Lời Nguyền Lỗ Ban Quyển 4 - Chương 21: Khó ngộ ý Spoiler: Click vào để đọc Nếu đúng là một thị trấn, thì thị trấn này quả thực quá nhỏ bé. Mặc dù nhìn từ xa, cũng thấy nhà cửa tầng tầng lớp lớp, song số lượng kỳ thực không nhiều. Mà điểm quan trọng nhất chính là những ngôi nhà đều rất nhỏ! Độ cao của mái hiên xem ra chỉ hơn chiều cao của người thường chút đỉnh, khung cửa còn thấp hơn nữa, vào ra có lẽ phải cúi lom khom. Diện tích nhà cũng nhỏ, chỉ khoảng một phần ba nhà cửa thông thường. Trong thị trấn không có lấy một bóng người, cũng không hề có tiếng người, ngay cả tiếng gà gáy chó sủa cũng không, tịch mịch hệt như một thế giới chưa ai biết đến. o O o Mưa bay lất phất, dày đặc như khói như sương, trùm lên núi non trập trùng một bức màn mông lung mờ ảo. Trên sườn núi hai bên đường, trúc biếc ken dày, trông lặng phắc âm u trong màn mưa mịt mờ như khói toả. Nhưng trong khe suối ven núi, dòng nước băng băng cuộn chảy, róc rách lao đi bên con đường đá, tô điểm thêm vẻ thanh tân thần bí chỉ có ở chốn rừng sâu. Lỗ Thiên Liễu đứng một mình ở cuối con đường đá, nhìn về phía trước với ánh mắt hoang mang, bất lực. Cơ thể cô đã ướt đẫm, nhưng những sợi mưa dày đặc vẫn đùa giỡn với cô không chịu buông tha, mau chóng đọng thành từng giọt lớn trên mái tóc, trượt xuống theo những món tóc mai đã bết lại, ngoằn ngoèo chảy qua gò má trắng nhợt, rồi rơi lộp độp xuống mặt đường lát đá, vỡ tan thành vô số vụn nước li ti. Con đường đá quanh co lượn quanh một mặt nước thẫm xanh, rồi mất hút sau một khu nhà ngói đen tường trắng. Những toà kiến trúc cũ kỹ nằm im lìm dưới cơn mưa bụi mịt mù, chìm sau cây xanh trúc rợp, nhìn xa xa cảm giác như một thị trấn nhỏ đã bị người đời quên lãng. Tại sao lại gọi là thị trấn nhỏ? Vì mặc dù nhà cửa nhấp nhô san sát, nhưng hướng nhà hỗn loạn, thông thường chỉ những thị trấn có quán xá suốt dọc đường mới có cách cục kiến trúc kiểu này. Nếu đúng là một thị trấn, thì thị trấn này quả thực quá nhỏ bé. Mặc dù nhìn từ xa, cũng thấy nhà cửa tầng tầng lớp lớp, song số lượng kỳ thực không nhiều. Mà điểm quan trọng nhất chính là những ngôi nhà đều rất nhỏ! Độ cao của mái hiên xem ra chỉ hơn chiều cao của người thường chút đỉnh, khung cửa còn thấp hơn nữa, vào ra có lẽ phải cúi lom khom. Diện tích nhà cũng nhỏ, chỉ khoảng một phần ba nhà cửa thông thường. Trong thị trấn không có lấy một bóng người, cũng không hề có tiếng người, ngay cả tiếng gà gáy chó sủa cũng không, tịch mịch hệt như một thế giới chưa ai biết đến. Cảnh tượng trước mắt đã khiến Lỗ Thiên Liễu phải nghĩ ngợi. Trước đây, khi ông Lục giảng giải phong thuỷ cho cô, có nói rằng, núi non trùng điệp bao quanh, mặt nước chặn cửa, đó là cách cục tàng phong tụ khí cực tốt. Đó là lý luận được ghi chép trong một điển tích phong thuỷ rất phổ biến, không biết tên gì. Lỗ Thiên Liễu vắt óc cố nhớ. Đúng rồi! “Táng cát phổ”! Một cuốn sách chuyên nghiên cứu về phong thuỷ âm trạch[28]. Phong thuỷ âm trạch? Đúng vậy, nhìn từ xa lại, thị trấn cũ kỹ trước mắt không có vẻ gì giống với nơi ở của người thường, lẽ nào chúng được xây cho... Nghĩ đến đây, Lỗ Thiên Liễu vô cùng kinh sợ, một luồng khí lạnh toát chạy rùng rùng trong cơ thể, thấu qua từng lỗ chân lông; trí não hoang mang, tràn đầy nỗi cô độc và vô vọng. Làm thế nào bây giờ? Bảo cấu có lẽ đã ở ngay phía trước, nên một mình xông vào, hay đợi cha và Ngũ Lang tới rồi cùng đi? Thế nhưng liệu họ đã thoát khỏi nguy hiểm hay chưa? Phải mất bao lâu nữa mới đuổi kịp tới nơi? Sau khi lên núi, họ đã liên tiếp đụng đầu với hàng loạt khảm diện. Đám người Lỗ gia gặp nút giải nút, gặp khảm phá khảm. Nhưng trận Trăm đột đan xen trong rừng đạm trúc lợi hại phi thường, chỉ trong nháy mắt đã cầm chân tất cả bọn họ. Chỉ còn Lỗ Thiên Liễu nhờ vào tài khinh công tuyệt đỉnh và ba giác mẫn tiệp, đã phóng đôi Phi nhứ bạc đu người trên ngọn trúc di chuyển trên không mà thoát được ra ngoài. Sau khi thoát thân, Lỗ Thiên Liễu buộc phải nhanh chóng tiến lên phía trước, nếu không bọn tay chân canh giữ trận Trăm đốt đan xen và những nút người ở vòng ngoài chắc chắn sẽ hợp lại tập kích cô lần nữa. Thông thường, bọn điều khiển khảm diện và nút người gài trong khảm diện đều có chức trách riêng, ai làm việc nấy, giữ vững vị trí, vì vậy, trong những khảm trận có diện tích lớn, bố trí phức tạp, khoảng cách giữa các khảm diện chính là vị trí an toàn nhất. Giờ đây, Lỗ Thiên Liễu đang đứng ở vị trí như thế, song mối nguy hiểm vẫn có thể ập đến bất cứ lúc nào. Tiến về phía trước đương nhiên nguy hiểm, nhưng đứng chôn chân đợi ở đây cũng nguy hiểm không kém. Đối phương phát hiện có kẻ thoát khỏi khảm diện, chắc chắn sẽ phái người truy kích. Nguy hiểm trước sau gì cũng đến, chỉ có điều không biết nó sẽ đến vào lúc nào, đến từ hướng nào. Sắc trời mỗi lúc một thêm u ám, chỉ một lát nữa thôi, sẽ là đêm thứ tám Lỗ Thiên Liễu tiến vào vùng núi Thiên Linh, và cũng là đêm đầu tiên cô phải một mình đối diện với màn đêm rừng núi. Cô buộc phải đưa ra quyết định trước khi màn đêm ập xuống. Hoặc là tiếp tục tiến lên lấy công làm thủ, hoặc là dừng lại nghĩ cách tự bảo vệ mình, cô đều phải đưa ra quyết định nhanh chóng. Cô duỗi thẳng cánh tay, từ từ xoè rộng lòng bàn tay không hề mềm yếu. Cô đã cảm nhận được những cái va chạm liên hồi của từng sợi mưa rơi trên lòng tay, cảm nhận được cái nhột nhạt và nhoi nhói khi những hạt mưa đập xuống làn da văng ra tứ phía. Thoáng chốc, trên lòng bàn tay cô đã chi chít những hạt nước li ti, trong suốt tựa pha lê, xoá nhoà tất cả những đường vân kẽ chỉ và các vết thương ngang dọc. Cô đột ngột nắm chặt tay lại, rồi dứt khoát gật mạnh đầu. Món tóc mái đã bết thành một dải bị hất khỏi trán, những giọt mưa lớn đọng trên mớ tóc văng đi, rơi xuống vỡ tan trên mặt đường đá. Trên khuôn mặt đã nhợt nhạt bởi nước mưa bỗng lộ ra một nét cười. Lỗ Thiên Liễu đã biết mình cần phải làm gì... Sau khi thoát khỏi khu vườn ở Tô Châu, vốn dĩ Lỗ Thịnh Nghĩa muốn quay trở lại Dương Sơn ẩn náu một thời gian. Nhưng trên đường qua vịnh Thập Bát trên Thái Hồ, đã bị người ta tập kích, ba thuyền giao chiến giữa đêm, gián điệp Lỗ Ân lộ diện. Lúc đó họ mới biết ngôi nhà ở Dương Sơn từ lâu đã bị bại lộ, nên lập tức quay thuyền đi xuống phía nam. Đi về phía nam sẽ đến Tam Đảo Thái Hồ, đảo chủ chính là người bạn cố tri của Lỗ gia – Rùa gai Du Hữu Thích, bọn họ có thể tạm thời ẩn náu tại đây để phục hồi thương thế. Lỗ Thiên Liễu đã dùng mai rùa mà ông Lục để lại để bói một quẻ, quẻ tượng cho thấy thiên cách lý số, tam nguyên vận trù của cô đều hợp với phía nam. Thời gian thấm thoắt thoi đưa, sang tới mua xuân, vết thương của Lỗ Thịnh Nghĩa đã khỏi hẳn, nhưng đi lại vẫn hơi cà nhắc. Ngũ Lang tuy bị thương nặng hơn Lỗ Thịnh Nghĩa, song lại bình phục nhanh hơn, dù sao anh ta cũng đang lúc thanh niên trai tráng. Du Hữu Thích thường xuyên phái thủ hạ đi nghe ngóng tình hình ngoài đảo, họ phát hiện ra tin tức về sự biến tại khu vườn Tô Châu không hề ồn ã trong giang hồ, mọi người chỉ kháo nhau rằng nơi đó gặp động đất. Những đồng thời họ cũng phát hiện ra một thế lực giang hồ rất lớn đang từ từ di chuyển lên phía bắc, chỉ nghe đồn có kẻ âm thầm bỏ ra một số tiền lớn mua chuộc các thế lực giang hồ nhằm vây bắt một chàng thanh niên trẻ. Vừa nghe được thông tin, Lỗ Thịnh Nghĩa đã lập tức khẳng định rằng việc này chắc chắn có liên quan tới cậu con trai Lỗ Nhất Khí. Trong khoảng thời gian đó, Lỗ Thiên Liễu đã trở nên trầm lặng hơn, cũng là chín chắn hơn. Trận quyết đấu trong thành Tô Châu với cô khác nào một đợt tôi luyện khắc nghiệt trong sự giằng co giữa được và mất. Mấy ngày nay, trên tay cô không lúc nào rời cuốn “Huyền giác” mà ông Lục đã tặng. Cô đọc rất chăm chú, hy vọng rằng có thể tìm ra được bí quyết gì trong đó, để tìm hiểu xem món đồ được lấy ra từ hộp ngọc trong ngôi mộ trôi rốt cục ẩn giấu huyền cơ gì. Bên trong hộp ngọc chỉ có một mảnh lụa vàng khá nhỏ, chỉ có điều thứ lụa này được dệt bằng sợi kim tuyết vặn thừng, hoa chìm vân nổi, nước ngâm không thấm, lửa đốt không cháy. Mặt lụa thoạt nhìn trống trơn không có thứ gì, song bí mật thực chất lại nằm trên những đường vân nổi. Có thể phát hiện ra bí mật này, chính là nhờ vào xúc giác phi thường trong ba giác đặc biệt của Lỗ Thiên Liễu. Phương pháp dệt hoa chìm vân nổi, thực chất là trong quá trình dệt, sẽ rút sợi kim tuyến ở từng bộ phận với mức độ lỏng chặt khác nhau. Nếu rút chặt, sợi kim tuyến ở vị trí đó sẽ bị dồn nén mà hơi nhô lên, khiến cho toàn bộ bề mặt miếng vải không được bằng phẳng. Sắp xếp những vị trí không bằng phẳng đó theo một quy luật hoặc hoạ tiết nhất định, sau khi dệt xong, do mặt lụa một màu có chỗ lồi chỗ lõm, nên sự phản xạ ánh sáng ở các vị trí cũng có khác nhau, từ đó hình thành những hoa văn lờ mờ ẩn hiện. Những điểm nổi lên trên tấm lục này rất mực kín đáo, chỉ nhìn bằng mắt thường, khó mà phát hiện ra được. Thực ra trên thế giới có rất nhiều thứ không thể nhìn được bằng mắt thường, bởi vì ngay từ khi làm ra những thứ này, người ta đã có ý không muốn để người khác phát giác ra. Nhưng Lỗ Thiên Liễu lại có xúc giác trong sáng mẫn tiệp hơn cả mắt thường, sau nhiều lần ngưng thần tụ lực, cô đã lần thấy những điểm lỏng chặt không đều của chỉ kim tuyến trên tấm lụa vàng được sắp xếp thành hai hàng chữ: “Hoả linh kế, hư hải tế; giả Chân Vũ, thực nhạn linh”. Dòng chữ này có ý nghĩa gì? Lỗ Thịnh Nghĩa và Lỗ Thiên Liễu đã thử phân tích từ rất nhiều mặt, nhưng tìm đủ mọi cách vẫn không thể giải mã được. Nhưng vấn đề này bắt buộc phải giải quyết. Trước mắt chỉ có thể nhờ cậy chưởng giáo Thiên sư núi Long Hổ. Thế là sau khi xác nhận tình hình giang hồ vẫn còn tạm ổn, Lỗ Thiên Liễu đã âm thầm lên núi Long Hổ một mình. Chưởng giáo Thiên sư không hỏi xuất xứ của dòng mật ngữ, cũng chẳng hỏi nguyên nhân, chỉ trầm ngâm ngẫm ngợi một hồi. Sau đó lại tìm các cao thủ khác trong phái cùng đến phân tích, nghiên cứu kỹ lưỡng, nhưng cuối cùng vẫn không thể tìm ra đáp án chính xác. Chưởng giáo Thiên sư bèn bảo Lỗ Thiên Liễu quay trở về Tam Đảo Thái Hồ trước, họ sẽ tiếp tục suy nghĩ tìm ra đáp án, khi nào có lời giải chính xác sẽ cho người thông báo sau. Sau khi Lỗ Thiên Liễu trở về được mấy ngày, khoảng thời gian yên bình ở Tam Đảo Thái Hồ đã bị phá vỡ. Đảo chủ của Tam Đảo Thái Hồ là Rùa gai Du Hữu Thích. Đây không phải là tên thật của hắn, mà do hắn giỏi sử dụng một cặp Nga Mi thích[29] rẽ nước ngắn trông rất cổ quái, nên thành biệt danh. Hắn tuổi ngoại tứ tuần, lưng rộng chân thô, bụng ngang ngực nở, tướng tá giống hệt thương nhân tài chủ. Sự thực thì hắn không phải thương nhân tài chủ, cũng chẳng phải ngư dân đúng nghĩa, mà là đầu sỏ của đám phỉ trong hồ, tự chiếm đảo làm vương làm tướng. Nguyên nhân đều do một tai hoạ thập tử nhất sinh, nếu không, hắn muốn làm tài chủ hay ngư phu cũng chẳng có gì khó. Trước đây Du Hữu Thích vốn là công tử trong một gia đình cự phú ở Giang Nam, bẩm sinh đã giỏi bơi lội, có thể lặn xuống nước tay không bắt cá. Gia tộc họ Du phát đạt nhờ buôn bán trên sông, đến đời ông nội hắn, gia sản trong nhà đã có đến mấy vạn mẫu sông hồ ao đầm. Tất cả những làng chài bến bãi dọc bờ sông đều phải nộp thuế cho nhà họ. Nhưng sau khi ông nội hắn qua đời, gia đạo bắt đầu sa sút, phần lớn gia sản dần dần rơi vào tay kẻ khác. Và cũng trong vài năm đó, người nhà họ Du đang yên đang lành bỗng theo nhau đổ bệnh, ngay cả Du Hữu Thích vốn dũng mãnh như hùm beo cũng không tránh khỏi tai ương. Khi Lỗ Thịnh Nghĩa và ông Lục đến phủ nhà họ Du, người nhà họ Du đã ốm chết gần hết, bản thân Du Hữu Thích cũng chỉ còn thoi thóp hơi tàn. Bao nhiêu thầy thuốc giỏi đều không tìm ra nguyên nhân gây bệnh, nhưng Lỗ Thịnh Nghĩa và ông Lục đã phát hiện ra, nguyên nhanh là do ngôi nhà, do phong thuỷ. Lỗ Thịnh Nghĩa áp dụng kỹ pháp định cơ của nhà họ Lỗ, đào xới ở đoạn phía trước cột hành lang bên trái cửa nhà chính, cách cột hành lang năm bàn tay, và lôi lên được một túi vải đen, bên trong đựng nửa cái đầu lâu và một khúc xương ống chân vát nhọn. Đầu lâu và xương ống đều đã được ngâm qua máu. Đây chính là loại cổ chú “đầu đứt chân cụt” vô cùng tàn độc có xuất xứ từ vùng biên viễn phía Tây, được chôn đúng vị trí trung tâm của nhà họ Du, rõ ràng nhằm mục đích tận diệt cả nhà, đến gia súc cũng không tha. Cổ chú vừa được đào lên, ông Lục lập tức dùng bùa Giải hối hoàn hồn cứu giúp, nhờ vậy mà cái mạng của Du Hữu Thích mới giữ được. Sau đó, ông Lục lại phát hiện ra trên phần mộ tổ tiên của nhà họ Du, vốn có phong thuỷ rất tốt, mọc lên mấy gốc cây rất quái lạ, rậm rạp um tùm trông rất có thế. Hỏi Du Hữu Thích đó là cây gì, do ai trồng, hắn lại không hề hay biết. Ông Lục bèn bảo Du Hữu Thích cho người đào lên, lúc này mới phát hiện ra chúng quả thực vô cùng quái dị, rễ cây kết chùm lan rộng hơn tán cây rất nhiều, tua rễ rất dài, toả khắp bốn phía. Tiếp tục đào men theo rễ, mới phát hiện ra nhiều sợi rễ cây đã xuyên thủng cả quan tài trong mộ tổ, vặn nát thi hài bên trong. Trong phong thuỷ gọi tình trạng này là “diệt tổ tuyệt mạch”. Thứ ác phá này một khi đã hình thành, không cách nào phá giải. Nếu đã gặp phải, con cháu trong nhà sẽ phải mười đời chịu ba mệnh tiện, nếu không, không những đời đời không thể hưng thịnh, mà con cháu đời nào cũng phải đoản thọ chết yểu. Ba mệnh tiện, tức là trộm cướp, ăn mày, nô bộc. Du Hữu Thích một thân ngạo cốt, tuyệt đối không chịu khuất thân làm ăn mày hay nô bộc, vì vậy đã một mồi lửa thiêu rụi toàn bộ dinh cơ, dẫn theo mấy người bạn thân, nô bộc tình nguyện đi cùng, lên Tam Đảo Thái Hồ làm cướp. Đương nhiên, suốt những năm đó, hắn vẫn âm thầm điều tra, muốn tìm xem kẻ nào đã rắp tâm hãm hại cả gia tộc họ Du, khiến hắn tan nhà nát cửa. Tuy làm thảo khấu Thái Hồ, song bọn họ không làm hại dân lành, cướp bóc bừa bãi, càng không giết người phóng hoả, nguồn sống chủ yếu là tự cung tự cấp. Khi có thuyền bè qua lại, họ chỉ cướp bóc chút đỉnh gọi là, giống như hàng xóm tắt mắt của nhau, chỉ có tiếng hão là thổ phỉ Thái Hồ, nên quan phủ và ngư dân trong vùng đều không động chạm gì đến họ. Những ngày tháng nơi Tam Đảo Thái Hồ cứ trôi đi yên bình như thế ngoại đào viên. Song đến ngày thứ năm sau khi Lỗ Thiên Liễu trở về, trong đám thủ hạ trên đảo bỗng có hai người tự dưng lăn ra chết, không thể tìm thấy nguyên nhân. Hai kẻ xấu số còn chưa được chôn cất, lại có thêm một người tử vong, là bị người ta đập chết, nửa đầu bên trái vỡ nát, cả hộp sọ lõm vào đến một nửa. Hình dạng thê thảm của