trong quá trình tăng thể tích sẽ tiềm tàng một nguồn năng lượng lớn đến khó tưởng tượng, giống như là hạt giống nảy mầm. Lỗ Nhất Khí dùng con dao găm của Thuỷ Băng Hoa cạo lấy một mảng bì thung dung thật lớn, rồi ép chặt, vê thành từng nắm. Cậu chọn lấy vài lỗ hổng và khe nứt trên vách tường bên phía dòng nước chảy đi, nhét bì thung dung vào trong, còn lấy nòng súng ấn vào thật chặt. Sau đó cậu đổ một ít nước vào, để bì thung dung ngấm nước trương lên, bịt kín những khe hở và lỗ hổng. Khi các khe nứt và lỗ hổng bị bịt kín đều đã được đổ đầy nước, nhiệt độ nước đã hạ xuống rất thấp, trên mặt nước cũng bắt đầu đóng băng, Lỗ Nhất Khí trèo lên bờ, thấp thỏm chờ đợi điều kỳ diệu xảy ra. Nhiệt độ sụt giảm nhanh chóng. Lỗ Nhất Khí và Thuỷ Băng Hoa ôm chặt lấy nhau, nhưng hai mắt vẫn dán chặt vào vách tường, quan sát xem liệu có gì thay đổi. Cuối cùng, vang lên một tiếng vỡ đanh giòn, trên bức tường xuất hiện một số kẽ nứt răng cưa không ngừng vươn dài, tựa như một hoạ sĩ tranh thuỷ mặc đang tô vẽ một cành mai khô gầy cứng cáp. Những tiếng rạn vỡ mỗi lúc thêm dồn dập, âm thanh giòn vang khoẻ khoắn, giống như một lực sĩ đang kéo mạnh dây cung. Nước trong những vết nứt và lỗ hổng đều đóng thành khối băng, nở ra phía ngoài thành những khối hình bán cầu. Những đường rạn nứt kéo dài, ngang dọc đan xen, nối liền những vết nứt và lỗ hổng lại với nhau. – Nứt rồi! Chị nhìn kìa, nứt cả rồi. Đợi đến lúc băng tan, toàn bộ sẽ vỡ vụn. Chỉ có điều không biết bức tường này dày bao nhiêu, cầu mong phía sau nó không phải là vách núi, nếu không cũng coi như xong! – Lỗ Nhất Khí nói trong run rẩy. Một lát sau, ám thất lại ấm trở lại, băng tan nhanh chóng. Lỗ Nhất Khí và Thuỷ Băng Hoa hợp sức đẩy tung những mảng gỗ thần cương đã nứt vỡ. Phía sau bức tường không phải là vách núi, mà là một đường hầm lát gạch. Phía cuối đường hầm có một khe nối so le xây bằng gạch. Khe nối so le chính là chỗ nối tiếp giữa hai bức tường. Theo kỹ thuật được ghi chép trong “Ban kinh”, khe nối so le trên tường thường được thiết kế ở vị trí cách góc tường một viên gạch, như vậy vừa đảm bảo mỹ quan, lại có thể tăng cường độ kiên cố cho bức tường. Song khe nối ở đây lại được đặt ở chính giữa bức tường bít phía cuối đường hầm, đây là một sai lầm ngô nghê mà ngay cả một thợ mộc bình thường cũng không thể phạm phải. Vậy mà nó lại xuất hiện ở trong ám cấu do tổ tiên Lỗ gia để lại, nên chỉ có một khả nãng duy nhất: đây là một cánh cửa ngầm. Kỳ thực lợi dụng khe nối để đặt cửa ngầm, nếu bố trí khéo sẽ rất khó phát hiện ra. Nó sẽ lợi dụng các viên gạch đặt cạnh nhau để quá độ từng bước, sau cùng chỉ chừa lại một viên gạch lệch vị trí. Viên gạch này có thể đặt ở trên cùng hoặc dưới cùng của tường, thậm chí có thể giấu ở trong đất. Cửa ngầm đã được giấu ở phía dưới chân tường, bởi vậy chỉ cần phát hiện ra cửa ngầm, sẽ có thể dễ dàng mở ra. Vì đây là ám cấu do các bậc tổ tiên Lỗ gia thiết kế, phương pháp có biến hoá đến đâu cũng không lìa tông. Lỗ Nhất Khí đạp chân lên viên thứ ba, đầu gối đẩy viên thứ bảy, tay ấn vào viên thứ mười một, rồi dùng một tay đẩy ngang. Đây chính là chiêu pháp viết trong “Ban kinh”. Cửa ngầm từ từ mở ra. Rìa đá khổng lồ chắn ngang trước mặt Trong gian thạch thất không hề có đá tiêu thạch, vị trí lại ở phía trên hang tiêu thạch, nên dù có mở cửa thì khí diêm tiêu vốn chìm xuống dưới cũng không thể vào được bên trong. Trên bốn vách đá đều có rất nhiều tinh thể phát quang, nên gian thạch thất rất sáng sủa, bởi vậy vừa nhìn đã có thể phát hiện thấy âm thanh được phát ra từ một đám rìu đá liên tục nâng lên đập xuống một cách tuần tự. Rìu đá rất lớn, còn lớn hơn cả súc gỗ đập trong gian điện không xà, lại phân bố dày đặc, gần như giăng kín toàn bộ gian thạch thất… Giờ đây không phải lúc để khoe khoang, điểm này Phó Lợi Khai hiểu rõ, gã liền nói: - Trục chuyển động của khảm diện này ở dưới chân. Bình thường rìu đá được treo trong khe nứt trên nóc nhà, chỉ cần đi sai bước dưới nền đá, chạm vào trục chuyển động, rìu đá ở vị trí tương ứng sẽ lập tức rơi xuống chém vào người trong khảm diện. Hơn nữa, cho dù người trong khảm công lực cao siêu mà tránh né được, thì vẫn còn chiếc rìu thứ hai đợi sẵn, chắc chắn không thể tránh kịp!
Lời Nguyền Lỗ Ban Quyển 3 - Chương 30: Đất rực lửa Spoiler: Click vào để đọc Phía sau cánh cửa là một thế giới quái dị. Một hang động khổng lồ hiện ra trước mắt Lỗ Nhất Khí và Thuỷ Băng Hoa, trong hang dộng có rất nhiều khúc gỗ tròn to ngang thùng nước, được ghép nối, xếp chồng lên nhau, tạo thành hình dạng đan xen tiếp nối, cao thấp lượn vòng. Chỉ nhìn vào kỹ thuật chồng xếp, ghép nối của các khúc gỗ, đã có thể nhận ra bóng dáng của kỹ thuật Lỗ gia. Những khúc gỗ tròn được ghép lại một cách khít khao, tới mức hầu như không lộ ra một dấu vết ráp nối nào. Cách chồng xếp các khúc gỗ vô cùng khéo léo, lợi dụng được tối da không gian trong hang động; các điểm chồng xếp cũng đa phần lợi dụng các kết cấu tự nhiên của vách hang và trụ đá, chỉ chồng thêm một số ít các đống gạch tại một vài nơi cần thiết. Những đống gỗ tròn hình thù phức tạp được tập hợp thành hai ngả, chạy theo cùng một hướng. Nơi đó có một nhánh hang nhỏ, cũng là một hang đá tự nhiên cao khoảng một thân người. Lỗ Nhất Khí quan sát đống gỗ tròn, chất gỗ có vẻ giống như chất liệu của vách tường ám thất, là gỗ thần cương. Song khi gõ nhẹ lên gỗ, lại thấy hai đống gỗ phát ra hai kiểu âm thanh khác nhau; một bên âm thanh vang rỗng, còn một bên nghe trầm nặng. Không hiểu chúng được dùng vào việc gì? Hai người lại tiếp tục đi dọc theo đám gỗ lên phía trước thăm dò. Song Lỗ Nhất Khí không biết lằng, trong gian ám thất vừa rồi có một đường rạn nứt mà họ đã không để ý tới, giờ đây đang từ từ chạy thẳng xuống phía dưới, chìm vào trong nước, lan xuống chân tường. Nước đọng đã theo kẽ nứt thấm xuống phía dưới. Sau mấy lần tan băng rồi lại đóng băng, kẽ nứt tiếp tục đượt mở rộng, cuối cùng đã trở thành một khe hở toang hoác kéo dài xuống tầng sâu. Kết cấu nền đất phía dưới không thể kiên cố và chắc chắn như tường ám thất, nên khe hở vừa nãy đã nối liền với một khe nứt còn rộng hơn nữa ở dưới lòng đất. Dưới tác dụng của một sức mạnh nào đó bên dưới lòng đất, chúng đã biến thành một đường đứt gãy liền mạch. Và thế là một năng lượng khổng lồ đã từ từ dâng lên theo đường đứt gãy, đuổi theo Lỗ Nhất Khí… Lỗ Nhất Khí và Thuỷ Băng Hoa tiếp tục đi về phía trước, và phát hiện ra rằng cứ cách một đoạn, khúc gỗ tròn lại xuyên qua một bệ cao bằng gạch hình trụ kín mít. Bệ gạch do con người xếp nên, trên bệ có cửa van, tạo hình thô sơ đơn giản theo kiểu cổ xưa, cho thấy niên đại đã rất lâu đời. Cửa van chốc chốc lại bất ngờ mở toang, phun ra một luồng khí nóng bỏng, rồi lập tức khép lại. Nhìn vào hình dạng, có thể đoán rằng chúng là cửa xả để điều chỉnh áp suất bên trong. Ở trên đỉnh của bệ cao còn có một lò tràn nước, thường xuyến có dòng nước nhỏ trào ra, chảy dọc theo lớp gạch xuống dưới, rồi nhanh chóng biến mất không thấy đâu nữa. Một giả thiết liều lĩnh đã dần dần hình thành trong trí não Lỗ Nhất Khí: ở đây có một nguồn địa nhiệt mang tính gián đoạn, do có nguồn nước ngầm dồi dào nên cũng tương tự như một hệ thống hơi khổng lồ. Tất cả các cấu tạo ở đây đều nhằm lợi dụng nguồn địa nhiệt. Thử nghĩ mà xem, ngoài áp suất hơi nước, thì còn ai đủ sức dịch chuyển được khảm ống bễ đồ sộ ngoài kia? Ai đủ sức chuyển động súc gỗ đập trong đại điện? Chỉ có sự biến hoá nóng lạnh với biên độ lớn nhường đó mới tạo ra được những cơn gió lốc cực mạnh trong đại điện, cũng chỉ có hơi nước do địa nhiệt sinh ra mới có thể khiến toàn bộ lũng núi rộng thênh thang luôn mịt mù sương khói. Những khúc gỗ chồng xếp lên nhau kỳ thực chính là những đường ống rỗng ruột, dùng để vận chuyển nước nóng và hơi nước. Đây chính là lý do vì sao hai tổ hợp gỗ tròn hai bên lại phát ra hai loại âm thanh khác nhau, vì một bên là đường dẫn hơi, còn một bên là đường dẫn nước. Đường dẫn ở đây không những kiên cố khác thường, mà còn có thể chịu được nhiệt độ rất cao, nếu không, làm sao có thể tồn tại hàng ngàn năm mà không hề suy suyển. Do đó, Lỗ Nhất Khí lại cảm thấy những khúc gỗ trước mặt có vẻ giống với tinh thạch vân gỗ* hơn. Bởi lẽ tinh thạch vân gỗ không những vô cùng cứng rắn, mà còn chịu được nhiệt độ rất cao, vì nó được tạo ra từ dung nham núi lửa. Nhưng các bậc tiền bối làm thế nào để tìm được nhiều tinh thạch vân gỗ đến thế? Trừ phi chúng có sẵn ở chính mảnh đất này, hoặc là công trình đã được xây dựng ngay trên địa mạo của một mỏ khoáng tinh thạch? Bởi lẽ rất nhiều hiện tượng đã cho thấy rằng, nơi đây là một ngọn núi lửa tràn trề năng lượng. * Khi dung nham núi lửa sắp nguội bao quanh thân cây, sẽ khiến nước trong thân cây bốc hơi, sau vài nghìn năm sẽ hoá thành khoáng thạch, gọi là tinh thạch vân gỗ. Loại đá này được ghi chép trong “Tây Vực cống vậtsách” đời Đường. - Có phải lại đến lúc nóng lên rồi chăng? Chỗ này dường như cũng đang ấm lên! – Thuỷ Băng Hoa đã phát hiện ra sự biến đổi. Quả thực là như vậy! Lời nói của Thuỷ Băng Hoa đã khiến Lỗ Nhất Khí phát hiện ra, cửa van khi nãy vốn thi thoảng mới xả hơi một lần, giờ đây bắt đầu mở ra liên tục. Đột nhiên, hai chân họ bỗng rung lên bần bật, toàn bộ trái núi dường như đang lắc lư nghiêng ngả. Họ phải vội vàng bám chắc vào vách hang mới đứng vững. Cơn rung lắc nhanh chóng qua đi, chỉ còn từng mảng bùn đất và đá vụn từ trên nóc hang rào rào rơi xuống. - Đi mau! - Theo lối này chắc là không ra được, ở đây là một máng truyền động**. Tốt nhất chúng ta hãy quay lại khảm diện, sau đó tìm khuyết phá huyền mới là con đường chính xác! – Thuỷ Băng Hoa nói rất có lý, họ thoát ra khỏi ám thất nóng lạnh vừa rồi không phải nhờ tìm được chỗ khuyết, giải được nút lẫy, mà là phá tường chui ra. Bởi vậy ở nơi này không thể tìm ra lối thoát. ** Các linh kiện trong bộ phận truyền động của cơ quan không được để lộ ra ngoài, mà phải lắp ở trong những đường máng, rãnh ngầm kín đáo, nếu không phương thức hoạt động và cách thức bố trí của cơ quan sẽ bị phát hiện dễ dàng. Các máng ngần, rạch ngầm chứa bộ phận truyền động được gọi chung là máng truyền động. Đương nhiên họ sẽ không quay trở lại ám thất khi nãy, bởi lẽ khảm diện đó họ không có khả năng phá giải. Do vậy, Lỗ Nhất Khí đã lựa chọn một phương pháp hết sức ngốc nghếch, đó là tìm ra một vách tường có dấu vết nhân tạo rõ ràng nhất, rồi tiếp tục phá tường chui ra, quay trở vào khảm diện. Thế là Lỗ Nhất Khí và Thuỷ Băng Hoa vội vã đi về phía trước, vừa đi vừa tìm kiếm. Cùng với sức nóng đang tăng lên vùn vụt, ruột gan họ cũng cuống lên như lửa đốt. Trước mặt họ lại xuất hiện một hang đá khổng lồ nữa, lòng hang rộng rãi sáng trưng. Bởi lẽ trong hang có hai chiếc vạc đồng rất lớn, bên trong lửa cháy rừng rực. Khi Lỗ Nhất Khí và Thuỷ Băng Hoa vẫn còn vội vã sải bước trong đường hầm, thì từ sâu dưới lòng đất có một luồng điện xẹt thẳng vào trong hang, chớp lên ánh hào quang chói loà. Luồng điện lao vụt vào trong hai chiếc vạc đồng, khiến dầu trong đó bùng cháy dữ dội. Đây là đại điện, cũng là tín hiệu dự báo sắp có một biến động cực lớn xảy ra từ sâu trong lòng đất. Xung quanh càng trở nên nóng bức ngột ngạt, các đường ống cũng bắt đầu nóng giãy, cửa phun khí liên tục đóng mở, phát ra những tiếng phì lao động đường phố, tựa như cả đoàn người đang thở gấp trong cơn chạy thục mạng. Trước tình cảnh này, đừng nói là người có cảm giác siêu phàm như Lỗ Nhất Khí, đến cả Thuỷ Băng Hoa cũng ý thức được mối nguy hiểm đang cận kề, nỗi khiếp đảm đã choáng ngợp trong ánh mắt. Sự thực vẫn luôn khiến người ta tuyệt vọng, họ không những không thể tìm ra một bức tường nhân tạo, mà phía trước cũng đã hết đường. Hai đường ống đến đây đã chìm vào trong vách đá kiên cố, không biết dẫn tới nơi đâu. - Mau quay lại tìm đường khác! – Thuỷ Băng Hoa đã hắt đầu hoảng loạn. - Nhưng suốt dọc đường không hề nhìn thấy lối đi nào khác! – Lỗ Nhất Khí vẫn đủ bình tĩnh. - Vậy giờ làm thế nào? - Đừng sợ! Sẽ có cách! Nói đoạn, Lỗ Nhất Khí lập tức ngưng thần tĩnh khí, đưa tâm thái quay về sự điềm tĩnh tự nhiên. Sau khi chìm trong trạng thái siêu nhiên, cảm giác của cậu bắt đầu lao nhanh trong đường hầm tăm tối. Cậu mơ hồ lại như nhìn thấy khối đá đen tuyền trong ám thất Bắc Bình, song khối đá đột nhiên mềm nhũn và tan chảy, hoá thành một dòng chảy đỏ rực nóng bỏng, ngoằn ngoèo trườn về phía trước, vây kín quanh cậu. Lỗ Nhất Khí kêu lên kinh hãi, cậu gần như đã cảm nhận thấy một cơn bỏng rát còn khủng khiếp hơn cả lửa cháy. Lỗ Nhất Khí choàng tỉnh khi tiếng kêu còn chưa dứt, lập tức nghe thấy tiếng rú thất thanh của Thuỷ Băng Hoa. Cô ta đã nhìn thấy một đám sinh vật đen lúc nhúc tràn ra từ trong hang, lao vụt về phía mình. Đó là một bầy chuột núi đông nghịt, trong bầy có lẫn vài con tê tê và hơn chục con rắn. Lúc này cả bầy sinh vật tỏ ra vô cùng đoàn kết, trái hẳn với quy luật tư nhiên, sau khi tràn vào trong hang, thì nhất loạt chui cả vào một góc, run lên cầm cập. Thuỷ Băng Hoa ngoảnh lại, thấy Lỗ Nhất Khí mặt mày thảng thốt, ánh mắt sững sờ, thì biết rằng tình thế đã cực kỳ nguy cấp. Cô ta bèn bước lại gần, nắm chặt lấy cánh tay cậu, nhìn cậu với ánh mắt vô cùng bình thản. Nếu như đã không còn hy vọng, được chết cùng người mà số phận đã run rủi cho mình, kể cũng không còn gì phải hối tiếc. Trước khi trận huỷ diệt ập đến, xung quanh bỗng chốc yên ắng lạ thường, ngay cả ngọn lửa đang cháy trong hai vạc đồng cũng trở nên âm thầm không một tiếng động, chỉ có các cửa van trên đường ống thi thoảng lại rít lên một tiếng dài vang động. Một nguồn năng lượng khổng lồ có thể phá huỷ tất cả đang ập tới gần, tuy chậm rãi, song khí thế không gì cản nổi. - Hết cơ hội rồi phải không? – Thuỷ Băng Hoa điềm tĩnh hỏi. Lỗ Nhất Khí gắng trấn tĩnh lại, rồi kéo Thuỷ Băng Hoa lại gần, ôm chặt lấy cô, ôm chặt lấy người đàn bà đầu tiên trong cuộc đời mình, và rất có thể cũng là người đàn bà duy nhất trong đời cậu. Cơ thể Thuỷ Băng Hoa tuy mềm mại như bông, song đôi tay lại rất mạnh mẽ, cô cũng ôm chặt lấy Lỗ Nhất Khí, chỉ mong cái ôm này sẽ khiến hai cơ thể hoà vào làm một. Lỗ Nhất Khí đã nhắm mắt lại để cảm nhận chút ấm áp cuối cùng, cũng là chờ đợi cơn huỷ diệt đang ập tới: - Ở đây nhất định có lối thoát, không được để nỗi sợ hãi làm rối loạn sức phán đoán của chúng ta. Nếu không, chúng ta còn chẳng bằng những con vật kia! Đương nhiên, đó là Lỗ Nhất Khí đang tự nhủ với chính mình. Vì sự thực là cậu đã bỏ quên mất một chi tiết, đó là trong hang động dưới núi, chính loài chuột núi, tê tê và rắn lại có khả năng tốt nhất trong việc tìm ra đường sống. Trong tác phẩm “Kham bí u bản lục“ của Lý Thuận Bình người Nam Đường thời Ngũ Đại có chép về việc “dắt theo chuột thoát khỏi sông ngầm chín dặm”. Giờ đây, cả lũ động vật bé nhỏ kia đang túm tụm tại một góc của hang đá, cho thấy một sự thật hết sức hiển nhiên: phía sau vách đá có đường sống. Thuỷ Băng Hoa vốn là người tinh tế, hình như đã phát hiện ra điều này. Cô nhẹ nhàng thoát ra khỏi vòng tay của Lỗ Nhất Khí, tiến lại chỗ đám động vật tụ tập dày dặc nhất. Trước những sinh linh nhỏ bé đang run lên khiếp đảm, cô khác nào một nữ thần cứu thế, mỗi bước đi chậm rãi của cô đều đặt đúng vào khoảng trống mà đám động vật đã dạt ra để nhường đường. Cuối cùng, trước hàng trăm hàng nghìn cặp mắt đau đáu, Thuỷ Băng Hoa áp sát thân người lên vách tường, thả lỏng tứ chi, dang rộng hai tay, bắt đầu sờ soạng lên toàn bộ vách tường trơn bóng một cách vô cùng tỉ mỉ không bỏ qua bất cứ tiểu tiết nào. Tìm thấy rồi! Quả nhiên là một cánh cửa ngầm! Cánh cửa được nguỵ trang một cách hoàn hảo, gần như hoà thành một thể với vách tường. Dưới ánh sáng của hai vạc lửa, chỉ quan sát bằng mắt thường sẽ không tài nào nhận ra được. Trình tự mở ám môn cũng là kỹ pháp điển hình của Lỗ gia. Thuỷ Băng Hoa dễ dàng tìm ra chốt chống***, gạt lẫy để mở chốt chống ra. Lỗ Nhất Khí cũng đã bước lại, dồn hết sức lực đẩy cửa đá sang một bên. Cánh cửa đá nặng nề nhích ra từng chút một. Chỉ cần đẩy qua được chốt chống, chuyển động sẽ dễ dàng hơn. Nhìn thấy cửa đá đã mở ra hơn một tấc, Thuỷ Băng Hoa phấn chấn đến nỗi khuôn mặt đỏ bừng, giống hệt như màu sắc của dòng nham thạch nóng chảy đã lừ lừ đổ vào lòng hang. Đám chuột núi và rắn đã ào ào chui qua khe hở. Tê tê tuy chưa thể chui lọt, song vẫn cố sống cố chết chen vào. Cửa đá lại mở thêm nửa tấc nữa, một số con gầy nhỏ đã chui lọt, song đám tê tê to xác hơn vẫn đang quẫy đành đạch trong khe cửa. *** Là thiết bị khoá trái bằng cách trượt, tại hướng chính có thể trượt đi, sau khi trượt hết vị trí thì khoá chặt lại. Nếu muốn trượt đi theo chiều ngược lại thì cần tháo bỏ thiết bị này mới có thể tiến hành. Cũng tương tự như loạikhoá lẫy một chiều phổ biến hiện nay. Bàn tay Lỗ Nhất Khí cảm giác thấy cửa đá đã trôi qua chốt chống, bèn nhanh chóng điều chỉnh lại tư thế, chuẩn bị đẩy một nhát mở hẳn cánh cửa ra. Song đúng vào lúc này, một cơn địa chấn dữ đội hơn nữa đã ập đến, toàn bộ trái núi lắc lư điên đảo, đá vụn rơi rào rào từ nóc hang xuống, vách hang bắt đầu nứt vỡ, sạt lở, các đoạn đường ống cũng bắt đầu dịch chuyển, phát ra những tiếng ken két ghê tai. Còn may mà chúng chưa nứt vỡ hay tuột khớp, nếu không nước sôi và hơi nước bóng giãy sẽ luộc chín họ trong chớp mắt. Cửa đá đã mở ra được ba tấc, đám sinh linh nhỏ bé đều đã tạm thời thoát khỏi miệng tử thần. Nhưng sau đó, cửa đá không thể nhúc nhích thêm một ly nào nữa. Cơn địa chấn vữa nãy đã khiến vách đá nứt toác biến dạng, cửa đá cũng bị mắc kẹt. Lỗ Nhất Khí bám chắc hai tay vào mép cửa, dùng hết sức lực kéo mạnh vài lần, song cánh cửa vẫn im lìm một chỗ. Thuỷ Băng Hoa cũng đứng bất động hệt như cánh cửa đá trước mắt. Cô rất may mắn, vì chỗ cô đứng không có tảng đá nào rơi xuống. Cô biết mình rất may mắn, đã phá giải được mệnh thạch nữ, được nếm trải niềm hoan lạc khi trở thành đàn bà, đến lúc chết, lại được ở bên người đàn ông mà số mệnh đã dành cho. Hai giọt nước mắt long lanh theo nhau lăn xuống đôi gò má, không rõ vì vui hay buồn. Lỗ Nhất Khí quay đầu nhìn Thuỷ Băng Hoa, vừa hay nhìn thấy hai giọt nước mắt đang lăn xuống. - Đừng sợ! Sẽ có cách! – Nét mặt của cậu vẫn điềm tĩnh như vốn có, song giọng nói lại tràn đầy căng thẳng. Nghe Lỗ Nhất Khí nói vậy, Thuỷ Băng Hoa bèn nở một nụ cười, trong khi hai giọt nước mắt còn chưa kịp rơi xuống. Cô vừa cười, vừa gật đầu thật mạnh.
Lời Nguyền Lỗ Ban Quyển 3 - Chương 31: Vạc bay phá Spoiler: Click vào để đọc Dòng dung nham nóng chảy đỏ rừng rực mang theo mùi khét lẹt tràn vào trong hang núi, nhanh chóng đẩy đổ một chiếc vạc đồng. Dầu trong vạc đồng bùng lên thành một quả cầu lửa thật lớn trên dòng dung nham, rồi ngay lập tức biến mất tăm cùng với vạc đồng, chỉ còn lại một làn khói xanh. - Cậu nhìn vạc đồng kìa! – Thuỷ Băng Hoa dường như đã thấy được kết cục của chính mình. Đúng vậy, vạc đồng! Ánh mắt Lỗ Nhất Khí dừng lại trên chiếc vạc đồng còn lại. Cậu đang cố gắng cảm nhận xem chiếc vạc đồng vuông vắn kia có thể dùng vào việc gì. Tiếng hơi nước phụt ra rít thành một tràng dài, tựa như mấy chục súc vải buồm dày cộp bị xé toang cùng một lúc. Lỗ Nhất Khí buông tay ra khỏi vai Thuỷ Băng Hoa, tạo ra một thế tay đặc thù của Lỗ gia, bắt đầu đo đạc và tính toán không gian xung quanh. - Giúp tôi! – Lỗ Nhất Khí nói đoạn, lập tức đưa khẩu súng trường cho Thuỷ Băng Hoa, bảo cô ta bẩy lấy một chân vạc có tạo hình chân voi, còn mình thì xé lấy một mảnh áo bông quấn vào tay, rồi trực tiếp đẩy vào quai vạc. Vạc đồng nóng giãy, nhanh chóng đốt cháy lớp bông, đốt cháy cả hai bàn tay Lỗ Nhất Khí. Song vạc đồng đã không thể trụ vững trước sức đẩy và sức bẩy của hai người, rầm một tiếng đổ nghiêng xuống đất. Dầu trong vạc hoá thành một biển lửa, mau chóng nối liền với dòng dung nham đang tiến tới. Không còn dầu ở bên trong, vạc đồng đã nhẹ hơn rất nhiều. Hai người dồn sức đẩy nó di chuyển thêm sáu bảy bước, rồi dừng lại ở một góc ngoặt sát với đường ống. Lỗ Nhất Khí để miệng vạc hướng về phía đường ống, sau đó bê lại một vài viên đá vuông vắn kê cao vạc đồng lên. Lỗ Nhất Khí tính toán đo đạc vị trí một lần nữa cho chắc chắn, đảm bảo độ cao đã thích hợp, rồi lôi ra một sợi Thiên Hồ giao liên, mau chóng bước tới phía trước bệ gạch hình trụ có cửa van xả khí. Bệ cao xây bằng gạch giờ đây đã nóng bỏng cực độ, không thể trực tiếp đụng chạm vào đó. Đứng bên cạnh bệ gạch, Lỗ Nhất Khí chưa vội hành động ngay, cậu im lặng chăm chú quan sát cửa xả có thể mở ra bất cứ lúc nào, dường như quên bẵng mọi thứ xung quanh. Và rồi cửa xả bật tung lên như pháo nổ, luồng hơi nóng phụt thẳng ra ngoài rít lên chói óc môt hồi dài, sau đó lại đóng vào như cũ. Lỗ Nhất Khí lập tức lao bổ về phía bệ gạch, chẳng còn để tâm tới cái nóng rát người, cứ thế quấn chặt Thiên Hồ giao liên vào trụ gạch, bịt kín cửa xả lại. Cậu quấn thành ba vòng, song bàn tay đã bị vạc đồng hun bỏng đến tê liệt, không thể thắt Thiên Hồ giao liên thành nút. Thuỷ Băng Hoa nhảy vội hai bước tới bên Lỗ Nhất Khí, dùng những ngón tay mềm mại mà khoẻ mạnh nhón lấy Thiên Hồ giao liên, thoăn thoắt một hồi đã kết thành một nút lồng càng kéo càng chặt. Chỉ hơi sơ suất, mép ngoài của bàn tay trái chạm phải vách tường, lập tức rộp lên một vệt bỏng dài. Hoàn thành mọi việc, Lỗ Nhất Khí kéo Thuỷ Băng Hoa nấp vào mặt bên kia của trụ gạch rồi nói: - Nấp vào đây, tuyệt đối không được đi theo tôi! Nhìn thấy cửa mở, chạy ra ngoài lập tức! Dung nham đỏ rực đã hoàn toàn hoà lẫn với dầu cháy, bắt đầu luồn lách qua khe hở giữa các khối đá vụn, từ từ trào đến. Lỗ Nhất Khí đứng ở trên một tảng đá lớn vừa rơi từ nóc hang xuống, nắm quả lựu đạn trong tay. Cậu nghiến răng nắm tay thật mạnh, như vậy mới có thể khiến bàn tay cậu thoát khỏi sự tê liệt, dội lên một nỗi đau xé đến tận tim gan. Có đau đớn mới có cảm giác, có cảm giác mới có thể kiểm soát được góc độ và lực độ để quăng lựu đạn ra. Thiên Hồ giao liên đã bị kéo căng đến hết cỡ rồi, tiếng hơi nước phụt ra qua các kẽ hở rất nhỏ bên mép van xả nghe như tiếng còi chói gắt. Đợi đã! Phải đợi thêm chút nữa! Sinh tử thành bại đều trông vào một hành động này. Thiên Hồ giao liên quả thực bền chắc kinh người, Lỗ Nhất Khí đã nhìn thấy gạch trên trụ bắt đầu phình ra, như muốn nổ tung đến nơi. Chính vào lúc này, chính vào thời cơ chính xác nhất trong dự cảm của Lỗ Nhất Khí, cậu đã rút chốt an toàn, ném quả lựu đạn đi. Lựu đạn bay theo một quỹ đạo cực kỳ chuẩn xác, mắc kẹt vào trong khe hở giữa vách núi với một khối đá đang lung lay muốn rụng trên nóc hang. Lựu đạn đã nổ tung. Khối đá to lớn dài ngoẵng trên nóc hang tựa như bị thanh kiếm trời phạt ngang, đổ thẳng xuống. Đường ống kiên cố làm bằng tinh thạch vân gỗ và tảng đá rơi cùng vỡ tan một lượt, hơi nước nóng bỏng đang nén trong đường ống điên cuồng phụt ra… Miệng vạc đồng vừa hay hứng trọn lấy luồng hơi nóng vừa được giải phóng, trước xung lực mạnh mẽ khó tưởng tượng kia, lập tức bay vụt đi như một viên đạn pháo, dâm thẳng vào cánh cửa đá không lấy gì làm dày dặn, để lại trên dó một lỗ hổng hình vuông đúng bằng đáy vạc, với mép lỗ hổng phẳng như dao cắt. Cửa đá đã bị phá vỡ, song hơi nước trong đường ống vẫn ào ào xả ra không ngớt, vừa hú lên cuồng dại vừa phun thẳng về phía cửa đá. Lúc này Lỗ Nhất Khí đã đi vòng sang bên cạnh đường ống rạn nứt, móc ra hai quả lựu đạn, kéo chốt an toàn, nhét vào bên dưới đường ống, sau đó vội vã chạy ra nấp phía sau một tảng đá lớn. Hai quả lựu đạn đồng thời phát nổ đã khiến đường ống xê dịch, hơi nước không còn tuôn trào về phía cửa đá nữa. Thuỷ Băng Hoa phản ứng rất nhanh, lập tức chạy bán sống bán chết tới trước cửa đá, chui tọt qua lỗ thủng. Lỗ Nhất Khí cũng chạy theo bén gót, lao mình ra ngoài như một con cá chép. Còn chưa kịp đứng vững, sau lưng đã vọng lên hàng tràng những tiếng bùm bụp của đá tảng rơi xuống dòng nham thạch tan chảy. Quả là ngàn cân treo sợi tóc! Dưới ánh sáng đỏ rừng rực hắt lên từ dòng dung nham phía sau, Lỗ Nhất Khí nhận ra đây là một đường hầm lát gạch, cách họ bảy tám bước về phía trước có một ngã rẽ. Ánh sáng đỏ cháy của dòng dung nham bỗng tối sầm xuống, một luồng hơi nước lớn phun ồ ạt ra ngoài. Nóc hang đã đổ sập xuống, đập vỡ toác đường ống nước nóng. Lỗ Nhất Khí vội kéo Thuỷ Băng Hoa chạy lao vào một ngả rẽ. Nước sôi cuồn cuộn sủi bọt trắng xoá, ồ ạt chảy qua lỗ thủng trên cửa đá vào trong đường hầm, nháy mắt đã nhận chìm đoạn đường mà họ vừa đứng, rồi tiếp tục tản ra theo các ngã rẽ, ào ào chảy đi, đuổi sát phía sau Lỗ Nhất Khí. Từ chỗ hai người họ thoát ra, đi về phía trước, ngoặt qua hai chỗ rẽ, có một đám người chia làm hai nhóm đang gườm gườm thủ thế. Nhóm phía trước có bốn người, nhóm phía sau có hơn chục người. Nhóm bốn người chính là Quỷ Nhãn Tam, lão mù, Nhậm Hoả Cuồng và Phó Lợi Khai. Sau khi khảm diện ống bễ bị phá, Quỷ Nhãn Tam và Nhậm Hoả Cuồng bị thổi thẳng tới bông lúa đầu tiên, còn lão mù bị thổi bay tới bông lúa thứ ba. Lão mù dù sao vẫn là tặc vương, khi trận cuồng phong không còn đủ mạnh để thổi cơ thể tiếp tục bay đi, lão biết cách tiếp đất một cách khéo léo nhất, nên đã đáp xuống một cách vững vàng ngay phía trước lối vào bông lúa thứ ba. Lão dò dẫm theo cuống bông lúa đến đường vào của bông lúa đầu tiên, vừa hay gặp Quỷ Nhãn Tam và Nhậm Hoả Cuồng đang chui từ bên trong ra. Quỷ Nhãn Tam và Nhậm Hoả Cuồng đều nhận ra cách bố trí của ba bông lúa, song họ không biết đi theo bông lúa nào mới là chính xác. Đúng lúc này, lại một đám người khác cũng xuất hiện trong ba bông lúa, ập đến ngay trước mặt bọn họ. Đó là những nút lẫy người của Chu gia mà họ không thể ứng phó nổi, chỉ có thể vừa chống đỡ vừa chạy trốn vào trong cọng lá của bông lúa đầu tiên ở gần đó nhất. Cọng lá lúa không phải là một gian phòng dài hẹp, mà là một con đường trơn trượt. Lúc mới bước vào không thấy có gì khác lạ, đang cắm đầu chạy thì đột nhiên xuất hiện một con dốc, thế là tất cả bon ho đều bị trượt thẳng xuống một mê cung. Trong mê cung, họ đã gặp được Phó Lợi Khai. Đúng lúc gã đang gắng sức bò lên con dốc trơn bóng, thì bị Quỷ Nhãn Tam trượt từ trên xuống đâm cho một cú thẳng cánh. Phó Lợi Khai không phải là trượt từ trên xuống mê cung, thậm chí gã còn chưa hề bước vào khảm ống bễ. Gã loanh quanh trong đường nhỏ tại lối vào khe núi tìm đường ra, vòng qua vòng lại không biết bao nhiêu lần vẫn không thể thoát thân. Đột nhiên, gã nhìn thấy Tùng Đắc Kim ở phía trước, bèn vội vã đuổi theo, không ngờ trượt chân rơi xuống hố, ngã thẳng xuống mê cung. Cách bố cục và hoàn cảnh trong mê cung đều lạ lẫm đối với cả hai bên đối địch, bởi vậy trong khảm diện này, cả những người của Ban môn đang chạy trốn hay sát thủ của Chu gia đang truy đuổi đều không dám khinh suất, chỉ dám giữ miếng hằm hè lẫn nhau ở quanh miệng hố. Sự xuất hiện bất thình lình của Lỗ Nhất Khí và Thuỷ Băng Hoa từ bên trong đường hầm khiến cả hai bên đều giật mình kinh ngạc, đặc biệt là đám Người Đao mười sáu lưỡi toàn thân đao nhọn kia, chúng vốn là đội quân tinh nhuệ do Chu gia điều động từ thành Cô Tô tới, đôi nam nữ kia vừa lao đến, bọn chúng lập tức cảm thấy như có một áp lực vô hình ập thẳng tới trước mặt. - Tất cả nghe tôi nói dây! – Trong con đường hầm quanh co dài dằng dặc, giọng nói điềm tĩnh của Lỗ Nhất Khí toát lên vẻ uy nghiêm đĩnh đạc đến lạ kỳ – Nếu muốn sống sót thì chạy mau! Lời vừa thốt ra, mấy gã Người Đao mười sáu lưỡi lập tức quay vụt lại như lốc xoáy, lách qua khe hở giữa các sát thủ khác, chớp mất đã biến mất tăm sau khúc dường hầm. Động tác của những sát thủ khác chậm chạp hơn rất nhiều, đến tận khi đám Người Đao đã mất hút sau một khúc quanh, bọn chúng mới kịp xoay người. Bọn nút người đều đã chạy sạch. Kỳ thực phần lớn bọn chúng vẫn chưa hiểu tại sao mình lại phải bỏ chạy. Lỗ Nhất Khí cũng không ngờ bọn sát thủ lại nhanh chân như vậy, trong khi cậu còn chưa kịp nói đến chuyên dòng nước sôi sục và dung nham nóng chảy đang đuổi tới sau lưng, hay núi lửa sắp sửa phim trào. - Chạy mau! – Gặp lại Quỷ Nhãn Tam và mọi người, Lỗ Nhất Khí mừng vui khôn xiết, xúc động dâng tràn, chỉ muốn nhào tới nắm chặt tay họ kể lể về những chuyện xảy ra sau khi thất lạc, song lúc này cậu chỉ có thể thốt lên được hai chữ. Nhìn vào sắc mặt và giọng điệu của Lỗ Nhất Khí, đám Quỷ Nhãn Tam lập tức hiểu ra tình thế đã vô cùng cấp bách, nên không nói thêm nửa lời, vội vã chạy đi. Nhiệt độ trong đường hầm mau chóng tăng vọt. Mọi người đều thở phì lao động đường phố, cắm đầu cắm cổ mà chạy. Cả bọn đang chạy cuống cuồng, đột nhiên nhìn thấy lũ sát thủ lao thẳng đến trước mặt, vừa chạy vừa ấm ớ kêu lên những tiếng kỳ quái. Quỷ Nhãn Tam đang chạy trước mở đường thấy vậy thì giật bắn mình. Tốc độ của Người Đao mười sáu lưỡi nhanh đến kinh hoàng, hắn không thể có được một chút cơ hội để phản ứng. Không chỉ riêng Quỷ Nhãn Tam, tất cả những người khác đều không kịp phản ứng, bọn Người Đao đã ào đến sát sạt… Song bọn họ đều đã lầm. Đám Người Đao không thèm để mắt gì đến họ, mà vùn vụt lao qua như một bầy ngựa điên đang phi xé gió. Ngay sau đó, từ phía trước xuất hiện một dòng nước đỏ sẫm sôi sùng sục đang ào theo chân đám sát thủ của đối phương, ập thẳng đến trước mặt họ. - Vào đây! – Quỷ Nhãn Tam phát hiện ra một lối rẽ ngược hướng với dòng nước chảy. Dòng nước đang chảy ồ ạt trong con đường chật hẹp, nếu như phía trước không gặp trở ngại, phải đợi đến khi lực đạo trên đầu dòng nước vụt qua, nước mới từ từ chảy vào trong lối rẽ. Như vậy, sẽ giúp bọn họ có thêm chút thời gian để kéo giãn khoảng cách thêm hơn chục bước. Nhưng ngã rẽ này sẽ dẫn đến đâu? Liệu có thể đưa bọn họ thoát khỏi dòng nước sôi sục và dung nham nóng chảy?
Lời Nguyền Lỗ Ban Quyển 3 - Chương 32: Trong mê cung Spoiler: Click vào để đọc Đường hầm càng lúc càng hẹp, dần dần đã hẹp tới mức chỉ có thể xếp thành hàng đôi mà đi. Đường có chật hẹp cũng không đáng sợ, mà đáng sợ chính là phía trước họ đã sừng sững một bức tường chắn ngang. Bức tường vô cùng kiên cố, không một khe cửa, không một vết nứt. Họ đã sa vào ngõ cụt! Nước sôi đã chảy đến nơi, ở ngay sát gót người đi cuối cùng là Nhậm Hoả Cuồng. Mọi người chỉ còn cách cố gắng dồn sát về phía trước. Lúc này, nước càng sôi dữ dội, bọt bắn tung toé, hơi bốc cuồn cuộn, bởi vì thứ đang đổ tới ngay phía sau dòng nước là dung nham rực lửa. Dòng nước đã sắp bốc hơi cạn kiệt đến nơi. Nhậm Hoả Cuồng cố nhích người vào trong thêm chút nữa. Nước sôi và hơi nước nóng ông ta có thể chịu được, nhưng tuyệt đối không dám để cho dòng dung nham rừng rực kia chạm tới người. “Uỳnh!” Một tiếng nổ vang dội vọng lại dọc theo con đường hầm, khiến cả bọn đầu ong ong, tai ù đặc. Dòng dung nham vừa liếm tới mép giày Nhậm Hoả Cuồng bỗng khựng lại một thoáng, rồi bất ngờ chảy ào đi theo hướng ngược lại, một thoáng sau đã không thấy đâu nữa. Nếu như không có nền gạch cháy đen, đầy những đốm lửa rải rác và nghi ngút mùi lưu huỳnh cháy khét, chẳng ai tin được rằng dung nham vừa mới đây thôi đã đuổi sát tới chân. Những tiếng ong ong trong tai còn chưa tan hết, thì trong đường hầm lại tiếp tục vọng đến những tiếng “rầm rầm” liên hồi không ngớt, chạy từ xa đến gần. Đó là tiếng gạch đá trên nóc hầm đang sập xuống. Con dường dài dằng dặc ngoằn ngoèo tựa mê cung giờ đây hệt như những quân bài Đô-mi-nô, theo nhau đổ sập tan hoang, biến thành một hố miệng khổng lồ đen ngòm, sắp sửa nuốt chửng lấy đám Lỗ Nhất Khí, khác nào địa ngục đang mở rộng đến tận đây. Đứng trước cảnh tượng khủng khiếp này, chẳng có ai đủ sức vãn hồi, chỉ còn biết bó tay nhắm mắt chờ tử thần tới rước, mặc cho ngọn núi đổ sập nghiền nát thân mình. Họ chỉ còn biết cố gắng chen nhau lùi lại một cách vô thức, ngõ hầu có thể kéo dài thêm một chút thời gian. Đúng vào lúc đó, bức tường phía sau chịu không nổi sức chèn ép của cả đám người đã bất ngờ đổ sập. Chính trong khoảnh khắc con đường hầm lát gạch sắp đập nát họ, thì bọn họ đều ngã nhào ra ngoài cùng với đám gạch đá hỗn loạn. Họ lại rơi xuống một con đường dốc ngược. Những cú lăn trượt, lộn nhào liên tiếp vẫn chưa khiến Lỗ Nhất Khí mất đi tri giác, cậu và Thuỷ Băng Hoa ôm chặt lấy nhau, bất chấp phía trước là sống hay chết. Cuối cùng, bọn họ đã chạm tới mặt đất phẳng. Lỗ Nhất Khí lập tức lôi viên đá huỳnh quang Ba Tư ra, trước mặt họ lại là một không gian kín mít. – Bên trên có đường rối mắt! Viên đá huỳnh quang Ba Tư vừa loé sáng, Phó Lợi Khai đã phấn khởi reo lên. Đường rối mắt là một thủ pháp thường dùng trong kỹ thuật của Lỗ gia, tức uốn cong, xoay chuyển các đường nét hoặc đường thẳng song song, khiến cho khi nhìn vào hình vẽ sẽ nảy sinh sai lệch thị giác, đem lại cảm giác hình vẽ kéo dài vô hạn. Xuất hiện dạng đồ hình như vậy chứng tỏ rằng bọn họ vẫn đang ở trong phạm vi bố cục của tổ tiên Lỗ gia, vẫn chưa rơi vào tuyệt địa vô vọng. – Hai con mắt lệch của ngươi có nhận ra đường chính xác không đấy? – Nhậm Hoả Cuồng hỏi. – Đưa ánh sáng cao lên chút nữa, để tôi xem điểm vặn* của đường rối mắt ở đâu! – Phó Lợi Khai nói. * Trong kỹ thuật của Lỗ gia có những vật trang trí hoặc hoạ tiết trang trí có dạng hình chữ nhật dài hẹp hoặc đường nét dài, sẽ được xoay chuyển góc độ tại một vị trí thích hợp, kết hợp nhiều chỗ xoay chuyển như vậy sẽ sinh ra lệch lạc thị giác, cảm giác chúng được kéo dài liên tục. Vị trí xoay chuyển đó được gọi là điểm vặn. Lỗ Nhất Khí đứng dậy, giơ viên đá huỳnh quang Ba Tư lên cao, cũng nhìn chăm chú vào đường rối mắt phía trước, cất giọng bình thản mà nói: – Tìm mau lên xem có đường thoát không, núi lửa sắp phun rồi! Ở đây tuy có đường rối mắt do tổ tiên Lỗ gia để lại, song xem ra có vẻ giống như một hang đá thiên nhiên hơn. Trên vách hang bám tầng tầng lớp lớp rêu xanh và bùn đất, quả là rất khó nhận ra sự khác biệt giữa các đường nét. Hai con mắt Phó Lợi Khai đã bị va đập đến sưng vù, vành mắt cũng biến dạng, song lại khiến cho đôi mắt to nhỏ của gã quan sát được chuẩn xác hơn, quả nhiên một lát sau đã tìm ra điểm vặn. Điểm vặn nằm ở chính giữa nóc hang. Nhậm Hoả Cuồng chùng chân xuống tấn, hai tay đánh mạnh lên trên. Quỷ Nhãn Tam mượn lấy lực đạo đó, tung mình nhảy vụt lên nóc hang. Quả nhiên ở đó có một điểm vặn. Nóc hang xem ra rất bằng phẳng, song Quỷ Nhãn Tam lại có thể đu người lủng lẳng trên đó. Bên dưới lớp đất bùn và rêu xanh có một gờ mép, một gờ mép chỉ có ở điểm vặn. Quỷ Nhãn Tam móc toàn bộ các ngón tay vào trong gờ mép, rồi đu người xoay ngang, tì hai mũi chân lên nóc hang hình vòm, giẫm đạp loạn xạ một hồi, khiến bùn đất và rêu trên nóc hang bong tróc từng mảng lớn. Theo những cú đạp, đẩy liên tục của hắn, gờ mép đã dịch chuyển, và một khe hở xuất hiện. Quỷ Nhãn Tam co người lại, đưa bàn chân vào trong khe hở rồi đạp mạnh, một lát sau đã mở ra dược một lỗ hổng hình chữ nhật chừng ba thước vuông. Lỗ hổng vừa được mở ra, Lỗ Nhất Khí lập tức cảm thấy có một luồng khí cuộn trào hệt như ngọn lửa đang ngùn ngụt cháy, còn Nhậm Hoả Cuồng lại ngửi thấy mùi của một thể khí hỗn hợp. Thứ mùi này ông ta thường ngửi thấy từ lò lửa sau khi được bỏ vào thứ than cực phẩm. – Tuyệt đối không được đốt lửa, trong hang có hỏa khí! – Lỗ Nhất Khí đã biết được khái niệm “hoả khí” từ trong“Tây Vực phong vật lục“**. Song cậu lại không biết rằng, hoả khí trong “Tây Vực phong vật lục“ là chỉ khí đốt thiên nhiên, cũng tức là khí ga; còn hoả khí ở đây lại là khí diêm tiêu, là một loại khí do quặng chứa diêm tiêu nhả ra tích tụ lâu năm, có thể bốc cháy. ** Chỉ khác một chữ so với cuốn “Tây Vực dị vật lục” do Ngô Cảnh Toàn, tiếp tổng sứ đạo Tây Lương đời Đường biên soạn, nội dung ghi chép về phong tục tập quán các nơi ở Tây Vực. Hiện chỉ còn bản tàn khuyết. Những tiếng nổ dồn dập lại tiếp tục vọng tới, cả trái núi nghiêng ngả đảo điên, đá vụn và bùn đất từ trên nóc hang trút xuống rào rào. Những hiện tượng này đã thúc giục bọn họ phải hành động lập tức. Lỗ Nhất Khí thò tay vào trong áo Thuỷ Băng Hoa, giật phăng mảnh yếm lụa, vứt ra thật xa. Cậu sợ rằng vải lụa khi ma sát sẽ sinh ra tia lửa tĩnh điện, dẫn nổ khí diêm tiêu trong không gian phía trên. Thuỷ Băng Hoa không tránh né, song nét mặt vẫn thoáng chút ngượng ngùng. Phó Lợi Khai cũng vứt luôn ống đánh lửa luôn mang theo bên mình, tung một bước dài, giẫm lên đùi lão mù mượn lực nhảy vọt lên, vung tay trái túm lấy Quỷ Nhãn Tam, tay phải chụp vào gờ mép của lỗ hổng trên nóc hang, leo lên phía trên. Đã có hai người ở bên trên, những người còn lại muốn lên trên lại càng dễ dàng. Lão mù lên sau cùng, lão giơ đầu gậy cho Quỷ Nhãn Tam và Phó Lợi Khai giữ chắc, rồi bắt chéo hai cánh tay gầy guộc vận lực vào thân gậy, thoăn thoắt leo lên nhẹ như không. Trong lòng hang phía trên, vách đá đều là tiêu thạch. Hang này do con người đào thành, không biết đã bị bịt kín bao nhiêu năm, bên trong nồng nặc mùi khí diêm tiêu. Nhậm Hoả Cuồng dặn dò kỹ lưỡng, tuyệt đối không được để đồ vật bằng sắt thép chạm vào vách đá tiêu thạch, chỉ cần một chút ma sát hoặc va chạm nhỏ cũng có thể sinh ra tia lửa, gây cháy nổ. Dưới ánh sáng lờ mờ toả ra từ viên đá huỳnh quang Ba Tư, Lỗ Nhất Khí nhìn thấy trên vách đá và nóc hang có rất nhiều hình vẽ. Những hình vẽ này cậu đều đã bãt gặp trong sách vở, song lại không biết ý nghĩa của chúng là gì. – Là bùa Địa linh tế hoả, thắp lửa đất vô hình, luyện thành vàng cứu thế! Đây là thuật tế Huyền nguyên thời cổ xưa, không biết có tác dụng thực hay không! – Quỷ Nhãn Tam đứng bên cạnh đã giải thích giúp cậu. – Ồ! – Lỗ Nhất Khí bỗng như bừng tỉnh, những thứ tản mát lại bắt đầu được lắp ghép thành hình trong trí não. Tổ tiên Lỗ gia đã xây dựng ám cấu giấu Kim bảo trong Ngũ hành tại đây. Theo như suy đoán ban đầu của cậu, Kim bảo sẽ được giấu ở trong điện không xà không nóc, đặt tại vị trí trái tim của cơ thể mẹ, nơi có thể hấp thu được nhiều nhất tinh hoa nhật nguyệt. Cách bố trí này đối với những kẻ đi tìm bảo bối bình thường đã có thể coi là vô cùng xảo diệu, song đối với cao thủ Chu gia vốn kế thừa được kỹ thuật điểm huyệt bày khảm của Mặc gia song bản lĩnh từ lâu đã vượt xa hai nhà Lỗ, Mặc, lại quá ư đơn giản. Cao thủ Chu gia đã tới đây trước, song tới giờ vẫn chưa tìm ra nơi cất giấu Kim bảo, chứng tỏ cách bố trí của tiền bối Lỗ gia tại nơi đây trái hẳn với phép thường, hẳn là có lề lối khác. Bây giờ ngẫm kỹ, quả đúng như vậy. Ở đây có lửa đất vô hình được tích tụ từ tiêu thạch là “Hoả”; vị trí của nó lại nằm sâu trong trái núi, nương theo sơn mạch để nối liền với “Thổ” trên núi; hệ thống ống dẫn đưa nước ngầm dưới đất liên tục tuần hoàn, khiến hơi nước bốc lên mù mịt bao quanh chính là có “Thuỷ”; trên núi cây cối um tùm là có “Mộc”, lại cộng thêm bản thân Kim bảo, nên đây chính là cục tướng Ngũ hành hoà hợp, là bố cục bốn hành thai nghén một hành. Nó lợi dụng rừng cây hấp thụ tinh hoa của nhật nguyệt mưa móc, lại thông qua đất đá để truyền vào bảo cấu; dùng nước ngầm để hấp thu địa khí, dùng bùa Địa linh tế Hoả và quặng tiêu thạch để tích tụ lửa đất, cùng nuôi dưỡng tài bồi cho Kim bảo, khiến cho trong suốt hơn hai nghìn năm qua, bảo khí không suy, hung huyệt khó mở. – Cẩn thận đi lên phía trước, nếu kịp sẽ nhân tiện khai quật lấy bảo bối! – Câu nói không đầu không cuối của Lỗ Nhất Khí khiến cho cả đám cao thủ ngẩn ra chẳng hiểu gì, người nọ nhìn người kia với ánh mắt hồ nghi. Lỗ Nhất Khí không để ý tới phản ứng của mọi người, tay giơ cao viên đá huỳnh quang, dắt Thuỷ Băng Hoa thận trọng men theo lòng hang tiến về phía trước, vẻ mặt vẫn bình thản như không. Chỉ có Thuỷ Băng Hoa mới biết cậu đang ở trong một trạng thái căng thẳng và hưng phấn cực độ, bởi lẽ lòng bàn tay cậu đã trở nên nóng rực, mồ hôi liên tục rịn ra ướt đẫm. Vẻ kinh ngạc dần dần hiện rõ trên nét mặt của những cao thủ đang đi theo sau Lỗ Nhất Khí, đặc biệt là lão mù. Trong lòng hang tối đen như mực, vòng vèo như rắn bò, cảm nhận về sự biến đổi của địa thế dưới bàn chân lão còn rõ rệt hơn nhiều so với những con người chỉ nhìn bằng mắt kia. Họ đang đi lên phía trên, lòng hang uốn lượn quanh co mà lên; càng lên cao, độ dốc càng tăng rõ rệt. Trong lúc họ đang thận trọng men theo hang tiêu thạch mà đi, thì trong đống gạch đá đổ nát tại đường hầm khi nãy, có một dòng nham thạch nhỏ mau chóng chảy lại gần lối vào hang tiêu thạch, trong khi dòng khí diêm tiêu cũng tràn qua lỗ hổng xuống dưới, tích tụ đậm dần. Gần như cùng lúc đó, tại một chỗ ở phía trên nơi họ đang di chuyển không bao xa, có một đường hầm lát gạch xuyên thẳng vào thân núi. Cánh cửa ngầm tại một đầu của đường hầm lặng lẽ mở ra, qua khe cửa không rộng lắm, lần lượt lách vào từng cỗ thây ma. Đúng vậy, đó chính là những thây ma nát bấy mà lẽ ra đã phải nằm im trong đầm băng lạnh giá dưới chân dốc ba đoạn. Đám Lỗ Nhất Khí di chuyển rất chậm chạp trong lòng hang tiêu thạch, vì sợ động tác quá mạnh sẽ tạo ra tia lửa, cũng vì đoạn đường này rất dốc. Con đường rất dài, lão mù đã đếm nhẩm tới hơn nghìn bước. Tiếp đó, con đường từ từ xoay vòng chạy lên trên, cứ đi được một đoạn lại có một khúc ngoặt với biên độ lớn. Nhậm Hoả Cuồng ngửi thấy mùi khí diêm tiêu ở đây nồng nặc hơn rất nhiều. Khi lão mù đếm tới bước thứ hai nghìn, thì đột nhiên kêu lên: – Trăm quanh nghìn ngoặt thiêu tâm mạch! Không ai nói gì, mọi người đều im lặng đợi lão mù nói tiếp. – Khi ta còn chưa bị mù, con gái út của ta từng lấy trộm được một cuốn sách y thời cổ từ đoàn lái buôn qua đường, có tên là “Luận mạch âm dương bình”. Trong đó nói rằng tâm tư con người khi đến chỗ cực độ thì gọi là “phần tâm” (thiêu đốt tâm). Trong tình hình đó, tâm mạch quanh co sẽ xuất hiện rất nhiều chỗ gập, xoắn nhỏ bé, khiến tim ngực không thông, tâm tư u uất khó giải. Dựa theo bước chân của ta, con đường mà chúng ta đang đi có vẻ khá giống với sơ đồ tâm mạch. Phó Lợi Khai nói xen vào: – Kể cũng đúng! Ông không nghe Thuỷ đại nương kể ư, một cô gái đang yên đang lành tự dưng có bầu, lại đẻ ra một con rồng dữ, thì tâm tư làm sao thoải mái cho được! Nhậm Hoả Cuồng và Quỷ Nhãn Tam đều khẽ bật cười. – Im lặng! – Lão mù đột nhiên kêu lên, giọng nói và nét mặt đầy vẻ kinh sợ. Mọi người đều khựng lại, im bặt, xung quanh bất giác yên ắng như tờ. – Nghe thấy chưa? Phía trước có tiếng động! – Lão mù nói.