hắn khiến Du Hữu Thích liên tưởng tới nửa cái đầu lâu chôn trước cửa nhà mình. Sau đó, không những tiếp tục có người chết thình lình, mà hình tướng của người chết cũng ngày càng khủng khiếp đến khó tưởng tượng. Có người toàn bộ cột sống, nội tạng từ lồng ngực trở xuống đều bị bẻ gãy, giật đứt, có người đầu bị vặn ngược một vòng ra sau rồi xoay trở lại, thậm chí có xác chết còn tự nhét tay vào miệng, nắm tay xuyên thủng gáy ra phía sau đầu. Đến ngày thứ tư, Du Hữu Thích, Lỗ Thịnh Nghĩa dẫn theo tất cả những người còn lại rời khỏi Tam Đảo. Hai mươi bảy chiếc thuyền đồng thời xuất phát. Khi đến đoạn mặt hồ rộng rãi, đoàn thuyền lập tức tản mát mỗi chiếc một hướng. Như vậy cho dù có kẻ địch đeo bám sau lưng, nhất thời cũng chẳng biết nên đuổi theo hướng nào. Lỗ Thiên Liễu và Du Hữu Thích chèo hai con thuyền nhỏ. Trên thuyền của Lỗ Thiên Liễu còn có Lỗ Thịnh Nghĩa, Ngũ Lang và một đệ tử của Du Hữu Thích, tay đệ tử này cũng là một kẻ lái thuyền cừ khôi. Trên thuyền của Du Hữu Thích, ngoài hắn ra còn có một đệ tử và một người anh em kết nghĩa. Họ đều là những người thân tín nhất của Du Hữu Thích, sẵn sàng giao phó cả tính mạng cho hắn. Sau khi hai con thuyền tản đi, bọn họ đã lượn một vòng trên mặt hồ, sau đó âm thầm quay trở lại, ẩn nấp ở Tam Đảo Thái Hồ, vì Lỗ Thiên Liễu còn muốn lưu lại chờ tin tức của Thiên Sư giáo. Sau đó, trên đảo không còn xảy ra chuyện giết chóc nữa. Khoảng nửa tháng sau, Thiên Sư giáo cuối cùng cũng đã phái người đến, đó là Chu thiên sư cai quản Biện Vi đường, cùng đến còn có một đồ đệ và hai tiểu đồng. Lỗ Thiên Liễu có biết Chu thiên sư. Lần trước khi cùng ông Lục đến Biện Vi đường để hỏi chuyện huyền nghi, hai bên đã từng gặp mặt. Chu thiên sư vừa lên đảo đã tỏ ra vô cùng căng thẳng, vì vừa mới bước vào địa phận Thái Hồ, đã lập tức bị đeo bám, làm thế nào cũng không thể cắt đuôi. Sau khi nghe họ thuật lại những sự việc xảy ra trên đảo khi trước, Chu thiên sư lập tức yêu cầu mọi người nhân khi trời tối bỏ trốn ngay khỏi đảo. -Mọi người đã đánh giá quá thấp đối thủ rồi! Mấy ngày nay chúng không tìm ra tung tích của mọi người, chắc chắn sẽ chuyển hướng suy nghĩ ngược về Tam Đảo. Mà chưa biết chừng chuyện trước đây chính là do đối phương sắp đặt, dùng các thủ đoạn tàn sát, đe doạ để xua đuổi những người không liên quan bỏ đi, khiến người nhà họ Lỗ phải hiện nguyên hình. Đây gọi là chiêu “sàng cát giữ đá”. Bọn họ người thì há hốc miệng, người thì đỏ bừng mặt, song tất cả đều nhanh chóng thu dọn hành trang, trời vừa sẩm tối liền lách qua bờ lau rậm rạp xuống bến, di chuyển về phía đông nam vào sâu trong Thái Hồ. Trên thuyền, Chu thiên sư đã kín đáo nói cho Lỗ Thiên Liễu biết sự thật về hai hàng chữ trên tấm lụa vàng. Chưởng giáo thiên sư tổng cộng đã phái đi tám nhóm, chia thành tám lộ ra ngoài tìm kiếm manh mối. Mỗi nhóm người chỉ đi tìm hiểu ba chữ, như vậy cho dù có tìm được ý nghĩa của ba con chữ, cũng không thể hiểu được những nội dung còn lại, tránh được nguy cơ để lộ bí mật ra ngoài. Nói đến chuyện đi tìm manh mối, phá giải mật ngữ trên tấm lụa, trên nét mặt Chu thiên sư có đôi chút đắc ý, vì đến giờ, người thu hoạch được nhiều nhất trong tám nhóm chính là ông ta. Nơi Chu thiên sư tìm đến đầu tiên chính là núi Võ Đang thuộc địa phận Hồ Bắc, vì ở đó ông có một người họ hàng xa từ hồi chưa xuất gia. Đó là một vị đạo sĩ già lưng gù chuyên quản lý việc thu thập và chỉnh lý kinh thư sách vở, đầy bụng kinh thư sử tịch. Ở chỗ ông ta, Chu thiên sư còn ngẫu nhiên biết được ý nghĩa của ba con chữ khác trên tấm lụa. “Giả Chân Vũ”, ba con chữ vừa được bày ra trước mặt, lão đạo sĩ lưng gù chưa kịp chớp mắt đã nói ngay: -Ta sẽ đưa mọi người lên đỉnh núi xem thử, đến đó, có lẽ ngươi sẽ ngộ ra được ý nghĩa ẩn chứa bên trong! Chu thiên sư đi cùng vị đạo sĩ lưng gù lên đỉnh Thiên Trụ, đỉnh núi chính của dãy núi Võ Đang. Ở đó có một khối kiến trúc vô cùng kỳ bí: Chân Vũ kim điện. Tuy gọi là kim điện, tức điện vàng, nhưng thực ra toàn bộ ngôi điện đều được chế tác từ đồng, xây dựng theo hình thức đúc rời ghép lại. Tất cả những bộ phận cấu thành đều được đúc sẵn từ kinh thành, sau đó vận chuyển lên núi Võ Đang mới lắp ghép lại thành ngôi điện hoàn chỉnh. Những bộ phận cấu thành đều được chế sẵn khớp, mộng, sử dụng các phương pháp ghép mộng, tán đinh, ráp nối, hàn để liên kết lại với nhau, thủ pháp tinh mật, một thể thống nhất, không hề để lộ một dấu vết ghép nối. Toàn bộ thiết kế và cấu tạo của ngôi điện đồng quả thực xứng đáng là khéo đoạt hoá công. Kim điện mặt tiền rộng rãi, sâu vào ba gian, cao năm thêm năm “khí bộ hành”[30], rộng bốn thêm bốn “khí bộ hành”, sâu ba thêm ba “khí bộ hành”. Toàn bộ kiến trúc được làm từ đồng mạ vàng mô phỏng kết cấu gỗ, mái chồng diêm hai tầng, đầu đao cong vút. Trong điện có mười hai cây cột tròn, đá kê chân cột tạo hình hoa sen báu, mái đỡ bằng đấu củng, kết cấu vô cùng thanh thoát tinh xảo. Tượng thần, bàn thờ và đồ thờ trong điện cũng đều được đúc bằng đồng, trong điện thờ Chân Vũ Đế Quân, mình mặc áo bào mang giáp trụ, tóc xoã chân trần, phong thái lẫm liệt, chỉ có điều tướng mặt của pho tượng Chân Vũ ở đây có khác so với những tượng Chân Vũ được thờ tại nơi khác. Tương truyền bức tượng Chân Vũ này được tạc mô phỏng theo tướng mạo của Chu Đệ, nên dân gian có câu “thần Chân Vũ, hình Vĩnh Lạc”. Vừa bước vào kim điện, Chu thiên sư đã lập tức có điều lĩnh ngộ. Sự tích về toà kim điện, trước đây ông cũng nghe ngóng được ít nhiều. Bức tượng Châu Vũ mang hình hài Vĩnh Lạc, phải chăng chính là “giả Chân Vũ”? Chu thiên sư không dám khẳng định, vì ông cảm thấy chuyện này chắc chắn không đơn giản như mình nghĩ. -Có nhìn thấy pho tượng Chân Vũ kia không? Có lẽ mọi người cũng đã nghe nói, pho tượng được tạc phỏng theo tướng mạo của Vĩnh Lạc hoàng đế. Nhưng tại sao lại xây toà điện đồng, đúc pho tượng đồng này trên Kim Đỉnh của núi Võ Đang? Nội tình trong đó, có lẽ mọi người vẫn chưa biết rõ. Sau khi Vĩnh Lạc đế Chu Đệ đoạt được ngai vàng từ tay Kiến Văn Đế Chu Doãn Văn, tuy đã được ngồi lên ngôi báu, song trong tâm vẫn phấp phỏng bất an. Ta từng đọc được những ghi chép rất hàm hồ trong tài liệu viết về việc xây dựng toà kim điện, đại khái có ý nói rằng một số món đồ vật hệ trọng có liên quan tới ngôi vị đế vương của họ Chu đã bị Chu Doãn Văn mang theo khi bỏ trốn. Vì vậy, sau này Vĩnh Lạc đế đã triệu tập rất nhiều cao thủ văn chương, tiến hành chỉnh lý lại toàn bộ sử liệu, thư tịch được tàng trữ trong cung, đồng thời sưu tầm rộng rãi một số lượng lớn các trước tác thư tịch trong dân gian, biên soạn thành tổng tập “Vĩnh Lạc đại điển” đồ sộ, song mục đích thực sự là muốn tìm lại thứ mà ông ta đã mất. Cũng coi như trời không phụ lòng người, trong một đoạn ký lục về cuộc trao đổi bí mật giữa Thái Tổ và Lưu Cơ, có người đã tìm thấy câu “Hoả linh chi kế tục, duy giả vu Chân Vũ...” (nối tiếp của Hoả linh, chỉ nhờ vào Chân Vũ). Chỉ có điều ghi chép về cuộc trao đổi bí mật chỉ đến đây là kết thúc, phía dưới không còn nội dung nào khác, dường như viên quan chịu trách nhiệm ghi chép đã bị ai đó ngăn trở. Bởi vậy, hai câu này có ý nghĩa gì, không ai biết được. Chu thiên sư nghe đến đây, tim bỗng nảy lên một nhịp, trên mặt bừng lên một nét hân hoan khó giấu. Ông đã được nhìn thấy toàn bộ mười hai con chữ trên tấm lụa vàng, câu đầu tiên chính là ba chữ “Hoả linh kế”, vừa nãy lão đạo sĩ có nhắc đến “Hoả linh chi kế tục”, có lẽ là trùng khớp với ba chữ này. Xem ra lần này tìm tới Võ Đang đã là đi đúng hướng, không những đạt được mục đích ban đầu, lại có thêm thu hoạch bất ngờ khác nữa. Lão đạo sĩ không chú ý tới sự biến đổi trên sắc mặt của Chu thiên sư, vẫn tiếp tục kể: -Bắt được một câu không đầu không đuôi này, Vĩnh Lạc đế mừng rỡ như tìm ra báu vật. Theo như tài liệu trên, dường như Vĩnh Lạc đế đã hiểu được ý nghĩa của câu “Hoả linh chi kế tục”, song còn câu sau “duy giả vu Chân Vũ”, ông lại không hiểu nó có hàm nghĩa gì. Không còn cách nào khác, ông bèn tập hợp các nhân tài văn chương và Đạo gia đến để tìm cách giải nghĩa. Bọn họ đã đưa ra hai lời giải. Một ý kiến cho rằng “giả vu Chân Vũ” tức là nhờ vào Chân Vũ, mượn nhờ thánh lực của thần Chân Vũ để thi hành thiên đạo. Ý kiến thứ hai lại cho rằng, bước thứ nhất là tạo ra một vị thần Chân Vũ giả, sau đó tiếp tục thực hiện các bước tiếp theo, như vậy sẽ có thể đạt được mục đích cuối cùng. Song những bước tiếp theo là gì, thì quan ghi chép không thấy ghi lại. Chu thiên sư lại vắt óc suy nghĩ, liệu những bước tiếp theo không được ghi chép có liên quan gì tới nội dung những chữ còn lại trên tấm lụa vàng hay không? -Cả hai lời giải trên, Vĩnh Lạc đế đều không phê chuẩn. Nhưng không lâu sau, ông ta đã cho người xây dựng toà kim điện này. Sau này mới nhận ra, Vĩnh Lạc đế đã đưa ra một biện pháp rất ổn thoả, tức là kết hợp cả hai lời giải vào làm một. Xây Chân Vũ kim điện, tức là nhờ cậy vào Chân Vũ. Trong điện lại đặt pho tượng Chân Vũ phỏng theo hình tướng Vĩnh Lạc đế, chính là pho tượng Chân Vũ giả. Chu thiên sư nhân tiện hỏi một câu: -Vậy tại sao lại phải xây trên đỉnh Thiên Trụ núi Võ Đang? Lão đạo sĩ cười khẽ thành tiếng: -Nghe nói ngay từ trước khi Vĩnh Lạc cướp ngôi Kiến Văn đế, ông đã mời cao nhân tìm kiếm các huyệt nhãn trọng yếu trong thiên hạ, biết được vị trí của Tử Cấm Thành và núi Võ Đang chính là hai huyệt nhãn âm dương trời đất, nên Vĩnh Lạc đế mới dời đô về Bắc Kinh, đồng thời đặt tên cho toà điện chính trong Tử Cấm Thành là điện Thái Hoà, và ban cho núi Võ Đang cái tên là núi Thái Hoà. Bản thân hoàng đế ngự tại Tử Cấm Thành là chiếm được một huyệt nhãn phong thuỷ. Để giữ cho giang sơn yên ổn, đời đời bình yên, đương nhiên sẽ phải đặt pho tượng Chân Vũ giả mang hình tướng của mình trấn tại một huyệt nhãn còn lại. Chu thiên sư kéo lão đạo sĩ gù vào một góc điện, tách khỏi những người khác, sau đó móc ra vài phiến thuốc lá đại hoàng, bóp vụn, cuốn thành điếu thuốc, đưa cho lão đạo sĩ rồi châm lửa. Lão đạo sĩ hít liền mấy hơi, rồi lim dim đôi mắt, thở ra một hơi dài thật sảng khoái, xem ra vô cùng thoả mãn. Chu thiên sư chớp lấy cơ hội này, nói nhỏ với lão đạo sĩ: -Anh ơi, tôi cũng chẳng giấu gì anh mục đích thực sự khiến tôi đến núi Võ Đang lần này. Có một tín chủ đối với Thiên Sư giáo chúng tôi rất mực thành tín, năm nào cũng cúng phụng rất chu đáo. Có điều gần đây phong thuỷ tổ tiên bị phá, gia đạo suy sụp thảm hại. Chuyện này Thiên Sư giáo chúng tôi không thể nhắm mắt làm ngơ, nên đã ra tay giúp đỡ. Tuy là đã tìm ra khối đá nguyền có khắc ba chữ “giả Chân Vũ” tại phần mộ tổ tiên, song đối phương lại còn hạ cổ chú “ý bất di” (ý không dời), nên bây giờ dù có di chuyển khối đá nguyền ra khỏi phần mộ tổ cũng chẳng có tác dụng gì. Chỉ còn cách giải được ý nghĩa chính xác của ba chữ kia, may ra mới tìm được chỗ khuyết để xuống tay. Vì vậy mong anh hãy giúp tôi đưa ra vài lời phân tích về hai lời giải đó! Lão đạo sĩ không đáp lời, chỉ mỉm cười một cách sâu xa. Lại hít thêm hai hơi thuốc nữa, rồi mới bỏ điếu thuốc xuống, khẽ đặng hắng rồi nói: -Cùng là Đạo gia, song xử sự lại không hoàn toàn giống nhau. So với Võ Đang của ta, Thiên Sư giáo của người có phần thế tục hơn một chút. Lời đã nói như vậy, ta cũng không muốn bắt bẻ ngươi, lại càng không tiện nói thẳng, chỉ có ngươi trong lòng hiểu rõ là được! Nghe ông ta nói vậy, Chu thiên sư trong lòng bối rối, trên mặt cũng thấy nóng ran. Xem ra vị đạo sĩ già đã biết tỏng những lời Chu thiên sư vừa nói ra chỉ là bịa đặt. Thế nhưng Chu thiên sư lại không thể kể rõ sự thực cho ông ta biết. -Chuyện ngươi vừa hỏi, ta không thể đưa ra câu trả lời chính xác, nhưng ta có thể cho ngươi biết một số hiện tượng, sau đó ngươi hãy tự mình phân tích. Nhân quả tuần hoàn, tin vào phán đoán của mình vẫn là cách tốt nhất! - Lời của lão đạo sĩ rất thấu tình đạt lý, Chu thiên sư trong lòng cảm kích, gật đầu lia lịa. -Đã từng nghe chuyện “Lửa sét luyện điện” chưa? Đây là một cảnh tượng lạ thường của điện Chân Vũ. Mỗi khi gặp trời sấm chớp, lại xuất hiện những quả cầu lửa lăn tròn khắp xung quanh kim điện, nhưng sét không bao giờ đánh được vào trong điện. Sau khi kim điện bị sét đánh trúng, không những không hề hư hại, mà ngược lại, tất cả bụi bặm han gỉ trong điện sẽ được đốt sạch trơn. Sau đó nước mưa xối rửa, lại sáng bóng như mới. Kỳ quan này được gọi là “lửa sét luyện điện”. Cứ trước khi xảy ra hiện tượng “lửa sét luyện điện”, pho tượng đồng Chân Vũ lại đổ mồ hôi, còn tượng đồng hải mã bên cạnh cũng phun ra sương khói, không biết là do sợ hãi sấm sét, hay là muốn thu hút sấm sét. Đây cũng là một cảnh tượng kỳ lạ chưa thể giải thích của kim điện. Chân Vũ Đại Đế, vốn là thuỷ thần ở phương Bắc, Ngũ Dật trong “Cửu chương hoài cú” gọi ngài là: “Thiên Quy thuỷ thần”. Trong quyển thứ sáu của “Trùng tu vĩ thư tập thành” là “Hà đồ” có viết: “Chòm sao bảy vị thần ở phương bắc, kỳ thực bắt đầu từ sao Đẩu, trấn ở phương bắc, chủ về mưa gió”. Thế nhưng Vĩnh Lạc hoàng đế lại đặt vị thần linh phương bắc này ở phía nam, tức là nam đế thái hoà, âm dương đảo ngược. -Ý của anh là dùng thuỷ thần để dẫn dụ Hoả linh? - Lời vừa buột ra khỏi miệng, Chu thiên sư lập tức cảm thấy hôm nay tâm nguyên bộp chộp, thiếu đi sự cẩn trọng cần có của người tu đạo. Đạo sĩ già làm như không nghe thấy lời Chu thiên sư, tiếp tục mạch nói của mình: -Ngươi có nhìn thấy đĩa đèn dầu trong điện không? Mặc dù chỉ là những đốm lửa nhỏ bé, ánh sáng ít ỏi, song đã cháy suốt năm trăm năm chưa bao giờ tắt. Đây lại là một kỳ quan nữa trong kim điện, liệu trong đó có ẩn ý gì chăng? Biết bao hiện tượng lạ thường, ai mới có thể liên kết chúng lại với nhau, ngộ được mấy phần thiên cơ trong đó? – Trong lời nói của lão đạo sĩ gù vừa có vẻ bất lực, lại có phần cảm khái. Nói đến đây, hai người cùng trầm ngâm một hồi lâu. Bởi vì một người đang suy nghĩ, còn một người đang chờ đợi. Suy nghĩ, là muốn phân tích những hiện tượng lạ lùng kia để tìm ra đáp án mà mình cần biết; chờ đợi, là vì biết rõ đối phương vẫn muốn có thêm những câu trả lời khác. -Anh à, lúc nãy anh có nhắc tới cuộc trao đổi bí mật giữa Lưu Cơ và Thái Tổ, có ghi lại một câu “Hoả linh chi kế tục, duy giả vu Chân Vũ...”. Vậy “Hoả linh chi kế tục” có nghĩa là gì? Lão đạo sĩ gù nở một nụ cười có pha chút đắc ý. Quả nhiên tất cả đều nằm trong dự đoán của ông ta. -Vào những năm Vĩnh Lạc, quan sao lục[31] trong cung là Tất Triệu Ấp sau khi về quê ẩn cư, có viết một cuốn “Biên soạn tồn nghi tế tích”[32], phần lớn nội dung trong đó đều là chỉ ra những nghi vấn và thiếu sót còn tồn tại trong quá trình biên soạn cuốn “Vĩnh Lạc đại điển”. Trong cuốn sách có đưa ra phân tích về câu “Hoả linh chi kế tục” như sau: Từ thời viễn cổ, trời đất mới phân tách, muôn vật mới bắt đầu, đạo Ngũ hành chia thành Hoả linh, Thuỷ minh, Thổ thánh, Kim tinh, Mộc tuỷ. Vì vậy câu “Hoả linh chi kế tục”, tức là nối tiếp theo Hoả linh, hẳn là chỉ Thuỷ minh. -Ồ! – Chu thiên sư bật thốt lên, song phản ứng này chỉ là biểu lộ sự khâm phục trước học vấn uyên bác của lão đạo sĩ, chứ không phải đã ngộ ra điều gì. -Tất Triệu Ấp đã tìm kiếm trong thư tịch cổ, đối chiếu với cổ văn để tiến hành giải thích. Nhưng ta lại cảm thấy rằng, nếu căn cứ theo mặt chữ, câu này còn có thể diễn dịch thành “để tiếp nối sức mạnh của Hoả linh”, sau đó sẽ chỉ rõ cần thực hiện như thế nào. Có điều đoạn trao đổi giữa Thái Tổ và Lưu Cơ mới chỉ được ghi lại một câu mở đầu, thiếu mất nội dung cụ thể phía sau, không thể móc nối trước sau để giải thích. Bởi vậy, muốn biết ý nghĩa thực sự, chỉ còn cách tự mình tìm tòi! Lão đạo sĩ nói dứt câu, lập tức đứng dậy, bước thẳng xuống đỉnh Thiên Trụ. Mặc dù ông ta gù lưng, song bước chân vẫn thung dung nhẹ nhõm khác thường. Chu thiên sư mới bước theo ông ta hai bước, đã dừng ngay lại, vì lão đạo sĩ đã chậm rãi xua tay ra sau lưng. -Ngươi có việc gấp, lần này ta cũng không giữ chân ngươi. Nếu còn thời gian, hãy lưu lại kim điện nghiền ngẫm thêm chút nữa. Còn nếu thời gian gấp gáp, hãy xuống núi thôi! Chỉ cần nhớ kỹ, thân tuy không theo mình, song ý do tâm sinh, nhân quả trong ý niệm, sống chết một nước cờ. Nếu làm, chớ nên oán trách; không làm, chớ nên hối hận! Chu thiên sư đứng sững tại chỗ một hồi lâu. Ông đang suy nghĩ, suy nghĩ về những lời lão đạo sĩ vừa nói trước lúc rời đi. Còn về câu “Hoả linh kế, giả Chân Vũ”, ông cũng không định bỏ công suy nghĩ gì thêm nữa, vì cuối cùng sẽ có người khác đưa ra phán đoán. Ông chỉ cần mang những thông tin thu lượm được trở về, là đã hoàn thành nhiệm vụ. Sau khi xuống núi Võ Đang, Chu thiên sư không trở về núi Long Hổ, mà chỉ sai một đệ tử quay về, báo cáo lại tình hình tìm kiếm cho chưởng giáo thiên sư, còn ông đi thẳng đến Tam Đảo Thái Hồ. Vì khi bọn họ chia nhau xuống núi, Chưởng giáo thiên sư đã dặn dò kỹ lưỡng, không tìm được đáp án thì thôi, nếu như tìm được, phải trực tiếp mang tin đến hội tụ ở Tam Đảo Thái Hồ, để tránh đêm dài lắm mộng. Nhưng thật không ngờ tình thế trên đảo hiện giờ lại nguy cấp đến vậy, nếu nấn ná ở thêm, rất có thể sẽ bị đối phương vây khốn. Vì vậy, không thể tiếp tục ngồi chờ người của các lộ khác tìm tới, cần phải thoát khỏi vòng nguy hiểm trước, mọi sự sẽ tính sau. Sau khi Chu thiên sư thuật lại tỉ mỉ toàn bộ quá trình tìm kiếm và toàn bộ những thông tin thu thập được cho Lỗ Thiên Liễu nghe, chi tiết khiến Lỗ Thiên Liễu chú ý nhất chính là những câu nói sau cùng của lão đạo sĩ gù. Trong cõi vô hình, cô cảm giác như đã từng có người nói với cô những lời tương tự ở một nơi nào đó, dường như trong mơ, dường như trong kiếp trước, dường như chúng đã từng khiến cô phải lệ nóng tuôn trào... Lỗ Thiên Liễu men theo con đường đá quanh co tiến về phía trước. Cô đã quyết định một mình đối diện với thị trấn hoang vu lạnh lẽo hệt như một bãi tha ma. Trên lòng bàn tay chằng chịt những đường vân, nếp chỉ, mấu xương ngang dọc, sau khi bị bụi mưa dày đặc phủ kín, dưới ánh sáng trời phản chiếu, chúng hiện lên những vẻ sáng tối khác nhau, chỗ mờ chỗ tỏ. Nhìn vào sự phân bố của chỉ tay và những khoảng giao thoa sáng tối, Lỗ Thiên Liễu đã tìm ra đáp án: “tướng thuận xuất”. Phương pháp chiêm bói mà cô sử dụng là sự tổng hợp giữa cách “bói bàn tay” và “bói hoàn cảnh”, ngoại trừ những người bẩm sinh đã thông tỏ huyền hư như Lỗ Thiên Liễu, số người có thể học và vận dụng được phương pháp này là cực kỳ ít ỏi. “Tướng thuận xuất! Đã có thể “thuận xuất”, tức thuận lợi vượt qua, vậy thì xông vào hẳn cũng không có gì đáng ngại!” - Lỗ Thiên Liễu thầm nghĩ. Còn quẻ tượng này có chính xác hay không, sau khi xông vào sẽ phải đối đầu với bao nhiêu nguy hiểm, cô không hề nghĩ đến. Cô đã đi vòng qua ao nước, phía trước chính là lối vào của thị trấn. Lỗ Thiên Liễu lại dừng bước, dùng ba giác siêu phàm rà soát thật kỹ lưỡng. Kỳ thực cô chỉ mong tìm ra dấu vết của con người trong khối kiến trúc kia, cho dù có là địch thủ, là nút người rình rập, cô cũng cảm thấy dễ chịu hơn nhiều so với lúc này. Bên đường có một khóm hoa dại vừa chớm nở, cánh hoa nhỏ xíu, trắng mụn, trong sắc trắng loáng thoáng pha chút ánh lam, nuột nà như châu, mơn mởn như ngọc, gần như trong suốt, càng lộ rõ vẻ mong manh run rẩy dưới cơn mưa. Trong khóm hoa, có một cành nhỏ đã bị gãy ngang, thõng xuống khẽ đung đưa theo gió. Lỗ Thiên Liễu bẩm sinh đã có một tình yêu thương đặc biệt với hoa lá cỏ cây, nhìn thấy cành hoa bị gãy, trong lòng cô bỗng dấy lên một nỗi xót xa. Cô bước lại gần, ngồi thụp xuống, đưa tay ngắt lấy cành hoa. Trên cành có mấy đoá hoa nhỏ trắng muốt, cánh hoa phủ kín những bụi nước li ti, toát lên vẻ diễm lệ thuần khiết trời sinh. Lỗ Thiên Liễu cài cành hoa lên búi tóc, trong lòng dấy lên một niềm thấp thỏm rất khó diễn tả. Trong cả khóm hoa chỉ có một cành bị gãy, không phải do gió thổi, không phải do mưa táp, chắc chắn đã có người vượt lên phía trước cô! Thận trọng tiến vào trong trấn, mới được vài bước, Lỗ Thiên Liễu lập tức phát hiện có điều bất ổn. Bên dưới mái hiên của những ngôi nhà đang chảy xuống những dòng nước mưa rất lớn. Lúc này đang mưa bụi lâm thâm, thông thường lượng mưa phải ở mức trung bình thì nước giọt gianh mới có thể chảy xuống thành dòng lớn như vậy. Nhà cửa ở đây không xây dựa núi, toàn bộ quần thể kiến trúc cũng không áp dụng phương pháp chồng diêm tiếp mái, vì vậy chắc chắn không phải là suối trên núi chảy xuống. Lỗ Thiên Liễu đưa mắt quan sát xung quanh, bỗng thấy trước mắt chao đảo, tiếp đó là cảm giác chóng mặt lợm giọng muốn nôn. Cô cứ ngỡ nước mưa trên trán chảy xuống đã làm nhoà đôi mắt, nên vội đưa tay lên vuốt mạnh. Song không phải vậy! Sau khi nhìn rõ hơn, cô lại càng thêm chếnh choáng, trước mắt chỉ thấy những dòng nước giọt gianh đang đổ xuống, mỗi lúc một dày đặc, mỗi lúc một chảy xiết, dần dần biến thành vô số tấm lưới giăng kín mít, phản xạ thứ ánh sáng lấp loá chập chờn. Dưới tác dụng của sự phản xạ ánh sáng, Lỗ Thiên Liễu cảm thấy tất cả mọi thứ xung quanh bỗng trở nên méo mó biến dạng, núi non ở hai bên như đổ sập về phía cô, con đường dưới chân cũng như nhấp nhô trồi sụt. “Trúng khảm rồi!” – Ý thức của Lỗ Thiên Liễu vẫn khá tỉnh táo – “Khảm diện màn che mắt, chỉ cần cắt đứt màn che, sẽ phá giải được!” Song Lỗ Thiên Liễu thực không ngờ động tác nhắm mắt lại tốn sức đến vậy. Phải khó khăn lắm cô mới nhắm được đôi mắt lại, nhưng còn khiến cô bất ngờ hơn nữa là hình ảnh về bức rèm nước trong đáy mắt vẫn không hề biến mất. Lỗ Thiên Liễu vẫn hoa mắt chóng mặt, vẫn cảm thấy tất cả mọi thứ đang méo mó đến dị dạng, mức độ còn ghê gớm hơn cả lúc chưa nhắm mắt. Bước đi bắt đầu loạng choạng, cơ thể đã khó mà giữ được thăng bằng, cô gần như sắp gục ngã đến nơi. Trong lúc cấp bách, cô lại muốn mở mắt ra. Nhưng hai mi mắt nặng trình trịch như đeo đá, cứ như đã dính chặt lại với nhau, cố gắng thế nào cũng không thể mở ra được. Thì ra ngay từ trước khi cô nhắm mắt lại, bức màn che mắt đã kịp tác động trực tiếp đến tư duy trong não bộ. Trong giây lát, Lỗ Thiên Liễu bỗng cảm thấy vô cùng tuyệt vọng, tựa như vừa sảy chân rơi xuống vực sâu vạn trượng, mất đi tất cả mọi chỗ dựa và điểm tựa. Lỗ Thiên Liễu bất lực đổ người về phía trước, hai tay chống thẳng trên mặt đất. Khảm diện vẫn rất yên ắng, chưa thấy có sự biến đổi nào, cũng không thấy có nút lấy nào hoạt động. Song tư thế cơ thể lúc này khiến Lỗ Thiên Liễu càng cảm thấy chóng mặt hơn, lục phủ ngũ tạng cuộn lên dữ dội, khiến cô há miệng nôn thốc nôn tháo ra một bãi lớn nước vàng. Cũng giống như ý muốn mở mắt sau khi nhắm lại, lúc này, cô chỉ muốn gượng đứng lên. Nhưng động tác thường ngày vốn cực kỳ đơn giản, giờ đây đã nằm ngoài khả năng của cô. Hai lòng bàn tay như thể đã dính chặt lên mặt đất, sức lực của cánh tay và chân dường như chỉ vừa đủ để cô giữ được cơ thể trong tư thế này, không dư thừa lấy một tơ hào để cô chuyển dịch được tư thế dù chỉ là chút ít. Trong thị trấn cũ kỹ giữa lòng núi hoang vu, trên mặt đường lát đá núi xanh thẫm, một cơ thể non nớt, yếu đuối đang phải gồng mình chịu đựng nỗi giày vò. Tình cảnh vô cùng quái dị, cũng hết sức khó lường. Xung quanh cơ thể đang trong cơn giằng giật kịch liệt kia, kỳ thực chẳng hề có vật gì, nhưng trong cảm giác của cô, khác nào đã bị cả trái núi đè lên. Thứ áp lực vô hình quái đản này đã vượt xa khỏi phạm vi lý giải của tư duy thông thường. Chú thích [28] Âm trạch là tên gọi chung của mồ mả, lăng mộ, tức những công trình kiến trúc dành cho người chết. [29] Nga Mi thích vốn là loại vũ khí được cải tiến từ trâm cài đầu của phái Nga Mi, dài khoảng 30cm, với hai đầu nhọn dẹt, ở giữa phình ra, có móc tròn để xỏ ngón tay vào. [30] Một loại đơn vị đo lường rất bí ẩn đã từng được Đạo gia sử dụng, một khí bộ hành dài khoảng 1 mét, năm thêm năm khí bộ hành tức khoảng 5,5 mét. [31] Chức quan phụ trách việc ghi chép. [32] Có nghĩa là phân tích chi tiết về những điều tồn nghi trong quá trình biên soạn.
Lời Nguyền Lỗ Ban Quyển 4 - Chương 22: Lệ còn vương Spoiler: Click vào để đọc Trong khoảnh khắc đó, Lỗ Thiên Liễu đã muốn buông xuôi, đã nghĩ đến cái chết. Cô chưa bao giờ cảm thấy bất lực như lúc này, vì vậy, cũng chưa bao giờ cảm thấy nhớ người thân đến thế. Cô nhớ đến cha, nhớ tới Ngũ Lang, nhớ tới những bậc tiền bối, anh em đã cùng mình xông pha nguy hiểm. Trên đường vượt khảm, trong số họ đã người chết, kẻ bị thương, sau khi rơi vào trận Trăm đốt đan xen, càng không biết sống chết ra sao. Lại nhìn tình cảnh trước mắt, e rằng chỉ còn nước xuống suối vàng mới có cơ may gặp lại. Nghĩ đến đây, nước mắt Lỗ Thiên Liễu bỗng ứa ra, những giọt nước mắt trong veo trào xuống bờ mi giàn giụa. Đúng lúc đó, bỗng dưng Lỗ Thiên Liễn phát hiện ra, đôi mắt cô đã lại mở được. Sau khi mở mắt, cảnh tượng xung quanh đã khôi phục lại trạng thái ban đầu. Đầu óc không con quay cuồng, cơ thể cũng không chao đảo nữa, áp lực vô hình trong cảm giác cũng tan biến sạch không. Lỗ Thiên Liễu bèn hít vào thật sâu một luồng hơi ẩm ướt. Khi luồng hơi được thở ra, lồng ngực đang ngột ngạt xáo trộn bỗng như được gột rửa một lượt. Cổ đẩy mạnh hai tay xuống đất, nâng người đứng dậy, đôi mắt vẫn ướt đẫm, ánh lệ long lanh. Là loại màn che mắt “Rèm chảy”, kết hợp với bùa chú “ý không dời”, lợi dụng sự phản xạ ánh sáng liên tục của dòng nước chảy để kích thích thần kinh thị giác, từ đó gây rối loạn toàn bộ hệ thần kinh não bộ. Dưới tác dụng của bùa chú “ý không dời”, chỉ cần hình ảnh truyền vào mắt, lực tác dụng sẽ rất khó rũ bỏ. Cho dù anh hùng hảo hán cỡ nào, vẫn bị giày vò đến nguyên thần suy kiệt, ngã gục trên đất không thể gượng dậy. Nếu trên mặt đất lại bố trí thêm nút lẫy liên hoàn, thì chuyện sống chết sẽ hoàn toàn do đối phương định đoạt. May mà Lỗ Thiên Liễu chẳng phải anh hùng hảo hán, vì anh hùng hảo hán thà đổ máu chứ không đổ lệ. Cô chỉ là một cô gái yếu đuối, một cô con gái quen nghề quét tước dọn dẹp trong nhà thợ mộc. Cũng giống như những người con gái khác, trong những thời khắc đau đớn khổ sở nhất, đều trở nên yếu đuổi mà rơi lệ. Dòng nước mắt đã hoá giải được bùa chú “ý không dời”, ánh lệ long lanh đã hoà tan bức màn che mắt Rèm chảy. Bởi vậy, Lỗ Thiên Liễu mới có thể tiếp tục đứng lên, nhân lúc hai mắt vẫn vương đầy nước mắt, ánh nước chưa tan, mà nhanh chóng rời khỏi nơi này. Lỗ Thiên Liễu tiếp tục chệnh choạng tiến lên phía trước chừng hơn hai chục bước chân, sau khi vòng qua một khúc ngoặt lớn, cô lại đột nhiên dừng bước. Vì thính giác và xúc giác rất mực nhạy bén đã phát hiện ra, bàn chân cô vừa giẫm lên một thứ rất không nên giẫm. Một tiếng “cạch” hết sức mơ hồ vang lên, đó là một âm thanh quá đỗi quen thuộc với giới khảm tử: tiếng bật lẫy. Và cô cũng dễ dàng nhận ra được cảm giác dưới bàn chân: cô vừa giẫm phải chốt lẫy kiểm giẫm. Ánh lệ trong đôi mắt Lỗ Thiên Liễu vẫn chưa khô, song mồ hôi lạnh đã bắt đầu chảy xuống. Cô biết mình đã mắc phải một sai lầm nghiêm trọng. Vì muốn nhanh chóng thoát khỏi khảm diện khi nãy, không những đã sơ suất trong cách bước đi, thậm chí ngay cả sự thận trọng trong kiểm tra rìa khảm, cô cũng quên bẵng mất. Đây chính là thứ mà giới khảm tử gọi là khảm chồng khảm, khảm đè khảm. Chút sức lực còn lại sau khi thoát khỏi khảm phía trước, sẽ nhanh chóng đẩy đối phương rơi vào khảm diện tiếp theo. Xung quanh vô cùng tĩnh lặng, ngoài tiếng tí tách của những dòng nước giọt gianh ở phía sau lưng, dường như không còn một âm thanh nào khác. Lẽ nào khảm diện lại không hoạt động? Lỗ Thiên Liễu biết mình sẽ không may mắn như vậy, trong giới khảm tử không có chỗ cho hai chữ “may mắn”. Cô đứng bất động tại chỗ, không dám nhúc nhích, chỉ chậm rãi hít thở một hơi, và dùng một hơi thở đó để ngưng tụ não thần. Ba giác trong sáng của cô chốc lát đã trở nên mẫn tiệp gấp bội, cô có thể nghe thấy nhiều hơn, ngửi thấy nhiều hơn, cảm nhận được nhiều hơn nữa. Âm thanh của màn nước giọt gianh đã thay đổi, đã chậm lại, khoảng cách giữa các giọt nước đã giãn rộng dần. Điều này có nghĩa là lượng nước chảy theo các rãnh ngói đang giảm dần, không biết chúng đã chảy về đâu? Mặt đường dưới chân cô đang nhúc nhích, rất nhẹ, có lẽ là nút lẫy, chốt trục đã vào đúng vị trí. Cùng lúc đó, cô cảm thấy chỗ mình đang đứng hơi lún xuống một chút. “Việc cần làm nhất lúc này là nhảy bật lên và lao ra ngoài thị trấn!” - Lỗ Thiên Liễu nhẩm đếm số bước chân mà mình đã tiến vào, tổng cộng chỉ có vài chục bước. Dựa vào công phu khinh công và tốc độ của cô, vẫn có khả năng thoát được ra ngoài trước khi nút lẫy bung ra hoàn toàn. Mặc dầu nghĩ như vậy, nhưng cơ thể cô vẫn bất động. Vì cô đột nhiên phát hiện ra rằng, so với đoạn đường phía trước, đoạn đường mà cô vừa đi qua là nhỏ hẹp nhất, nhà cửa ai bên không có hiên trước, cửa ra vào có vẻ giống như cửa giả, thoạt nhìn ngỡ là cửa, nhưng thực chất phía sau lại là bức tường kín mít. Nói cách khác, đoạn đường phố và nhà cửa ở đây được dùng để thiết kế khảm nút. Lúc cô bước vào chúng không có bất kỳ động tĩnh nào, như vậy, chắc chắn chúng được dùng để chặn giết những kẻ muốn thoát ra. Đương nhiên, cũng không thể phi thân chạy qua mái nhà. Trong khảm diện, nơi không có đường chính là đường chết, nhảy lên mái nhà chắc chắn sẽ có nút tất chết tấn công, đến lúc đó có muốn rút lui cũng không còn cơ hội. Đã không thể quay lại, chỉ còn nước tiến lên phía trước hoặc đứng yên tại chỗ. Đoạn đường với trung tâm là vị trí cô đang đứng bỗng nhiên hơi lún xuống một chút nhằm mục đích gì? Thực ra trên một con đường dài, đặc biệt là những chỗ lượn vòng, khi mặt đường hơi nghiêng dốc về một hướng nào đó, người bình thường rất khó phát hiện ra. Nhưng người đang đứng trên đoạn đường này lại là Lỗ Thiên Liễu, cô không giống với người thường. Những dòng nước giọt gianh đã từ từ biến mất, chỉ thi thoảng mới có một giọt nhỏ xuống. Lác đác những tiếng “tí tách” trong vang khiến không gian càng trở nên tĩnh mịch. Yên lặng, có nghĩa là nút lẫy của khảm diện đã hoàn toàn khớp vào vị trí, sẽ lập tức phản ứng, hoặc là nút lẫy đã bị kẹt, khảm diện bất động. Lại một lúc lâu sau, Lỗ Thiên Liễu không thể tiếp tục chịu đựng sự im lặng đáng sợ kia nữa, cô muốn hành động. Nhưng khi bàn chân đang giẫm trên chốt lẫy mới chỉ hơi nhấc lên một chút, lập tức dội lại hai tiếng “uỳnh, uỳnh” từ hai nơi vọng lại. Một nơi là lối vào thị trấn, một nơi là lối rẽ trước mặt cách chỗ Lỗ Thiên Liễu đang đứng không xa. Sau đó, tiếp tục vọng lên hàng tràng những tiếng huỳnh huỵch liên tiếp, từ chậm đến gấp, toàn bộ mặt đường rung chuyển dữ dội. Khi hai chiếc cối đá khổng lồ thình lình lao đến từ phía trước và sau lưng Lỗ Thiên Liễu với tốc độ cực nhanh, cô chỉ kịp rú lên một tiếng kinh hoàng. Đã không còn lối nào để thoát thân, Lỗ Thiên Liễu đứng yên bất động, mắt mở trừng trừng nhìn hai chiếc cối xay khổng lồ đang lao vụt lại. Khảm diện này có tên là “Rãnh cối lăn”, ban đầu là do nhà họ Lỗ thiết kế ra, nhưng không phải khảm diện sát nhân, mà chỉ dùng để xua đuổi. Vốn dĩ cối đá chỉ có một chiếc, tốc độ lăn khá chậm, khiến cho người tiến vào đường rãnh lăn không còn nơi lẩn trốn, chỉ có thể thoát lui trở ra. Loại “Trục lăn lửa”[33] trước đây thường được sử dụng để giữ thành hoặc giao chiến trong ngõ hẹp cũng là vận dụng phương pháp này, chỉ có điều đã thay cối đá bằng con lăn gỗ, tẩm qua dầu rồi châm lửa đốt lên, sau đó lăn về phía trước để ép quân địch phải rút lui. Nhưng lúc này, Lỗ Thiên Liễu đang sa vào khảm diện Rãnh cối kép, chính là sát khảm. Nó đã biến một đoạn đường hẹp kết hợp với hai dãy nhà san sát hai bên làm rãnh lăn. Sau khi người sa vào khảm giẫm phải chốt lẫy, sẽ lợi dụng hệ thống thuỷ lực và đòn bẩy để đưa hai khối cối đá có chiều dài đúng bằng đường rãnh vào hai đầu rãnh, đẩy chúng lăn đi để đồng thời tấn công từ hai hướng, nghiền nát nhừ người bị kẹt trong khảm. Một tiếng va đập chát chúa vang lên, khiến hai lỗ tai Lỗ Thiên Liễu như ù đặc, mạt đá bay tứ tán cùng những tia nước phụt ra tung toé khiến toàn bộ những phần da thịt lộ ra ngoài của Lỗ Thiên Liễu đau rát như phải bỏng. Lỗ Thiên Liễu vẫn còn sống! Khi cối đá khổng lồ vừa xuất hiện, Lỗ Thiên Liễu đã kịp phát hiện ra chỗ khuyết của khảm diện, vì vậy cô mới đứng yên bất động. Vị trí của cô đang đứng chính là điểm trung tâm của khảm diện này, cũng là điểm gặp nhau của hai cối đá. Khi hai khối cối đá hình trụ khổng lồ va đập vào nhau, chỉ có bộ phận phía trước của mặt trụ tròn tiếp xúc, còn phía dưới của hai khúc cối đá vẫn còn một khoảng trống được tạo thành bởi hai mặt trụ tròn. Bởi vậy, khi hai khúc cối đá đập thẳng vào nhau, Lỗ Thiên Liễu đang nằm ngang giữa mặt đường, cơ thể mảnh mai của cô vừa vặn lọt vào khoảng không bên dưới. Vì vậy cối đá đã không thể nghiền nát được cô. Tiếng va đập vang động rồi cũng tiêu tan, những vụn đá tứ tung đều đã rào rào rơi xuống. Mặt đường lại bằng phẳng như cũ, hai khúc cối đá khổng lồ cũng lừ lừ lui lại. Nhưng lúc này không thấy Lỗ Thiên Liễu đâu nữa, trên mặt đường chỉ còn lại hai cánh hoa nhỏ bé trắng muốt hơi phơn phớt sắc xanh. Lỗ Thiên Liễu đã đi rồi. Đúng vào khoảnh khắc hai khúc cối đá đập thẳng cánh vào nhau, trên bức tường ở một bên đường đã hé ra một lỗ hổng hình tròn không lớn, lỗ hổng vừa vặn đối diện với khoảng trống mà Lỗ Thiên Liễu đang nằm. Lỗ hổng rất nhỏ, chỉ có những người thân hình nhỏ nhắn hoặc luyện được thuật rút xương mới có thể chui lọt. Hình dạng lỗ hổng cũng không bình thường, chắc hẳn không phải là kiểu “mời ông vào vò” dẫn đến một khảm vây khốn tiếp theo. Trong công phu Tịch trần mà Lỗ Thiên Liễu đã học có một thuật tên là “Xuyên khung”, khá tương tự với công phu rút xương của người học võ. Đó là lợi dụng sự biến dạng của cơ thể trong khoảng một lần hít thở và sau khi xương cốt cơ bắp vận động, tìm ra một trạng thái cơ thể thích hợp để chui qua một khoảng trống nhỏ hẹp. Thuật này chủ yếu được sử dụng khi tìm kiếm chỗ ám phá và rác rưởi nguy hiểm ẩn trong những khoảng không nhỏ hẹp như xà nhà, sống nóc... Lỗ Thiên Liễu vốn là một cao thủ Tịch trần, hơn nữa lại có thân hình mảnh mai thanh thoát, bởi vậy, chỉ cần nhẹ nhàng lắc người mấy cái, cơ thể mềm mại của cô đã chui tọt qua lỗ hổng. Đó là một căn phòng sặc mùi máu tanh, hôi thối nồng nặc, nhưng dù sao cũng chứng minh được rằng phòng ốc hai bên đường không hoàn toàn là nhà giả. Căn phòng không có cửa nẻo, ngoài lỗ hổng mà cô vừa chui qua, không có thêm một tia sáng nào khác lọt vào, nói chính xác hơn, đây chính là một gian mật thất đúng nghĩa. Lỗ Thiên Liễu đang định thắp đèn để quan sát tình hình xung quanh. Đột nhiên một luồng âm thanh quái dị dội lên từ dưới bàn chân, khiến cô kinh hãi tung người nhảy vọt đi, nép vào góc tường, cơ thể dán chặt vào vách. Tiếng động vang lên vì bên ngoài đang có thứ gì đó đang di chuyển, hơn nữa, đang tiến thẳng đến lỗ hổng mà cô vừa chui vào. Lỗ Thiên Liễu nhẹ nhàng nâng cánh tay lên, cặp Phi nhứ bạc đã sẵn sàng vụt khỏi tay áo. Không có thứ gì chui vào lỗ hổng, song lỗ hổng đã nhanh chóng bị bịt kín, kín đến nỗi một tia sáng cũng không thể lọt qua. Căn phòng chớp mắt đã tối như bưng, đến ánh sáng trời buổi hoàng hôn cũng không soi đến được. Bóng tối ập xuống, trái tim Lỗ Thiên Liễu cũng nghẹt cứng lại theo. Cô không kịp suy nghĩ gì thêm, lập tức phóng vụt Phi nhứ bạc đi. Phản ứng rất chính xác, cách tốt nhất để né tránh những cú đột kích trong bóng tối chính là treo cơ thể lơ lửng trên không, trên không chạm nóc, dưới không bén đất. Lỗ Thiên Liễu thu độ dài của Phi nhứ bạc còn một nửa, vì căn phòng không cao. Thế nhưng kết quả vẫn nằm ngoài dự liệu của cô, quả cầu sắt giấu bên trong tấm khăn nhung mới phóng đến một độ cao thấp hơn dự tính rất nhiều đã va phải vật gì mà bật ngược trở lại. Chẳng lẽ đã chạm nóc rồi sao? Tại sao lại thấp đến vậy? Âm thanh từ cú va chạm cho thấy quả cầu thép đã đập phải vật gì rất cứng. Lỗ Thiên Liễu không dám phóng Phi nhứ bạc thêm một lần nữa, sự việc mà bản thân mình còn chưa rõ, tuyệt đối không được khinh suất thử lại. Thế là cô quyết định sử dụng phương pháp treo người khác. Lúc nãy, khi bờ vai mỏng manh của cô vừa tựa vào góc tường, đã cảm giác được rằng bức tường được xây từ đá. Bề mặt đá rất thô, có rất nhiều góc nhọn gồ ghề chưa được mài đẽo. Với một mặt tường thế này, có thể dễ dàng sử dụng chiêu “Bám góc” trong công phu Tịch trần, dùng tay không để bám tường leo lên. Chỉ cần đưa tay bám chặt vào những góc cạnh nhô ra trên góc tường, sau đó hai chân đạp mạnh vào vách đá hai bên, tay chân vận lực giao nhau, có thể men theo góc tường mà trèo lên mái nhà. Lỗ Thiên Liễu mới kéo thân người lên trên được hai lần, đã phát hiện ra trên đỉnh đầu có thứ gì đó. Cô lập tức dừng ngay động tác, nhẹ nhàng đưa đầu lên phía trên. Xúc giác siêu phàm đã giúp cô khống chế được lực đạo va chạm, cô có thể đảm bảo rằng cú chạm rất khẽ khàng này sẽ không làm khởi động bất kỳ chốt lẫy nào, đồng thời vẫn đủ để giúp cô nhận biết được phía trên là thứ gì. Cảm giác sau cú chạm rất đơn thuần, cô có thể đưa ra một phán đoán chính xác: bên trên là đá. Cô lại tiếp tục đẩy cơ thể lên trên một chút, mở rộng phạm vi tiếp xúc của phần đầu. Toàn bộ đều là đá, dường như phía trên là một phiến đá nguyên khối, chứ không phải xà nhà bằng đá. Lỗ Thiên Liễu vô cùng thận trọng, cô lại thu cơ thể nép sát vào góc tường, tứ chi vận lực áp sát vách đá, tư thế này trong giang hồ gọi là “chuột nép tường”. Sau khi đã cố định được tư thế, Lỗ Thiên Liễu tiếp tục sử dụng ba giác đặc biệt mẫn cảm để rà soát kỹ càng trong căn phòng tối mịt. Sau khi đã xác nhận được rằng xung quanh không có gì nguy hiểm, cô mới nhẹ nhàng trượt xuống mặt đất không một tiếng động, sau đó móc từ trong túi bên hông ra một quả cầu sáng xanh. Quả cầu rất sáng, vừa mới lộ ra, một quầng ánh sáng xanh lục đã chiếu sáng bừng cả căn phòng u tối. Quả cầu không phải là dạ minh châu, cũng chẳng phải đá huỳnh quang, trên mặt có đường vân hình mắt rất rõ nét, trông rất giống mắt mèo. Kỳ thực đây chính là một con mắt rắn, trước kia cô và Ngũ Lang đã lấy được sau khi giết chết con bạch xà mang vảy dưới giếng đá Tử Kim. Con mắt của bạch xà không những có thể phát sáng, mà khi mang theo người, sẽ không có giống rắn rết, bọ cạp, trùng độc nào dám tấn công. Lúc đó Lỗ Thiên Liễu chỉ kịp móc được một con mắt, con mắt còn lại đã cùng với xác rắn tan thành một vũng nước vàng. Có con mắt rắn soi sáng, Lỗ Thiên Liễu nhanh chóng nắm bắt được tình hình. Thì ra gian mật thất này là một tảng đá lớn nguyên khối khoét rỗng ruột mà thành, đám tường trắng ngói đen bên ngoài chỉ là lớp vỏ nguỵ trang. Còn tiếng động dội lên từ dưới chân lúc nãy cũng không phải có vật gì lao vào lỗ hổng, mà là sau khi khảm diện vận hành xong, lỗ hổng sẽ tiếp tục bị bịt kín như cũ. Mùi máu tanh tưởi và mùi thối rữa nồng nặc ngập ngụa trong gian phòng đá, song cô không hề tìm thấy một vật ô uế hay phân huỷ. Gian phòng đá rất nhỏ, ngoài lỗ thủng lúc nãy, không còn bất cứ lối ra vào nào khác. Lỗ Thiên Liễu có chút băn khoăn: “Lẽ nào đây chính là một nút lẫy kín tiếp sau Rãnh cối kép? Nếu như vậy, chỉ có thể tìm cách thoát ra qua lỗ hổng vừa rồi.” Song lỗ hổng đó chắc chắn không thể mở ra được nữa. Nhìn vào phương thức mở và đóng của lỗ hổng ban nãy, khi mở ra không hề xuất hiện nắp chặn[34], khi đóng lại, nắp chặn sẽ di chuyển từ ngoài vào trong, đây chính là kiểu chốt lẫy xoay chuyển tuần hoàn một chiều tiêu chuẩn, không có cách nào mở được từ bên trong. Lỗ Thiên Liễu vẫn không tuyệt vọng. Cô quỳ xuống bên lỗ hổng, quan sát thật tỉ mỉ, và phát hiện ra rằng nắp chặn và lỗ hổng là kiểu nút đảo ngược[35], khớp vào khe ở sáu cạnh. Đây là một kỹ thuật cổ xưa của nhà họ Lỗ. Kết quả này khiến Lỗ Thiên Liễu càng khẳng định chắc chắn hơn rằng lỗ hổng này hoàn toàn không thể mở được từ bên trong, cho dù vị tổ tiên chế tạo ra khảm diện này năm xưa có xuất hiện, cũng đành bó tay hết cách. Nhưng tổ tiên của Lỗ gia đều là những người nhân hậu, chắc chắn sẽ không thiết kế ra kiểu khảm tuyệt đoạn, hẳn sẽ lưu lại một con đường sống ở nơi nào khác. Thế nhưng khảm diện Rãnh cối kép phía ngoài đã đi ngược lại quy tắc của nhà họ Lỗ. Lại còn dãy phòng ốc tường trắng ngói đen giả mạo chứa đựng khối đá rỗng bên trong, nhìn vào mức độ cũ kỹ của gỗ đá, tuổi thọ của nó hẳn chỉ ba trăm năm đổ lại. Điều này có nghĩa khảm diện đã bị thay đổi từ lâu! Kẻ nào muốn làm như vậy? Có hai khả năng, thứ nhất là hậu duệ của nhà họ Lỗ lưu lại nơi đây để bảo vệ báu vật, thứ hai là đối phương đã phá giải được khảm diện bảo vệ bảo cấu của tổ tiên. Nghĩ đến đây, Lỗ Thiên Liễu không khỏi hoang mang. Dây tơ hồng, vách Bách anh, trùng bám xương, hồn phách tụ chướng... tất cả đều là thủ đoạn dùng trùng độc mà đối phương thường xuyên sử dụng. Những giống vật quái đản dị hợm mà cô đã từng nhìn thấy hoặc nghe thấy, chớp mắt đã kéo nhau hiện về trong trí não. Chưa đợi Lỗ Thiên Liễu kịp trấn tĩnh trở lại, một tràng âm thanh quái dị lại vọng đến. Cô vội vã cất con mắt rắn vào trong túi, gian phòng đá lại tối đen như mực. Cô đứng yên tại chỗ, vận dụng ba giác mẫn tiệp để biện nhận thứ âm thanh quái đản kia. Giống tiếng nước chảy, vọng đến từ khắp bốn phương tám hướng, Lỗ Thiên Liễu đột nhiên nhớ tới âm thanh xác chết trẻ nhỏ trèo tường trong khảm diện vách Bách anh dưới nước mà cha từng kể lại... Tiếng nước chảy ma quái vẫn không hề tiêu biến. Một giọt nước lạnh buốt bỗng nhỏ xuống má Lỗ Thiên Liễu. Không phải là nước mắt, cũng không phải là mồ hôi, mà là một giọt nước thực sự. Lỗ Thiên Liễu đưa đầu ngón tay nhẹ nhàng gảy giọt nước bay đi, tựa như vừa đưa một ngôi sao quay trở về với bầu trời đêm tối thẳm. Giọt nước còn chưa kịp chạm đất, một luồng nước cực mạnh thình lình phun thẳng đến, không biết xuất phát từ nơi nào, không hề có một dấu hiện báo trước. Luồng nước to bằng miệng thùng đã đẩy Lỗ Thiên Liễu đang trong tình thế không chút đề phòng bắn ngược lại năm sáu bước, đến khi va phải vách tường mới dừng lại được. Cơ thể vừa dừng lại, Lỗ Thiên Liễu lập tức xoay người lao vụt về hướng luồng nước đang phun đến. Có luồng nước lớn bằng miệng thùng phun vào, chắc chắn sẽ có một lỗ hổng tương tự. Lao theo luồng nước tìm ra lỗ hổng không khó, khó là ở chỗ làm sao có thể thoát ra qua lỗ hổng đang phun nước xối xả với áp lực nước cực mạnh. Mới chỉ đặt một ngón tay vào luồng nước đang phun vùn vụt, Lỗ Thiên Liễu đã nhận ra hy vọng thoát thân là hoàn toàn không thể. Sau khi gắng đưa cơ thể thoát ra khỏi luồng nước, Lỗ Thiên Liễu đã gần như sức cùng lực kiệt, thậm chí không còn đủ sức để đứng vững. Cô đành buông lỏng cơ thể, mặc cho dòng nước từ từ nâng mình lên cao. Mực nước dâng lên rất nhanh, chốc lát đã nhấn chìm lỗ thủng đang phun nước vào phòng. Lỗ Thiên Liễu nổi bồng bềnh trên mặt nước, chỉ cần duỗi tay đã sờ được đến nóc phòng. Điều chỉnh hơi thở, tập trung sức mạnh, dùng thính giác siêu phàm để phân tích tiếng nước chảy, dùng xúc giác mẫn tiệp để cảm nhận sức mạnh của dòng nước. Lỗ Thiên Liễu nhận thức rõ, đây chính là cơ hội cuối cùng của cô. Khi mực nước trong căn phòng đá dâng lên cao, áp lực của luồng nước nơi lỗ hổng cũng dần dần được cân bằng. Mặc dù không biết tình hình phía sau lỗ hổng ra sao, có đường sống hay không, thế nhưng với một người khao khát sinh tồn, chắc chắn sẽ không chịu bỏ qua một cơ hội nào dù là mong manh nhất. Ba giác nhạy bén đã cho cô biết, luồng nước phun qua lỗ hổng đang chậm dần, lực phun cũng đã yếu đi, song lúc này, mực nước cũng sắp chạm đỉnh. Lỗ Thiên Liễu mau chóng xác định vị trí chính xác, hít vào