Lời Nguyền Lỗ Ban Quyển 3 - Chương 33: Gần bảo khiếp Spoiler: Click vào để đọc – Ở đằng kia! – Cây gậy trong tay lão mù chỉ chếch lên phía trên, nơi đó là nóc hang. Trên đó là tầng tiêu thạch rất dày, là khối núi đồ sộ. – Hình như là có ai đó đang gõ vào tường! – Nhậm Hoả Cuồng ghé sát tai vào vách hang nghe ngóng. – Có là tiếng hát của mấy cô ả mắt huyền chúng ta cũng chẳng bận tâm. Bọn ta đều ở đây cả, chỗ phát ra tiếng động không phải là địch thủ cũng là khảm diện! – Phó Lợi Khai nói cũng có lý. – Chẳng phải vẫn còn Tùng Đắc Kim ư? – Thuỷ Băng Hoa hỏi khẽ. Lời vừa cất lên, tất cả mọi người đều sững lại trong giây lát. Mấy cao thủ vội dừng lại nghe ngóng, quay mặt nhìn nhau, sau vài cái đưa mắt vô cùng ẩn ý, lại tiếp tục tiến về phía trước. Lỗ Nhất Khí khép hờ hai mắt, trong lời nói lại khấp khởi một niềm hưng phấn khó lòng kiềm chế: – Sắp tới rồi! Đoạn cuối đường hang đột nhiên mở rộng, trên vách đá chắn ngang xa xa phía trước xuất hiện một cánh cửa đôi vô cùng cao lớn uy phong, chạm trổ hoa văn cầu kỳ, diềm mái hơi cong, rất mực tương phản với vách đá tiêu thạch xấu xí thô lậu xung quanh. Một dãy bậc đá kéo dài từ trước cửa xuống phía dưới, gờ bậc phẳng phiu, rộng bảy cao năm, nhẩm qua khoảng hơn ba chục bậc. Dãy lãn can hai bên cũng được chạm trổ rất tinh xảo, với vân mây, trống đá. Hai cánh cửa, bậc thang đá và lan can đều sáng bóng sắc vàng sẫm thâm trầm, rải rác những đốm vàng kim lấp lánh. Nguyên liệu này có tên là đá ngọc vàng ánh kim, cực kỳ quý hiếm, chỉ thi thoảng mới bắt gặp trong cung điện của đế vương, như bậc tam cấp ở Cửu Long khẩu, hay mặt bàn ngự thư bằng gỗ tử đàn. Lỗ Nhất Khí đột nhiên trở nên đờ đẫn như kẻ thất thần, sải từng bước dài tiến thẳng đến trước bậc thang. Quỷ Nhãn Tam đưa tay ra định giữ cậu lại, song bị Phó Lợi Khai ngăn cản. Thuỷ Băng Hoa bám sát sau lưng Lỗ Nhất Khí không rời nửa bước. Bậc thang bằng đá rất vững chãi, không hề có khảm diện. Leo lên tới bậc trên cùng, Lỗ Nhất Khí quan sát một lượt khắp trên dưới trái phải, rồi cúi xuồng lần ở bên dưới bậu cửa nhặt lên một thứ, nắm chắc trong lòng bàn tay. Đó là một chiếc đinh sạch bóng không một vết gỉ. Những người bên dưới đều đang cúi đầu leo lên nên không ai nhìn thấy động tác cúi xuống nhặt đinh của cậu, chỉ có bước chân lão mù hơi chậm lại một thoáng, tròng mắt trắng khẽ đảo ngược lên. Phó Lợi Khai và Nhậm Hoả Cuồng quan sát kỹ lưỡng hai cánh cửa. Quả là kỳ lạ, theo lẽ thường của Khảm tử gia, những thứ gia công càng tinh xảo phức tạp lại càng có nhiều khả năng xuất hiện khảm diện bên trong, bởi lẽ tạo hình hoa mỹ sẽ thuận lợi cho việc ẩn giấu nút lẫy. Đoạn bậc thang phía dưới có thể đi qua bình yên vô sự đã là một chuyện bất ngờ, còn cánh cửa này… Quỷ Nhãn Tam dường như không thể kiên nhẫn thêm được nữa, vụt một cái đã đưa tay đẩy thẳng vào cánh cửa, nhanh đến nỗi đám người bên cạnh không kịp ngăn cản. Cánh cửa không nhúc nhích, song cũng không có hiện tượng gì khác lạ. – Cậu cả, thứ cậu vừa nhặt được có lẽ chính là chìa khoá! – Lão mù trợn ngược tròng mắt trắng dã mà nói. Lời nói của lão khiến mọi người có chút ngạc nhiên, song người kinh ngạc nhất chính là Thuỷ Băng Hoa. Cô vốn nghĩ rằng chỉ có mình cô nhìn thấy Lỗ Nhất Khí cúi nhặt vật kia, nào ngờ lão mù còn ở tận dưới bậc thềm cũng nghe thấy được. Lỗ Nhất Khí xoè bàn tay ra. Từ lúc mới nhìn thấy thứ trông giống hệt cây đinh kia, cậu đã cảm nhận thấy một làn khí lung linh sống động bao bọc xung quanh, tựa như nó đã hoà nhập vào trong cơ thể cậu, cũng tựa như tinh thần của cậu đã bị thu hút vào trong nó. Bằng một động tác hết sức tự nhiên vô thức, Lỗ Nhất Khí đưa tay lên cắm cây đinh vào cánh cửa. Tất cả đều chỉ dựa vào cảm giác. Do động tác của Lỗ Nhất Khí khá chậm rãi, nên mọi người đều có thể nhìn thấy rõ vị trí cắm đinh. Đó là một đốm vàng long lanh ánh kim trên cánh cửa, trông không hề có chút gì khác biệt so với những đốm khác, song nó lại chính là lỗ khoá. Khi Lỗ Nhất Khí từ từ xoay khẽ cây đinh, cánh cửa cũng nhẹ nhàng trượt đi, mở rộng. Cánh cửa vừa mở thì tiếng gõ đập mà lão mù vừa phát hiện lại càng vang động, còn hỗn tạp hơn nhiều so với khi nãy. Khi cánh cửa đã mở ra đủ rộng cho hai người cùng bước qua, cây đinh tự động long ra, cánh cửa lập tức im lìm không nhúc nhích thêm một ly nào nữa. Lỗ Nhất Khí thuận tay nhặt lấy cây đinh cất vào trong túi áo. Nhậm Hoả Cuồng từ nãy đến giờ không hề rời mắt khỏi cây đinh, vẻ mặt bàng hoàng như không tin nổi vào mắt mình. Trong gian thạch thất không hề có đá tiêu thạch, vị trí lại ở phía trên hang tiêu thạch, nên dù có mở cửa, khí diêm tiêu vốn nặng chìm xuống dưới cũng không thể vào được bên trong. Trên bốn vách đá đều có rất nhiều tinh thể phát quang, nên gian thạch thất rất sáng sủa, bởi vậy vừa nhìn đã có thể phát hiện thấy âm thanh được phát ra từ một đám rìu đá liên tục nâng lên đập xuống một cách tuần tự. Rìu đá rất lớn, còn lớn hơn cả súc gỗ đập trong gian điện không xà, lại phân bố dày dặc, gần như giăng kín toàn bộ gian thạch thất. Phó Lợi Khai có vẻ rất thông thạo khảm diện này, vừa liếc qua đã lẩm bẩm: – Không đúng! Không đúng! Rìu đá không thể nâng lên hạ xuống liên tục như thế này! – Ngươi biết khảm này? Nói xem! – Quỷ Nhãn Tam giục. Giờ đây không phải lúc để khoe khoang, điểm này Phó Lợi Khai hiểu rõ, gã liền nói: – Trục chuyển động của khảm diện này ở dưới chân. Bình thường rìu đá được treo trong khe nứt trên nóc nhà, chỉ cần đi sai bước dưới nền đá, chạm vào trục chuyển động, rìu đá ở vị trí tương ứng sẽ lập tức rơi xuống chém vào người trong khảm diện. Hơn nữa, cho dù người trong khảm công lực cao siêu mà tránh né được thì vẫn còn chiếc rìu thứ hai đợi sẵn, chắc chắn không thể tránh kịp! – Thủ pháp “trăm dao chém một thớt”! – Xem ra Nhậm Hoả Cuồng cũng am hiểu về khảm diện này. – Gần giống thế! Song thủ pháp mà ông vừa nói được sử dụng trong khảm “trời đổ mưa dao” của phái Tiêu Vân Động trong giới Khảm tử gia Quảng Tây, thực chất có khác một chút so với khảm diện này. Khảm diện đó là hạ đao theo bước chân, còn ở đây, bộ pháp lại có quy luật nhất định… – Thái Thượng Lục Nhâm bát bộ canh! – Không đợi Phó Lợi Khai nói ra quy luật của trận rìu đá, Lỗ Nhất Khí đứng cạnh đã nhẹ nhàng cắt ngang. Phó Lợi Khai nhìn cậu với vẻ vô cùng khâm phục. Nhìn vào đám rìu đá đang gõ đập không ngừng, Lỗ Nhất Khí đã nhận ra quy luật trong đó. Đi theo bộ pháp Thái Thượng Lục Nhâm bát bộ canh, bước vào tại Thiên Nhâm bước thứ nhất, xoay sang bước sáu, quay về bước ba; chuyển sang Địa Nhâm bước thứ hai, giẫm vào bước năm; qua Phong Nhâm bước thứ tám, nghiêng người trượt vào Vân Nhâm bước thứ bảy… Trong tưởng tượng của cậu, các động tác được thực hiện một cách hoàn mỹ cả về tốc độ và biên độ, nên một loạt bộ pháp được triển khai lưu loát trong trí não. Song đến bước Vân Nhâm thứ bảy, dù cậu đã tìm đủ cách nhưng vẫn không thể vượt qua được. Vốn dĩ theo quy luật, ở chỗ này tiến lùi đều được, song tại bước Vân Nhâm thứ sáu vốn có thể lùi lại có ba chiếc rìu đá, còn tại bước Khí Nhâm thứ tư vốn có thể tiến cũng có hai chiếc rìu gần như đồng thời bổ xuống, không còn điểm nào có thể giẫm lên được. Lỗ Nhất Khí giật mình bừng tỉnh, trán đẫm mồ hôi. – Vô lý! Khảm diện này không thể đi qua được. Người Lỗ gia chắc chắn không thể bày ra một khảm diện tất sát như vậy! – Lỗ Nhất Khí thốt lên với một giọng mệt mỏi. Kỳ thực, sự vô lý mà cậu vừa nói còn hàm chứa một ý nghĩa khác. Khi nhìn ngọn núi này từ phía xa, cậu đã phát giác ra luồng bảo khí rực rỡ bừng bừng toả ra từ đó, nhưng sau khi đi vào lũng núi, bảo khí lại yếu đi. Trong hang đá tiêu thạch, cậu lại cảm thấy có một chút bảo khí linh động đang vẫy gọi, nhưng khi bước chân vào đây, tất cả mọi cảm giác đã tan biến hoàn toàn. Lẽ nào đây chính là “cực bảo tới gần không hiển hiện” mà Huyền học Tiên gia từng nói? – Tôi đã nói mà! Rìu đá vốn dĩ treo lơ lửng bất động, giẫm phải trục chuyển động mới bổ xuống. Nếu cứ băm bổ liên tục như thế này, đừng nói là cả nghìn năm, chỉ một hai ngày cũng hư hỏng hết cả! – Phó Lợi Khai nói. Lỗ Nhất Khí chợt “ồ” lên một tiếng như đã hiểu ra, bèn nói: – Tất cả khảm diện trong trái núi này đều nhờ vào hệ thống hơi nước cung cấp động lực, vừa nãy tôi đã phá vỡ đường ống dẫn trong máng trục, lại thêm dung nham chảy vào gia nhiệt nhanh chóng, khiến toàn bộ hệ thông đều rối loạn, các nút lẫy ở đây liền tự động vận hành, hơn nữa tốc độ rất nhanh, hỗn độn không theo quy luật. Nếu căn cứ theo Thái Thượng Lục Nhâm bát bộ canh sẽ không thể qua được. Giờ đây, phương pháp duy nhất chính là hoá giải cơ điểm tổng huyền mới có thể khiến rìu đá dừng lại. Rất rõ ràng, cơ điểm tổng huyền của khảm diện chính là đường ống cắm vào vách đá đối diện của gian thạch thất, có kích cỡ to bằng ngón tay cái. Nhìn vào luồng khí phập phồng lên xuống trong đường ống, có thể nhận ra rằng nó được tạo ra từ chất liệu và kỹ thuật gia công tuyệt hảo, niên đại cũng rất lâu đời. – Nếu tổng huyền là một đường ống, có mấy cách phá giải? – Câu hỏi của Lỗ Nhất Khí khiến mọi người vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ. Cậu hỏi như vậy, chứng tỏ đã lần ra được đầu mối. – Chặt, xoay, nâng, thổi, lắc! – Quỷ Nhãn Tam đáp gọn lỏn. – Nhưng toàn bộ đường ống được khảm trong vách đá, chỉ nhìn thấy miệng ống! Tất cả đều im bặt. – Lỗ môn trưởng, tôi hiểu ý của cậu! – Cuối cùng đã có người lên tiếng, chính là Nhậm Hoả Cuồng – Cơ điểm trong miệng ống kỳ thực tương tự với ổ khoá, cần phải dùng chìa khoá chuyên dụng để xoay vặn mới xử lý được. Vừa rồi tôi thấy cậu mở cửa bằng chìa đinh hình chêm, đây là chiếc chìa khoá được làm bằng tinh sắt trong khe Bột Hải, nghìn năm không gỉ. Một món đồ tuyệt phẩm như vậy, thiết nghĩ không thể chỉ dùng để mở mỗi một cánh cửa, chưa biết chừng có thể dùng để mở cơ điểm cũng nên. Nghe vậy, Lỗ Nhất Khí vô cùng thán phục, quả không hổ danh là thiết thủ kỳ công, vừa liếc qua đã phán đoán chuẩn xác một món đồ hiếm có trong thiên hạ. – Ồ, cậu đã tìm ra cơ điểm rồi ư? Ở đâu vậy? – Giọng nói của Thuỷ Băng Hoa vô cùng thân mật trìu mến, tựa như người vợ trẻ đang thì thầm với chồng. – Ở đằng kia! – Lỗ Nhất Khí dứt khoát chỉ tay về một phía. Mọi người đều nhìn theo hướng cậu chỉ, nhưng chẳng ai nhìn thấy miệng ống như cậu vừa nói, trong mắt họ chỉ có vô số lưỡi rìu đang lên xuống vùn vụt. Thì ra cơ điểm nằm ở mặt kia của khảm diện, phía sau bốn chục lưỡi rìu đá cỡ lớn đang băm bổ liên hồi. Từ chỗ họ đứng tới vách tường bên kia phải rộng đến mười tám quãng xà*, hơn nữa miệng ống lại thụt sâu trong vách đá, biết làm thế nào để phá giải đây? * Cách tính toán của thợ mộc Lỗ gia, lấy khoảng cách bình thường giữa các thanh xà trong nhà dân làm tiêu chuẩn. Mỗi một quãng xà rộng khoảng 2 mét, mười tám quãng xà rộng khoảng 35 - 40 mét. Lỗ Nhất Khí lấy chiếc chìa đinh hình chêm ra, đặt trên lòng bàn tay khẽ xóc vài cái để cảm nhận về trọng lượng, rồi rút khẩu súng lục ra, kiểm tra kỹ lưỡng một hồi không thấy có vấn đề gì, mới bắt đầu ngưng thần tụ khí, nhanh chóng chìm vào trạng thái siêu nhiên. Cậu đã tìm thấy khe hở từ trong đám rìu đá đang rầm rập lên xuống, một con đường có thể đưa chiếc chìa đinh hình chêm đến giữa miệng ống trên vách đá một cách thuận lợi. Chiếc chìa khoá hình chêm vạch thành một đường vòng cung lao vụt đi. Rìu đá trước sau thậm thịch bổ xuống, như một đợt sóng ồn ào đuổi theo chìa khoá. Lực ném chốc lát đã tiêu tan gần hết, một lưỡi rìu đá ngoại cỡ đang lao thẳng xuống chỉ còn cách cây đinh chưa đầy ba tấc, sắp đập trúng đến nơi… Song một viên đạn đã vụt tới va trúng vào đuôi chìa khoá trước khi lưỡi rìu kịp bổ đến, giống hệt như thủ pháp của Yêu cung xạ nguyệt. Chỉ nghe “keng” một tiếng giòn tan, chìa đinh hình chêm lập tức lao vút đi theo một đường thẳng, vọt ra khỏi trận rìu đá hỗn loạn, cắm phập vào vách tường bên kia như một mũi tên. Rìu đá vẫn rầm rập lên xuống không ngừng, dường như không hề thay đổi. Lỗ Nhất Khí vẫn đứng lặng trong tư thế cầm súng, cơ thể không nhúc nhích một ly. Phó Lợi Khai và Nhậm Hoả Cuồng bắt đầu cảm thấy hoang mang. Là cơ điểm không chính xác, hay là chia khoá hình chêm không phát huy tác dụng? Hay là nó dã không trúng vào miệng ống? Nét mặt của lão mù biến đổi rõ rệt nhất, lớp da mặt khô đét rúm lại thành từng rãnh sâu hoắm, song phản ứng của lão lại hoàn toàn trái ngược với mọi người: – Tốt! Tốt rồi! Chậm rồi! Chậm nữa rồi! Tốc độ lên xuống của rìu đá quả thực đã chậm lai. Lão mù nói vừa dứt lời, những người khác cũng đã nhân ra sự thay đổi, càng lúc càng rõ rệt. Lỗ Nhất Khí từ từ thả lỏng thân người, hạ súng xuống. Rìu đá theo nhau hạ xuống, nhưng không còn nhấc lên nữa. Gian thạch thất huyên náo bỗng chốc im bặt, không gian trở nên tĩnh mịch đến đáng sợ. Lão mù chọc chọc cây gậy trên nền đá. Nhậm Hoả Cuồng cũng nhặt một vài hòn đá thận trọng ném vào các vị trí khắp khảm diện. Khảm diện quả thực đã được giải, bên trong cũng không tìm ra dấu vết của khảm trong khảm. Lúc này họ mới thực sự yên tâm lách qua những lưỡi rìu đá khổng lồ mà đi. Vừa đi qua khảm diện rìu đá, đột nhiên vọng đến một tiếng trượt nặng nề. Cả đám người giật bắn mình sợ đến hồn phách rụng rời. Quỷ Nhãn Tam lập tức thụp xuống, một tay giơ thẳng Vũ Kim Cương lên phía trước, còn chưa kịp cả bật ra. Phó Lợi Khai bủn rủn tay chần ngã bổ chửng trên nền đá. Tiếng động chấm dứt, không gian lại chìm trong tịch mịch. Không hề có mối đe doạ nào. Thì ra trên vách tường có ẩn giấu cơ điểm vừa mở ra một cánh cửa đá. Bên trong cửa đá có một luồng khí vô hình đậm đặc ngưng tụ, phập phồng lên xuông, mạnh mẽ mà chậm rãi. “Đây là hiện tượng chỉ có ở trung tâm luồng bảo khí thần kỳ!” – Lỗ Nhất Khí đoán thầm trong bụng. Dường như cậu đã từng bắt gặp cảnh tượng này, ở kiếp trước, ở trong mơ… Mọi người thận trọng bước qua cửa đá. Bên trong lại là một gian thạch thất, nhỏ hơn song bốn mặt vuông vắn. Mặt bên kia của gian phòng cũng có một cánh cửa đã mở sẵn. Phóng mắt nhìn qua cánh cửa, chỉ thấy bên ngoài là một đường hầm tối đen thăm thẳm, sương nhạt phất phơ, vừa thâm u lại vừa kỳ bí. Ở chính giữa gian thạch thất có một cái bệ đen trùi trũi, cao cỡ hai ghế rưỡi**, kích cỡ tương đương với bàn Bát tiên, do rất nhiều khối pha lê đen bóng với kích cỡ tương đồng xếp chồng lên nhau mà thành. Những khối pha lê rất giống như phách gỗ của nghệ nhân diễn xướng, bề mặt trơn bóng, lấp lánh thứ ánh sáng đặc trưng của tinh thể. ** Đơn vị đo lường thường dùng của thợ mộc trước đây, khoảng 1,6 mét Cách chồng xếp của bệ pha lê chính là thủ pháp “năm cánh hoa” trong công phu Phô thạch của Lỗ gia. Tuy để rỗng ở giữa, song lồng ghép chặt chẽ, chống đỡ lẫn nhau, là một kết cấu vô cùng vững chãi lại tiết kiệm nguyên liệu. Chiếc bệ có hình thang, mặt trên cùng được sắp xếp theo thủ pháp “lớp lớp hoa sen” trong công phu Phô thạch, góc của khối pha lê này chồng lên góc của khối pha lê khác, tạo thành một bề mặt xoáy tròn. Chính giữa bề mặt xoáy tròn đặt một hộp ngọc rực rỡ những đốm màu cổ lánh. Trong lòng Lỗ Nhất Khí trào dâng một niềm xúc động khôn tả như thể gặp lại bạn cố tri. Song bàn chân cậu như dính chặt xuống đất, không thể cất lên, không biết là do luồng bảo khí quá nồng hậu mạnh mẽ đã khiến cậu chùn chân, hay là nỗi xúc động khi sắp có được bảo bối đã khiến cậu run rẩy. Những người khác tuy đều dấn bước nhanh hơn, song vẫn có chút cảnh giác và e dè với tình cảnh xung quanh, và với cả những kẻ đồng hành. Còn Thuỷ Băng Hoa lại khác, cô ta không suy nghĩ quá nhiều, lập tức co chân chạy thẳng tới bên bệ pha lê, kiễng lên với ngay lấy hộp ngọc.