một hơi thật sâu rồi lặn xuống. Sau một hồi giằng co giãy giụa, Lỗ Thiên Liễu đã lần được đến bên lỗ hổng. Song đúng lúc đấy, cô bỗng cảm giác sau lưng xuất hiện một tia sáng, và hơn nữa, tia sáng đang mở rộng dần. Cùng lúc đó, áp lực phun tại lỗ thủng trước mặt đột nhiên tăng lên gấp bội, đồng thời phía sau lưng lại xuất hiện thêm một lực hút rất mạnh kéo ngược cô trở lại. Cô chỉ biết cố sống cố chết bấu chặt lấy mép lỗ hổng theo phản xạ, không để dòng nước cuốn đi. Song chỉ một lát sau, Lỗ Thiên Liễu đã không thể gắng gượng thêm được nữa, và bị dòng nước giật phăng đi, cơ thể lộn nhào xoay như chong chóng. Một cú va đập rất mạnh, cô ngất đi không còn biết gì nữa. Lỗ Thiên Liễu bừng tỉnh. Ánh sáng buổi chiều tà rọi thẳng vào mắt khiến cô có phần xây xẩm. Mặt đường phía dưới trơn nhẫy và dính nhép, dường như bị phủ lên một lớp gì đó dày và mềm nhũn, lại thêm dòng nước chảy qua, nên trơn trượt chẳng khác gì mặt băng. Cô quyết định phải đứng lên, bèn cố gắng thả lỏng cơ thể, nhấc chân trên dậy, cột sống và hai hông kéo căng thành hình tam giác, từ cẳng chân trở xuống vận lực song không cứng nhắc, hai bàn chân điều chỉnh theo thế, chớp mắt đã đứng vững vàng trên mặt đường trơn tuột. Sau khi đứng dậy, Lỗ Thiên Liễu không di chuyển ngay, mà vẫn đứng yên để định thần trở lại. Mặc dù cảm thấy sau gáy âm ỉ đau và hơi váng vất, nhưng với khả năng kiểm soát cơ thể và công phu khinh công tuyệt hảo, mặt đường trơn nhẫy và dính nhem nhép trước mặt hoàn toàn không thể gây trở ngại cho cô. Sở dĩ cô không lập tức hành động, là vì cô muốn biết rõ bản thân đang ở chốn nào. Đây là một con ngõ nhỏ, một con ngõ rất ngắn. Từ chỗ cô đứng, có thể nhìn thấy con đường lớn bên ngoài đầu ngõ. Đây còn là một ngõ cụt, không xa sau lưng cô là nguyên một khối đá núi chặn kín. Lỗ Thiên Liễu thần trí mơ hồ, cảm giác như mình vừa thoát ra từ cuối ngõ, cơ thể cô vừa đi xuyên qua cả khối đá dày. Đích xác là cô vừa lao ra qua tảng đá. Tảng đá lớn chính là một khảm diện tượng tự như “Đổ đấu”, sau khi mực nước bên trong đạt tới độ cao nhất định, áp suất của nước sẽ khiến nút lẫy khởi động, đẩy bật bức tường đá ra. Thế nhưng thiết kế “Đổ đấu” ở đây có ý nghĩa gì? Chẳng nhẽ chỉ để ngâm người ta trong nước một lúc thôi ư? Lớp nhầy nhẫy như bùn màu trắng pha vàng lại xen lẫn vài tia đỏ máu trên mặt đường là thứ quái quỷ gì? Nó dấp dính và trơn tuồn tuột, không đến nỗi quá cứng, hơi trong suốt, lại phả ra một thứ mùi rất quen. Bị thôi thúc bởi lòng hiếu kỳ, Lỗ Thiên Liễu cố gắng giữ vững thân người, từ từ ngồi xuống. Cô đưa ngón tay quệt vào thứ chất nhầy quái lạ đó, rồi đưa lên mũi ngửi, khứu giác nhạy bén nhanh chóng lục soát trong ký ức xem có mùi vị nào tương tự hay không. Là mùi người! Thứ mùi tanh của cơ thể con người, trong đó có pha lẫn chút tanh tưởi của máu và mùi hôi thối của phân. Đột nhiên, Lỗ Thiên Liễu vụt nhớ đến một thứ, một thứ khiến cô suýt chút nữa ngã gục trở xuống. Đứng trên thứ này sẽ bị nỗi kinh tởm và cảm giác nhơ nhuốc hôi hám bủa vây tầng tầng lớp lớp, khiến người ta chỉ muốn lập tức bỏ chạy thục mạng. Chính là mỡ người! Chú thích [33] Một loại vũ khí giữ thành. Loại sử dụng trên thành được bện từ các thanh gỗ, thanh tre, trọng lượng khá nhẹ, bên ngoài được bọc một lớp vải, tẩm dầu, châm lửa đốt rồi cho lăn từ trên thành xuống. Loại sử dụng trên mặt đất dùng một súc gỗ tròn lớn, tẩm dầu rồi đốt, hai đầu súc gỗ có hai thanh sắt thò ra, dùng một que sắt có phần đầu uốn tròn lồng vào để đẩy súc gỗ lăn lên phía trước, nhằm đẩy lùi kẻ địch đang xông đến, hoặc trực tiếp tấn công thẳng vào trận địa đối phương. [34] Tức là cửa chặn dùng để đóng mở trong khảm kín, khảm giam và một bộ phận khảm vây. [35] Phần nút hoặc nắp chắn được điều khiển bởi một loại chốt tự động vận hành tuần hoàn, loại chốt tự động này chỉ chuyển động theo một hướng cố định. Sau khi phần nút hoặc nắp chắn đã vào đúng vị trí, không thể đẩy ngược lại để mở ra, mà chỉ có thể tiếp tục bị đẩy vào trong. Phải đợi đến khi vòng tuần hoàn xoay qua chỗ chuyển ngoặt, mới có thể mở ra.
Lời Nguyền Lỗ Ban Quyển 4 - Chương 23: Đường mê dấu Spoiler: Click vào để đọc Tại sao trên mặt đường này lại tích tụ lớp mỡ người dày đến vậy? Lỗ Thiên Liễu không dám nghĩ ngợi gì thêm, trong lòng chỉ có một niềm thôi thúc là mau chóng tẩu thoát khỏi nơi chốn quá đỗi rùng rợn này. Cho dù như vậy, Lỗ Thiên Liễu vẫn không đánh mất sự cảnh giác và thận trọng cần có. Con đường chạy qua đầu ngõ rất ngắn, đi sang trái hay sang phải cũng chỉ hai mấy bước chân đã đến ngã rẽ. Ngã rẽ bên trái chia thành bốn đường, nhưng không phải là một ngã tư ngay ngắn. Các lối đi cũng xiên xẹo chẳng theo quy luật gì. Đứng từ đầu ngõ nhìn về ngã rẽ, mặt đường và nhà cửa đều mờ mờ ảo ảo, khó phân biệt thực hư. Ngã rẽ ở bên phải chia thành năm nhánh, tình trạng cũng không có gì khá hơn. “Đường Mê dấu chia bốn xẻ năm”, Lỗ Thiên Liễu đã nhận ra. Đây cũng là kỹ thuật do Lỗ gia sáng chế, thường xuyên được ứng dụng khi xây dựng những thành trì nhỏ. Như vậy, cho dù kẻ địch có phá vỡ cổng thành xông vào, vẫn có thể lợi dụng đường đi và ngõ ngách để ẩn nấp và đánh trả. Chỉ trên một đoạn đường ngắn ngủi này, Lỗ Thiên Liễu đã đi đi lại lại đến bốn năm lần, song vẫn không thể xác định nên đi theo đường nào. Mặc dù đường Mê dấu đúng là thủ pháp của nhà họ Lỗ, nhưng sau những kinh nghiệm vừa trải qua, Lỗ Thiên Liễu đã nhận thức được rằng khảm diện ở đây đều không chân thực, bên ngoài cơ quan lại có một tầng cơ quan khác. Hơn nữa, những nút lẫy đã được cải tạo đều là nhằm vào người trong nghề khảm tử, đều mang lại hiệu quả tập kích bất ngờ, nhử người vào bẫy. Nhà cửa ở hai bên đường đều có cửa chính, cửa sổ đầy đủ, cũng không phải cửa giả, mà có thể ra vào. Nhưng Lỗ Thiên Liễu biết rõ, nếu đột nhập vào bên trong mà bị vây khốn, tử thương hẳn là khó tránh. Lỗ Thiên Liễu lại dừng bước ngay đầu ngõ, tĩnh tâm suy nghĩ một hồi. Từ cách cục kiến trúc, nhìn vào các nóc nhà lúp xúp vảy cá, có thể phán đoán số lượng phòng ốc không nhiều. Cô bèn sử dụng kỹ xảo “đo bằng ngón tay” trong công phu Định cơ, dùng “triều xa án gần”[36] làm tiêu chuẩn quá độ, dùng mắt ước lượng độ cao thấp của vị trí mình đang đứng, sau đó căn cứ vào cách sắp xếp phân bố của đường đi để tìm ra một số quy luật thông thường trong kỹ pháp của nhà họ Lỗ. “Đường Mê dấu chia bốn xẻ năm” ở đây có đường giả và đường vòng. Tại đường giả có thiết kế gương ngược và các đồ hình, lợi dụng sự phản xạ hình ảnh và khúc xạ ánh sáng để đánh lừa người trong khảm. Tại đường vòng vận dụng vị trí cao thấp để gây ra ngộ nhận về cảm giác, lại cộng thêm cách bố trí các mái hiên, góc nhà, cây cối, biển hiệu một cách khéo léo, khiến người ta cứ đi lòng vòng trong một phạm vi nhất định mà không thể thoát ra. Hai kiểu đường này kết hợp với nhau, sẽ khiến người trong khảm cảm thấy góc độ, độ cao thấp và thứ tự của các vật thể liên tục biến đổi, không thể tìm được vật làm chuẩn. Thậm chí ngay cả ký hiệu do chính mình tạo ra cũng bị lẫn lộn, trùng lặp. “Có cả đường giả và đường vòng, thảo nào trông những con đường kia cứ mờ mờ ảo ảo”. Sau khi đã khẳng định phán đoán của mình, Lỗ Thiên Liễu bèn dứt khoát tiến về phía ngã năm. Trong cách bố trí đường Mê dấu chia bốn xẻ năm có thiết kế đường giả, con đường chính xác thường được đặt ở ngã năm, bởi vì đường giả phải có bố cục đối xứng, nên số lượng luôn là số chẵn. Nếu có số lẻ, trong đó chắc chắn sẽ có một đường sống. Nguyên lý này đúng với tất cả các khảm tử gia. Đứng trước ngã năm, trước tiên, Lỗ Thiên Liễu phải tìm ra “hợp tuyến”[37] trong số đó. Cô phát hiện con đường thứ nhất và con đường thứ tư tính từ bên hình chữ S kéo dài, có thể gây ra cảm giác sai lệch về phương hướng và độ cao thấp. Cặp “hợp tuyến” còn lại, cô phải tìm kiếm rất lâu, cuối cùng cũng phát hiện ra con đường thứ ba tính từ bên trái và đoạn đường mình đang đứng là đối xứng bắt chéo, nó lợi dụng sự thò thụt của nhà cửa ven đường và sự nhấp nhô của mặt đường để gây ra cảm giác chồng chéo rối loạn. Chỉ còn lại con đường thứ hai, đó là con đường sống duy nhất! Lỗ Thiên Liễu phóng vụt Phi nhứ bạc khỏi tay áo, quả cầu thép trong tấm khăn nảy tưng tưng vài cái trên mặt đường nơi ngã rẽ. Mặt đường không có vấn đề gì, thế là cô nhanh chóng đi qua ngã rẽ, điểm giẫm chân đều là vị trí mà quả cầu vừa đập xuống. Đã đặt chân lên con đường thứ hai, Lỗ Thiên Liễu mới thở phào một hơi. Bình thường người bên phía đối phương cũng thường xuyên đi trên con đường sống này, nên chắc hẳn sẽ an toàn. Sau khi bị luồng nước cuốn ra khỏi căn phòng đá, Lỗ Thiên Liễu toàn thân ướt sũng. Khi nãy cô chỉ chuyên chú phân tích khảm diện nên không kịp để ý, lúc này gió núi chiều hôm thổi đến, toàn thân bỗng thấy rùng mình ớn lạnh. Nhưng cô không để tâm tới giá lạnh, cô chỉ ghê sợ với lớp mỡ người nhớt nhát đang dính khắp cơ thể. Nó khiến cô buồn nôn, lợm giọng, trong lòng chợn rợn hoang mang. Phía trước có tiếng nước róc rách. Không biết là nước suối hay nước mưa, hợp thành một dòng chảy qua rãnh nước lát đá ven đường. Nhìn vào tốc độ chảy của dòng nước, có thể đoán chắc ở đây không thể thiết kế nút độc, dòng nước lại trong vắt nhìn thấu tới đáy. Lỗ Thiên Liễu bèn lội xuống rãnh nước gột rửa, chỉnh trang lại quần áo tóc tai. Cô ngạc nhiên khi thấy nhành hoa cài trên bím tóc vẫn còn, chỉ thiếu mất mấy cánh. Cô nhủ thầm: “Áp lực ghê gớm và xung lực dữ dội của khảm diện vẫn không thể xé nát đoá hoa bé nhỏ này, chẳng lẽ mình lại chẳng bằng một đoá hoa ư?”. Tiến lên phía trước mấy bước, lại đến một ngã rẽ. Mới một đoạn ngắn như vậy đã có thêm ngã rẽ, thế nhưng khi đứng ở ngã năm vừa nãy, Lỗ Thiên Liễu lại không hề nhìn thấy ngã rẽ này. Song cô không bất ngờ, bởi vì con đường sống luôn bị che giấu nguỵ trang. Thế nhưng khó hiểu là ở chỗ con đường này đã được nguỵ trang như thế nào? Bước chân của Lỗ Thiên Liễu đột nhiên khựng lại. Cô phát hiện ra, rất có thể mình đã lầm! “Trừ phi nó có đường hợp tuyến, phản xạ lại cảnh tượng ở đầu bên kia của con đường hợp tuyến để che đậy cho tình hình ở đây” – Tim Lỗ Thiên Liễu đập lên thình thịch – “Nếu là đường hợp tuyến, thì đây chắc chắn không phải là con đường sống, mà là một khảm diện có hình con đường!”. Lỗ Thiên Liễu từ từ quay đầu lại. Từ lúc tiến vào con đường này, cô chưa hề quay đầu lại nhìn về phía sau. Và lúc này, cảnh tượng hiện ra trước mắt càng khiến cô khẳng định mình đã sai lầm. Từ chỗ đứng của cô có thể nhìn đi rất xa, rất rõ, ngay cả bốn con đường rẽ ở ngã tư tại đầu bên kia cũng có thể nhìn vào rất sâu. Ở phía cô vừa đi qua, nhà vẫn là nhà, đường vẫn là đường, cây cối um tùm, cờ quạt phấp phới. Song nhà lại không phải là những ngôi nhà cô vừa băng qua, đường cũng không phải là con đường cô vừa đi qua, còn cây cối cờ quạt không phải là lúc nãy cô không để ý, mà thực sự không hề nhìn thấy. “Lại trúng kế rồi! Con đường Mê dấu ở đây đã đi ngược lại nguyên lý của khảm diện. Nhưng...” - Lỗ Thiên Liễu hết sức băn khoăn ngờ vực. Đường chia năm ngả, con đường cô đang đứng là con đường bị lẻ còn dư ra, vậy nó sẽ được kết hợp với vị trí nào để nguỵ trang che chắn cho nhau? Nhưng cô biết rõ, thiết kế ở đây vẫn theo chiêu số “mời ngài vào vò”, mục đích là để vây khốn người trong nghề khảm tử. Thủ pháp, kỹ xảo và mưu mô ẩn chứa trong đó quả thực đã cao hơn người nhà họ Lỗ một bậc. Lỗ Thiên Liễu không thể tiến lên phía trước, phía trước chắc chắn là đường chết. Nhưng cô cũng không dám lùi lại, vì lúc này, cô chỉ nhìn thấy đường giả. Chưa tìm ra chỗ khuyết mà đã mù quáng trở ra, sẽ càng lún càng sâu, càng đi càng rối. Đúng lúc Lỗ Thiên Liễu đang trong cảnh tiến thoái lưỡng nan, thì từ phía cô vừa đi qua, bỗng vang lên một tiếng kêu lanh canh. Mặc dù âm thanh rất nhỏ, nhưng không thể lọt khỏi thính giác nhạy bén của Lỗ Thiên Liễu. Âm thanh giống như tiếng lò xo bật căng, tiếng khánh sắt thình lình, giống như... Phải rồi, đồng bạc! Nó là tiếng va chạm khi búng vào mép của một đồng xu bạc. Liền sau đó, Lỗ Thiên Liễu lại nghe thấy một tràng những tiếng leng keng liên tiếp. Lần này có thể khẳng định, đó là tiếng đồng xu bạc đang nhảy nhót lăn đi trên mặt đường lát đá. Lỗ Thiên Liễu đã di chuyển, di chuyển một cách chớp nhoáng như con thỏ thoát cũi, lao thẳng về hướng đồng xu đang lăn đến. Ở phía đó có góc tường, có cây cối, song dường như Lỗ Thiên Liễu không hề nhìn thấy, cũng không vòng qua để tránh, mà cứ thế lao thẳng vào. Quả nhiên là một đồng xu bạc đúc hình Viên Thế Khải, vừa nảy tưng tưng vừa xuyên tường lao ra. Khi Lỗ Thiên Liễu nhìn thấy đồng xu bạc, cũng là lúc cô sắp đâm phải một góc nhà. Đồng xu lăn qua bên chân Lỗ Thiên Liễu, không có dấu hiệu dừng lại; Lỗ Thiên Liễu lao qua bên cạnh đồng xu, lại càng không có ý dừng chân. Thính giác nhạy bén của cô đã ghi nhớ được quãng đường lăn của đồng xu, cô muốn đi hết đoạn đường đó trước khi nó biến mất khỏi trí não. Sau khi xuyên qua một bức tường, băng qua một gốc cây, Lỗ Thiên Liễu đã đến được khởi điểm nơi đồng xu bắt đầu lăn đi. Cô dừng bước, quan sát kỹ lưỡng hai bên, và phát hiện ra mình đã lao thẳng đến giữa ngã tư đối diện khi nãy. Ngoảnh đầu nhìn lại, đoạn đường vừa mới băng qua vẫn là con đường ngắn ở bên ngoài ngõ cụt. Không thấy tường, không thấy cây cối, hình dáng nhà cửa cũng không hề thay đổi. Ảo ảnh! Tất cả những thứ cô nhìn thấy khi nãy đều là ảo ảnh, chỉ có điều không biết nó được chiếu đến từ nơi nào. Ảo ảnh chỉ có thể nhìn thấy khi bản thân đã sa vào đường khảm, còn khi trở ra, phải tiến đến tận giữa ngã tư ở đầu bên này, ảo ảnh mới biến mất. Nếu không có điều kiện phía trước, cho dù có đi đi lại lại bao nhiêu lần trên đoạn đường này, cũng không thể nhìn thấy ảo ảnh khi nãy. “Phải rồi! Đoạn đường ngắn này chính là một khúc đường chuyển tiếp. Người chưa vào khảm, sẽ là đường thực; người vừa vào khảm, nó sẽ lập tức biến thành một nút lẫy trong con đường Mê dấu. Chính khúc đường chuyển tiếp khó phân hư thực này đã liên kết hai con đường khảm diện là ngã tư và ngã năm ở hai bên để kết hợp thành một hợp tuyến ba đoạn, đoạn này tiếp nối đoạn kia, đoạn này lồng vào đoạn kia, khiến cho xa gần lẫn lộn, hư thực khó phân”. Sau khi đã hiểu được cách thức bố trí của khảm diện, Lỗ Thiên Liễu hít vào một hơi thật sâu. Trong mấy lần đụng độ với đối phương trước đó, về cơ bản đều là họ bẫy ta phá, ta gài họ giải, không hề cảm thấy phương pháp thủ đoạn của đối phương có điểm gì đặc biệt. Nhưng với con đường Mê dấu chia bốn xẻ năm đã được cải tạo kia, nếu không có đồng xu bạc bỗng nhiên lăn tới, e rằng bản thân khó lòng thoát ra được. “Quái lạ, đồng xu kia ở đâu ra nhỉ? Có đồng bạc chắc chắn sẽ có người, hơn nữa, người này đang âm thầm giúp đỡ mình!” - Lỗ Thiên Liễu vốn rất lạc quan, chuyện gì cũng đều nghĩ theo chiều hướng tốt. Bởi vậy, cô cảm thấy nhẹ nhõm hơn rất nhiều, mọi nỗi sợ hãi khiếp đảm khi nãy đều quên phắt. Cô khẽ mỉm cười, vẻ hồn nhiên trong trẻo hệt như đoá hoa trắng xanh đang cài trên bím tóc. Nhưng Lỗ Thiên Liễu đã không phát hiện ra, trên một nóc nhà bên cạnh ngã tư, bỗng xuất hiện thêm một con thú nóc[38], và cũng đúng vào lúc này, con thú đang chậm rãi khép mở hai con mắt. Đó là hai con mắt cỡ lớn lồi hẳn ra ngoài, song đã bị mi mắt sụp xuống che khuất, chỉ có thể gắng gượng hé ra một khe rất hẹp. Nhìn qua khe hở, không thấy được phần tròng đen, chỉ thấy một vệt vàng xỉn. Đôi mắt vàng xỉn đó đang lừ lừ nhìn về phía Lỗ Thiên Liễu... Rút kinh nghiệm từ lần trước, Lỗ Thiên Liễu lại càng thận trọng hơn nữa. Cô lấy ra một bàn Độn giáp nhỏ làm bằng thiếc, kim chỉ trên bàn Độn giáp xoay chuyển, cho thấy trong bốn ngã rẽ của con đường, chỉ có một ngã rẽ hướng về phía chính đông. “Đi về phía đông là chính xác! Nếu quả thực ở đây có giấu bảo vật Thuỷ minh, kế tiếp của Hoả linh, như vậy, căn cứ theo nguyên lý muôn dòng chảy tụ về đông, bảo vật chắc hẳn sẽ ở phía đông.” - Lỗ Thiên Liễu thầm tính toán. Ngã rẽ phía đông rất ngắn, mới đi một lát đã đến tận cùng, trước mắt là vách núi chắn ngang, không còn đường đi nữa. Đây chắc chắn không phải là con đường chính xác. Ở phía cuối con đường có một ngõ nhỏ, có khả năng con ngõ đó sẽ thông với một con đường khác trong trấn, có thể theo con đường đó mà tiếp tục tiến về phía đông. Lỗ Thiên Liễu áp dụng phương pháp Phục long thám căn để rà soát, không phát hiện ra hiện tượng đáng ngờ nào trên con ngõ nhỏ. Cô lại dùng chiêu Cánh tay xích để kiểm tra mặt tường ở hai bên ngõ, cũng không có gì bất thường. Kết quả thăm dò không phát hiện ra bất cứ khảm diện hay nút lẫy nào, nhưng Lỗ Thiên Liễu vẫn không dám chủ quan. Cô tập trung tinh thần cao độ, hết sức thận trọng bước chân vào con ngõ. Bề mặt ngõ được lát một lớp đá vụn, bàn chân giẫm lên có cảm giác rất khó chịu. Hơn nữa, mặt đá lát cũng không vững chãi, khi bước lên chúng hơi cập kênh, dao động và lõm xuống, hướng dao động không đồng nhất, độ lõm cũng nông sâu khác nhau. Lỗ Thiên Liễu bỗng đờ người ra, bước chân khựng lại một thoáng. Nhưng chỉ là trong khoảnh khắc, chớp mắt cô đã xoay lưng, nâng hông, xoạc chân trước sau tạo thành thế kiếm bộ, chỉ hai cú tung mình đã lao vọt ra khỏi con ngõ. Thoát khỏi ngõ, Lỗ Thiên Liễu đưa tay gạt nhẹ những giọt mồ hôi lạnh trên trán, rồi ngoảnh đầu lại nhìn con ngõ sau lưng, vẻ mặt đầy băn khoăn nghi hoặc. Con ngõ cô vừa đi qua là khảm diện ngõ loanh quanh, được cải tiến từ một loại nút lẫy đơn giản nhất của tổ tiên nhà họ Lỗ. Nút lẫy của nhà họ Lỗ chỉ có một tảng đá có thể chuyển động, thường gọi là “tiên bổ nhào”. Nhưng con ngõ này lại có rất nhiều tảng đá, bên dưới mỗi tảng đá đều thiết kế những nút lẫy khác nhau, giẫm phải một lẫy sẽ chuyển động một tảng đá. Phương thức chuyển động của mỗi tảng đá cũng khác nhau, song đều được tính toán kỹ lưỡng căn cứ theo cách di chuyển của hai chân. Sau khi một tảng đá chuyển động, sự dịch chuyển của tảng đá sẽ buộc bước tiếp theo phải giẫm lên một tảng đá đã định sẵn. Tảng đá đó lại dịch chuyển, lại tiếp tục bức bách phải giẫm lên tảng đá tiếp nữa. Cứ như vậy, sẽ khiến người sa vào khảm diện như ngã lại như đi, tưởng tiến mà lại lùi. Để cố gắng giữ cho cơ thể thăng bằng không bị ngã chúi, sẽ cứ thế liên tục tiến trước lùi sau, sang phải sang trái trong phạm vi bảy tám bước, lặp đi lặp lại các bước chân, không ngừng không nghỉ. Cho đến tận khi đi tới giữa con ngõ, Lỗ Thiên Liễu mới phát hiện ra đây là ngõ loanh quanh. Nếu như đến lúc này mới thoái lui, chẳng thà lao thẳng về phía trước. Thế nhưng kỳ lạ là ở chỗ ngõ loanh quanh không hề xuất hiện bất cứ động tĩnh nào. Quả thật Lỗ Thiên Liễu cảm thấy hết sức băn khoăn. Khảm diện không động là một nhẽ, nhưng tại sao một khảm diện thường gặp như vậy, cô lại không thể nhận ra ngay từ khi đứng ở đầu ngõ? Đáp án chỉ có một và cũng hết sức đơn giản. Sau khi Lỗ Thiên Liễu đẩy một tảng đá lát đường lên, mọi chuyện đã hoàn toàn sáng tỏ: chốt lẫy của khảm diện ngõ loanh quanh đã bị buông. Nói cách khác, nó đang ở trong trạng thái đã hoạt động xong, tổng huyền đã nhả hết. Là do cao thủ phá giải ư? Hay là tổng huyền tự đứt vì quá cũ kỹ? “Một khảm diện tinh xảo khéo léo đến nhường này, nguyên liệu dùng để làm tổng huyền không thể dễ dàng bị đứt. Phải chăng cũng giống như đồng xu lúc nãy, đều là do có cao thủ đang ngấm ngầm trợ giúp mình. Thế nhưng trong một thế giới bí ẩn cả trăm năm chưa có ai bước vào như nơi đây, đúng vào lúc mình căn cứ theo chỉ dẫn trên tấm lụa vàng để đột nhập vào, lại có thêm cao thủ khác xuất hiện đồng thời, ra tay giúp đỡ, sự trùng hợp này quả thực quái lạ!” – Nghĩ đến đây, Lỗ Thiên Liễu không những không vui, mà lại càng cảm thấy ngờ vực bất an. Trước mặt là một đoạn đường thẳng tắp và dốc xuống. Lỗ Thiên Liễu lại tiến hành so sánh với các đỉnh núi xung quanh, có thể nhận ra rằng, nếu đi dọc xuống theo con đường này, sẽ thoát ra khỏi thị trấn, tiến sâu hơn vào trong thung lũng. Lỗ Thiên Liễu không có ý dừng bước quay đầu, cô chỉ thầm cầu nguyện trong lòng: “Mong sao phía trước chính là nơi mình muốn đến! Mong sao nơi đó sẽ có thứ mình đang tìm!”. Khác với đoạn đường trước đó, ở đây có vài cửa tiệm mở rộng cửa. Dưới ánh chiều nhàn nhạt, đoạn mặt đường phía trước các cửa tiệm loa loá sắc trắng bạc. Những thứ đang phản chiếu ánh sáng trắng bạc gồm có liềm gập đôi, kéo đuôi én, chũm choẹ tuyết hoa, dùi đuôi tròn, cưa hai lưỡi. Lỗ Thiên Liễu không thể nhận ra chúng là tiệm rèn hay cửa hàng kim khí, song cô đã nhận ra đây là khảm diện đối hợp Sông chảy không ngừng. Giới khảm tử trong giang hồ có câu: “Sông chảy vừa qua, không còn hơi thở”, từ đó có thể thấy được, lực sát thương khủng khiếp của thứ khảm diện bá đạo này. Nhưng lúc này, khảm diện tuyệt sát cực kỳ tàn độc có thể giết chết Lỗ Thiên Liễu không biết bao nhiêu lần mà kể kia đã động, tất cả các nút đều đã nhả hoàn toàn. Vì thính giác nhạy bén của Lỗ Thiên Liễu đã phát giác ra một rung động vi tế của một vật rất nhỏ bé. Lần theo làn âm thanh cực nhỏ mà người thường không thể nghe thấy, cô đã nhìn thấy trên cánh cửa, trên trụ cửa các cửa tiệm găm chi chít những mũi kim thép dài mảnh, toả sắc xanh trầm lạnh lẽo. Đây chính là nút cuối cùng trong khảm diện đối hợp Sông chảy không ngừng, mang theo nọc ong chúa kịch độc. Không có người, cũng không thấy xác chết. Trên đời không một ai có đủ khả năng vượt qua khảm diện này, vì vậy chắc chắn đã có một cao thủ trong nghề khảm tử đã kích hoạt tất cả các chốt lẫy cơ quan, đợi đến khi toàn bộ các nút trong khảm diện đều đã bung ra hết, mới ung dung đi qua. Khi băng qua khảm diện Sông chảy không ngừng, Lỗ Thiên Liễu nghĩ thầm: “Xem ra phía trước chắc chắn đã có cao thủ tiến vào. Nhưng cao thủ này có tính toán gì? Không chừng lại giống như cuộc giao tranh ở Cô Tô, nửa đường thình lình xuất hiện kẻ thứ ba có cùng mục đích. Như vậy, nếu bảo bối rơi vào tay họ, cũng sẽ hết sức nan giải!”. Cầu ván xoay ba đoạn, đây là một khảm diện được bố trí ở lối ra của trấn. Cây cầu được chia làm ba đoạn, bình thường cho người xe qua lại chẳng khác gì cầu cống bình thường. Nhưng một khi cơ quan, chốt lẫy được bày, giẫm chốt chạm lẫy, thì mối nối giữa các tấm ván lợp mặt cầu sẽ tách rời thành ba đoạn, lập tức xoay tít mù quanh trụ cầu nằm ở chính giữa mỗi đoạn. Sau khi mặt cầu tách rời, ở hai đầu của mỗi đoạn cầu bật ra tua tủa những mũi đao sắc nhọn dài hơn một thước. Bất kể người lọt vào trong khảm rơi xuống dưới hay nhảy lên trên, khi cơ thể còn lơ lửng trên không đã bị chém nát như tương. Khi Lỗ Thiên Liễu đi qua, mặt cầu đã bị tách ra, nhưng không xoay tròn. Đó là do khảm diện đã hoạt động xong, vẫn chưa kịp thu lẫy cài nút để khôi phục lại. Mặc dù mặt cầu đứt đoạn, song Lỗ Thiên Liễu vẫn dễ dàng vượt qua. Cô dùng Phi nhứ bạc kéo mặt cầu xoay ngang lại, rồi tung người nhảy đi, điểm đặt chân chính là vị trí của trụ cầu nằm chính giữa mỗi đoạn, chỉ sau ba bước đã đặt chân được lên đầu cầu bên kia. Khi Lỗ Thiên Liễu đã đứng vững trên đầu cầu, cô lập tức cảm giác phía sau có gì đó bất thường, khiến cô kinh sợ đến nỗi sợi gân sau gáy co giật dữ dội. Cô vội quay phắt lại, song không nhìn thấy gì cả. Lẽ nào lại là ảo giác? Tiếp tục tiến lên phía trước là một khe núi hẹp, có dấu vết đẽo gọt của con người. Mặt đường cũng đã được đẽo phẳng. Có lẽ ban đầu lối đi này nhỏ hẹp và kín đáo hơn nhiều. Vừa tiến vào khe núi, phía trước đã là chỗ ngoặt, không thể nhìn thấy tình hình bên trong. Tuy nhiên thính giác nhạy bén của Lỗ Thiên Liễu vẫn có thể loáng thoáng nghe thấy bên trong có tiếng chim sẻ vỗ cánh rượt đuổi nhau, tiếng nước chảy róc rách, những phần da thịt lộ ra ngoài cũng cảm nhận được luồng hơi ẩm ướt dào dạt phả ra từ phía trong. Có thể tiếp tục tiến vào! Những thông tin mà thính giác và xúc giác thu thập được đủ để Lỗ Thiên Liễu đưa ra quyết định. Nhưng đúng lúc định cất bước tiến lên, cô đột nhiên nhớ lại quẻ bói bàn tay đã gieo khi đứng trước lối vào thị trấn. Tướng thuận xuất, không biết “thuận xuất” có bao gồm cả khe núi trước mặt hay không? Nếu chỉ bao gồm thị trấn khi nãy, thì quả thật cô đã thoát ra vô cùng thuận lợi. Lỗ Thiên Liễu lại từ từ xoè lòng bàn tay ra. Lúc này cô mới phát hiện ra cơn mưa không biết đã tạnh tự khi nào. Trong rừng núi phía xa xăm, sương mù đã bắt đầu lan toả. Không ngờ trong vùng núi này, mới sau cơn mưa mà nước đã bốc hơi nhanh như vậy. Lỗ Thiên Liễu thu bàn tay lại, thầm động viên bản thân: “Không quẻ chính là quẻ định sẵn, trong quẻ bàn tay lúc nãy đã bao gồm cả nơi đây!”. Muốn tiến thì phải nhanh, tất cả các hiện tượng đều cho thấy đã có người vượt lên phía trước. Lỗ Thiên Liễu không nghĩ ngợi gì thêm nữa, nhanh chóng rảo bước vào trong khe núi, sau vài bước đã biến mất sau chỗ ngoặt. Lúc này, trên mặt nước phía dưới cầu ván xoay ba đoạn lại hiện ra vài cặp mắt, giống hệt như cặp mắt trên nóc nhà nơi ngã tư. Con mắt rất lớn song chỉ hé ra một khe nhỏ, để lộ một đám tròng trắng vàng xỉn, đục ngầu. Lỗ Thiên Liễu không ngờ khe núi lại rất ngắn, ngắn đến ngoài sức tưởng tượng, ngắn như một cánh cửa có xây huyền quan, vừa qua chỗ ngoặt, đi thêm vài bước đã qua bên kia khe núi. Song cảnh tượng mở ra trước mắt càng khiến Lỗ Thiên Liễu kinh ngạc hơn, tựa như cô đã lạc vào chốn Bồng Lai tiên cảnh. Trước mắt cô bát ngát hoa thơm cỏ lạ, tùng bách xanh tươi. Gần ngay phía trước là cột đá xen kẽ, đá núi nhấp nhô, phía xa xa róc rách suối tuôn, líu lo chim hót. Rừng núi xung quanh điệp điệp trùng trùng, khói sương lãng đãng, tựa như một bức tường hoa cỡ lớn, bao quanh một bầu thế giới thần tiên. Thần kỳ hơn nữa là ánh sáng ở đây cũng sáng sủa hơn rất nhiều, khác hẳn với sắc chiều nhập nhoạng ở ngoài kia. Không biết do cảnh tượng trong thung lũng khiến người ta lẫn lộn thời gian, hay ở đây còn có nguồn sáng thần kỳ nào khác. Qua khe hở giữa các cột đá, Lỗ Thiên Liễu thấp thoáng nhìn thấy bên trong có bọt nước bắn tung trắng xoá. Lẽ nào đó chính là thác Nhạn Linh? Chú thích [36] Là thuật ngữ phong thuỷ, chỉ khái quát núi non hình thế xung quanh. Vị trí xa và lớn là triều sơn (núi chầu), vị trí gần và nhỏ là án sơn (núi án). [37] Là thuật ngữ của khảm tử gia. Khi thiết kế khảm diện gồm nhiều con đường, không phải giữa tất cả các khảm diện đều có thể phối hợp để phát huy tác dụng, bởi vì phương pháp, kỹ thuật, vật liệu khi thiết kế mỗi con đường đều có sự khác biệt. Trong đó, có hai hoặc trên hai con đường có thể phối hợp với nhau về mọi mặt, cùng kết hợp thành một khảm diện lớn hơn nữa, nguy hiểm hơn nữa, được gọi là “hợp tuyến”. [38] Tượng thú thần được đặt trên nóc nhà dùng để trấn trạch.
Lời Nguyền Lỗ Ban Quyển 4 - Chương 24: Nước lông vũ Spoiler: Click vào để đọc Một niềm hân hoan khó tả trào dâng trong lòng đã thôi thúc Lỗ Thiên Liễu rảo liền mấy bước lên phía trước. Nhưng chỉ là mấy bước, cô đã lập tức dừng lại. Bởi vì trong cõi thần tiên này không hề có lấy một con đường. Có lẽ các tiên nhân đã quen đi mây về gió, nên không cần đến đường sá chăng? Không có đường đi, không có nghĩa là không đi được. Trước mặt cô chỉ là bãi cột đá thưa thớt, chứ không phải tường đá. Giữa vô số các cột đá có vô số khe hở, khe hở không hề nhỏ, song vấn đề là ở chỗ có thể đi qua khe hở hay không? Và nên đi qua khe hở nào? Bãi cột đá quả thực có đôi chút khác thường, mặc dù thoạt nhìn tựa như được hình thành tự nhiên, nhưng Lỗ Thiên Liễu vẫn cảm thấy bên trong có ẩn chứa một quy tắc nào đó. Nhưng nếu muốn thiết kế khảm diện bằng những cột đá cỡ này, hẳn phải có sức mạnh thần thông dời non lấp bể, chứ người thường tuyệt đối không đủ sức thực hiện. Đắn đo quanh quẩn bên ngoài bãi cột đá một hồi lâu, cuối cùng Lỗ Thiên Liễu quyết định lách qua khe hở thứ hai tính từ bên trái. Vì khe hở này thông suốt hơn cả, có thể nhìn xuyên vào tận bên trong. Sau khi tiến vào bãi cột đá, Lỗ Thiên Liễu đã nhìn rõ hơn quy tắc của chúng. Nhìn bề ngoài, chúng có vẻ thiên hình vạn trạng, lớn nhỏ khác nhau, song chỗ khác biệt chỉ nằm ở phần đỉnh cột đá, còn từ ngang tầm đầu người trở xuống, chúng không hề khác nhau là bao, đều là trụ vuông hình chữ môn. Nói cách khác, để bố trí được chúng ở đây, không cần phải có sức mạnh dời non, mà chỉ cần lợi dụng những thứ có sẵn của thiên nhiên để cải tạo thêm. Tiến thêm mấy bước nữa, Lỗ Thiên Liễu đã hoàn toàn xác định được huyền cơ ẩn chứa trong bãi cột đá. “Tám mươi tư trụ phong vân”, đây là một trong những phương pháp hành quân bố trận được sử dụng sớm nhất. Nó không thuộc về Kỳ môn Độn giáp, vốn dĩ được ứng dụng để phòng ngừa bị tập kích bất ngờ khi đóng quân hạ trại. Bố trí trận này ở ngoài cửa doanh trại, rồi treo cờ lớn lên, nếu không hiểu về nguyên tắc bên trong mà đường đột xông vào, sẽ cảm thấy nhật nguyệt tối sầm, đất trời u ám, đường đi vòng vèo bất tận. Nếu như bên trong lại bố trí thêm chông gai đao kiếm, hầm hố bẫy ngầm, sẽ trở thành một phương pháp phòng ngự cực kỳ lợi hại. Số lượng cột đá ở đây chưa tới tám mươi tư, nhưng cách bố trí lại hết sức xảo diệu. Nó lợi dụng cây