Lời Nguyền Lỗ Ban Quyển 3 - Chương 34: Tìm chân tướng Spoiler: Click vào để đọc Song kỳ lạ là Lỗ Nhất Khí không hề ngăn cản Thuỷ Băng Hoa, bởi cậu không hề có cảm giác nguy hiểm. - Á! Thuỷ Băng Hoa kêu lên một tiếng ngắn đầy kinh hãi, cánh tay đang với tới hộp ngọc khựng ngay lại. Tiếng kêu thất thanh của cô ta khiến đám đàn ông đã đến rất gần lập tức khựng lại, song Lỗ Nhất Khí đang tụt lại sau cùng lập tức sải bước lao về phía trước, cánh tay duỗi thẳng, súng lục nâng cao, chĩa thẳng vào một cái bóng in trên góc tường, song ánh mắt đầy lo lắng lại dõi về phía Thuỷ Băng Hoa, theo sát từng động tĩnh. Thuỷ Băng Hoa giật mình khiếp đảm vì có một bóng đen thình lình đứng bật dậy ngay trước mặt. Bóng đen vốn dĩ nép mình phía bên kia bệ pha lê, khi thấy Thuỷ Băng Hoa với tay định lấy chiếc hộp mới đứng bật dậy. Trong lúc Thuỷ Băng Hoa chưa hết kinh hãi, bóng đen đã hành động cực kỳ mau lẹ. Bàn tay của hắn cũng vươn về phía hộp ngọc, tuy ra tay sau mà tới trước, đã chạm tay vào hộp ngọc trước Thuỷ Băng Hoa. - Dừng lại! – Tiếng quát của Lỗ Nhất Khí vọng lên trong gian thạch thất nghe sang sảng đến chấn động màng nhĩ của tất cả những người có mặt. Không chỉ có thế, tiếng quát của cậu còn mang theo một khí phách phi thường, như cơn gió mạnh quét qua khiến bầu không khí xung quanh cuộn xoáy. Bóng đen bỗng chốc khựng lại bất động như hoá đá. Song những người đồng hành với cậu cũng không ai dám nhúc nhích một ly. Chỉ còn Lỗ Nhất Khí vẫn tiếp tục di chuyển. Cậu bước chậm rãi về phía trước, không phát ra một tiếng động, vừa đi vừa gằn giọng bật ra một tiếng: - Ai? - Tùng Đắc Kim! – Cái bóng nơi góc tường đã hô lên ám hiệu chính xác, giọng nói cũng giống, hơn nữa trong tay gã còn cầm cây rìu do chính Nhậm Hoả Cuồng rèn cho, chỉ có điều khuôn mặt bị che kín dưới một mảnh vải đen, trang phục trên người cũng đen kịt từ đầu tới chân. Cái bóng phía sau bệ pha lê cũng ăn vận y hệt, mặt cũng che kín vải đen. “Đoàng!” Một tiếng súng vang lên, đạn găm xuống nền đất cách mũi chân Tùng Đắc Kim chỉ nửa tấc. - Đứng im! Dù ngươi có là ai cũng không được cử động! - Bảo chúng bỏ khăn che mặt xuống đã! – Trước khí thế đầy uy hiếp của Lỗ Nhất Khí, e rằng chỉ có Thuỷ Băng Hoa dám lên tiếng. Hai bóng đen không nhúc nhích, cũng không lên tiếng. Lỗ Nhất Khí chĩa nòng súng về phía bóng đen vừa xưng là Tùng Đắc Kim, quát lớn: - Ngươi nói dối! – Sau đó dịch nòng súng chĩa thẳng vào bóng đen vừa đinh cướp hộp ngọc – Ngươi mới là Tùng Đắc Kim! Cả hai bóng đen đều giật nảy lên một cái. Lỗ Nhất Khí quay mặt về phía bóng đen ở sau bệ pha lê, dõng dạc nói: - Ngay từ đầu ta đã cảm thấy khả nghi nhất là anh em họ Tùng các ngươi, bởi lẽ những người khác đều ít nhiều có liên quan tới Lỗ gia, chỉ có hai ngươi lai lịch không rõ ràng. Song ở Kim gia trại ta lại thấy Tùng Đắc Lễ bỏ mạng để cứu ta, nên từ đó mới cảm thấy tin tưởng anh em các ngươi. Quả thực, ta đã từng nghĩ, các người không biết mục đích của chuyến đi này, cũng không hề có xung đột về lợi ích, hơn nữa lại chẳng hiểu gì về khảm diện, chứng tỏ các ngươi không có liên quan gì tới Chu gia. Nhưng sau đó, ta phát hiện ra các đai sắt trên hàng rào Kim gia trại do sát thủ Chu gia cắt đứt, hơn nữa họ muốn ép bọn ta chạy về hướng này, nên đã bắt đầu nghi ngờ không biết ngươi muốn dẫn bọn ta tới nơi đâu, với mục đích gì. Đặc biệt là khi ngươi nói nơi đó châu báu vô số, nếu chỉ vì muốn được giàu sang, tại sao anh em các ngươi không tự đi? Tại sao suốt bao năm nay phải sống khổ sở với nghề đốn gỗ? Quả thực có quá nhiều mâu thuẫn và bất hợp lý! Hơn nữa khi mới gặp mặt tại sao không chịu nói ngay, mà phải đợi tới Kim gia trại rồi mới nói? Bởi vì trước đó các ngươi vẫn chưa có kế hoạch này. Vào đêm nghỉ lại trong rừng, các ngươi đã bỏ ra ngoài báo cáo với người họ Chu về việc bọn ta định đến Kim gia trại, các ngươi mới biết được kế hoạch tiếp theo. Song vào lúc các ngươi quay về, lại vừa kịp cùng anh Phó gây tiếng động đuổi dã thú đi, khiến ta cứ ngỡ các ngươi đã di cùng anh Phó, nên cũng không nghĩ đến việc các ngươi đã đi đâu. Sau đó, các ngươi lại tỏ vẻ không muốn băng rừng ban đêm, nói rằng có biết có một hang động để nghỉ chân. Rõ ràng là tiền hậu bất nhất, tại sao ngay từ đầu không dẫn bọn ta tới đó nghỉ đêm? Chính vì các ngươi sợ bọn ta khởi hành quá sớm khiến đồng bọn của các ngươi chưa kịp chuẩn bị ở Kim gia trại. Lỗ Nhất Khí đằng hắng khẽ một tiếng rồi nói tiếp: - Hơn nữa, hành vi của các ngươi cũng bắt đầu lộ ra sơ hở. Suốt dọc dường đi lúc nào cũng bị đối thủ đuổi sát sau lưng, điều này đã khiến ta ngờ rằng trong bọn có người cố tình để lại dấu vết. Vừa hay lúc đó anh Phó nói với ta rằng, trong thị trấn nhỏ, anh ta đã tìm ra đường nhờ vào mùi gỗ. Điều này đã giúp ta phát giác ra rằng, từ đầu tới cuối ngươi luôn đi sau cùng đoạn hậu, và chỉ dùng một loài cây duy nhất là thông lá kim để xoá dấu chân trên tuyết. Lá của loài cây này có thứ mùi đặc trưng, mang thương thơm chát đắng. Khi quét trên nền tuyết, lá thông sẽ rơi rụng ít nhiều, tuy con người không thể ngửi ra, song muông thú vẫn nhận biết được. Kỳ thực là sau lưng chúng ta luôn có dấu chân thú đi theo, lúc nghỉ đêm còn có thú lớn xông vào. Mới đầu anh Phó hú lên và tạo ra những tiếng động kỳ quái, song vẫn không thể đuổi được nó đi. Chỉ tới khi các ngươi lên tiếng, dã thú mới sợ hãi bỏ chạy, bởi lẽ các ngươi biết cách điều khiển các giống động vật trong nhà. Nhưng sau đó anh Tam đã phát hiện ra lão Nhậm rắc tàn tro trên tuyết, chú Hạ phát hiện thấy dưới đế giày của chị Thuỷ có giấu vật cứng, hai phương pháp đánh dấu dễ nhận hơn đó đã khiến ta nhất thời bỏ qua ngươi. Nhậm Hoả Cuồng và Thuỷ Băng Hoa nghe vậy, thoáng chút sượng sùng. Nhậm Hoả Cuồng không ngờ kỹ xảo lưu tro trong tuyết mà ông ta cứ ngỡ là tinh vi kín kẽ đã bị bại lộ từ sớm, còn Thuỷ Băng Hoa bối rối vì nghe Lỗ Nhất Khí đổi giọng gọi mình là “chị Thuỷ”. - Song sơ hở lớn nhất của ngươi là khi ở trên bôn hồng đạo. Khi đó chú Nhậm nhắc đến cách cục “rào trúc cắm nghiêng”, cách cục này chỉ có người từng đọc qua tổng chương của “Ban kinh” của Lỗ gia, hoặc người phía Chu gia chuyên nghiên cứu kỹ nghệ Lỗ gia để đối phó với chúng ta mới hiểu, song tất cả những người có mặt dều chỉ chăm chú quan sát mà không ai lên tiếng thắc mắc, cho thấy mọi người đều hiểu khái niệm này. Bởi vậy, đến lúc này, mọi hoài nghi trong ta chỉ tập trung vào hai người không phải là truyền nhân của Lỗ gia, thứ nhất chị Thuỷ, thứ hai chính là ngươi. Đặc biệt là ngươi, vì ngay từ khi gặp mặt, anh Phó đã nói rằng các ngươi chỉ theo anh ta kiếm sống chứ không học đến kỹ nghệ, vì chính ngươi lúc nào cũng tỏ ra mình là một gã ngốc chẳng hiểu gì về khảm diện. - Vậy còn bà chủ Thuỷ… – Quỷ Nhãn Tam đến giờ mới xen vào được nửa câu. - Giờ đây chị Thuỷ đã chứng minh được lai lịch kỹ nghệ của mình, bởi vậy người khả nghi duy nhất chính là hắn, Tùng Đắc Kim! – Nói đến đây, Lỗ Nhất Khí liếc qua Thuỷ Băng Hoa một thoáng. Quỷ Nhãn Tam tiếp lời: - Khi bị bao vây hai mặt trên dốc rừng sam đỏ, hắn giao chiến với đao thủ trên đỉnh núi, chưa được nửa chiêu đã bị chém đứt cán rìu mà bỏ chạy. Đến khi bà chủ Thuỷ bắn đám đao thủ, thằng cha chết giẫm này lại tay không xông lên, chặn ngang đường đạn của bà chủ Thuỷ. Chắc chắn là muốn bảo vệ đồng bọn. Thuỷ Băng Hoa cũng chen vào: - Đúng đấy! Trước dó hắn toàn một mình đi kiếm hạt khô, chắc chắn là nhân cơ hội truyền tin cho đồng bọn, nên đối thủ mới tới đây trước chúng ta. Lão mù cũng lên tiếng: - Thằng ranh này lúc nào cũng ra vẻ đầu óc ngu si tứ chi phát triển, võ thuật kém cỏi chỉ có sức trâu, nhưng lúc ở dốc ba đoạn, khi ta nghe thấy hắn nói là lên dốc, muốn túm lấy hắn hỏi cho ra nhẽ, song lại chụp trượt đến hai lần, tới lần thứ ba mới trúng. Lúc đó ta cũng nghi ngờ, không hiểu thằng ranh này che giấu thân phận để làm gì. - Còn tên kia là ai? – Thuỷ Băng Hoa hỏi. - Kẻ giả chết! – Lỗ Nhất Khí đáp. - Ý cậu là… hắn chính là Tùng Đắc Lễ? – Quỷ Nhãn Tam hết sức kinh ngạc. - Chẳng phải hai người đã tận mắt chứng kiến hắn chết ư? – Nhậm Hoả Cuồng cũng ngạc nhiên không kém. - Đúng vậy. Chúng tôi đều đã nhìn thấy phi mâu đâm xuyên qua người hắn, song không ai nhìn thầy hắn đã tắt thở hay chưa, chỉ nghe Tùng Đắc Kim gào khóc nói anh hắn chết rồi. Khi Quỷ Nhãn Tam định đến xem Tùng Đắc Lễ thế nào, lập tức bị Tùng Đắc Kim lôi tuột đi. Mọi người đều gật đầu đồng tình, hai bóng đen thận trọng đưa mắt nhìn nhau. - Song đến khi nhìn thấy cao thủ bắn nỏ bị phi mâu găm chết trên thân cây, tôi mới cảm thấy có gì đó bất thường. Nếu không có cây to chắn phía sau, phi mâu hoàn toàn có thể xuyên qua người cao thủ. Lại nhớ đến người đàn bà bị anh Phó lôi theo làm lá chắn, khi đó phi mâu đã đâm thủng mấy lần tường gỗ, xuyên suốt qua đầu chị ta, lại tiếp tục đâm thủng vách gỗ bay đi. Nhưng tại sao phi mâu lại không xuyên qua cơ thể Tùng Đắc Lễ? Bởi vì phi mâu đã được hai cao thủ phối hợp khống chế lực đạo một cách vô cùng khéo léo, lại cố ý quẹt qua hàng rào, mục đích chính là giảm bớt xung lực, nếu không một cao thủ tầm cỡ đó làm sao có thể ra tay thiếu chuẩn xác như vậy? Cán mâu cắm vào cơ thể, có thể bịt chặt vết thương không để mất quá nhiều máu, sau đó sẽ tiến hành điều trị bằng phương thuốc hiệu nghiệm, thì khác gì vết thương do tên bắn ngoài da. Nhưng vẫn còn một điều quan trọng nữa, chính là tim của Tùng Đắc Lễ lệch vị trí, nằm bên ngực phải, nên phi mâu có đâm thủng ngực trái cũng không ảnh hưởng gì đến tim. Nói tới đây, Lỗ Nhất Khí lại đột nhiên nhớ tới Dưỡng Quỷ Tỳ, trái tim bất giác nảy lên khe khẽ. Nhậm Hoả Cuồng cũng đã lên tiếng, vẻ đầy căm hận: - Khi bà bạn già của tôi chui ra khỏi hang đá đi tiểu, đã gặp kẻ đang theo dõi chúng ta, song chỉ thấy loáng thoáng sau lưng. Sau đó, khi nhìn thấy tấm lưng của Tùng Đắc Kim đang đi trước dẫn đường, thì ngạc nhiên kêu lên một tiếng. Lúc đó tôi không để ý lắm, nhưng giờ nhớ lại mới thấy, hẳn là bà ấy đã phát hiện ra tấm lưng của Tùng Đắc Kim giống hệt với cái bóng bà ấy nhìn thấy đêm trước, nên cái bóng đó chắc chắn là của Tùng Đắc Lễ. Bà ấy vốn không phải là người trong giang hồ, không lường hết được chuyên giang hồ quỷ kế đa đoan nên không nói ra. Bởi vậy nên mới bị giết hại để diệt khẩu. Nhưng nghĩ lại, động tác trước khi chết của bà ấy rất quái lạ, chỉ thẳng về phía chúng ta, kỳ thực là muốn chỉ Tùng Đắc Kim. - Khi bị lạc trong khe núi, tôi nhìn thấy Tùng Đắc Kim bèn đuổi theo, không ngờ lại sẩy chân rơi xuống hố lọt vào đường hầm. Chứng tỏ hắn đã phát hiện ra miệng hố, song không dám xuống, bèn dùng tôi làm vật dò đường! – Phó Lợi Khai lúc này mới nghĩ ra. - Nhưng tại sao cậu biết ai là Tùng Đắc Lễ, ai là Tùng Đắc Kim? – Thuỷ Băng Hoa hỏi Lỗ Nhất Khí. Lỗ Nhất Khí không trả lời thẳng câu hỏi của Thuỷ Băng Hoa, mà quay sang hỏi Quỷ Nhãn Tam: - Anh Tam, anh còn nhớ không, tôi từng nói với anh rằng dáng đi của hai anh em họ rất đối xứng đều tăm tắp? - Nhớ! - Đúng vậy, rất đều đặn đối xứng. Đều đặn thì còn được, lại còn đối xứng! Vì sao lại là đối xứng? Là vì một trong hai kẻ thuận tay trái. Một trái một phải mới là đối xứng. - Tim lệch thì tay cũng lệch, nên Tùng Đắc Lễ là người thuận tay trái. Kẻ giết chết bà bạn của lão Nhậm cũng cầm dao tay trái! – Lão mù bắt đầu liên kết sự việc! - Kẻ chúng ta gặp trên đường tam phong tam hồi không phải là Tùng Đắc Kim, hắn nhìn thấy chúng ta chỉ vẫy tay mà không tiến lại. Mọi người còn nhớ không? Hắn đã rất tự nhiên giơ tay trái lên vẫy! – Lời lẽ của Quỷ Nhãn Tam không còn nhát gừng nữa. Ánh mắt của mọi người đều đổ dồn về phía bàn tay toái dang cầm rìu của kẻ đang đứng ở góc tường, sau đó lại quay sang nhìn bàn tay phải đang vội vã rụt về của kẻ núp bên bệ pha lê. - Trên cán rìu tôi đã rèn các đường xoáy ngược, nếu cầm trái tay sẽ rất khó chịu, trừ phi đó là kẻ thuận tay trái bẩm sinh, Nhậm Hoả Cuồng nghiến răng mà nói, mắt nhìn trừng trừng vào kẻ đứng ở góc tường, vừa nói vừa dấn một bước nhỏ về phía đó. Bàn tay cầm rìu của gã bỗng siết mạnh một cái, quả hực hắn không hề cảm thấy cán đao có gì khó chịu. - Nói tới rìu, đó là món vũ khí thần kỳ do lão Nhậm dày công chế tác. Chịu giao món vũ khí bảo mệnh của bản thân cho người khác, chắc chắn mối quan hệ phải thân thiết khác thường, chí ít cũng phải là họ hàng ruột thịt. Bởi vậy kẻ kia chắc chắn là Tùng Đắc Lễ! Đã tới nước này, các ngươi cũng chẳng cần che mặt làm gì nữa cho mất công. Ta biết sờ dĩ các ngươi bịt mặt lại, là vì muốn sau khi bọn ta lấy được bảo bối vẫn có cơ hội tiếp tục trà trộn đi theo, chờ dịp cướp lại. Giờ đây các ngươi cảm thấy có còn cơ hội nữa hay không? – Giọng Lỗ Nhất Khí vẫn sang sảng. - Hai thân hình đen kịt cùng run lên khe khẽ. Đây là cơ hội cực tốt để hành động, có người đã chớp được tiểu tiết này. - Đúng vào thời khắc đó, Quỷ Nhãn Tam đã từ từ bật Vũ Kim Cương lên, đổ người về phía trước, hai chân hơi chùng xuống, sẵn sàng lao vụt lên. - Nhậm Hoả Cuồng cũng ngấm ngầm nắm chắc dùi sắt trong tay, mũi dùi hơi chếch lên, phần đuôi tì sát dưới nách. Sau cuộc chạy tháo thân trong đường hầm vừa nãy, vũ khí trên người ông ta chỉ còn lại cây dùi sắt và một thanh đao giắt sau thắt lưng, chính là thanh đao sắc bén do đao thủ Công tập vi để lại. - Động tác của Phó Lợi Khai là kín đáo nhất, chỉ lặng lẽ vận lực vào bàn tay cầm cưa, chống mạnh lưỡi cưa lên mặt đất. Dưới sức ấn của Phó Lợi Khai, sống cưa vẹo hẳn đi, khiến dây thừng ở một đầu chùng lỏng, còn lưỡi cưa ở đầu còn lại cong lên như cánh cung. Còn lão mù đột nhiên cất giọng khàn đặc hét lớn: - Tùng Đắc Kim! Mọi người đều giật bắn mình, bóng đen đứng bên bệ pha lê vô thức “A” lên một tiếng. - Tiếng kêu quả là hữu ích, đã chứng minh kẻ đó đích thực là Tùng Đắc Kim, đồng thời cũng giúp lão mù xác định được vị trí gã đang đứng. Gò má lão mù giật mạnh một cái, cơ thể cũng lắc khẽ một nhịp, lập tức cả người bay vụt lên, lao về phía Quỷ Nhãn Tam. Lão định giậm chân lên mặt Vũ Kim Cương, mượn lực để nhảy qua bệ pha lê, tấn công Tùng Đắc Kim từ trên xuống. Gần như cùng lúc đó, Nhậm Hoả Cuồng cũng tung mình nhảy vụt đi, bàn chân còn chưa chạm đất, dùi sắt đã đâm thẳng tới… Hai người bọn họ hành động đầu tiên, song Nhậm Hoả Cuồng mới lao đi được hai bước đã giẫm xéo chân kìm người dừng ngay lại. Lão mù đã giẫm được lên mặt Vũ Kim Cương, song Vũ Kim Cương lập tức cụp xuống theo đà giẫm của lão, không tạo được chút sức bật. Tại sao lại như vậy? Chỉ có lão mù không biết, bởi lẽ lão không nhìn thấy. Những người khác đều biết rõ, bởi lẽ trong khoảnh khắc đấy, họ chợt giống hệt như lão mù, đều không nhìn thấy gì nữa. Giống trùng ăn thịt người ẩn trong núi lửa Trình Lăng Tân người Đông Tấn, người đời sau còn gọi ông là Trình Khai Thổ, là ông tổ của nghề khai sơn đào đất, trước tác có “Kiến phương động thuỷ thổ” và “Địa trung dị tình lục”. Trong “Địa trung dị tình lục” có chép: “Đất có xác người chồng chất, đào lên thấy có loài côn trùng, hình giống như con cáy dẹt, trong mai chứa lửa. Theo khe nứt mà di chuyển, đi lại không vết tích. Phá da mà vào, thiêu cháy cơ thể”. Đó chính là cáy hoả thi. Cáy hoả thi chỉ là tên gọi thông tục, trong sách vở thường gọi là trùng hoả long hoặc hoả thổ long, thổ long ăn lửa. Tại những nơi có núi lửa phun trào trên thế giới cũng thấy xuất hiện loại côn trùng này, chúng có thể bò rất nhanh trên dung nham vừa đông kết. Cáy hoả thi rơi xuống đất, xoay một vòng tròn giống như để xác định phương hướng, sau đó mau chóng bò đến chân tường, rồi chui tọt qua chân tướng vốn dĩ không hề nhìn thấy một kẽ hở.
Lời Nguyền Lỗ Ban Quyển 3 - Chương 35: Núi sạt lở Spoiler: Click vào để đọc Một vầng hào quang chói loà rực rỡ vụt ra trên vách tường đá, lao vào trong thạch thất. Chỉ trong nháy mắt toàn bộ gian phòng đã sáng loà, sáng gấp mấy lần ánh sáng ban ngày. Vầng sáng vừa loá lên, tất cả mọi người đều lập tức nhắm mắt lại. Cũng chỉ trong nháy mắt, ánh sáng giảm dần. Song ánh sáng còn chưa tắt hẳn, một số người đã mở choàng mắt, lập tức hành động. Lão mù và Nhậm Hoả Cuồng chưa hành động ngay, bởi lẽ sau cú thủ thế tấn công chưa thành vừa rồi, họ cần chút thời gian để điều chỉnh tư thế. Người có phản ứng đầu tiên lại là Thuỷ Băng Hoa, cô ta giơ cả hai tay với về phía hộp ngọc. Lỗ Nhất Khí ở ngay sát phía sau cũng bước vội lên một bước, đưa tay về phía bệ pha lê. Hai người họ đều không hề có kinh nghiệm giang hồ, nên suy nghĩ vô cùng đơn giản, chỉ muốn lập tức lấy ngay thứ mình cần. Chậm hơn họ một bước là Tùng Đắc Kim và Quỷ Nhãn Tam. Hai người này kỳ thực đã mở mắt ra trước cả Lỗ Nhất Khí và Thuỷ Băng Hoa, song họ đều có sự thận trọng của kẻ giang hồ từng trải, nên đầu tiên phải giơ tay, rụt cổ, thụp người thủ thế. Tới khi Thuỷ Băng Hoa và Lỗ Nhất Khí lao tới bên bệ pha lê, Tùng Đắc Kim mới vội vã hành động. Quỷ Nhãn Tam vừa thấy cánh tay Tùng Đắc Kim di chuyển, lập tức tung người vọt lên, vung Vũ Kim Cương bổ thẳng xuống đầu gã. Vầng sáng loé lên đột ngột, song biến mất cũng rất nhanh, hang đá lại tối tăm như cũ. Lỗ Nhất Khí đã lùi về. Trong tay cậu không có hộp ngọc, chỉ có một miếng pha lê đen bóng. Hộp ngọc đã ở trong tay Thuỷ Băng Hoa, song hai tay còn chưa kịp rút về, thì bàn tay như vuốt ưng của Tùng Đắc Kim đã bấm chặt lấy huyệt Mạch môn trên một cánh tay của cô ta, giật mạnh một cái đã lôi phăng cô ta qua bệ pha lê về phía mình. Tùng Đắc Kim tính toán rất chu toàn, nếu trực tiếp giằng co với Thuỷ Băng Hoa, rất có thể sẽ phá hỏng bảo bối, hơn nữa cao thủ bên đối phương cũng sẽ kịp ra tay. Chỉ có dùng cách khống chế Thuỷ Băng Hoa rồi cướp lấy hộp ngọc, mới giữ được bảo bối nguyên vẹn, lại có thể dùng Thuỷ Băng Hoa làm lá chắn để bảo vệ bản thân. Thuỷ Băng Hoa cũng phản ứng rất nhanh, một tay vừa bị giữ chặt, không kịp nghĩ ngợi lập tức vung tay còn lại ném ngay hộp ngọc về phía Lỗ Nhất Khí. Lỗ Nhất Khí thấy Thuỷ Băng Hoa ném về phía mình một thứ, liền loạng quạng đỡ lấy. – Đưa hộp ngọc đây! – Tùng Đắc Kim gầm lên hung hãn như một con thú điên. Từ trong góc tường, Tùng Đắc Lễ nhìn thấy hộp ngọc đã vào tay Lỗ Nhất Khí, lập tức lao vụt về phía cậu. Song lúc này Lỗ Nhất Khí lại đứng nghệt ra như một pho tượng, căn bản không ý thức được sự uy hiếp từ phía Tùng Đắc Lễ, cũng không nâng súng lên. Bởi trong khoảnh khắc đó, cậu đã cảm nhận được một sức uy hiếp còn khủng khiếp hơn Tùng Đắc Lễ rất nhiều. – Cái gì thế? – Lão mù đột nhiên kêu lên đầy khiếp sợ. Lão đã nghe thấy những âm thanh như ma gào quỷ rú vẳng lên từ trong lòng đất. – Cẩn thận! Tìm thứ gì mà bám… – Lỗ Nhất Khí chỉ kịp hét lên nửa câu dang dở. Kỳ thực không phải lời nói của cậu đứt đoạn nửa vời, mà là nửa câu sau đã bị chìm nghỉm trong những tiếng gào rú quái dị và hàng tràng những tiếng “rầm rầm” long trời lở đất. Trong gian thạch thất không có một vật cố định nào có thể bám được, các vách đá đều trơn tuột không thể bám tay. Những kẻ biết võ công còn đỡ, gắng vận lực xuống chân vẫn miễn cưỡng đứng vững được. Còn Thuỷ Băng Hoa đã ngã ngồi xuống đất, Tùng Đắc Kim có lôi thế nào cũng không lôi dậy nổi. Còn Lỗ Nhất Khí quyết định nằm luôn xuống đât, hai tay nắm khư khư miếng pha lê đen và khẩu súng lục, hộp ngọc ôm chặt trước ngực, dường như những thứ này đều là sợi dây cứu mệnh của cậu. Động đất! Động đất trước khi núi lửa phun! Vầng hào quang sáng loà khi nãy chính là địa quang* được mệnh danh là vầng sáng chết chóc! Âm thanh vọng lên từ dưới đất chính là âm thanh địa chấn!** * Địa quang tức là ánh sáng động đất, là hiện tượng bầu trời xuất hiện ánh sáng trước khi động đất xảy ra. Thời gian địa quang xuất hiện đa phần đều trùng với thời điểm xảy ra động đất, ánh sáng có dạng mảng, dạng vòng cung, dạng vành đai xuất hiện trong khí quyển tầng thấp, đa phần có màu trắng xanh; còn cầu lửa, đốm lửa phụt ra trên mặt đất đa phần có màu đỏ. ** Khi có động đất xảy ra, một bộ phận nhỏ năng lượng sóng địa chấn truyền vào không khí biến thành sóng âm tạo ra âm thanh, gọi là âm thanh địa chấn, ở những vùng có tầng đá gốc lộ ra hoặc lớp đất bề mặt rất mỏng đều dễ dàng nghe thấy âm thanh địa chấn. Động đất mỗi lúc một dữ dội, gian thạch thất vốn đã tối tăm, giờ lại thêm bụi bay mù mịt, càng khó nhìn rõ. Còn may mà căn phòng đặc biệt kiên cố nên chưa thấy có đá lở xuống. Cơn động đất kéo dài khoảng hơn chục giây thì chấm dứt, trong thạch thất chỉ còn những tiếng ho sặc sụa. Tiếng ho còn chưa kịp dứt, đã vọng lên tiếng chân chạy thình thịch, tiếp đó là tiếng hô quát và tiếng kim loại va chạm chát chúa. Dù sao đều là những tay giang hồ lão luyện, vừa dứt khỏi cơn kinh hoàng hoảng loạn, lập tức ý thức được ngay cần phải làm gì. Lỗ Nhất Khí vẫn nằm yên dưới đất, nhân lúc này nhét ngay hộp ngọc vào trong túi vải, giấu miếng pha lê đen vào trong ngực áo, sau đó mới ngồi dậy giương súng lên. Súng vừa giương lên, Lỗ Nhất Khí lập tức cảm thấy bỏng rát sau gáy, đây lại là dấu hiệu báo trước một cơn nguy hiểm đang ập đến gần. Là hang đá tiêu thạch! Nguy hiểm đang ập đến từ phía đó! Trong hang đá tiêu thạch, khí diêm tiêu đang cuồn cuộn xáo động, cuối cùng bùng lên như một con sóng lớn, ào ào tuôn về phía dòng dung nham đỏ rực. Ánh lửa bừng lên chói loá trong khắp lòng hang, kèm theo một tiếng nổ dữ dội muốn bục lỗ tai. Luồng sức ép khủng khiếp giật tung cánh cửa đá ngọc vàng ánh kim, hất nó bay lộn nhào mấy vòng trong không trung rồi đập thẳng vào vách đá. Vài chục lưỡi rìu đá cỡ lớn ở gian thạch thất bên ngoài bay loạn xạ tựa lá khô, rào rào cắm phập vào vách đá, nóc phòng. Hang tiêu thạch vừa phát nổ, lòng đất lại tiếp tục một cơn chấn động mới, còn kéo dài hơn cả lần trước. Lỗ Nhất Khí vẫn nằm dán người trên nền đá, bởi cậu biết mình không đủ sức đứng vững trong cơn rung lắc dữ dội này. Cậu nghiêng đầu áp sát một bên tai xuống nền đá. Từ trong những tiếng “uỳnh uỳnh” chấn động, cậu đã nghe thấy những tiếng rạn nứt kéo dài và mau lẹ, từ xa tới gần, tựa như một quả dưa hấu tươi giòn đang nứt vỡ. Cùng lúc đó, bệ pha lê cũng sụp đổ tan tành. Cậu rút đi một miếng, nó không sập; trong cơn động đất điên cuồng, nó không sập; hang tiêu thạch nổ tung, nó cũng không sập. Song chỉ một vết nứt ở sâu trong lòng đất, nó đã đổ vỡ tan tành. Tiếng rạn nứt đã tiến tới rất gần, cơn rung lắc khủng khiếp vẫn đang tiếp tục. Gian thạch thất đột nhiên toác làm đôi từ trên nóc xuống, hệt như một quả trứng gà bị đập vỡ. Cả gian phòng bị tách làm hai nửa, mỗi lúc một cách xa. Trong rãnh nứt vẫn đang tiếp tục mở rộng, bụi bặm và đá vụn xô nhau rơi xuống rào rào như mưa mùa hạ, khiến vết nứt hệt như một dải lụa màu xám giăng ngang giữa gian phòng. Từng cơn chấn động kinh hoàng đẩy Lỗ Nhất Khí từ từ trượt về phía khe nứt. Mắt thấy cơ thể sắp lọt thỏm xuống vực sâu không đáy, cậu vội vàng lật người nằm sấp trên nền đá. Song cơn chấn động vẫn tiếp tục đẩy cậu đi. Cậu chỉ còn biết tì chặt lồng ngực, bám chắc hai tay lên mép khe nứt, không để cơ thể trượt xuống. Song đáng sợ là nền đá cũng bắt đầu nghiêng về phía khe nứt đó. Nền đá vốn nhẵn nhụi trơn tuột, không có điểm nào có thể bám tay. Lỗ Nhất Khí chỉ còn biết mở mắt nhìn trừng trừng vào bàn tay bám trên nền đá đang từ từ trượt xuống phía dưới, mỗi lúc một nhanh… Một hồi lâu sau, trái núi mới ngừng cơn điên đảo. Sau cơn động đất, gian thạch thất tối tăm bỗng sáng bừng. Ánh sáng ngập tràn khắp gian phòng, sắc trắng rọi từ trên xuống, sắc đỏ hắt từ dưới lên. Gian thạch thất đã toác hẳn làm đôi cùng với cả trái núi. Ánh sáng phía trên là ánh sáng trời chiếu xuống qua khe nứt chạy dọc thân núi, lờ mờ trắng nhạt, không rõ ngoài kia là bình minh hay đã xế chiều. Từ trong khe nứt sâu hoắm sặc lên một thứ mùi quái dị, dung nham đỏ rực đang cuồn cuộn sôi trào, ánh sáng phía dưới chính là ánh lửa dung nham hắt lên. Bàn tay của Lỗ Nhất Khí đã sắp sửa trượt qua mép khe nứt, bỗng một lưỡi rìu thò ra ngay trước mặt cậu. Cậu chẳng kịp suy nghĩ, lập tức bám chặt vào đầu rìu chẳng khác gì kẻ sắp chết đuối vớ được cọng rơm. – Đưa hộp ngọc đây, ta sẽ kéo ngươi lên! – Trong giọng nói của Tùng Đắc Lễ tràn ngập một vẻ đắc ý không che giấu. Chiếc rìu quả thực chỉ là một cọng rơm, không ai ngờ cục diện lại thành ra như vậy. Tuy Phó Lợi Khai và Nhậm Hoả Cuồng đứng cách đó không xa, song họ lại bị cả đống đá vụn ngăn cản, nên chỉ biết bất lực đứng nhìn. – Ta đưa cho ngươi! – Lỗ Nhất Khí vừa nói vừa buông tay trái ra gắng gượng thò vào trong túi vải lục lọi. Tùng Đắc Lễ là kẻ tham lam, song lại không vì thế mà mất đi cảnh giác, vẫn nghiêng người vào trong, trụ chân thật vững. Hộp ngọc hiện ra, hoen màu cổ kính, rực rỡ hào quang, trơn bóng ấm áp như thể muốn tan chảy vào trong da thịt Lỗ Nhất Khí. Hai mắt Tùng Đắc Lễ sáng rỡ, bừng bừng một dục vọng có lẽ là mãnh liệt nhất trong cuộc đời của gã. Gã hơi nghiêng người về phía trước, kéo cán rìu lại gần, như vậy mới có thể với tới hộp ngọc trong tay Lỗ Nhất Khí. – Xoay rìu sang trái! – Nhậm Hoả Cuồng đột nhiên hét lớn. Tiếng hét còn chưa dứt, một vệt sáng dài ngoẵng kéo theo luồng hàn quang lạnh lẽo vùn vụt lao đến. Lỗ Nhất Khí chẳng kịp suy nghĩ, lập tức xoay lưỡi rìu trong tay sang trái. Cán rìu lập tức bật ra một đoạn dài, đâm thẳng vào ngực trái Tùng Đắc Lễ. Ở đó đã có sẵn một vết thương, một lỗ thủng do phi mâu xuyên vào. Cán rìu đâm toạc lớp vải băng bó, lao thẳng vào vết thương cũ, tiếp tục đâm xuyên qua cơ thể Tùng Đắc Lễ. Chiếc rìu do Nhậm Hoả Cuồng rèn ra, song lại không phải để ông ta sử dụng. Đương nhiên ông không mong muốn món đồ quý do chính tay mình làm ra lại làm hại chính mình, huống hồ ông vẫn chưa thể hoàn toàn tin tưởng người sử dụng nó. Bởi vậy, khi rèn vũ khí cho Phó Lợi Khai, Quỷ Nhãn Tam và Tùng Đắc Kim, ông ta đã ngấm ngầm thiết kế cơ quát bí mật bên trong, một thứ cơ quát có thể sát thương chính người sử dụng chúng. Nỗi đau đớn tột cùng khiến Tùng Đắc Lễ suýt nữa đã quăng cán rìu đi, song đó chỉ là trong ý nghĩ, còn trên thực tế, bàn tay gã lại càng siết chặt cán rìu. Giờ đây nếu rút cán rìu ra, chắc chắn sẽ khiến máu phun ồ ạt mà chết. Cùng lúc đó, tay phải của gã cũng đã nắm cứng hộp ngọc. Hộp ngọc vẫn chưa đoạt được, hắn quyết không chịu từ bỏ. Vệt hàn quang đã bay tới, tròng vào vai phải của Tùng Đắc Lễ, ánh trắng lấp lánh trong chớp mắt đã bị phủ mờ bởi sắc đỏ tươi. Đó chính là lưỡi cưa bắn ra từ chiếc cưa của Phó Lợi Khai. Tùng Đắc Lễ nhìn trân trôi vào lưỡi cưa trên vai, vẻ như không tin nổi mắt mình: một dụng cụ nghề mộc cũng có thể trở thành ám khí? Máu nhanh chóng trào ra, vì vết thương hình răng cưa nên máu chảy ra ồ ạt và nhanh hơn nhiều. Như vậy chỉ chốc lát nữa thôi, tay phải của Tùng Đắc Lễ sẽ trở nên tê liệt, mất đi cảm giác, không còn đủ sức để giữ hộp ngọc. – Ném hộp ngọc qua đây! – Tiếng Tùng Đắc Kim gào lên từ phía bên kia của khe nứt. Gã đang giữ Thuỷ Băng Hoa làm con tin, bị Quỷ Nhãn Tam và lão mù áp sát. – Mau ném qua đây! Có thứ này trong tay chúng ta mới có thể toàn mạng! – Tùng Đắc Kim lại nôn nóng quát lên. Tùng Đắc Lễ là tay giang hồ xảo trá, đương nhiên là hiểu rõ điều này. Chỉ khi họ có được thứ này, mới không bị đối thủ tiêu diệt; chỉ khi họ có được thứ này, môn trưởng và các cao thủ dưới quyền mới chịu tới cứu hai anh em hắn. Thế là nhân lúc bàn tay phải vẫn chưa tê liệt hoàn toàn, gã ném ngay hộp ngọc về phía bên kia khe nứt. Tùng Đắc Kim đón lấy hộp ngọc, điều này càng khiến Quỷ Nhãn Tam và lão mù phải e dè hơn, sợ rằng ném chuột vỡ đồ quý. Bàn tay trái của Lỗ Nhất Khí quờ quạng một hồi cuối cùng cũng đã tìm ra được chỗ bám, đó chính là đầu lưỡi cưa thõng xuống từ vai phải Tùng Đắc Lễ. Trong tình cảnh này, Lỗ Nhất Khí cũng chẳng buồn để ý xem đó là thứ gì, đang mắc vào đâu, chỉ biết chụp ngay lấy lôi mạnh. Nỗi đau đớn kịch liệt trên đầu vai lập tức xuyên thấu toàn thân Tùng Đắc Lễ, gã lập tức ngoảnh đầu há miệng cắn chặt lấy lưỡi cưa, như vậy mới có thể khiến phần vai không bị cưa đứt dưới sức kéo cật lực của Lỗ Nhất Khí. Tình thế lúc này đã không còn là Tùng Đắc Lễ có chịu cho Lỗ Nhất Khí sống hay không, mà biến thành nếu Tùng Đắc Lễ muốn sống, sẽ buộc phải kéo Lỗ Nhất Khí lên, hoặc tìm cách hất Lỗ Nhất Khí xuống. Thế là gã nghiến răng chịu đựng hai cơn đau đớn cùng một lúc, khó nhọc dịch chuyển bàn tay phải đã có phần tê liệt, rút ra một thanh đao giắt bên thắt lưng, một thanh đao lang nha sống dày lưỡi mỏng. – Quả nhiên là ngươi! – Nhậm Hoả Cuồng gầm lên giận dữ, lập tức bất chấp tất cả trèo qua đống đá vụn cản đường lao tới. Một lưỡi đao sắc bén kinh hồn! Có thể chặt xích chém then, thổi tóc là đứt, đâm chết người đàn bà của Nhậm Hoả Cuồng đến một giọt máu cũng không rỉ ra. Một lưỡi đao như vậy chỉ cần vung bừa lên đã có thể chặt đứt phăng lưỡi cưa, song giờ đây Tùng Đắc Lễ không những không còn đủ sức vung tay, đến cầm đao cho chắc cũng phải vô cùng cố gắng. Mũi đao lang nha nhích về phía trước từng chút từng chút một, tiến lại gần ngón tay đang túm chặt lấy đầu cưa của Lỗ Nhất Khí. Lưỡi đao từ từ cứa vào ngón tay Lỗ Nhất Khí. Dù Lỗ Nhất Khí có thể nghiến răng chịu đau quyết không buông tay thì lưỡi đao sắc bén kia vẫn sẽ cứa đứt ngón tay cậu. Nhậm Hoả Cuồng và Phó Lợi Khai vẫn đang ở phía bên kia đống đá vỡ, cho dù giờ đây họ có tới nơi cũng đã muộn rồi. Lỗ Nhất Khí cảm thấy tuyệt vọng, cậu ngửa cổ hét lên một tiếng thật dài. Ở bên kia khe nứt cũng vọng lại tiếng gào khóc của Thuỷ Băng Hoa.
Lời Nguyền Lỗ Ban Quyển 3 - Chương 36: Xin được chết Spoiler: Click vào để đọc Tiếng hét vừa cất lên, một tảng đá lớn bỗng nhiên rớt xuống, không biết là do bị rung chuyển bởi tiếng hét, hay do ông Trời muốn giúp Lỗ Nhất Khí, nên tảng đá vừa hay giáng trúng đỉnh đầu Tùng Đắc Lễ. Tuy không thể đập chết ngay một cao thủ như gã, song hoàn toàn có thể khiến hàm răng đang cắn chặt lưỡi cưa nới lỏng ra. Hàm răng vừa buông, lập tức máu tươi xương vụn bắn ra tung toé từ đầu vai Tùng Đắc Lễ. Đao lang nha rơi ngay xuống đất cùng với cánh tay đang nắm chặt lấy nó. Tùng Đắc Lễ điên cuồng lồng lộn, định liều chết nhổ phăng cán rìu đang cắm ngập trong người ra, gã muốn giết chết Lỗ Nhất Khí ngay lập tức, dù là có phải chết cùng. Song cán rìu đã găm chặt vào cơ thể gã không thể rút ra, cứ như đã mọc rễ vào trong đó. Có hai bàn tay to khoẻ rắn chắc đang giữ chặt lấy phần cán rìu lòi ra sau lưng gã. Tùng Đắc Lễ đã hoàn toàn mất hết lý trí, dồn hết sức lực đột ngột lao thẳng xuống khe nứt. Gã muốn dùng xung lực và trọng lượng của mình, cộng thêm trọng lượng của Lỗ Nhất Khí đang lủng lẳng bên dưới để kéo tuột kẻ đang giữ lấy cán rìu ở sau lưng cùng rơi xuống dưới. Cơ thể người đã lao xuống khe nứt rộng hoác sâu hun hút chẳng khác gì phiến lá khô. Tùng Đắc Lễ đã biến thành một phiến lá khô như thế. Gã không thể ngờ rằng nửa cơ thể bên trái đột nhiên đứt ra một khe dài, nối liền với vết đâm xuyên sườn bên trái. Cơ thể Tùng Đắc Lễ tuột ra khỏi cán rìu, lao thẳng xuống khe nứt. Đến tận lúc đó, gã vẫn chưa hiểu nổi chuyện gì đã xảy ra, cho đến tận khi cơ thể gã bốc mùi khét lẹt. Lỗ Nhất Khí đã được kéo lên trên bởi Nhậm Hỏa Cuồng đang nắm chặt cán rìu và Phó Lợi Khai tay lăm lăm thanh loan đao lưỡi trong. Trên mũi loan đao vàng thẫm lấp lánh của Phó Lợi Khai còn nhỏ giọt vài tia máu đặc quánh. Ngay bản thân gã cũng không ngờ được rằng thanh loan đao trong tay mình lại sắc bén đến vậy. Một nhát đao trong cơn bấn loạn vẫn có thể nhẹ nhàng men theo cán rìu cứa đứt ngang nửa cơ thể vạm vỡ của Tùng Đắc Lễ. Dung nham đang tiếp tục cuồn cuộn dâng lên trong khe nứt. Nhưng bên kia rãnh nứt, Thuỷ Băng Hoa và hộp ngọc vẫn đang nằm trong tay Tùng Đắc Kim. Lão mù và Quỷ Nhãn Tam vẫn đang trong thế giằng co với gã. Lỗ Nhất Khí thò đầu vào trong khe nứt, liếc sang hai bên trái phải, rồi nói chắc như đinh đóng cột: – Đi, sang phía đối diện! Khe nứt rất dài và rộng, đã bửa đôi ngọn núi, không thể nhảy qua, song Lỗ Nhất Khí đã phát hiện ra một “cây cầu” bên trong khe nứt. Đó là hai tảng đá lớn chia ra đối xứng ở hai bên vách nứt. Ngoài ra cách “cây cầu” không xa có một đường hầm hình vuông bị khe nứt bẻ gãy toạc. Việc cậu cần làm giờ đây là đi tới vị trí đó, lợi dụng hai tảng đá để vượt qua khe nứt dài rộng. Phó Lợi Khai phát hiện ra một con đường ở phía sau vách đá sạt lở, song không biết con đường sẽ dẫn tới dâu, cũng không biết năm xưa nó được tạo ra nhằm mục đích gì. Chỉ thấy bên trong tối đen như mực, vô cùng ẩm ướt, trên vách đá bám một lớp bùn đất rất dày. Nhìn vào hình dáng của đường hầm, có thể thấy nó được xây dựng hết sức sơ sài, vách tường cao thấp nhấp nhô, bề rộng chỗ phình chỗ hẹp, cảm giác như đây là một hang phụ trợ được đào ra trước khi xây dựng ám câu, dùng để vận chuyển vật liệu vào trong và đưa đất đá ra ngoài. Lỗ Nhất Khí lôi viên đá huỳnh quang Ba Tư ra, dẫn đầu đi trước. Cậu chạy rất nhanh, chỉ thầm mong con đường hầm có thể dẫn họ tới chỗ “cây cầu”. Kiểu đi bạt mạng bất chấp mọi thứ xung quanh của cậu rất nguy hiểm, song Nhậm Hoả Cuồng và Phó Lợi Khai cũng chẳng còn tâm trí đâu mà ngăn cản, chỉ bám sát sau lưng cậu. Đường hầm hơi dốc xuống, họ đi đã một lúc lâu mà vẫn chưa tới cuối đường, song lại phát hiện trên vách động có một lỗ hổng. Nhìn qua lỗ hổng, thì thấy bên trong là một đường hầm lát gạch, vuông vức bằng phẳng. Nhìn thấy con đường, ba người lập tức nghĩ rằng đã tìm được đường chính, bèn vội vội vàng vàng chui qua lỗ hổng vào trong. Song đường chính cũng không hề dễ đi, có rất nhiều ngã rẽ. Sau khi quan sát kỹ lưỡng, thận trọng thăm dò, ba người liền phát hiện ra rằng, đây chính là cách cục bác cổ phân cành* trong kỹ pháp của Lỗ gia. Đã quen với đường đi, họ bèn di chuyển nhanh hơn. Song sau khi đi qua một chỗ ngoặt vuông góc, một cảnh tượng thình lình hiện ra trước mắt khiến họ khựng lại sững sờ. * Cách cục bác cổ có rất nhiều loại, chủ yếu dùng để trang trí vách tường và vách ngăn gỗ, có thể đem lại phong vị cổ kính, thanh nhã. Cách cục bác cổ phân cành được tiếp diễn theo một phương thức bất quy tắc, giống như những cành cây phân nhánh, song trong sự lộn xộn, lại toát lên một phong vị riêng. Là một sát thủ, một Người Đao mười sáu lưỡi công lực phi phàm. Người Đao một tay vịn vào vách đá, một tay đang điên cuồng cào xé lồng ngực, cúi đầu ho dữ dội. Trên nền hang cắm một lưỡi đao, đó chính là lưỡi đao thứ mười lăm giấu trong miệng của Người Đao mười sáu lưỡi. Song giờ đây Người Đao đã không còn để tâm tới vũ khí đoạt mạng giữ mạng kia nữa, chỉ ho khan rũ rượi như xé phổi. Từ trên lưng Người Đao bốc lên một làn khói trắng. Theo tiếng ho, từ miệng gã bật ra những tia lửa nhỏ. Khó nhọc lắm, Người Đao mới “oẹ” lên vài tiếng, nôn ra những thứ đen sì. Là những mảnh nội tạng vỡ nát. Khi những mảnh nội tạng đã dồn thành đống, Người Đao ngã gục xuống đất, nằm im bất động, chỉ thấy khói xanh liên tục bốc ra từ chiếc miệng hé mở. Chứng kiến cảnh tượng quá đỗi rùng rợn, ba người chỉ chực nôn thốc nôn tháo, vội chạy lên phía trước, chuẩn bị vòng qua Người Đao để đi tiếp. Bỗng họ nhìn thấy từ trong miệng Người Đao chui ra một ngọn lửa, một ngọn lửa dẹp lép. – Đó là thứ gì vậy? – Phó Lợi Khai vô cùng khiếp đảm. – Cáy hoả thi! Là cáy hoả thi! – Nhậm Hoả Cuồng rú lên với vẻ kinh hoàng gấp bội, lập tức lùi lại phía sau. Trình Lăng Tân người Đông Tấn, người đời sau còn gọi là Trình Khai Thổ, là ông tổ của nghề khai sơn đào đất, trước tác có “Kiến phương động thuỷ thổ” và “Địa trung dị tình lục”. Trong “Địa trung dị tình lục” có chép: “Đất có xác người chồng chất, đào lên thấy có loài côn trùng, hình giống như con cáy dẹt, trong mai chứa lửa. Theo khe nứt mà di chuyển, đi lại không vết tích. Phá da mà vào, thiêu cháy cơ thể”. Đó chính là cáy hoả thi. Cáy hoả thi chỉ là tên gọi thông tục, trong sách vở thường gọi là trùng hoả long hoặc hoả thổ long, thể long ăn lửa. Tại những nơi có núi lửa phun trào trên thế giới cũng thấy xuất hiện loại côn trùng này, chúng có thể bò rất nhanh trên dung nham vừa đông kết. Cáy hoả thi rơi xuống đất, xoay một vòng tròn giống như để xác định phương hướng, sau đó mau chóng bò đến chân tường, rồi chui tọt qua chân tường vốn dĩ không hề nhìn thấy một kẽ hở. Ba người đều thở phào một cái, may mà chỉ có một con cáy hoả thi, cũng may mà con cáy hoả thi này đã hút no nê tinh huyết trong cơ thể Người Đao, nếu không một trong ba người đã trở thành món ăn của nó. Song đã xuất hiện một con cáy hoả thi, chắc chắn sẽ còn hàng nghìn hàng vạn con cáy hoả thi khác ẩn mình trong những khe nứt của đá nham thạch nóng bỏng, không biết lúc nào sẽ lại chui ra. Lỗ Nhất Khí đã không còn thời gian để nghĩ ngợi thêm, nhưng khi Phó Lợi Khai mở một cánh cửa ngầm có hình tường gạch, trong lòng cậu bất giác dấy lên một nỗi bồn chồn bứt rứt rất khó chịu. Sau khi được Nhậm Hoả Cuồng và Phó Lợi Khai kéo lên khỏi khe nứt, tâm tư của cậu vẫn chưa thể bình phục, lại càng không thể đi vào trạng thái điềm tĩnh tự nhiên. Thứ không cảm giác thấy thường sẽ xuất hiện thình lình. Cửa ngầm vừa mở, một đám xác chết máu thịt bầy nhầy, toàn thân giập nát lập tức nhảy bổ về phía họ. Nhậm Hoả Cuồng dù sao cũng là người kiến thức sâu rộng, trước tình cảnh này, ông là người bình tĩnh nhất. Năm xưa khi còn ở Quan Nội, trong sự kiện nung chảy nước đồng đỏ bí mật của Đạo gia, phá khoá Linh lung phong hồn, ông đã từng gặp cảnh tượng tương tự. Có khác là ở chỗ đám thây ma khi đó còn hình hài nguyên vẹn, không nát bấy như thế này. – Chạy sang hướng này! Thi khảm động tác cứng nhắc, cố gắng dẫn chúng đi lòng vòng rẽ ngoặt! Nói xong, Nhậm Hoả Cuồng lập tức quay đầu chạy vào trong một con đường nhánh. Năm xưa khi phá khoá Linh lung phong hồn, họ Ngôn chuyên nghề dẫn xác ở Giang Tây đã phái người đến giúp để đối phó với xác sống, họ đã sử dụng bộ pháp “du thân chuyển” liên tục chạy lòng vòng, khiến cho đám xác chết va đập loạn xạ vào nhau, cuối cùng nhân lúc rối loạn yểm bùa trấn áp. Ở đây là đường hầm, phạm vi quá nhỏ, chỉ có thể dẫn đám thây ma liên tục rẽ ngoặt. Mỗi khi tới một chỗ ngoặt, cả đám xác chết lại xô cả vào nhau, tốc độ chậm