cối, cỏ dại phía trên và tạo hình trên to dưới nhỏ của cột đá, khiến cho người ta vừa lọt vào trong, lập tức có cảm giác đất trời biến đổi. Đây chính là sự khác biệt giữa trận pháp và khảm diện. Khảm diện được tổ tiên nhà họ Lỗ cải tạo từ “Tám mươi tư trụ phong vân” có tên là “Cột mây chướng ngại”, vốn được ứng dụng trong các cơ quan cạm bẫy trong đại điện và hành lang. Dùng các cột trụ có tạo hình mây trong đại điện và hành lang làm chướng ngại vật, khiến cho gian đại điện giản đơn trở nên thâm sâu khó đoán, có tác dụng cản trở và vây khốn. Khe hở thông suốt mà Lỗ Thiên Liễu vừa lựa chọn lại không thể đi qua, những cảnh tượng có thể nhìn thấy ở bên trong chỉ là màn che mắt. Thế nhưng khảm diện do tổ tiên nhà họ Lỗ thiết kế làm sao có thể gây khó dễ cho Lỗ Thiên Liễu. Cô không quay người trở ra, mà bắt đầu tìm kiếm chỗ khuyết của khảm diện, chỉ vài bước chân đã quay trở về đường chính. Sở dĩ Lỗ Thiên Liễu dám làm như vậy, vì ở đây không giống với khảm diện Rãnh cối kép ở đầu thị trấn. Khảm diện này lợi dụng môi trường tự nhiên, thuộc loại khảm diện có rìa khảm cứng, nên đối phương không có khả năng thay đổi khảm diện này. Điều duy nhất khiến Lỗ Thiên Liễu phải giật mình kinh sợ, đó là từ trên đỉnh các cột đá thi thoảng lại có đá vụn, đất cát rơi xuống, có lẽ do niên đại quá lâu đời, đá núi phía trên đã bị phong hoá nghiêm trọng. Thế nên Lỗ Thiên Liễu càng đẩy nhanh tốc độ gấp rút vượt qua, trong lòng nghĩ thầm, đừng có để thoát khỏi khảm diện lại bị đá rơi trúng đầu, như vậy thì quả là vô duyên hết sức. Nhưng nếu lúc này, Lỗ Thiên Liễu chịu ngẩng lên quan sát, có thể cô sẽ nhìn thấy một số “thứ” đang chậm rãi bò qua phía trên cột đá. Nhìn từ dưới lên, không thể thấy được phần đầu và nửa thân trên của chúng, chỉ có thể thấy đôi chân và cặp mông không biết nên gọi là béo núc hay sưng phù. Da chúng có màu xám trắng xen lẫn vàng xỉn, khắp cơ thể chẳng chịt những đường xanh đỏ ngoằn ngoèo, chính là gân xanh và huyết quản nổi rõ dưới mặt da. Rất nhiều “thứ” như vậy đang từ từ bò xuống, mặc dù động tác vụng về chậm chạp, nhưng rất đồng đều. Nhưng ngạc nhiên là ba giác nhạy bén siêu phàm của Lỗ Thiên Liễu lại không hề phát giác ra sự tồn tại của những vật thể sống kia. Phải chăng đã có thứ gì gây nhiễu loạn đến ba giác trong sáng của cô, hay là có một sức mạnh nào đã che đậy được sự tồn tại của bọn chúng. Thoát khỏi bãi cột đá, cảnh tượng hiện ra trước mắt khiến Lỗ Thiên Liễu phải nín thở. Tất cả mọi thứ ở đây vô cùng linh hoạt sống động, mọi thứ đều như có linh hồn. Lỗ Thiên Liễu mơ hồ nghe thấy những đoá hoa, ngọn cỏ đang rung rinh vẫy gọi; mơ hồ nhìn thấy những gợn sóng lăn tăn trên mặt nước đang mở xoè ra như vô số những nụ cười. Chim chóc ríu ran chao liệng trong lùm cây biếc, trên mặt nước êm; vô số cánh bướm sặc sỡ rập rờn quanh một thác nước đổ dài như màn lụa bạc, thoả thích nô đùa với màn bụi nước mịt mờ quanh đá núi. Ngay cả những dãy núi vây quanh chốn này cũng lên xuống nhấp nhô giống như đang sống. Dải núi bên trái trông hệt như một con rắn đang uốn mình trườn đi, dải núi bên phải chẳng khác gì chú rùa đang vươn cổ nghiêng ngó. Là rùa tiên rắn thiêng đối đầu đuôi! Đây chẳng phải là cục Huyền Vũ trong phong thuỷ ư? Hơn nữa, tại điểm tiếp xúc giữa đầu rắn và đầu rùa còn có một thác nước đổ dài, đây gọi là Huyền Vũ tràn đầy, là cách cục trời sinh tuyệt diệu trong phong thuỷ. Nếu không phải gần đây có hung huyệt khống chế, chỉ cần có được cách cục phong thuỷ này, cũng đã đủ để trở thành bậc vương hầu, giàu có nghiêng thiên hạ. Trước mặt Lỗ Thiên Liễu có một đầm nước tròn trịa, ngả màu xanh thẫm, mặt nước tròn vành vạnh, hệt như một tấm gương khổng lồ. Nối tiếp với đầm nước là một vụng nước nhỏ bên dưới dòng thác, cũng có hình tròn. Thác nước rất kỳ lạ, từ trên đổ xuống tầng tầng lớp lớp những tia bọt nước trắng xoá đan xen trông hệt như sợi lông vũ, rơi xuống mặt nước không gây một tiếng động, cũng không thấy có bọt nước bắn tung, mà chỉ khởi lên vô số gợn sóng theo nhau lan toả, vòng này nối tiếp vòng kia, vòng này lồng vào vòng kia. Nhìn tổng thể, hai đầm nước nối liền nhau giống như một quả bầu hồ lô lớn, vị trí thắt eo của hồ lô là một cửa hẹp dùng để nối thông hai mặt nước. Mặc dù mặt nước vô cùng tĩnh lặng, không nhìn thấy dòng nước lưu chuyển từ đầm nhỏ sang đầm lớn, nhưng ở phía Lỗ Thiên Liễu, nước trong đầm lớn đã dềnh qua bờ, tràn khắp bốn phía rồi chảy xuống chỗ trũng, cuối cùng đổ về những khe suối xung quanh. Ở hai bên đoạn thắt hồ lô có hai trụ đá do đá tảng xếp chồng lên nhau mà thành, đã rêu xanh phủ kín, cỏ dại um tùm. Chỉ thoạt nhìn đã có thể nhận ra, hai trụ đá là do con người xếp thành, lại xếp rất tuỳ tiện, kích thước trên dưới chênh lệch, nhìn chông chênh như muốn sập đến nơi. Không biết hai trụ đá có tác dụng gì, vì xem hình thù không giống như cổng chào hay tượng linh vật. Bỗng nhiên, trong lòng Lỗ Thiên Liễu chợt trào dâng một cảm giác vô cùng thân thiết, dường như cô đã từng đến nơi này, không biết là trong kiếp trước hay trong giấc mộng. Đặc biệt là hai trụ đá kia, dường như chúng từ lâu đã in hằn trong ký ức. Phía trước đã không còn đường đi tiếp, đây chính là điểm cuối cùng của thung lũng Ngộ Chân – thác Nhạn Linh. Lỗ Thiên Liễu rất chắc chắn với phán đoán của mình. Thế nhưng trong cõi mơ hồ, dường như đang văng vẳng những lời thôi thúc: -Nào, hãy tiếp tục tiến lên phía trước! Không được dừng chân! Lỗ Thiên Liễu lắc mạnh đầu liền mấy cái, như muốn tỉnh lại từ trong giấc mộng. “Là tiếng gọi của thần linh hay lời dụ dỗ của ma quỷ?” - Lỗ Thiên Liễu lại quan sát kỹ lưỡng một lượt khắp xung quanh – “Một nơi như thế này chắc hẳn sẽ không tồn tại những thứ âm tà, có lẽ mình đã tìm đúng chỗ. Âm thanh kia chính là tiếng gọi của thần linh!” Trên mặt đầm nước lớn không có cầu cũng không có thuyền, men theo bờ đầm cũng không thể vòng sang bên kia được, vì cả hai đầu đều nối liền với vách đá, trừ phi có khả năng bám trên vách đá thẳng đứng nhẵn bóng như dao gọt để trèo qua. Lỗ Thiên Liễu quỳ xuống, thử đưa tay xuống nước thăm dò. Đã không còn cách nào khác, cô buộc phải bơi qua. Ngón tay vừa chạm xuống mặt nước, một cảm giác lạnh buốt thấu xương lập tức xộc thẳng vào não tuỷ. Nhưng đó vẫn chưa phải là đáng sợ nhất, còn có một nguyên nhân khác khiến cô lạnh cứng trong lòng. Xúc giác siêu phàm của cô đã phát hiện ra dưới nước có một luồng sức mạnh ma quái, âm trầm nhưng cực kỳ mạnh mẽ. Đó là một luồng sức hút, có lẽ chính là nhờ vào sức hút này nên mặt nước nơi đây mới phồng căng như một hạt pha lê. Lỗ Thiên Liễu nhặt lấy một cành khô ven bờ, ném thẳng vào giữa đầm. Cành cây khô đáp xuống mặt nước, rung khẽ lên hai cái. Mặt nước đang nâng đỡ cành cây hơi lõm xuống một chút, sau đó đột nhiên tách ra một khe hở như có xoáy nước cực mạnh xuất hiện, cành cây lập tức lọt thỏm xuống khe hở biến mất tăm. Mặt nước phẳng lặng như gương thậm chí không có lấy một gợn sóng. Lỗ Thiên Liễu thầm cảm thấy may mắn vì mình vẫn chưa bị cảnh tượng xung quanh mê hoặc hoàn toàn. Mặt nước đầm ngay cả một cành khô cũng không nổi được, nếu cứ đâm đầu nhảy liều xuống, chắc chắn chỉ còn đường chết. Đúng lúc Lỗ Thiên Liễu đang do dự không biết phải làm thế nào, đột nhiên cảm thấy sau lưng dội đến từng cơn ớn lạnh. Cái ớn lạnh đó không giống với cảm giác buốt giá của nước trong đầm, mà giống như một mũi dùi bằng băng, một dùi băng được đông cứng từ máu tanh và xú uế, đang từ từ chọc sâu vào cột sống, khiến cô vừa đau buốt vừa ớn lạnh. Cảm giác đó nhanh chóng lan từ cột sống ra khắp cơ thể, khiến cô không thể động cựa, cũng không dám nhúc nhích, thậm chí không dám cả rùng mình. Trong lúc đó, giữa những cây cột đá phía sau lưng, đất đá cát sỏi rơi xuống càng nhiều, rồi một thứ mùi quái dị từ trên đỉnh cột dần dần bao trùm xuống dưới. Lỗ Thiên Liễu phát hiện ra, thực sự là cô không thể động đậy được nữa, cơ thể cứng đơ khiến ánh mắt của cô chỉ nhìn được về đúng một hướng. Ở đó có một gốc cây không lớn, trên gốc cây có buộc một sợi thừng đen, một đầu sợi thừng đã thò hẳn xuống đầm nước. Là dây phong huân! Lỗ Thiên Liễu đã nhận ra. Tại một số khu vực phía nam, cô đã thấy người dân khi xây nhà, không dùng khớp mộng để liên kết vì kèo xà cột, mà sử dụng phương thức buộc dây rất đơn giản sơ khai. Họ dùng một loại dây leo ngâm vào nước cho ướt rồi buộc vào chỗ cần nối, sau khi dây leo khô đi, nút buộc sẽ co rút lại, tạo nên lực liên kết rất chắc chắn. Loại dây leo mà họ dùng chính là dây phong huân. Nghe nói giống thực vật này không mốc không mọt, nghìn năm không mục nát. Trong trước tác “Nam cương tầm dị”[39] thời Bắc Tống có chép: “Dây huân màu đen như mực, dẻo dai mà không cứng, điều kỳ lạ là không bao giờ mục nát”. Đây có lẽ chính là con đường để băng qua đầm. Nhưng luồng hàn khí buốt nhói như mũi dùi băng khiến cô toàn thân tê liệt, hai chân không thể nhúc nhích nổi một ly. Đúng lúc này, một cái bóng màu đen bỗng vùn vụt băng ngang qua không trung, Lỗ Thiên Liễu nghe thấy phía sau lưng có một áp lực đè xuống cùng một tiếng động quái dị. Liền sau đó, cơ thể cô đột nhiên lao vụt đi như vừa vùng ra được khỏi một bàn tay giằng kéo, ngã dúi dụi xuống bên cạnh gốc cây. Lỗ Thiên Liễu vội vã ngoảnh đầu nhìn bóng đen đang lao vút vào rừng cây. Trông nó giống hệt như con sáo mắt đỏ vẫn âm thầm bám theo mọi người như một bóng ma. Sợi dây leo đúng ra không quá nặng. Với độ dài như thế này, đừng nói là Lỗ Thiên Liễu, ngay cả đứa trẻ bảy tám tuổi cũng có thể kéo lên dễ dàng. Nhưng trong lúc cấp bách, Lỗ Thiên Liễu lại không thể kéo nổi sợi dây. Sợi dây đã rung lên bần bật, đó là do sức hút dưới mặt nước đang giằng co với cô. Cô bắt đầu vận lực một cách khéo léo, thấy căng liền dừng, thấy lỏng liền kéo, rồi quấn phần dây đã kéo lên được thành vòng, lồng vào gốc cây. Cô phải gấp rút tranh thủ thời gian, ba giác nhạy bén đã cảm giác được luồng hàn khí nhọn hoắt kia đang vòng trở lại. Sợi dây thừng đen trũi ròng ròng nước đã được kéo căng trên mặt đầm, đầu còn lại được cố định vào chỗ thắt eo giữa hai đầm nước phía bên kia, trông nó giống hệt như một sợi thép chăng ngang đầm nước. Lỗ Thiên Liễu tung mình nhảy lên sợi dây. Sợi dây đẫm nước rất trơn, hơn nữa, một sợi dây thừng dài như vậy dù có kéo căng tới đâu cũng sẽ chùng xuống ở giữa, vì vậy hai chân cô trượt một mạch đến chính giữa sợi dây. Lúc này, sợi dây đã chùng hẳn xuống, mũi chân cô đã chạm đến mặt nước. Lỗ Thiên Liễu kinh sợ, lập tức lợi dụng lực đàn hồi của sợi dây để bật người lên nhảy về phía trước, lao đi được khoảng bốn năm bước. Song nhảy lên thì dễ, đáp xuống mới khó, thật khó lòng đứng vững trên sợi dây ướt đẫm trơn trượt như vậy. Khi Lỗ Thiên Liễu rơi xuống, bàn chân vừa chạm lên sợi dây, chưa kịp vận lực đã biết ngay là mình đã trượt chân, cơ thể lao thẳng xuống mặt nước cách vị trí thắt eo bầu không xa. Lỗ Thiên Liễu không còn kịp suy nghĩ gì thêm nữa, Phi nhứ bạc đã lao vụt đi, quấn ngay vào trụ đá chông chênh như muốn sập ven bờ. Sợi xích trên Phi nhứ bạc đã quấn trúng mục tiêu, trụ đá cũng không đổ sập, chúng vẫn chịu được sức nặng của cơ thể đang rơi xuống của Lỗ Thiên Liễu. Chỉ cần kéo căng sợi xích là có thể đu qua, nhưng vòng cung đu lên lại có một điểm rất gần mặt nước. Thế là Lỗ Thiên Liễu nhắm chặt hai mắt, cố gắng hết sức để duỗi ngang cơ thể, là là lướt đi trên mặt đầm, đuôi bím tóc rẽ thành một vệt sóng gợn trên mặt nước. Lỗ Thiên Liễu nhẹ nhàng đáp xuống khoảng đất trống nằm giữa hai đầm nước lớn nhỏ, nhưng cô không lập tức đứng lên, mà ngồi yên cố gắng điều chỉnh lại hơi thở gấp gáp và nhịp tim dồn dập. Cô đã nhìn thấy rất rõ màn bụi nước đang đổ xuống trên nhác Nhạn Linh giống hệt như lông vũ của chim nhạn. Hai vệt bụi nước li ti bay đi rất xa, rắc thành những vụn nước tí xíu long lanh trên mái tóc Lỗ Thiên Liễu, nhẹ nhàng rơi xuống. Bụi nước dày đặc phả lên khuôn mặt cô, đem lại một cảm giác trong trẻo mát lạnh rất thư thái, kèm theo một chút nhột nhạt. Lỗ Thiên Liễu cảm giác như cơ thể đang chìm trong một vòng tay mềm mại, phảng phất như có hương thơm của sữa. Trên khuôn mặt đầy căng thẳng và mệt mỏi của cô bỗng bừng nở một nụ cười. Thật kỳ lạ, chỉ cách có một đầm nước, vậy mà cảm giác ở hai bên lại khác nhau một vực, tựa như địa ngục với thiên đường. Khoảng cách hai bờ đầm tại vị trí thắt eo không lớn, Lỗ Thiên Liễu chỉ cần một cú tung mình đã có thể vượt qua. Nhưng cô trở qua trở lại đến mấy lần, vẫn không tìm thấy sợi dây thừng hay vật dụng vượt nước nào khác. Mặc dù đầm nhỏ không lớn, nhưng nếu muốn vượt qua để đến phía dưới chân thác, không có dụng cụ trợ giúp sẽ không thể thực hiện được. Kỳ thực, Lỗ Thiên Liễu cũng không biết tại sao mình lại phải đến dưới chân thác nước. Ở đó có gì? Đến đó làm gì? Song sau khi tiếng gọi đầy giục giã kia vang lên trong trí não, dường như trong tâm trí cô chỉ còn lại một mục tiêu, một quyết tâm duy nhất! Nhìn xuyên qua màn bọt nước trắng xoá hình lông vũ đang mù mịt bay tung, thấp thoáng nhìn thấy phía sau thác nước là một khối đá đã được nước xối đến nhẵn bóng, tròn trịa rất mực, tựa như một viên ngọc hình cầu bị hai trái núi kẹp vào chính giữa. “Rùa tiên rắn thiêng, phun nước nuôi ngọc”, đây là một cách cục phong thuỷ thần kỳ trong truyền thuyết, một cách cục phong thuỷ chưa từng được ghi chép trong thư tích cổ. “Mình phải đi về phía đó!” - Lỗ Thiên Liễu cuối cùng cũng đã tìm ra được lý do – “Tảng đá hình tròn bị kẹp giữa hai trái núi, hai bên sẽ có hai khe hở hình góc hẹp, cũng giống như khe hở được tạo thành khi hai khúc cối đá va đập vào nhau. Không chừng con đường để tìm ra bảo bối chính là nơi đó!”. “Nhưng bây giờ mình phải làm thế nào để vượt qua đầm nước này đây?” - Lỗ Thiên Liễu bắt đầu lo lắng – “Tia nước trên thác rơi xuống mặt đầm, ngay cả gợn sóng gợn lên trông cũng rất miễn cưỡng, chứng tỏ sức căng của mặt nước rất lớn, phía dưới kia chắc chắn còn có một luồng sức mạnh ghê gớm hơn nhiều!”. “Chắc chắn vẫn còn cách khác, có điều lúc này mình đang quá lo lắng căng thẳng nên mất đi linh giác, nhất thời không thể tìm ra!”. Nghĩ vậy, Lỗ Thiên Liễu liền ngả người nằm xuống bên mép nước, bất động hoàn toàn. Cô buông bỏ tất cả những toan tính được mất đang rối bời trong trí não, mặc tình tận hưởng sự bao bọc chở che của thiên nhiên trong chốn linh thiêng thần thánh, tận hưởng cảm giác thân thiết dịu êm khi những vụn nước li ti phả ra từ thác nước phun đầy trên khuôn mặt. Trên thế gian có vô số phương pháp tu đạo, như cách ngồi thiền nhập định của Đạo gia, cách suy tưởng nhập huyền của nhà Lý học, cách tập trung quan sát đến tận hư không của Chiêm tinh học, cách tụng kinh niệm Phật của nhà Phật... Đường đi có khác, đích đến đều chung, tất cả đều nhằm tập trung tinh thần, loại trừ tạp niệm và mọi điều quấy nhiễu, dùng tư tưởng và tâm thái trống rỗng linh diệu để giác ngộ những nghĩa lý huyền diệu thâm sâu. Nhưng trước khi các trường phái tu luyện được hình thành, phương pháp giác ngộ nguyên thuỷ nhất của con người chính là giấc mơ. Nhưng kiểu giấc mơ này không phải là đi ngủ để nằm mơ thực sự, mà là thả lỏng cơ thể, để rơi vào trạng thái nửa thức nửa ngủ, nửa tỉnh nửa mê. Trạng thái này có thể tránh được sự quấy nhiễu của ngũ quan, giúp cho não bộ có được môi trường tư duy tuyệt với nhất. Bản thân đang ở trong một chốn tựa Bồng Lai tiên cảnh, hoạt động của tư duy sẽ càng trở nên thần diệu. Sau khi chìm vào giấc mộng, Lỗ Thiên Liễu bắt đầu tìm tòi một số thứ, lần tìm một số dấu vết, biện biệt một số ngộ nhận và giả trá. Cô lại nhìn thấy Lỗ Thịnh Nghĩa, Ngũ Lang, Du Hữu Thích, và còn có cả Chu thiên sư. Ồ, hình như vẫn thiếu một người. Cô lại loáng thoáng nghe thấy tiếng nước chảy, tư duy liền nương theo đó quay trở về với con thuyền đang chạy trốn khỏi Tam Đảo Thái Hồ. Chú thích [39] Có nghĩa là sưu tầm những chuyện kỳ lạ ở vùng biên cương phía Nam.