hẳn lại. Lỗ Nhất Khí nhìn thấy đám xác chết biết đi bị bỏ xa dần, trong lòng cũng thấy yên tâm phần nào. Thật may là Nhậm Hoả Cuồng đã biết rõ điểm yếu của chúng, nếu không để đám thây ma đó túm được, không biết kết cục sẽ đáng sợ ra sao. Song họ mới kéo giãn được khoảng cách với đám xác sống, chứ chưa thể cắt đuôi được hoàn toàn. Nhưng đúng lúc này, Lỗ Nhất Khí lại dừng bước, mặc cho những bước chân quái dị của đám thây ma chệnh choạng tiến lại gần. Bởi lẽ phía trước đã xuất hiện một thứ còn đáng sợ hơn cả xác sống. Phó Lợi Khai thậm chí không dám nhìn thẳng về phía trước, điều này khiến cho cặp mắt bên to bên bé của gã càng vẹo vọ đến bất thường. Trong đoạn đường hầm trước mặt đang nhấp nháy vô số đốm lửa đang lướt đi một cách vô cùng linh hoạt, tràn ngập khắp bốn phía, khiến cho cả khúc đường hầm vuông vức dường như biến thành một ống lửa cháy rực. Những đốm lửa chính là cáy hoả thi, giống côn trùng có thể phá da nhập thịt, thiêu cháy tim phổi nội tạng. Chỉ một con cáy hoả thi đã khiến Người Đao mười sáu lưỡi võ nghệ tuyệt luân phải chết một cách thê thảm, vậy mà trước mắt họ giờ đây là cả một rừng cáy hoả thi! Sau lưng là đám thây ma truy sát, chúng đã gần tới mức có thể ngửi thấy mùi máu tanh phả ra từ cơ thể nát bươm. Trước mặt là cáy hoả thi chặn đường, chúng đã đánh hơi thấy con mồi, lập tức ào ào lướt đến như một dòng sông lửa. – Làm thế nào đây? – Nhậm Hoả Cuồng cuống cuồng hỏi. – A? Làm thế nào đây? – Lỗ Nhất Khí chưa bao giờ hoảng loạn như lúc này. Không nhìn thấy Thuỷ Băng Hoa cậu không tài nào có thể bước vào trạng thái siêu nhiên. – Đi sang đây! – Phó Lợi Khai lúc này lại không hề hoảng loạn, dường như nỗi kinh hoàng trong gã đã vượt quá ngưỡng chịu đựng, mới thành ra điềm tĩnh đến bất thường. Phó Lợi Khai dẫn hai người lao vào một lối rẽ. Ngay khi đám xác sống đuổi sát sau họ vừa ngoặt vào theo, đã đụng đầu với bầy cáy hoả thi. Cáy hoả thi chớp mắt đã bu kín khắp các xác chết, hơi nóng toả ra từ bầy cáy nhanh chóng sưởi ấm cho cơ thể cứng đờ của đám thây ma, khiến da thịt chúng mềm ra, dịch thể đông cứng cũng bắt đầu tan chảy. Song xác chết dù sao cũng chỉ là xác chết, hoàn toàn không có cảm giác, tuy toàn thân khói bốc ngùn ngụt, lửa cháy thành ngọn, vẫn chệnh choạng lao về phía ba người Lỗ Nhất Khí. Ngoặt qua vài ngã rẽ nữa, trước mắt họ bỗng lù lù một bức tường. Phó Lợi Khai vừa liếc qua đã biết ngay đó là một cánh cửa ngầm, song chốt lẫy của cánh cửa dường như đã bị vách tường chẹn cứng sau cơn động đất, lôi kéo kiểu gì cũng không chịu xê dịch. Đám xác sống đã đuổi tới rất gần. Nhậm Hoả Cuồng đưa tay gạt mồ hôi nhễ nhại trên trán, khạc mạnh một tiếng, nhổ ra một bãi đờm đặc quánh. Nhờ thế mà giọng của ông đã trở nên trong vang hơn. Ông hét lên một tiếng thật lớn, múa tít cây dùi sắt, lao về phía đám thây ma, đánh đổ hai cái xác đi đầu. Lập tức lửa văng tứ tung, cáy hoả thi văng tan tác. Đám thây ma phía sau không hề có ý định dừng lại, vẫn tiếp tục lao lên, trước sau chen chúc với nhau thành một đám. Nhậm Hoả Cuồng dùng cây dùi sắt ghìm cái xác đi đầu lại, để cản trở bọn chúng tiến lên. Song da thịt của xác sống bở giòn, dưới sức xô đẩy lớn từ cây dùi và đám xác sống phía sau, mũi dùi nhanh chóng xuyên vào cái xác lúc nhúc cáy hoả thi, mỗi lúc một sâu. Cái xác vừa lao theo mũi khoan, vừa khua khoắng hai tay loạn xạ, đã sắp túm được Nhậm Hoả Cuồng đến nơi. Dùi sắt chỉ có thể giữ lại một cái xác, cái xác bên cạnh đã trèo qua thi thể vừa bị đánh ngã, tiếp tục lao về phía Nhậm Hoả Cuồng. Nhậm Hoả Cuồng đã không còn cách nào chống đỡ. Một chiếc cưa mất lưỡi lao đến chặn ngang phía trước cái xác, chính là chiếc cưa của Phó Lợi Khai, song người cầm cưa lại là Lỗ Nhất Khí. Cậu không thể để Nhậm Hoả Cuồng bị đám xác sống và cáy hoả thi ăn tươi nuốt sống, họ cần hợp sức để giành lấy cơ hội sống cuối cùng. Khung cửa bằng gỗ rõ ràng không thể giống như sắt thép, vừa mới chạm vào cái xác đã lập tức uốn cong và bốc khói. Uốn cong vì xung lực của xác sống quá lớn, bốc khói vì nhiệt độ do cáy hoả thi truyền đến quá cao. Chiếc cưa kêu “rắc” một tiếng gãy làm đôi. Phó Lợi Khai reo lên một tiếng, cửa ngầm cuối cùng đã mở ra. -A! Bàn tay phải của Lỗ Nhất Khí đã bị xác sống chụp lấy. Một con cáy hoả thi đã bò lên trên mu bàn tay của cậu, đầu càng nhọn hoắt rạch ngang một nhát, cơ thể thu lại dẹp lép như một đồng xu, chui tọt vào trong da thịt cậu. -Á! Lỗ Nhất Khí rú lên một tiếng thảm thiết. Cậu rú lên không phải vì cáy hoả thi đã thiêu đốt cơ thể, cậu còn chưa có cơ hội để cảm nhận về nỗi bỏng rát. Cậu rú lên vì một bàn tay đã lìa ra khỏi cơ thể. Một chớp sáng vàng kim xẹt qua, bàn tay phải của cậu đã không còn nữa. Chính là Phó Lợi Khai. Gã không biết nếu bị xác sống bắt được, Lỗ Nhất Khí sẽ có kết cục ra sao, song gã biết nếu để cáy hoả thi chui vào người, sẽ có hậu quả bi thảm nhường nào. Bởi vậy gã chẳng kịp nghĩ ngợi, lập tức vung đao lướt ngang cổ tay phải của cậu. Nhát đao thứ hai chém đứt phăng cánh tay của xác sống, bởi vì cánh tay ghê tởm đó đang chộp đến cổ Lỗ Nhất Khí. – Hai người đi trước đi! – Vừa nói, gã lại vung đao chặt đứt cánh tay của cái xác đang bị dùi sắt xuyên qua, vì bàn tay đã sắp chạm vào đầu Nhậm Hoả Cuồng. Nhậm Hoả Cuồng buông cây dùi sắt ra, xoay người kéo Lỗ Nhất Khí lao qua cánh cửa. Liếc mắt lại, họ thấy Phó Lợi Khai múa tít loan đao, đao phong quét lên vô số tia vàng lấp loáng, cùng với đó là vô số tía lửa bắn tung, chân tay da thịt văng tơi bời, dịch thể trắng đục phun ra tứ phía. Lỗ Nhất Khí gào lên thật lớn: – Mau ra đi! Anh Phó, mau ra đi! Phó Lợi Khai rất muốn chạy ra, song quả thực gã đã không còn cơ hội. Lúc này chỉ cần gã chậm tay đao một chút sẽ bị đám xác sống túm lấy lập tức. Lỗ Nhất Khí đứng từ ngoài cửa bắn vào, song đạn chỉ có thể khiến đám xác sống tả tơi thêm chút ít, mà không thể giúp được gì cho Phó Lợi Khai. – Cẩn thận, dưới chân! – Nhậm Hoả Cuồng kêu lên song đã muộn mất rồi, hai chân Phó Lợi Khai đã bị một xác sống vừa đổ xuống đất ôm chặt lấy. Lỗ Nhất Khí và Nhậm Hoả Cuồng lập tức chạy trở lại, vừa được hai bước thì nghe Phó Lợi Khai gào lên đến lạc giọng: – Đi mau! Cút! Muốn chết cả nút à! Tay thợ rèn thối tha, quay lại thì ta cắn chết lão! Nhậm Hoả Cuồng dừng chân, cũng kéo Lỗ Nhất Khí dừng lại. Phó Lợi Khai đã bị ôm cứng ngang lưng, vài con cáy hoả thi đã chui vào ống quần của gã, rồi như một làn sóng ào lên phía trên. Còn rất nhiều cáy hoả thi sau khi rơi xuống đất, mau chóng tụ lại thành một dòng lửa, lướt về phía cánh cửa ngầm. Thanh loan đao bay vụt ra, vẽ thành một vệt sáng vàng kim rực rỡ, cắm phập vào kẽ tường, rung lên bần bật, phát ra những tiếng u u như chuông vàng. Mũi dao nhọn hoắt đã chặt đứt chốt lẫy của cửa ngầm. Cánh cửa từ từ di chuyển, khép lại. Loan đao đã bay đi, Phó Lợi Khai cũng đã không thể nhúc nhích được nữa. Cả đám xác sống đã giữ chặt lấy gã, đến động đậy ngón tay còn khó. Cáy hoả thi cũng bắt đầu chui vào phần trên cơ thể. – Giết tôi đi! Mau giết tôi đi! Xin cậu! Mẹ kiếp, cho tôi chết nhanh nhanh lên! – Phó Lợi Khai gào tới xé phổi rách họng. Lỗ Nhất Khí biết đây là tâm nguyên cuối cùng của Phó Lợi Khai. Cửa ngầm đã khép lại quá nửa. Cậu không nỡ nhìn cảnh tượng tiếp theo, nên ngoảnh mặt đi. Một tiếng súng nổ như tiếng khóc thét. Một phát súng, trúng giữa ấn đường Phó Lợi Khai. Cửa ngầm từ từ đóng lại. Vào thời khắc cuối cùng trước khi cánh cửa hoàn toàn khép chặt, Lỗ Nhất Khí quay đầu lại nhìn. Đám thây ma đã bắt đầu cháy đen. Xác Phó Lợi Khai cũng đang bốc khói, song hai mắt vẫn mở trừng trừng. Một đôi mắt thật cân xứng. Lỗ Nhất Khí biết, đôi mắt đó sẽ mãi mãi còn ám ảnh cậu trong những cơn ác mộng. Nhậm Hoả Cuồng đỡ Lỗ Nhất Khí tiếp tục chạy thêm một đoạn dài. Máu phun ra từ cổ tay đứt tiện của cậu vạch thành một đường đỏ tươi kéo dài trên đất. Nhậm Hoả Cuồng liếc thấy phía sau không còn xác sống và cáy hoả thi đuổi theo mới dừng lại, cẩn thận băng bó vết thương cho cậu. Cho tới lúc này, cậu mới cảm thấy đau đớn thấu tím gan. – Nghỉ ngơi một lát chứ? – Nhậm Hoả Cuồng hỏi Lỗ Nhất Khí. – Cứ… đi tiếp đi! – Lỗ Nhất Khí mặt mũi trắng bệch, nỗi đau đớn và mệt mỏi khiến giọng nói cũng trở nên run rẩy.
Lời Nguyền Lỗ Ban Quyển 3 - Chương 37: Khe khó vượt Spoiler: Click vào để đọc Cách họ bảy tám bước chính là khe nứt sâu hoắm chạy suốt trái núi, bên ngoài chính là cây “cầu đá”. Còn chưa bước tới bên khe nứt, Lỗ Nhất Khí đã cảm thấy nhiệt độ bỏng rát phả lên từ dưới khe. Nơi này càng xuống thấp hơn, bởi vậy càng gần đám dung nham cuộn trào phía dưới. Từ trên thân núi nứt đôi, các dòng nước ngoằn nghèo chạy theo vách khe mà xuống, là băng tuyết ở bên ngoài gặp nhiệt độ cao đã tan chảy thành nước. Lỗ Nhất Khí đứng lại trước hai tảng đá đấu đầu với nhau… Nhậm Hoả Cuồng nhìn thấy bên kia khe nứt, cục diện đối đầu vẫn đang tiếp diễn. Quỷ Nhãn Tam và lão mù uy hiếp Tùng Đắc Kim từ hai phía, hình thành thế gọng kìm kín kẽ đến gió thổi không lọt. Song trong tay Tùng Đắc Kim có Thuỷ Băng Hoa, nên phòng ngự không có gì khó khăn. Gã đang kéo Thuỷ Băng Hoa liên tục di chuyển về phía hai tảng đá lớn chìa ra. Lỗ Nhất Khí đứng lại phía trước “cầu đá”, Nhậm Hoả Cuồng bước lên trên giẫm mạnh vài cái, thấy tảng đá rất vững chãi, bèn quay lại nhìn Lỗ Nhất Khí, tỏ ý không có gì nguy hiểm, có thể qua được. Song Lỗ Nhất Khí không cử động… Nhậm Hoả Cuồng dường như đã nhìn thấy điều gì từ trong ánh mắt mơ hồ của Lỗ Nhất Khí, bèn bật cười lên vài tiếng khô khốc, cao giọng nói: – Không sao, có thể qua! Để tôi đi trước cho cậu xem. Song mới đi vài bước, ông ta đã rón rén hai chân quay trở lại. Một cái bóng trắng toát không biết xuất hiện trên “cầu đá” từ lúc nào, cứ như vừa đột ngột mọc lên, đứng im lìm như khối đá, hết sức vững chãi, hết sức ung dung. Cái bóng mang theo làn khí tướng vô cùng bá đạo ngông cuồng, một luồng áp lực vô hình từ từ mở rộng, bức bách đến tất cả những người có mặt. Hung hãn không kém làn khí tướng bao bọc quanh hắn chính là món vũ khí nắm trong tay hắn. Đó là một cây cung rất lớn, cao hơn đầu người, và mấy mũi mâu nhọn hoắt còn dài hơn cả cánh cung đeo xéo sau lưng. Lỗ Nhất Khí vẫn đứng im, song trường khí của cậu đã bắt đầu giao tranh với bóng người trắng toát. Ở Kim gia trại, họ đã từng giao thủ một lần. Đúng vậy, cao thủ trước mặt chính là lão cao thủ tay dài râu tóc bạc trắng. Trên tấm áo choàng trắng toát của lão có một lỗ thủng sạm đen, chính là món quà mà Lỗ Nhất Khí để lại cho lão trong cuộc giao tranh lần trước. Nhậm Hoả Cuồng cũng nhận ra lão già râu bạc. Khi lão dẫn người tập kích Kim gia trại, Nhậm Hoả Cuồng đứng trên sườn núi phía xa đã nhìn thấy. Ông cũng đã nhận ra mũi phi mâu sương sớm thâm tóc, tay nỏ trên dốc ba đoạn đã bị chính mũi phi mâu này găm chết trên cây. Nhậm Hoả Cuồng đã biết vì sao Tùng Đắc Kim muốn di chuyển tới đây. Hợp sức với cao thủ tuyệt đỉnh này, cũng chính là đã cướp được bảo bối thành công. Bộ râu và đám lông mày bạc trắng của lão áo trắng không thể che khuất những tia sáng quắc như ánh chớp trong cặp mắt của lão. Sau cuộc giao chiến ở Kim gia trại, lão vẫn luôn chờ đợi cơ hội này. Sau bao năm ẩn tích giang hồ, cuối cùng lão cũng đã gặp được một địch thủ xứng tầm, khác nào một bình rượu ngon giữ kín đã nhiều năm sắp đến ngày bật nắp. Trong cuộc giao chiến lần trước, môn chủ đã không cho phép lão ra tay hạ sát cao thủ trẻ tuổi, chỉ được doạ cậu ta bỏ chạy. Nhưng hôm nay thì khác, môn chủ đã ra sát lệnh, lão đã có thể thoải mái quyết một trận thư hùng với tay cao thủ thiếu niên. Ý niệm của Lỗ Nhất Khí đang từ từ trở nên kiên định. Vừa rồi cậu không hành động, không phải là cậu không muốn hành động, mà là không biết phải hành động ra sao. Giờ đây, cậu bắt đầu tụ khí ngưng thần, hoàn toàn quên bặt khái niệm “động”, trong trí não chỉ nghĩ đến duy nhất một chuyện, đó là vượt qua khe nứt sang phía bên kia ôm lấy bờ vai của Thuỷ Băng Hoa, nắm chặt tay anh em bằng hữu, rồi cùng nhau thoát khỏi vùng tử địa. Làn khí tướng toả ra quanh cậu trở nên ung dung, kiên định, hơi thở lên xuống cũng trở nên phóng khoáng, tự do. So với đó, làn khí tướng của lão áo trắng lại trở nên chập chờn và ngưng trệ, tựa như đã bị trường khí của Lỗ Nhất Khí lấn át. Lỗ Nhất Khí bước lên “cầu đá” hai bước, bước chân không khác gì với cách cậu đi đứng thường ngày, thậm chí còn ung dung hơn. Song cách bước chân có vẻ tuỳ tiện này lại bộc lộ rõ nhất sự kiên định và quyết đoán. Bởi vậy trong mắt một số kẻ, hai bước chân của cậu mang theo một khí thế khó bề cản trở. Lão áo trắng đã cảm nhận thấy những biến động vi tế trong làn khí tướng xung quanh. Khí tướng của đám cao thủ đồng môn đang co cụm, đang né tránh, trong khi khí tướng của cậu thanh niên trước mặt vẫn tiếp tục dâng lên ngùn ngụt, tựa như mây cuộn sóng trào, sự biến hoá lên xuống của hơi thở dường như hoà quyện thành một thể với đám dung nham sôi sục dưới khe, với vách nứt khổng lồ như dao chém núi, với làn sương mù mờ mịt xung quanh. Lẽ nào đây chính là làn khí ý trời “phát từ thể của tự nhiên, điều khiển hoàn cảnh tự nhiên, lấy khí tự nhiên cho mình sử dụng” trong truyền thuyết của Đạo gia ư? Bỗng vài tiếng sói tru vẳng lại, hai đầu lông mày nhăn nhíu của Nhậm Hoả Cuồng hơi giãn ra một chút. – Mau đưa vật đó cho ta! Lão áo trắng lên tiếng, giọng nói trong vang lanh lảnh như giọng của đứa trẻ, khiến Tùng Đắc Kim ở phía sau lão giật nảy cả người, chẳng kịp nghĩ ngợi vội vội vàng vàng quay đầu đưa ngay hộp ngọc cho lão. Lúc này gã mới phát hiện ra lão áo trắng không phải nói với mình. – Cho ông! – Lỗ Nhất Khí đưa tay ra, song trên tay cậu lại chẳng có thứ gì, đến bàn tay cũng không có. Cậu thản nhiên đưa cánh tay phải ra, chính là cánh tay đã bị chặt cụt mất bàn tay – Đến lấy đi! Lão áo trắng lúc này tuy vẫn im lìm như đá, song các khớp xương khẽ kêu lên răng rắc. Không ai nhìn thấy vẻ mặt của lão, bởi vậy chỉ có lão mới biết bản thân đang thất vọng đến mức nào. Cậu thanh niên trước mặt đang khiêu khích lão, lờ đi là xong, tại sao lại căng thẳng tới mức không thể kiểm soát nổi chuyển động của xương khớp? Còn một người nữa cũng thất vọng y như lão, đó là Nhậm Hoả Cuồng, vì ông ta chỉ nhìn thấy sói, song không thấy người điều khiển sói đâu. Bầy sói đang lao tới từ trong đường hầm phía sau họ, cũng có một vài con chui ra từ trong các kẽ hở khác trên vách khe nứt. Chúng đang lừ lừ tiến lại bên khe nứt gầm gừ trong cổ họng, dường như rất e sợ đám dung nham sôi sục dưới kia. Dẫu là như vậy, song không thấy con sói nào dừng bước. Khi đi ngang qua Lỗ Nhất Khí, chúng thậm chí còn ngoái đầu lại hít ngửi mùi máu tanh nơi cổ tay đứt lìa của cậu. Đúng vậy, tuy tốc độ của chúng không nhanh, bước chân có phần do dự ngập ngừng, song nhịp bước vẫn rất đều đặn, cho thấy chúng đã được huấn luyện hết sức kỹ càng. Cách sắp xếp của đàn sói cũng rất khéo léo, tuy không phải sắp xếp theo trận pháp gì, song nếu chúng đồng loạt xông lên, các cá thể sẽ không va chạm hay cản trở lẫn nhau. Những con sói chui ra từ khe hở phía trên đang co người trong tư thế sẵn sàng tấn công, lặng phắc như tượng. Lão áo trắng cũng lặng phắc như tượng, một pho tượng cầm theo một cánh cung cỡ lớn. Tùng Đắc Kim không giống pho tượng, bởi lẽ gã đã lên tiếng, đã lảm nhảm như điên: – Sói tới rồi! Thú Vương không cản được! Đến Thú Vương cũng không cản được… Nhậm Hoả Cuồng nghe thấy Tùng Đắc Kim nói vậy thì từ từ quay người, hét lớn: – Tất nhiên là không cản được rồi! Ông ta là Lạp Thần! Thú Vương cũng vứt đi! Tiếng hét của Nhậm Hoả Cuồng văng vẳng trong trái núi nứt toác, lan đi thật xa. Ánh mắt kiên định của ông bỗng như bị một lớp sương mù che phủ, trên vẻ mặt tuyệt vọng lại hiện thêm nét bi thương. Ông hiểu rõ, Lạp Thần Lang Thiên Thanh và Thú Vương Hùng Sơn Bình là kẻ thù lâu năm, họ hiểu nhau thậm chí còn hơn cả anh em ruột thịt. Lạp Thần không thấy xuất hiện, Thú Vương cũng không thấy xuất hiện, vậy mà bầy sói lại tới. Là sói của Lạp Thần! Hoá ra, người trợ giúp họ ứng phó với ba tay nỏ chính là một cao thủ được tôn xưng là Lạp Thần (thần săn), do Nhậm Hoả Cuồng mời tới. Nhậm Hoả Cuồng đã kín đáo rắc tro trong tuyết để chỉ đường cho ồng ta. Sau khi đi vào đường mòn Sam Đỏ, chính Lạp Thần đã dẫn đường cho Nhậm Hoả Cuồng, ông ta đã dùng sói và chó săn để tìm ra dấu tích của đối thủ ở phía trước, sau đó đánh dấu cho Nhậm Hoả Cuồng lần theo, còn tặng cho Nhậm Hoả Cuồng đôi ủng da cực tốt… Sự xuất hiên của bầy sói đã dịch chuyển hướng chú ý của mọi người. Ngay cả dung nham nóng bỏng sắp trào ra khỏi rìa khe nứt, cũng chẳng ai hay biết. Lão mù và Quỷ Nhãn Tam kín đáo dấn về phía Tùng Đắc Kim nửa bước, cũng chẳng ai phát hiện ra. Đương nhiên càng không có ai chú ý tới Nhậm Hoả Cuồng, không ai chú ý đến thân hình đang liên tục phồng lên và vươn dài của ông, vì đó là một sự biến đổi vô hình, chỉ mình ông biết được. Nhậm Hoả Cuồng hiểu rõ nguồn năng lượng ẩn tàng trong cơ thể cao lớn của mình. Trong nguồn năng lượng đó chứa đựng dũng khí, chứa đựng niềm tín, chứa đựng cả niềm quyết tâm xả thân vì nghĩa, còn chứa đựng cả sự bình thản coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Lạp Thần không tới, hiện tại người duy nhất có thể trợ giúp Lỗ Nhất Khí chính là ông. Bầy sói dần dần áp sát, lão áo trắng thậm chí đã có thể ngửi thấy mùi tanh hôi phả ra từ mũi miệng chúng. Lão không cử động, song tảng đá dưới chân lão đang nóng giãy lên, khiến lão cảm thấy khó mà chịu nổi. Ngay cả lão áo trắng cũng cảm thấy khó chịu, thì bầy sói chân trần giẫm đá đương nhiên càng khó mà chịu đựng. Không chịu đựng nổi, ắt sẽ dẫn đến hành động vội vàng. Con người còn vậy, huống chi là lũ sói không biết suy nghĩ. Con sói thủ lĩnh lưng xanh đuôi vàng tru lên một tiếng trầm và ngắn, ngay lập tức cả bầy sói tung người vọt lên. Những con sói lao lên “cầu đá” hệt như những phiến lá tung bay, quây kín lấy thân hình trắng toát của lão cao thủ. Cùng lúc đó, những con sói đang trong tư thế sẵn sàng lao ra trong khe nứt phía trên cũng đồng loạt bật người vụt đến. Chẳng ai có thể tưởng tượng nổi chó sói lại có thể chao liệng trong không trung hệt như chim sẻ, chúng bay tới tấp xuống đỉnh đầu của lão áo trắng. Động tác của lão áo trắng nhanh tới mức đến Lỗ Nhất Khí cũng khồng thể nhìn rõ. Trong tất cả các cơ quan cảm giác của cậu lúc này, chỉ có bầy sói đang chuyển động, đang tan tác, đang rách rời, đang nát vụn, đang máu thịt tơi bời. Còn lão già vẫn đứng im bất động trong đám mảnh vụn bay tung. Trên mặt “cầu đá” to lớn thậm chí còn không có lấy một sợi lông hay một giọt máu sói, đừng nói gì tới trên người lão ta. Những xác sói tan tành đều bay ra bên ngoài “cầu đá”, rơi xuống khe dung nham đỏ rực, chỉ còn là vài vệt khói xanh, mùi khét lẹt bốc lên nhức mũi. Sắc mặt của Nhậm Hoả Cuồng trở nên xám xịt giống hệt như mặt đe sắt. Đây không phải là bầy sói bình thường. Chúng đồng loạt lao lên như vậy, chính là cú tấn công liều mạng cuối cùng. Chỉ có bầy sói đã mất đi chủ nhân mới hành động như vậy. – Nhất định phải qua, nếu không sẽ mất mạng! – Cuối cùng Nhậm Hoả Cuồng cũng thốt lên được một câu ngắn ngủi. Lỗ Nhất Khí chỉ khẽ gật đầu. – Thiên Hồ giao liên đâu, đưa tôi! – Giọng nói của ông vô cùng cương quyết. Lỗ Nhất Khí tháo cuộn Thiên Hồ giao liên ra. Dưới sự phản chiếu của dung nham rừng rực đỏ, từng sợi tơ loé lên óng ánh. Cậu trầm ngâm một lúc rồi nói: – Có trả lại cho tôi không? Nhậm Hoả Cuồng đã hiểu ý cậu, song không biết trả lời ra sao. Ông xoay người lại, đưa hai tay đỡ lấy Thiên Hồ giao liên, miệng lầm rầm niệm khẽ: – Máu chảy thành dòng, thân theo tâm đi, thiên địa hào hùng, không đầu thủ lĩnh… Không chết không dừng! Chết cũng không dừng… Chết cũng không dừng… Chết cũng không dừng… Lỗ Nhất Khí nghe rõ từng lời tụng niệm của Nhậm Hoả Cuồng, thậm chí còn nghe thấy cả nhịp tim mạnh mẽ của ông, theo tiết tấu của những câu “Không chết không dừng! Chết cũng không dừng”, dội lên thình thịch như tiếng búa sắt nện đe. Song vì không quay người lại, nên cậu không nhìn thấy Thiên Hồ giao liên giờ đây tựa như một sinh vật sống, thuận ứng theo nhịp tim của Nhậm Hoả Cuồng, thuận ứng theo sự lưu chuyển của dòng máu trong cơ thể ông, đã luồn vào cửa tay, rồi chui vào bên trong lớp y phục của ông, bám da mà chạy, theo mạch mà đi. Sau cùng, hai đầu mút của Thiên Hồ giao liên thò ra ở trước ngực Nhậm Hoả Cuồng. Ông cầm lấy, rút chặt, rồi thắt thành một nút thắt hợp tâm. Khi Nhậm Hoả Cuồng xoay người lại, tư thế bước đi của ông có vẻ hơi khác với bình thường. Ông vừa đi vừa rút thanh đao giắt sau thắt lưng, chính là thanh đao nhặt được sau khi đánh lui Công tập vi, thanh đao bạt phong sắc lẹm như nước. Nhậm Hoả Cuồng cầm đao bước lên “cầu đá”, bước chân vững chãi trầm tĩnh dị thường. Dưới sức thiêu đốt của dung nham, cây cầu đá đã trở nên nóng bỏng. Đế giày của lão áo trắng và Nhậm Hoả Cuồng bắt đầu kêu lên “xèo xèo” và bốc khói. Lỗ Nhất Khí thấy hơi kinh ngạc. Trong cảm giác của cậu, tấm lưng của Nhậm Hoả Cuồng đã trở nên to lớn khác thường, giống hệt như một vị thần cổ xưa, song ngay lập tức cậu đã hiểu ra, có một luồng khí nào đó đang bốc lên và nở rộng. Nhậm Hoả Cuồng kiên quyết tiến sát về phía lão áo trắng. Lão áo trắng bắt đầu cảm giác thấy trường khí toát ra từ cơ thể Nhậm Hoả Cuồng. Tuy phạm vi của trường khí rất rộng, song rất phân tán, thiếu ngưng tụ, cho thấy người này đan nguyên không vững, nguyên khí không đủ. Trong trường khí, sát khí cũng không nặng, thậm chí còn không bằng sát khí của thanh đao trên tay. Người này xung chiến trong trạng thái bất đắc dĩ, có phần sợ sệt. Nhậm Hoả Cuồng đã dừng lại, là tư thế xuất chiêu không đủ kín kẽ. Lão áo trắng không cử động. Một đối thủ thế này không đáng để lão ra tay trước. Thế tấn công của Nhậm Hoả Cuồng rất vụng về, tốc độ cũng không nhanh, lực đạo chém tới yếu ớt. Không phải ông cố tình diễn kịch, mà khả năng sử đao của ông quả thực chỉ được đến thế. Điều này lão áo trắng quá hiểu, thậm chí ngay cả Lỗ Nhất Khí vốn chẳng biết gì về quyền cước cũng đã nhận ra. Tất cả đều đã chứng minh cho sự chênh lệnh trời vực giữa một ông thợ rèn và một cao thủ phi phàm. Lão áo trắng vẫn không hành động, cũng có thể là đã hành động, song không ai nhìn rõ. Lưỡi dao của Nhậm Hoả Cuồng không thể chạm tới lão áo trắng, còn cách đỉnh đầu lão hơn hai thước đã khựng ngay lại. Bởi người cầm đao tuy còn đứng đó, song lại không thấy đầu đâu.
Lời Nguyền Lỗ Ban Quyển 3 - Chương 38: Hình Thiên trảm Spoiler: Click vào để đọc Đầu Nhậm Hoả Cuồng rơi xuống mặt “cầu đá”, nảy lên hai cái rồi lăn tới bên chân Lỗ Nhất Khí. Khuôn mặt ông nhìn thẳng vào cậu, song trên nét mặt lại ánh lên nụ cười ranh mãnh và đắc ý. Cho tới lúc này mới nghe thấy tiếng rú kinh hoàng của Thuỷ Băng Hoa từ mé bên kia vọng lại. Mọi thứ về cơ bản đều nằm trong dự liệu của lão áo trắng. Chỉ một chiêu, một chiêu không ai thấy rõ; chỉ một chớp nhoáng, một cái bật chớp nhoáng của dây cung. Song cũng có thứ mà lão không ngờ tới, chính là cơ thể mất đầu của Nhậm Hoả Cuồng vẫn không đổ xuống, vẫn đứng vững chãi ở đó mà không cần đến bất kỳ một chỗ dựa nào. Lão áo trắng vẫn đứng bất động, lão đang chờ đợi, chờ đợi một cơ hội nằm trong dự liệu. Cần cổ của Nhậm Hoả Cuồng đang rụt lại. Lão áo trắng biết rằng dòng máu đang sắp sửa phụt ra. Lão đang định lợi dụng cơ hội này để thoát khỏi áp lực đến từ tay cao thủ trẻ tuổi bên kia cầu đá, chớp thời cơ đoạt lấy bảo bối. Mặt “cầu đá” lúc này đã bỏng rát tới mức khó mà đặt chân. Song máu đã không phun ra từ cần cổ đứt ngang của Nhậm Hoả Cuồng. Tay chân ông thình lình cử động, tựa như chiếc lò xo bị nén chặt đột ngột bung ra. Trong mắt Lỗ Nhất Khí, cơ thể và cánh tay của Nhậm Hoả Cuồng lúc này hệt như “hồi chuyển lưu tinh” trong khảm diện thú năm chân của trạch viện Bắc Bình, lập tức di chuyển một cách điên cuồng, chỉ có điều tốc độ nhanh hơn nhiều, nhanh tới khó tưởng tượng. Chỉ trong nháy mắt, tất cả đều dừng lại, tất cả đều kết thúc. Một lưỡi đao sáng xanh như nước lướt ngang qua cổ lão áo trắng, trơn tru như thể không vấp phải một vật cản nào. Cái đầu trắng toát như tuyết của lão ta bay vọt lên cao, còn chưa kịp rơi xuống đã bị dòng máu phun ra từ cổ nhuộm thành một màu đỏ ối. Đầu lâu đỏ máu của lão rơi xuống, lăn tới bên cạnh đầu Nhậm Hoả Cuồng. Nét mặt lão đông cứng trong một nỗi kinh ngạc tột độ, miệng còn khép mở liên tục, song không phát ra một tiếng nào. Nhìn vào khẩu hình khép mở, có thể đoán ra lão đang nhắc đi nhắc lại ba từ: – Hình… Thiên… trảm… Trên “cầu đá” lúc này chỉ còn hai cơ thể không đầu, tư thái hoàn toàn khác biệt. Nhậm Hoả Cuồng trên cổ không hề phun ra một giọt máu, vẫn cầm đao đứng trơ trơ trong tư thế quyết tâm sát phạt, song dáng vẻ không còn vững chãi, có lẽ chỉ một cơn gió cũng có thể thổi ông ngã gục. Còn cơ thể lão áo trắng đã co rút lại như một quả bóng lông lá bờm xờm, trắng đỏ loang lổ. Lỗ Nhất Khí đứng lại sau lưng Nhậm Hoả Cuồng. Lớp áo sau lưng ông rách tung, có thể nhìn thấy những sợi Thiên Hồ giao liên đã ăn sâu vào da thịt. Chính vì Thiên Hồ giao liên đã thắt chặt các huyết mạch nên máu mới không phun ra từ cổ ông. Nhậm Hoả Cuồng đã dùng Thiên Hồ giao liên làm lẫy kéo, lấy đầu làm cơ quát, lấy sinh mạng làm mồi nhử, biến chính cơ thể mình thành một khảm diện, một khảm diện chết trước giết sau. Lỗ Nhất Khí còn nhìn thấy những sợi Thiên Hồ giao liên đan xen ngang dọc đã nổi lên thành một cục ở chính giữa sống lưng Nhậm Hoả Cuồng, bên trên thích ba chữ triện: “Hình Thiên thần”. Trong chương “Hình Thiên” cuốn “Cổ chúng ma thần liệt truyện“* có chép rằng: “Ma thần thời cổ tên là Hình Thiên, tài năng thần kỳ… tay chân cứng như kim loại, không sợ lửa nung… Tranh tài với Thiên Đế, đầu bị chém đứt, bèn lấy vú làm mắt, lấy rốn làm miệng, cầm khiên cầm rìu mà múa… Hậu duệ đều khác với người thường, tay chân có thể cầm lửa…” * Không rõ tác giả là ai, song nhìn vào nội dung, có thể phán đoán tác phẩm do nhiều người biên soạn. Cuốn sách có kèm cả tranh vẽ minh hoạ tập hợp rất nhiều câu chuyện thần thoại, thuật lại khá tường tận về các truyền thuyết ma thần thời cổ đại. Hiện còn bản in khắc gỗ từ đời Tống, có giá trị sưu tầm rất cao. Một hậu duệ của thần Hình Thiên, một dũng sĩ không biết run sợ. – “Hình Thiên múa khiên rìu, chí khí còn lưu mãi. Cùng loại phải lo gì, hoá thân không sợ hãi”**. – Lỗ Nhất Khí ngâm khẽ mấy câu thơ, mọi nỗi đau thương bỗng chốc hoá thành hào khí muôn trượng. Lời cậu vừa cất lên, Thiên Hồ giao liên lập tức lỏng ra, tuột xuống từ tay áo Nhậm Hoả Cuồng, rơi lên mặt cầu đá tự xếp thành một cuộn. Lỗ Nhất Khí chầm chậm cúi xuống, đưa tay nhặt lên, mấy giọt nước mắt theo nhau lăn xuống, vỡ oà trên mu bàn tay cậu. Cậu cất thật kỹ cuộn Thiên Hồ giao liên vào trong túi vải. Giờ đây, nó đã không chỉ là một đồ vật thần kỳ, mà còn là một kỷ vật, là nơi gửi gắm sinh mệnh của một người bằng hữu. ** Bốn câu thơ trong bài “Độc Sơn hải kinh” của Đào Uyên Minh, có nghĩa là ca ngợi thần Hình Thiên dũng mãnh, múa khiên rìu giao chiến với Thiên Đế, có chết cũng biến thành loài khác, cũng đều là sinh linh nên không có gì đáng sợ. (Nd) Cậu móc từ trong túi vải ra một hộp ngọc, một hộp ngọc phảng phất hàn khí, toả ánh hào quang trong trẻo. Ánh sáng tinh khiết linh động nhanh chóng bao trùm quanh Lỗ Nhất Khí. – Các ngươi muốn cái này phải không? – Cậu hướng về bên kia khe nứt, cất giọng điềm tĩnh lạ thường. Tùng Đắc Kim thấy Lỗ Nhất Khí lại lôi ra một hộp ngọc nữa thì vô cùng kinh ngạc, lập tức kéo theo Thuỷ Băng Hoa tiến thêm vài bước lại gần “cầu đá”. Gã hết nhìn hộp ngọc trong tay Lỗ Nhất Khí, lại nhìn hộp ngọc trong tay mình, vẻ mặt đầy ngơ ngác. Lão mù và Quỷ Nhãn Tam cũng bám theo sát gót. Khi dừng lại, khoảng cách giữa họ và Tùng Đắc Kim càng gần hơn nữa. – Chỉ cần thứ này còn ở trong tay ta, sẽ liên tục có người đến cướp đoạt, cũng liên tục có người phải chết! – Vẻ mặt Lỗ Nhất Khí cũng bình thản hệt như giọng nói. Đến lúc này, Tùng Đắc Kim đã chuyển từ ngơ ngác sang hoang mang, vì hộp ngọc trong tay gã liên tục phát ra những tiếng gõ đập khe khẽ và tiếng vo ve như ong kêu. – Thế nhưng anh em, bằng hữu của ta quá ít ỏi, không thể để họ chết thêm nữa. Thời gian không còn nhiều, cả ta và ngươi đều không muốn chết, bởi vậy cần phải kết thúc chuyện này ngay lập tức! – Lỗ Nhất Khí nói tiếp. Đầu óc Tùng Đắc Kim càng trở nên rối loạn, không rõ bảo bối đang nằm trong hộp ngọc trên tay mình hay trên tay Lỗ Nhất Khí. Nếu như ở trên tay Lỗ Nhất Khí, thì hộp ngọc trên tay gã đang đựng thứ gì? – Ta chắc chắn sẽ không đưa bảo bối cho các ngươi, các ngươi cũng nhất quyết không cho ta mang bảo bối đi. Xem ra chỉ còn cách để bảo bối lại nơi đây làm bạn cùng những anh em bằng hữu đã chết của ta. Tùng Đắc Kim không phải là kẻ ngốc. Sau khi hắn lấy được hộp ngọc, không hề có một trợ thủ nào đến tiếp ứng cho hắn, mà kẻ nào cũng chỉ chăm chăm ngăn cản Lỗ Nhất Khí, xem ra bảo bối quả thực vẫn đang ở trong tay Lỗ Nhất Khí. Song Tùng Đắc Kim vẫn không chịu tin, vì hộp ngọc trong tay gã dù là xét về chất liệu, hoa văn, màu sắc, hào quang, đều là hàng kỳ trân dị bảo, nên thứ chứa đựng bên trong nó chắc chắn cũng hết sức giá trị. Cuối cùng, gã đã không kìm nén nổi tò mò, dùng ngón tay cái gảy khẽ, nâng nhẹ nắp hộp lên, hé ra một khe hở nhỏ, ghé mắt nhìn vào bên trong. Lỗ Nhất Khí duỗi thẳng hai cánh tay, bộ dạng tự nhiên như đang vươn vai. Nhưng bàn tay trái của cậu đã đỡ lấy hộp ngọc, vươn thẳng ra phía ngoài “cầu đá”. Khi cánh tay đã duỗi ra hết cỡ, cậu bỗng dừng lại một chốc, dường như muốn ngẫm nghĩ điều gì. Song chỉ là một thoáng rất ngắn ngủi, ngay sau đó, cậu dứt khoát lật sấp bàn tay. Hộp ngọc rơi xuống, vạch thành một tia sáng lờ mờ, lao thẳng xuống vực dung nham cuộn trào giận dữ. – Á! Sâu minh linh! Tam canh hàn! – Tùng Đắc Kim rú lên một tiếng kinh hoàng thảm thiết. Vừa ghé mắt vào khe hộp, một cái bóng chớp một cái đã chui tọt vào mắt gã, nhanh tới mức gã ngỡ là mình hoa mắt. Song nỗi đau đớn xé lên trong mắt là hoàn toàn chân thực, nó xuyên thẳng từ mắt đến tận đỉnh đầu. Gã lập tức hiểu ra mình đã trúng phải chiêu gì, vì tam canh hàn chính là nút lẫy trong môn phái của gã. Con trùng tam canh hàn đã bị nhốt chặt hơn một tháng trời trong hộp ngọc ấm vân lửa, đang lúc đói khát đến cực độ. Do Tùng Đắc Kim mang nó tới sát vực dung nham, con ấu trùng của giống tò vò sống trong vỏ dung nham đã bị sức nóng và mùi vị quen thuộc của dung nham đánh thức. Nên ngay sau khi chui vào cơ thể sống, nó lập tức lao thẳng lên não, gặm nhấm óc tuỷ. Quá trình này vốn dĩ phải mất mấy ngày mới hoàn thành, song lúc này nó một loáng đã thực hiện xong. Hộp ngọc trong tay Lỗ Nhất Khí vừa rơi xuống, từ trên vách khe đối diện bỗng vụt ra hai bóng người không biết nãy giờ ẩn nấp ở đâu, lao đi như tên bắn theo quỹ đạo rơi xuống của hộp ngọc. Con người thường mất đi lý trí khi đứng trước lợi ích, đặc biệt là lợi ích cận kề trước mắt. Mắt nhìn chiếc hộp ngọc định đoạt mạng sống của bản thân sắp chìm xuống lớp dung nham, có kẻ đã bất chấp tất cả. “Đoàng! Đoàng!” Hai tiếng súng liên tiếp vang lên. Tiếng súng đã khiến một bóng người tỉnh ngộ, lập tức điểm chân lên “cầu đá”, mang theo thương tích lao vút trở về như một mũi tên. Bóng người còn lại cùng với hộp ngọc lao xuống dòng dung nham sôi sục, chỉ thấy cuộn lên một con sóng đỏ lừ, rồi không thấy đâu nữa. Người nổ súng không phải là Lỗ Nhất Khí. Thành thực mà nói cậu không thể phản ứng nhanh được đến vậy, giờ đây cậu chỉ còn một bàn tay trái. Người đó vừa lao mình ra từ cửa hang đá vừa bóp cò nổ súng, bởi vậy hai phát súng liên tiếp không thể kiểm soát thực chuẩn xác, khiến một bóng người đã có cơ hội đào tẩu. Đó là một hán tử trung niên, trên khuôn mặt trắng trẻo của ông ta có hai vết thương còn mới, thậm chí máu còn chưa kịp đông lại. Bộ trang phục da thú trên người ông ta rách bươm như giẻ, hoàn toàn tương phản với khẩu súng trường đã qua cải tiến trong tay và con dao săn tinh xảo giắt bên thắt lưng. Theo sau ông ta là ba con chó ngao và hai con sói xanh xám, con nào con nấy nhe nanh thè lưỡi, da thịt rách tươm, xem ra vừa trải qua một trường huyết chiến. Lỗ Nhất Khí không quay đầu lại, cậu đã biết người này là ai. Chỉ cần nghe hai phát súng nối liền, chỉ cần nghe tiếng chó sủa sói tru, chỉ cần dựa vào luồng sát khí tuy không dữ dội song dày dặn kéo dài, cậu đã đoán ra. – A! Tới muộn mất rồi! – Nhìn thấy đầu Nhậm Hoả Cuồng lăn lóc trên mặt đất, Lạp Thần Lang Thiên Thanh kêu lên, vừa đau đớn vừa bất lực. Ông ta cũng đã cố gắng hết sức. Tùng Đắc Kim đã trở nên cuồng dại, gã đâm thẳng vào vách đá, còn vung dao găm đâm liên tiếp vào cơ thể, song vẫn không chịu buông Thuỷ Băng Hoa. Thuỷ Băng Hoa cũng như phát điên, bắt đầu giãy giụa dữ dội, nhưng không phải vì cấp bách muốn thoát thân, mà bởi vì khuôn mặt của Tùng Đắc Kim đã trở nên vô cùng khủng khiếp, ngũ quan biến dạng, da nứt thịt toác, máu tươi đầm đìa. Cô ta quá khiếp đảm nên mới cực lực giằng giật để thoát ra. – Đẩy hắn xuống! – Lỗ Nhất Khí nói không lớn, song rõ ràng từng chữ một. Thuỷ Băng Hoa rất nghe lời, lập tức đổi từ thế giằng kéo sang thế xô đẩy, lập tức đẩy lùi Tùng Đắc Kim hai bước, chỉ còn cách mép khe nứt chưa tới một bước. Song Tùng Đắc Kim vẫn túm chặt tay Thuỷ Băng Hoa quyết không chịu buông. Phía dưới khe nứt, dung nham cuồn cuộn, đỏ rực chói mắt, hơi nóng bốc lên ngùn ngụt muốn ngạt thở. Thuỷ Băng Hoa bất ngờ bị lôi tới bên cạnh dòng dung nham khủng khiếp thì vô cùng kinh hãi, theo phản xạ giơ một tay về phía sau như cầu cứu. Bàn tay cô đã được giữ lại bởi lão mù. Mọi việc diễn biến quá nhanh, dòng dung nham sắp trào lên miệng khe bỗng rút xuống nhanh chóng, càng rút càng nhanh. Dung nham vừa rút, cả trái núi lại bắt đầu rung lắc dữ dội. Hai nửa trái núi dần dần khép lại, hai tảng đá lớn kẹt ở hai bên khe nứt cũng rung bần bật, kêu lên ken két, ngả nghiêng muốn sập. Lão mù đâm mạnh đầu gậy vào trong một kẽ nứt, chân lão đã không thể trụ vững. Thuỷ Băng Hoa cố sống cố chết leo lên nền đá dốc nghiêng, đáng tiếc là cô ta không biết võ công, nên chân tay không đủ sức. Tùng Đắc Kim đã không còn đứng vững bên mép khe nứt nữa, cả cơ thể đu trên một cánh tay đang bám chặt lấy bả vai Thuỷ Băng Hoa mà treo lơ lửng trên khe. Quỷ Nhãn Tam thận trọng giữ vững cơ thể, chống cây xẻng lưỡi cày lên mặt đât, nhích từng chút một về phía Thuỷ Băng Hoa và Tùng Đắc Kim. “Cầu đá” đã không thể trụ lại, Lỗ Nhât Khí lâm vào cảnh tiến thoái lưỡng nan, lũ chó ngao và chó sói lập tức vụt qua người cậu chạy tháo thân, rồi một bàn tay dài và rắn chắc chụp lấy bả vai cậu, lôi theo cậu tung mình nhảy vào một khe nứt trên vách đối diện. Lỗ Nhất Khí quay người lại, muốn men theo vách đá leo sang cứu Thuỷ Băng Hoa, song đã bị Lang Thiên Thanh giữ lại. Cậu như phát điên, vung loạn xạ cánh tay còn nguyên vẹn để kháng cự, song không thể thoát khỏi tay Lang Thiên Thanh. – Cậu điên rồi! Muốn đi nộp mạng à? – Lang Thiên Thanh quát lớn. Cơn chấn động càng dữ dội hơn nữa, trái núi bắt đầu sạt lở, đá lớn đá nhỏ trút xuống như mưa. Bên ngoài khe nứt dần dần tối sầm lại. Lỗ Nhất Khí đang ở trong đường hầm, cố gắng thò đầu ra quan sát, chỉ thấy hai nửa trái núi nứt đôi đang nghiêng dần vào giữa, hai đỉnh núi đã khép kín vào nhau. – Mau! Cố gắng lên! – Lỗ Nhất Khí vô cùng lo lắng, họ cần phải kéo Thuỷ Băng Hoa lên trước khi hai vách núi khép lại. – Thằng chó má Tùng Đắc Kim bám lấy bờ rãnh rồi! – Chỉ có Quỷ Nhãn Tam ở bên ngoài khe đá mới nhìn thấy cảnh tượng này, hắn điên lên chửi bới ầm ĩ. Thuỷ Băng Hoa đã nhìn thấy Lỗ Nhất Khí đang nằm bò bên khe nứt, song tư thế nằm mà với tay sẽ không đủ sức mạnh để kéo, lại thêm Tùng Đắc Kim sức khoẻ hơn người, nên dù đã nắm được Thuỷ Băng Hoa, nhưng thêm một sức lực cỏn con của Lỗ Nhất Khí cũng không thể giải quyết được điều gì. Tia sáng cuối cùng chiếu từ trên xuống đã tắt lịm, chỉ còn chút dung nham sót lại trong khe nứt hắt lên thứ ánh sáng đỏ sẫm, chiếu lên các khuôn mặt người đỏ rực như tắm máu. Mấy tảng đá lớn sượt qua bên người Thuỷ Băng Hoa, kéo theo làn gió rít khiến cô ta lập tức bừng tỉnh, vội kêu lên: – Chú Hạ! Chú buông tay ra, mau lên! Nhất Khí, mau chạy đi, không thì muộn mất! – Lão mù, buông ra thôi! Không thì chết cả lũ! – Quỷ Nhãn Tam cũng gào lên. – Không được! Ta tính rồi! Cô ta liền một mệnh mạch với cậu cả! – Lão mù quay sang Quỷ Nhãn Tam hét lớn. – Đừng buông tay! Đừng buông! – Lỗ Nhất Khí cũng hét lên. – Đừng buông tay! Để tôi! – Lời nói của lão mù và Lỗ Nhất Khí đã khiến Quỷ Nhãn Tam đưa ra quyết định mới. Hắn biết chỉ có mình hắn mới có thể cứu vãn tình hình trước mắt. Nền đá tiếp tục nghiêng dốc, đá núi trên cao vẫn rào rào rơi xuống, song Quỷ Nhãn Tam vốn là một cao thủ dời non phá núi, rất am hiểu hướng chạy của vân đá và các điểm cứng mềm của nền đá, lại thêm con mắt nhìn thấu đêm đen, tuy không gian tối tăm song hắn vẫn nhìn rất rõ. Hắn múa tít cây xẻng lưỡi cày bền sắc vô song trên vách đá, một nhát đào một đường rãnh, một nhát đập một hố nông, cái to có thể bám tay, giẫm chân, cái nhỏ có thể làm điểm tì cho xẻng. Đã chỉ còn cách Tùng Đắc Kim chừng ba bốn bước chân, song đúng vào lúc này, sau một hồi rung chuyển dữ dội, trái núi bắt đầu sụt xuống, từng đoạn từng đoạn một. Tất cả mọi người đều cảm thấy bản thân đang rơi xuống cùng trái núi, tựa như trên mặt đất mở ra một cái miệng khổng lồ đang từ từ nuốt chửng toàn bộ ngọn núi. Đáng sợ hơn nữa là phần đỉnh núi sau khi đổ vào nhau cũng đã bắt đầu sập xuống, ập lên đầu họ. Không kịp nữa rồi! Quỷ Nhãn Tam chỉ còn cách tung người nhảy ra, vung xẻng lưỡi cày chém đứt cánh tay Tùng Đắc Kim. Lỗ Nhất Khí không thể ngờ mình vẫn có thể chạy thoát ra theo khe nứt. Đương nhiên là nhờ có linh khuyển của Lạp Thần chạy trước mở đường, chứ để cậu tự đi, có đến chết đói chết khô cũng khó lòng tìm ra lối thoát. Bầu trời mịt mờ tro bụi núi lửa, đặc quánh, đen kịt, không nhìn thấy dù một đốm sao. Núi lửa phun trào kèm theo động đất, lại phát nổ hang đá tiêu thạch, từ đó diễn biến thành trận động đất kèm theo đứt gãy địa tầng trên diện rộng. Trái núi nứt toác làm cho miệng phun chật hẹp trên đỉnh núi vỡ thành một khe nứt lớn, khiến dung nham chỉ có thể chảy tràn vào bên trong. Các tầng đá giòn yếu không chịu nổi trọng lượng của dung nham nên sạt lở, khiến cả trái núi lún xuống. Đây thực chất chính là hiện tượng núi lửa phun trào kiểu lún vốn khá hiếm thấy trong địa chất học. Trên mặt đất đã không còn nhìn thấy núi Hai Gối và núi Hai Vú đâu nữa, thay vào đó là một vùng gò đồi cháy đen rộng lớn. Nhìn vào vị trí mà phán đoán, chỗ họ thoát ra có lẽ là núi Vú Trái, chứng tỏ nơi cất giấu Kim bảo ứng với vị trí trái tim của người đàn bà đã sinh ra rồng dữ trong truyền thuyết. Vào thời khắc cuối cùng, Quỷ Nhãn Tam đã dứt khoát nhảy xuống, chặt đứt cánh tay của Tùng Đắc Kim, song bản thân lại không thể với được đến bờ, chỉ còn bàn tay bám hờ được mép rãnh. Cơ thể hắn đung đưa dữ dội mấy cái, rồi theo sau Tùng Đắc Kim rơi xuống khe sâu thăm thẳm tối đen. Lúc này lão mù mới lôi được Thuỷ Băng Hoa vào trong khe đá. Vừa chui ra khỏi khe đá ngầm, Thuỷ Băng Hoa đã ngồi bệt xuống đất khóc tu tu. Cô ta không thể ngờ rằng mình vẫn còn sống sót, lại càng không ngờ rằng người đàn ông định mệnh của đời mình cũng được toàn mạng thoát ra. Lỗ Nhất Khí không khóc, cậu chỉ quỳ trên đất mà gào lên trong đau đớn. Phó Lợi Khai đã không thể trở về, vì giúp cậu chạy thoát khỏi sự uy hiếp của xác sống và cáy hoả thi; Nhậm Hoả Cuồng đã không thể trở về, ông đã dùng mạng đổi mạng để mở cho cậu một con đường sống; Quỷ Nhãn Tam cũng không thể trở về… Cậu không biết lúc này nên đau đớn hay hổ thẹn, nên mừng vui hay kiêu hãnh, bởi vậy chỉ có thể gào lên không nước mắt. Nghe tiếng gào thống thiết của cậu, những cao thủ sắt đá như Lạp Thần và lão mù cũng bất giác rơi lệ, bày chó ngao và sói xanh cũng tru lên từng hồi. Rất lâu rất lâu sau đó, Lỗ Nhất Khí mới từ từ đứng dậy, trong mắt bùng lên một niềm kiên định sắt đá, rồi cậu lên tiếng, giọng nói khàn đặc: – Chuyện này vẫn chưa kết thúc! Một bàn tay lấm lem bùn đất và máu khô chỉ thẳng về hướng tây bắc. Ánh sáng rực rỡ bừng bừng trong đôi mắt cậu: – Đi thôi! Ở đó mới là nơi kết thúc! – Đó là sông Tát Cáp Liên!*** – Lạp Thần trả lời. *** Tên gọi cũ của sông Hắc Long Giang
Lời Nguyền Lỗ Ban Quyển 3 - Chương 39: Thạc Dã Kim Spoiler: Click vào để đọc Trên đường đi, Lang Thiên Thanh đã kể cho Lỗ Nhất Khí nghe, ông ta vốn là một cao thủ đột kích trong một băng đảng thổ phỉ trên núi, về sau cảm thấy bàn tay vấy quá nhiều máu tanh nên đã tự động rút lui, một mình kiếm sống bằng nghề săn bắn trong rừng già. Một lần bị kẻ thù trong một băng đảng khác ám toán, bắt giữ, rồi treo làm cột bang[1], may được Nhậm Hoả Cuồng cứu sống. Để đền ơn cứu mạng, ông mới nhận lời giúp Nhậm Hoả Cuồng thực hiện một việc trọng đại. Vì chuyện này, họ đã vạch ra rất nhiều phương án, lên kế hoạch chuẩn bị chu đáo, Nhậm Hoả Cuồng còn giúp ông cải tiến cây súng trường. Nói tới đây, Lỗ Nhất Khí theo phản xạ liếc nhìn khẩu súng của Lạp Thần. Nhìn hình dáng bên ngoài, đây chỉ là một khẩu súng trường nòng trơn bình thường, song ở bên miệng nòng súng thấy gờ xoáy, chắc chắn là Nhậm Hoả Cuồng đã tạo ra rãnh xoáy bên trong nòng súng, tăng cường độ chuẩn xác cho đường đạn. Ông còn kéo dài hộp lò xo pit tông phía sau, để tăng cường lực đẩy cho viên đạn; hơn nữa còn đổi báng súng đơn thành báng súng đôi, như vậy sau khi luyện tập, tay trái cũng có thể lên đạn chóng vánh, đây cũng chính là nguyên nhân vì sao Lạp Thần có thể bắn liên tiếp. Ngoài ra, ông còn mở rộng hộp đạn, khiến một lần có thể nạp được số đạn nhiều gấp đôi. Lang Thiên Thanh kể rằng, mấy đêm trước, Nhậm Hoả Cuồng cho bà bạn già tới báo tin, đã đến lúc tiến hành đại sự. Ông bèn lập tức hành động theo kế hoạch, âm thầm đi theo. Sau khi tiêu diệt ba tay nỏ, ông liền bám theo dấu vết của tay nỏ bị thương, trở thành người đi trước mở đường. Cho đến khi đi vào miệng khe núi, đụng đầu Thú Vương Hùng Sơn Bình của đối phương, mới mất liên lạc với Nhậm Hoả Cuồng. Tro bụi vẫn mù mịt kín trời, bóng đêm đặc quánh xoè tay không thấy ngón. - Ở ngay phía trước! – Nghe giọng nói, không thể đoán ra Lỗ Nhất Khí đang nghĩ gì. - Phía trước ư? – Lạp Thần có vẻ nghi ngờ – Phía trước đã là giữa lòng sông, tại đó có một xoáy nước ngoặt[2] lớn nhất, người dân xung quanh gọi nó là miệng rồng đen, bình thường chẳng ai dám tới! Câu nói của Lạp Thần đã khẳng định cho phán đoán của Lỗ Nhất Khí. Cảm giác siêu phàm của cậu đã lần tìm trong đêm đen và bụi dày mù mịt, phát hiện ra một vùng khí tướng. Hình tướng của khí tướng này cực kỳ hung hiểm, bốc lên cuồn cuộn, xộc đến chín tầng mây, giống như lốc xoáy, giống như sóng dữ, đen đặc nặng nề, nhiếp hồn động phách… Đó chính là hung huyệt! Họ không nhìn thấy dòng sông, mặt sông đã đóng một lớp băng rất dày; họ không nhìn thấy mặt băng, trên mặt băng tuyết phủ tầng tầng lớp lớp; họ không nhìn thấy mặt tuyết, trên tuyết đã phủ kín một lớp tro núi lửa. Quả nhiên là hung huyệt! Núi lửa phun trào ở một khoảng cách gần như vậy mà vẫn không hề ảnh hưởng đến môi trường lạnh giá nơi đây. Ngay cả tàn tro nóng bỏng của núi lửa cũng không thể khiến mặt băng tan chảy. Nhìn từ xa đã thấy, ở trên mặt băng mênh mông quả thực có một vòng xoáy, một vòng xoáy thẫm đen sáng lấp lánh. Đó là vòng xoáy băng do nước sông đen kịt đông cứng mà thành, nhô lên khỏi mặt băng. Không cao, song rõ là tạo hoá khéo léo, tinh xảo tuyệt luân. Trong vòng xoáy băng chắc chắn phải hàm chứa một thứ năng lượng khác thường. Dưới tác động của thứ năng lượng này, không chỉ Lỗ Nhất Khí mà những người khác đều bắt đầu cảm thấy tức ngực đau đầu, toàn thân rời rã. Ngay cả bầy chó ngao và sói xanh cũng đã bắt đầu trở nên bứt rứt, hoảng loạn, vùng chạy tứ tung. Nguồn năng lượng bí hiểm toả ra từ xoáy băng tựa như lớp lớp sóng xô, đổ dồn về phía họ, gây nhiễu loạn tư duy, mê hoặc tinh thần, tê liệt giác quan của họ. Trạng thái hôn mê của Lỗ Nhất Khí là nghiêm trọng nhất, song trạng thái này là mất đi một phần suy nghĩ hay là thu nạp thêm một tầng suy nghĩ khác, chỉ bản thân cậu mới biết được. Bước chân của cậu vẫn vô cùng kiên định, đi thẳng tới xoáy băng. Bỗng nhiên, từ trong tro bụi và tuyết xốp chui ra một đám sinh vật chắn ngang đường đi của họ. Do cảm giác của mọi người đều đã suy giảm đáng kể, nên đến tận khi giáp mặt với chúng, họ mới phát hiện ra. Đám sinh vật cản đường chính là một bầy sói mệt mỏi và một con gấu lớn cũng bơ phờ không kém. Phía sau bầy sói còn có một bóng người thương tích đầy mình đang ngồi thu lu, trong mắt chiếu ra những tia sáng còn thú tính hơn cả bầy chó sói. Kẻ này là ai? Chính là Thú Vương, kẻ thù của Lang Thiên Thanh. Lạp Thần và Thú Vương là kẻ thù lâu năm, song thường lánh mặt nhau, giờ đây môn phái xảy ra đại sự, không thể khước từ, bởi vậy trước đó đã quyết chiến một trận dữ dội ở trong núi, khiến cả hai bên đều tổn thương nghiêm trọng. Lạp Thần đứng hiên ngang ở trên cùng, xung quanh chỉ còn lại ba con chó ngao và hai con sói xanh, nhìn vào tư thế và khả năng chiến đấu, có thể thấy rằng năm con thú còn sót lại không kém thế bao nhiêu so với bầy sói và con gấu to xù của Thú Vương, lại xuất hiện một cục diện ngang sức ngang tài. Lạp Thần ra hiệu cho Thuỷ Băng Hoa và lão mù đỡ Lỗ Nhất Khí đi vòng sang một bên, còn mình cầm chắc súng trong tay, ngậm dao săn trong miệng, tiếp tục đi về phía Thú Vương. Thú Vương chỉ gầm khẽ một tiếng rồi lập tức xông lên, trong tay hắn nắm chặt một khẩu súng đầu hổ. Đây là kiểu súng ba đốt do Hoả Lưu đường thuộc Đông xưởng triều Minh chế ra, có thể bắn liên tiếp ba mũi đinh nanh sói. Lạp Thần chẳng thèm kêu tiếng nào, vì trong miệng ông đang ngậm dao săn. Ông không thể đánh rơi lưỡi dao săn, bởi lẽ ông biết rõ trong ổ súng chỉ còn một viên đạn. Sau khi viên đạn duy nhất bắn ra, ông chỉ có thể dựa vào lưỡi dao để liều mạng. Trong nháy mắt, bầy thú hoang của cả hai phe đang trong trạng thái uể oải bỗng trở nên hưng phấn lạ kỳ, tựa như là hồi quang phản chiếu. Súng đầu hổ đã nổ vang. Súng trường cũng đã khai hoả. Tiếng gấu gầm rống, tiếng sói tru vang, tiếng chó ngao sủa loạn. Một bầy thú hoang xáp vào nhau cắn xé điên cuồng, tựa như sóng cuộn trên sông. Tro bụi bay mù mịt, tuyết trắng văng tung toé, lông da tơi tả, máu huyết tứ tung. Trên bãi chiến trường hỗn loạn, chốc lát không còn tro bụi, không còn tuyết trắng, chỉ trơ ra một mặt băng rộng lớn trơn trượt. Trên lớp băng loang lổ những máu, dưới sự phản chiếu của mặt băng lạnh lẽo, càng thêm đỏ chói đến nhức mắt… Lỗ Nhất Khí đã tới bên vòng xoáy băng. Cậu khép hờ hai mắt, tựa như đang ngủ. Thuỷ Băng Hoa và lão mù đều mệt lử, toàn thân rệu rã, ngồi bệt xuống lớp tuyết dày. Còn Lỗ Nhất Khí vẫn đứng sừng sững ở đó như kẻ mất hồn, cơ thể hoàn toàn bất động. Một lúc lâu sau, Lỗ Nhất Khí mới đưa tay ra, khẽ đặt lên trên xoáy băng, động tác nhẹ nhàng tựa như đang bắt mạch cho khuê nữ. Hơi lạnh từ xoáy băng truyền theo ngớn tay, bàn tay, cánh tay, vai, cổ, xông thẳng lên đỉnh đầu cậu, khiến cậu giật mình mở choàng hai mắt. Trước mặt là vòng xoáy, một vòng xoáy do nước đóng băng kết thành. Trong vòng xoáy còn có một vòng xoáy nữa, là vòng xoáy do dòng nước đen ngòm tạo nên. Vòng xoáy nước đen rất to và sâu, nặng nề và đặc quánh, tốc độ xoay chuyển cũng không nhanh, trông giống như sắp đông cứng đến nơi. Lỗ Nhất Khí đã mở mắt, song lại không nhìn vào vòng xoáy, mà đang quan sát phía đối diện của vòng xoáy. Trong cơn mơ màng, cậu cảm giác một cách rất chân thực rằng nơi đó vừa mới xuất hiện một thứ vô cùng tuyệt diệu, đang toả ra một luồng khí linh động tràn trề. Cậu đã nhận ra, đó chính là thứ đã xuất hiện trong Ngũ trùng đăng nguyên hội, cũng từng thấp thoáng trong vùng rừng núi trập trùng khi cậu chạy khỏi Kim gia trại. Lúc này, làn khí toả ra từ nó càng tuôn trào mạnh mẽ, dường như để chống đỡ lại một thứ gì đó. Cảm giác của cậu nhận ra làn khí, song đôi mắt cậu lại nhìn thấy một người. Rất khó nói đây là một người như thế nào. Nhìn vào cách ăn mặc thì thấy rất bình thường, song nhìn vào khí chất phong thái, lại thấy trong vẻ cao quý còn toát lên nét tiên phong đạo cốt. Cao quý là bẩm sinh, còn tiên phong đạo cốt cần phải rèn luyện nhiều năm mới có được. Món đồ tuyệt diệu kia đang nằm trên lưng người này, không chỉ phát ra luồng khí linh động, mà còn thoang thoảng một mùi hương ngọt dịu. Hương thơm này vô cùng đặc biệt, ngửi qua một lần sẽ nhớ mãi không quên, chính là kỳ nam kiến mật[3]. Gỗ kỳ nam kiến mật không thể bào, gọt, không thể quét sơn, chỉ có thể nhờ vào ma sát trong quá trình sử dụng để lên nước tự nhiên, nếu không sẽ khiến vỏ nứt ruột mục. Trên lưng người này đeo một chiếc hộp gỗ nam có hình cành cây, nhìn từ xa đã thấy mặt gỗ sáng bóng như ngọc. Có thể mài bóng đến độ trơn tru như ngọc thế kia, chắc chắn phải có hàng nghìn năm tuổi. Phía sau người đeo hộp, còn có một người nữa khom lưng mà đi. Người này tuy lưng eo cong lên như cánh cung, song đầu vẫn vươn dài về phía trước, vẻ như một người gù bẩm sinh. Đôi mắt kẻ này đỏ vằn như máu, một tay cầm sợi dây đỏ, các ngón tay đang liên tục tết nút gỡ nút. Đầu còn lại của sợi dây được cắn thật chặt bên nửa hàm răng bên trái, nhìn qua hệt như dòng máu ứa ra từ khoé miệng. Người này đối lập hoàn toàn với người phía trước, khắp mình toả ra yêu khí dày đặc. - Cậu làm rất tốt! – Người đeo hộp gỗ kỳ nam lên tiếng, giọng nói điềm đạm, tựa như đang trò chuyện với bạn tri giao. - Thuận theo tự nhiên mà thôi! – Lỗ Nhất Khí không biết phải nói gì, song câu nói cứ như tự nhiên bật ra từ trí não. Đây có lẽ là nhờ công phu tự nhiên của Đạo gia chăng? Bởi vậy, trạng thái của cậu càng được thả lỏng tự nhiên hơn. - Tôi biết cậu có lý do để tới đây! – Giọng nói vẫn rất điềm tĩnh. - Còn tôi lại không rõ lắm, nhưng bây giờ thì tôi đã hiểu! – Câu trả lời còn tự nhiên hơn. - Nơi này tôi đã tìm kiếm khá lâu rồi! - Nên cũng muộn rồi? - Chưa muộn! Cậu vẫn chưa ra tay. - Muộn rồi, nếu không anh đã không để tôi tới đây! - Thật khó tin, một vật bé nhỏ như vậy lại có thể định được hung huyệt! - Tôi cũng không tin, song không thể không tin. - Dựa vào cái gì? Cảm giác ư? - Có lẽ vậy! Còn do các người ép tôi phải tin. - Cậu thực sự muốn làm như vậy? - Thuận theo tự nhiên thôi! - Chúng ta hãy bàn bạc thêm! - Đợi tôi làm xong đã rồi tính. - Vậy thì thật đáng tiếc! - Chưa chắc, có lẽ là may mắn. Nói xong câu này, Lỗ Nhất Khí rút một thứ từ trong ngực áo ra. - Nếu tôi đến cướp thì sao? – Giọng nói rất nhẹ nhàng, giống như đang thương lượng. - Hung huyệt chặn đường, không biết hung hiểm đến đâu, trong lúc gấp rút chớ nên bước qua! – Lỗ Nhất Khí cũng nhẹ nhàng khuyên can, giống như đang ngăn cản một người bạn theo tiễn. - Vậy thì phải giết chết cậu trước khi cậu ra tay! – Trong giọng nói đã có phần lạnh lẽo. Lỗ Nhất Khí nở một nụ cười, bởi lẽ sự uy hiếp đã cho cậu hiểu rằng, mình sắp thắng. - “Thứ được kỳ nam kiến mật phong kín thường là loại khí giới nghìn sát, khí giới xuất hiện, kinh thiên động địa, chém giết tất thành công”. – Lỗ Nhất Khí chợt nhớ tới một tờ rách rời tàn khuyết của cuốn “Thuợng cổ thần di khí giám”[4] có viết như vậy – Nhưng có điều anh giết tôi, anh cũng chưa chắc đã có được thứ này. Giết chết tôi, anh cũng không bao giờ có thể tìm ra các món thiên bảo còn lại. Tốt nhất hãy để mọi việc thuận theo tự nhiên. Trời làm chủ, người hành động, anh thông minh hơn tôi, có lời gì hãy để lần sau nói tiếp. Người đối diện không nói thêm câu nào nữa, dù sao hắn cũng là người có đạo hạnh, có tu dưỡng. Chỉ có điều hắn dang suy nghĩ, đang cân nhắc, dường như hắn đã ý thức được bản thân trở nên kém thế ở điểm nào, cũng ý thức được suy nghĩ của mình có chỗ lệch lạc. Thái độ của Lỗ Nhất Khí rất đỗi ung dung, ung dung tựa như những bông tuyết đang phiêu diêu giữa bầu không. Vào đúng lúc này, trên bầu trời u ám bỗng rắc xuống những bông tuyết xoay tròn, chao lượn qua trước mắt Lỗ Nhất Khí. Lỗ Nhất Khí nhìn theo một bông hoa tuyết, ánh mắt chăm chú kéo theo gò má, khoé môi, nở thành một nụ cười sáng bừng trên khuôn mặt. Cùng với cái mỉm cười, vật đang giữ trong tay nhẹ nhàng rơi vào vòng xoáy, tuy nhanh hơn nhiều so với tuyết rơi, song cũng tự nhiên y như vậy, tự nhiên như ánh sao băng thoáng lướt ngang trời. Vào khoảnh khắc vật này rơi xuống, hai bóng người đối diện chợt rùng khẽ lên một thoáng, song chỉ là một thoáng. Tận mắt thấy món bảo bối đời đời kiếm tìm, ngày đêm mơ tưởng bị quăng xuống hung huyệt, sau này khó lòng còn thấy lại, mà vẫn có thể bình thản trấn tĩnh đến thế, quả là một định lực trên đời hiếm gặp. Thứ vừa rơi vào vòng xoáy chính là miếng pha lê màu đen được rút ra từ bệ đặt hộp ngọc trong thạch thất. Sau khi dập dềnh mấy cái trong vòng xoáy, nó lập tức chìm nghỉm xuống phía dưới. Trong một khoảnh khắc, trên bề mặt miếng pha lê bỗng loé lên những tia sáng vàng kim. Ánh sáng rực rỡ đến chói loà, song thứ đang rực sáng không phải là bề mặt bóng bẩy của pha lê, mà chính là hình thù được tạo thành bởi những tia sáng vàng kim. Những tia sáng vàng rực rỡ đã kết thành bốn chữ với tự dạng thuần phác cổ xưa: “Thạc dã lưu kim”[5]. Những con chữ vàng kim chỉ chớp lên một thoáng rồi biến mất, song đã vĩnh viễn khắc sâu trong trí não Lỗ Nhất Khí, đương nhiên cũng có thể đã vĩnh viễn đọng lại trong tâm trí những người khác nữa. Lỗ Nhất Khí ngẩng đầu lên nhìn người đối diện, người này cũng đang nhìn cậu. Bốn mắt giao nhau, dường như thần hồn giao tiếp, dường như tâm cảnh tương thông, tất cả đều chất chứa trong chỗ không lời. Ngay sau khi nuốt trọn miếng pha lê đen, xoáy nước đột nhiên biến mất, mặt nước bỗng chốc phẳng lặng như gương. Dòng nước sông đen kịt nặng nề và đặc quánh, không có lấy một gợn sóng lăn tăn. Bỗng vang lên một tràng tiếng nổ ầm ì, nghe như sấm xuân dậy đất, chỉ có điều tiếng sấm vọng đến từ dưới chân, trong khi dưới chân họ là mặt băng trên dòng sông lớn. Dòng sông phong kín băng dày thình lình vang tiếng nổ rền, khiến người ta không khỏi bàng hoàng kinh sợ. Hai người đối diện đã đi rồi. Ngay khi tiếng sấm vừa vọng lên, họ đã ung dung rời bước. Lỗ Nhất Khí không đi, thậm chí hai bàn chân cậu không hề xê dịch lấy một chút. Cậu đứng im lìm bất động, khí định thần nhàn, dường như quên bẫng cả những tiếng nổ rền như sấm dưới chân. Đi được vài bước, người kia bỗng dừng lại, quay đầu nhìn Lỗ Nhất Khí, trong ánh mắt tràn đầy kinh ngạc và khâm phục, rồi khoé miệng khẽ mỉm cười, cất giọng điềm đạm bình hoà mà nói: - Hẹn ngày gặp lại! Lỗ Nhất Khí không nói, chỉ mỉm cười đáp lại, cho tới khi hai người đã khuất dạng sau làn gió tuyết. Những vết rạn nứt khúc khuỷu ngoằn ngoèo tràn lên mặt băng như một mạng nhện khổng lồ, không ngừng kéo dài lan rộng. Từ các vết nứt, nước sông đen thẫm trào lên, gợn ánh lân tinh lấp loáng, giống như dầu sánh, giống như vàng dát, khiến các vết nứt trông hệt như tia chớp, hệt như rắn vàng, hệt như rồng đen. Băng trên mặt sông đã vỡ vụn, dòng sông đã thoát khỏi lớp băng khoá kín. Nơi Lỗ Nhất Khí đang đứng là một tảng băng lớn đã bị vô số vết rạn nứt bủa vây ngang dọc, nó hoàn toàn có thể chịu được sức nặng của ba người Lỗ Nhất Khí, Thuỷ Băng Hoa và lão mù. Những vết rạn nứt vẫn tiếp tục kéo dài. Mặt băng đã vỡ vụn thành vô số tảng băng trôi, bắt đầu di chuyển theo dòng nước chảy, chốc chốc lại va vào nhau phát ra những tiếng lách cách, khiến dòng sông lặng lẽ trong tiết giữa đông trở nên náo nhiệt lạ thường. Trong “Tát Cáp Liên giang thuỷ chí”[6] có viết: “Đầu thời Dân Quốc, nước sông bất thường. Lập đông chưa lâu thì băng vỡ, song băng trôi không cản trở, nước đen không ngập, đường sông thông suốt”. Dã sử dân gian truyền rằng: “Đầu thời Dân Quốc, Hắc Long Giang xuất hiện sự lạ, tiết Lập đông băng vỡ băng trôi, có bậc thế ngoại cao nhân đoán rằng, là điềm báo thiên hạ có biến, phân định biên cương, đánh đuổi hết giặc Mãn”. Một tảng băng lớn từ từ trôi về phía hạ lưu. Lỗ Nhất Khí vẫn đứng sừng sững, ánh mắt nhìn miên man về phía xa xăm. Thuỷ Băng Hoa và lão mù ngồi bệt bên cạnh, đều đã mệt mỏi rã rời, rũ đầu im lặng. Trên bờ đê ven sông, người đeo hộp gỗ rảo theo mấy bước về phía hạ lưu, song nhanh chóng dừng ngay lại, vẩy ống tay áo một cách khoan thai, rồi bình thản nhìn ba người Lỗ Nhất Khí trôi đi mỗi lúc một xa. Người gù mắt đỏ bước lên nói: - Chu thiếu chủ! Thổ bảo phía tây nam đã lần ra tung tích! Chú thích [1] Là một cực hình. Vào mùa đông, lột hết quần áo của người chịu hình vào cây cột rồi dội nước lên cho đông cứng thành băng. [2] Tại chỗ lòng sông rẽ ngoặt thường xuất hiện xoáy nước rất xiết, lại do nước từ thượng lưu đổ tới sẽ khiến đáy sông nơi đó xuất hiện vực nước sâu. [3] Một loại gỗ nam (gỗ lim) kỳ lạ, toả ra hương thơm ngọt ngào. Loài kiến mật thường làm tổ trên cây này. Loài kiến này thích ăn mật ong song lại không bị mật ong dính chặt, có sức khoẻ và khả năng gặm khoét cực lớn, nên nếu bị chúng sống ký sinh, gỗ nam sẽ không thể dùng được, chỉ một cây gỗ bằng cổ tay cũng đã có vô số tổ kiến, trong cả vạn gốc cây may ra mới có một gốc nguyên lành. Dùng nó để chế tác vật dụng sẽ có độ phong kín cực tốt, không chỉ che đậy được thi khí, âm khí, mà sát khí, huyết khí, độc khí đều có thể được che kín bên trong. [4]Ban đầu có lẽ đây là một tác phẩm gồm cả chữ viết và tranh vẽ. Trong phần tàn khuyết của bản chép tay có câu: “Thiên sát khí xuất, sát tất thành” (vũ khí thiên sát xuất hiện, chém giết tất thành công). [5] Theo truyền thuyết, sau khi Đại Vũ trị thuỷ thành công, đã phân chia đất đai theo tác dụng. Trong đó, loại đất phì nhiêu màu mỡ có thể trổng trọt cho thu hoạch tốt gọi là “lưu kim địa” (đất chảy vàng). “Thạc dã lưu kim” có nghĩa là ấn ngọc để phong trấn loại đất này. [6] Một cuốn sách ghi chép về những biến động thuỷ văn của sông Tát Cáp Liên, cũng chính là sông Hắc Long Giang. Song rất hạn chế, vì dòng sông này rất dài, nên cuốn sách chỉ ghi chép lại những biến động thuỷ văn của một khúc sông. Song khá nhiều sự việc và hiện tượng bất thường đều có thể phản ánh tình trạng của toàn bộ lưu vực sông khi đó, hiện vẫn được dùng làm tư liệu tham khảo. Hết Tập 3