Lời Nguyền Lỗ Ban Quyển 4 - Chương 25: Bát quái dẫn Spoiler: Click vào để đọc Mấy ngày trước, Chu thiên sư mang theo lời giải từ núi Long Hổ tới Thái Hồ, không ngờ bị đối phương bám sát. Trong tình cảnh bất đắc dĩ, buộc phải dẫn theo đám Lỗ Thiên Liễu nhân khi trời tối chèo thuyền trốn khỏi Tam Đảo. Bọn họ chèo thuyền suốt đêm không nghỉ trong Thái Hồ, may mắn là không gặp phải bất cứ nguy hiểm nào. Sau khi trời sáng, bọn họ đáp vào một vụng nước hoang vắng phía nam Thái Hồ, bỏ thuyền lên cạn. Song Chu thiên sư đã vô cùng kinh ngạc khi phát hiện ra ở chốn hoang vu không một dấu chân người này lại xuất hiện ám hiệu của Thiên Sư giáo: mây Liệt yêu. Chu thiên sư dẫn cả đám người lần theo ám hiệu đi suốt hơn ba dặm đường, cuối cùng, trong một ngôi miếu đổ nát, đã tìm ra được người lưu ám hiệu. Đó là lão bếp già chuyên lo việc bếp núc trong Thiên Sư giáo. Sự việc này khiến Chu thiên sư hết sức bất ngờ, vì tất cả những người làm công lo liệu tạp vụ trên núi đều thuê từ bên ngoài, không phải người của Thiên Sư giáo, nên chắc chắn sẽ không thể hiểu được các ám hiệu mật truyền trong giáo. Thiên Sư giáo ăn uống không câu nệ ngon dở, chỉ cần no bụng, vì vậy mặc dù người đông, nhưng không mời đầu bếp, mà chỉ mời người nấu ăn bình thường. Lão bếp già lôi thôi này, Chu thiên sư có biết, vì mặc dù lão không phải là đầu bếp có nghề, nhưng khi nấu nướng thường hay táy máy sáng tạo với những nguyên liệu tầm thường, mùi vị cũng không đến nỗi. Lão lại rất thích uống rượu đấu khẩu, bầu rượu không lúc nào rời khỏi tay, chửi bới đặc biệt ngoa ngoắt, nên người trong giáo chẳng ai không biết đến lão ta. Chu thiên sư từng hỏi tên họ lão, song lão nói lúc nhỏ là trẻ mồ côi, đến già là người neo đơn, cả đời không tên không họ. Từ sau khi theo nghề đầu bếp, mọi người đều gọi lão là Thuỷ Du Bạo, có nghĩa là nước dầu nổ. Có lẽ do lão vốn thích tìm tòi sáng tạo món mới, món luộc trong nước thì đổi sang chiên trong dầu, món rim bằng dầu lại đổi sang hầm với nước; cũng có lẽ do lão rất hay chửi bới, lối chửi rất điêu ngoa, giống như nước bắn vào dầu nóng mà nổ tưng bừng, nên mọi người mới đặt cho lão biệt hiệu này. -Tôi là Thuỷ Du Bạo đây! Chu thiên sư, ông mới xuống núi có mấy hôm đã quên mất lão già này rồi ư? – Nhìn khuôn mặt đầy vẻ hoài nghi của Chu thiên sư, lão bếp vội buông chiếc bầu sàng bên miệng xuống, vừa cười hềnh hệch vừa lên tiếng trước, hơi rượu nồng nặc phả thẳng đến trước mặt Chu thiên sư. -Đương nhiên là tôi nhận ra ông rồi! Nhưng tại sao ông lại đến đây? Vừa nghe câu hỏi, Thuỷ Du Bạo lập tức chỉnh trang nét mặt cho thật nghiêm túc. -Là thế này! Sau khi mọi người xuống núi, núi Long Hổ chẳng có ngày nào yên ổn. Mới đầu chúng tôi cứ ngỡ là yêu ma tác oai tác quái, nhưng nghĩ lại thấy không đúng, làm gì có chuyện yêu ma quỷ quái dám kéo lên núi Long Hổ làm càn. Chưởng giáo thiên sư nói rằng kẻ gây rối là người, dặn chúng tôi cứ sinh hoạt như ngày thường, việc cần làm cứ làm, chuyện khác không cần để ý đến! - Thuỷ Du Bạo nói liền một mạch rồi lại đưa bầu rượu lên miệng tợp một ngụm. -Nhưng mấy hôm trước, trời vừa bảnh mắt, chưởng giáo thiên sư đã đích thân đến nhà bếp tìm tôi, bảo tôi xuống núi, đi về phía bờ nam Thái Hồ. Lại dạy cho tôi cách làm ám hiệu. Cái đầu già này phải vất vả lắm mới nhớ được ba thứ hình thù quái quỷ kia đấy! Chu thiên sư khẽ gật đầu. Nếu quả thực núi Long Hổ bị kẻ nào ngấm ngầm theo dõi, để một lão bếp già chẳng hiểu chuyện gì xuống núi đưa tin, chắc hẳn sẽ không bị đối phương chú ý. -À, phải rồi, sợ mọi người không tin, chưởng giáo thiên sư còn đưa cho tôi một cái thẻ chả ra đồng cũng chả ra vàng. Nếu mấy ngày nữa mà mọi người không đến, chắc tôi mang cái của nợ ấy đi đổi béng lấy rượu uống cho rồi! – Lão bếp vừa nói vừa lôi tấm thẻ bài ra. Chu thiên sư giật bắn cả mình mẩy, vì ông vừa liếc qua đã nhận ra ngay đó là Thiên sư lệnh, tín phù của chưởng giáo thiên sư. Tấm thẻ bài này do tổ sư của núi Long Hổ dùng vàng đen ở biển Đông chế tác thành, chỉ có một. Nếu không phải tình thế cực kỳ nguy cấp, tấm Thiên sư lệnh này tuyệt đối sẽ không rời khỏi tay chưởng giáo. Nhưng lúc này đây, Thiên sư lệnh lại đang ở trong tay một lão bếp tầm thường, chỉ để chứng minh cho mức độ tin cậy của lão. Đến lúc này, Chu thiên sư mới thực sự ý thức được mức độ nguy hiểm và cấp bách của tình hình trước mắt. -Còn cái này nữa, tôi cũng chẳng biết nó đựng cái của khỉ gì! - Thuỷ Du Bạo lại lôi ra một túi vải màu xanh chàm. Thứ này thì người trong Thiên Sư giáo ai ai cũng có, dùng để cất những vật phẩm tuỳ thân như chu sa, bùa chú... Quả tình Thuỷ Du Bạo không thể biết được bên trong túi vải đựng thứ gì, cho dù lão có táy máy mở ra xem, cũng không thể nhận ra được. Nhưng vừa nhìn thấy chúng, thần sắc của Chu thiên sư lập tức trở nên nghiêm trọng. Vì chỉ ông mới biết, bên trong những thứ này ẩn giấu những thông tin cực kỳ hệ trọng. Tất cả mọi người đều chia nhau canh chừng ở bốn xung quanh ngôi miếu dột nát, trong miếu chỉ còn lại Lỗ Thiên Liễu, Lỗ Thịnh Nghĩa, Du Hữu Thích, Thuỷ Du Bạo và Chu thiên sư. Chu thiên sư đổ từ trong túi ra một đống gỗ vụn với hình thù quái dị. Lỗ Thịnh Nghĩa, Du Hữu Thích đều không hiểu mấy miếng gỗ kia ngoài đốt lửa nhóm lò ra còn có thể dùng vào việc gì khác. Chu thiên sư rất kiên nhẫn, ông ngồi lì một chỗ suốt một canh giờ, cuối cùng đã ghép xong các mẩu gỗ vụn thành một đồ hình hoàn chỉnh. Đó là một Bát quái bằng gỗ, chính xác hơn, nó là chiếc Bát quái gỗ tinh xảo trăm mảnh được Thiên sư giáo trên núi Long Hổ dùng để truyền thông tin tuyệt mật. Song Bát quái gỗ trông rất cũ kỹ, vừa nhìn đã biết không phải là vật dụng của mấy đời thiên sư gần đây. Lỗ Thiên Liễu cũng kiên nhẫn không hề thua kém Chu thiên sư, cô cũng ngồi lì phía trước đống gỗ vụn không chịu rời đi. Cũng nhờ cô mấy lần đưa ra gợi ý, nếu không có lẽ Chu thiên sư phải hì hục thêm một hồi lâu nữa mới có thể ghép xong. Bát quái đã ghép xong, song lại không phát hiện ra manh mối gì đặc biệt, không biết chưởng giáo thiên sư muốn gửi gắm thông tin gì trong đó? -Không thấy gì à? Để tôi xem nào, không chừng lại ở mặt sau cũng nên! – Thuỷ Du Bạo vừa nói vừa xăm xắn giơ tay cầm luôn lấy Bát quái. Những người khác còn chưa kịp ngăn cản, Bát quái gỗ đã nằm gọn trong tay lão. -A! -Ồ! Mọi người cùng kinh ngạc bật kêu lên. Chẳng ai ngờ được chiếc Bát quái mới được ghép lại từ gỗ vụn khi bị lão bếp già giằng lấy lại không hề vỡ thành từng mảnh, mà vẫn nguyên lành như cũ. Thuỷ Du Bạo lật úp bàn tay, thẳng cánh đập ngược Bát quái lên mặt bàn. Mọi người không vội tìm kiếm xem mặt sau Bát quái có manh mối gì hay không, mà châu đầu vào tìm hiểu xem tại sao Bát quái lại không bị vỡ. Thì ra những mảnh gỗ vụn tuy có vẻ lộn xộn, nhưng nếu được ghép đúng vị trí, giữa các mảnh gỗ sẽ có khả năng nâng đỡ lẫn nhau. Chỉ cần nâng toàn bộ Bát quái lên với một lực đạo nặng nhẹ thích hợp, nó sẽ không bị vỡ. Song cách lựa chọn tư thế cầm và cách khống chế lực đạo cho vừa vặn chắc hẳn vẫn nằm ngoài khả năng của một lão bếp già thô vụng. Có người nhìn thẳng vào mặt lão, có người nhìn chằm chằm vào bàn tay lão, trong mọi ánh mắt đều toát lên vẻ ngạc nhiên và nghi hoặc. Từ trong ánh mắt của mọi người, dường như Thuỷ Du Bạo đã ý thức được điều gì. Song lão lại không biết có điều gì cần phải giải thích, nên còn tỏ ra ngạc nhiên nghi hoặc hơn cả những người còn lại. Lỗ Thiên Liễu đưa ngón trỏ gõ nhẹ lên một cạnh Bát quái, vài mảnh gỗ vụn lập tức vung ra. Khi ánh mắt của Thuỷ Du Bạo dừng lại trên những mảnh gỗ vụn rơi rớt, lão chợt nghe thấy một giọng Ngô êm dịu: -Ông giỏi thế, làm sao có thể cầm lên mà không vỡ được? Tiếng Ngô vốn mượt mà êm ái, nhưng không phải ai nghe cũng hiểu. Nhưng lời Lỗ Thiên Liễu vừa nói, Thuỷ Du Bạo lại hiểu được, vì trước đây lão từng làm phụ bếp ở quán ăn lớn, nên thường xuyên tiếp xúc với đủ hạng khách từ nam bắc đông tây. -Ý cô nói là tại sao tôi có thể cầm nó lên à? Hì hì, chiêu này của tôi gọi là “dính tay chặt”, không có mấy người học được đâu. Không phải tôi khoác lác, nhưng công phu này không phải một hai ngày là có thể luyện thành, không biết đã phải đập vỡ bao nhiêu bát đĩa rồi đấy! Nhớ năm xưa khi tôi còn làm ở quán thịt của tay Đông Râu, suốt ngày từ sáng đến tối quần quật đến mồ hôi lút mặt, dẫu mỡ ngập tay, dọn dẹp bưng bê tối mắt tối mũi, nếu không nhờ vào một chiêu “dính tay chặt”, chắc đã bị đuổi đi đổ bô từ lâu rồi! Mấy người hình như cũng đã nghe thủng nguyên do từ những lời lẽ lộn xộn không đầu không cuối của Thuỷ Du Bạo. Thì ra lão đã tự mày mò luyện được cách khống chế tư thế và lực đạo từ việc làm bếp. Nghĩ cũng phải, bàn tay lúc nào cũng dầu mỡ trơn trượt, lại cầm vào cái đĩa nhẫy mỡ, cầm chặt không được, cầm hờ cũng không xong, quả thực cũng cần có kỹ xảo và lực đạo thích hợp mới được. -Tôi làm thế này này! - Thuỷ Du Bạo nói xong, lại thò tay chụp về phía Bát quái. Lần này mọi người vẫn không kịp phản ứng, không kịp ngăn cản. Nhưng Thuỷ Du Bạo không nhấc Bát quái lên, bàn tay lão vừa chạm vào Bát quái đã khựng ngay lại - Ở đây có chữ! Còn có đường gì loằng ngoằng nữa kìa! Thông tin ẩn giấu trong đống vụn gỗ không ngờ lại bị một lão bếp lôi thôi vô tài vô tướng phát hiện ra trước nhất. Các nét chữ lẫn lộn trong đồ hình hào tượng của Bát quái, trông rất cũ kỹ, lại mảnh và dày đặc. Nhưng sau khi phát hiện và quan sát kỹ lưỡng một hồi, vẫn đọc ra được nội dung: “Theo đạo trời ban ơn ra uy, như nước dâng tràn trề tận biển. Phụng mệnh vua men theo dòng nước, bỏ thân tàn tìm kiếm vật thiêng. Lời minh của Tam Bảo”. -Đôi câu đối này là lời thề tỏ ý chí của Tam Bảo thái giám Trịnh Hoà trước chuyến hải hành. – Không ai có thể ngờ Du Hữu Thích vừa nghe thấy nội dung, đã vanh vách nói ra lai lịch của dòng chữ. -Ông chắc chứ? – Chu thiên sư chưa thực tin vào phán đoán của tay đầu sỏ thổ phỉ Du Hữu Thích. Du Hữu Thích ưỡn ngực thẳng lưng, duỗi căng cần cổ, nói rất hùng hồn: -Tôi bảo đúng là đúng! Nói thực với mọi người, sở dĩ tổ tiên tôi được phát tài bất ngờ là nhờ đưa thuyền buôn đi theo đoàn thuyền viễn dương của Tam Bảo thái giám, thực hiện được mấy cuộc làm ăn lớn với người nước ngoài, sau khi phát tài mới trở về khoanh sông khoanh hồ, mua đất xây cảng. Vị Trịnh Tam Bảo đó chính là ân nhân của tổ tiên nhà chúng tôi, mọi lời nói hành vi của ân nhân, gia tộc chúng tôi đời đời truyền tụng, chẳng nhẽ tôi lại không biết! -Vậy thì đúng rồi! – Nghe Du Hữu Thích nói vậy, vẻ mặt Chu thiên sư rạng rỡ hẳn lên – Do Trịnh Hoà đưa thuyền đi biển lập được công lớn, nên đã được Vĩnh Lạc đế ban cho tên Tam Bảo, người đời sau đều gọi ông ta là Tam Bảo thái giám. Bởi vậy, nên dòng lạc khoản “Lời minh của Tam Bảo” cũng rất phù hợp. Việc này trở qua trở lại cuối cùng vẫn có liên quan đến hoàng đế Vĩnh Lạc, xem ra lần này chúng ta đã đi đúng hướng! -Ông không nghe tôi nói gì à? Cái tên Tam Bảo đã được ban tặng ngay trước khi Trịnh Hoà khởi hành chuyến đi biển đầu tiên. Ban cho cái tên này cũng là có dụng ý, nghe nói là muốn nhắc nhở Trịnh Hoà không được quên điều gì đó. Chưa biết chừng giống như trên Bát quái gỗ đã viết, cái gì mà tìm dấu vết bảo bối, nhớ tìm lấy vật thiêng nào đó cho hoàng thượng cũng nên! – Du Hữu Thích có vẻ không được lễ phép cho lắm với Chu thiên sư, cũng vì Chu thiên sư tỏ ra không mấy xem trọng một gã cướp sông cướp hồ như hắn. Lúc này, khó khăn lắm mới túm được cơ hội, nên hắn đã ăn nói xóc óc để trả đũa Chu thiên sư. Chu thiên sư là người tu hành đạo hạnh thâm sâu, đâu thèm chấp nhặt vài lời với một kẻ như Du Hữu Thích. Nhưng lão Thuỷ Du Bạo đứng bên cạnh miệng lưỡi chẳng phải loại vừa, thấy Du Hữu Thích nói năng với Chu thiên sư có phần bất kính, lập tức chen ngang: -Cậu lớn kia miệng lưỡi thật hay ho! Trông cũng tốt mã đấy nhỉ! Nói năng thì hơn cả con vệt tỉa lưỡi ba lượt, người ngợm thì hệt như con cá tròn nấu canh hành! Lời của lão nửa như khen lại nửa như dè bỉu, khiến mọi người nghe mà ngẩn ra không hiểu ý lão muốn nói gì. Lỗ Thiên Liễu là người hiểu ra đầu tiên. Thì ra Thuỷ Du Bạo đang chửi Du Hữu Thích là con rùa[40] luộc nước sôi. Cô liếc sang nhìn Du Hữu Thích, thấy hắn người ngợm béo lùn chân tay ngắn ngủn, lại vai rộng lưng bè, cần cổ thường xuyên co rụt, lắc lư một cách vô thức, quả thực trông rất giống con rùa. Cô không nhịn nổi bèn phì cười. Liền sau đó, Chu thiên sư cũng nhanh chóng hiểu ra, thì hơi giật mình, vội lách người vào giữa Du Hữu Thích và Thuỷ Du Bạo, nói vội vàng mấy câu xoa dịu: -Nói đùa thôi! Nói đùa thôi! Uống nhiều quá rồi! – Ông ta vội vã dàn hoà, bởi vì người bị lão bếp xếch mé là đầu sỏ của băng cướp trên hồ, là kiểu người hễ ra tay là sẵn sàng đoạt mạng. Nhưng thật bất ngờ là Du Hữu Thích không hề tức giận, mà ngược lại còn bật cười: -Cái lão cua già chết tiệt! Chửi hay lắm, mới hai câu mà đã biến ta thành món ăn! Vì bản thân Du Hữu Thích có biệt hiệu là Rùa gai, đương nhiên sẽ không phật ý khi bị người khác nói mình là con rùa. Hơn nữa khi nghe lão bếp nói đến “cá tròn” với “nấu canh hành”, hắn cảm thấy rất thú vị và tức cười. Thuỷ Du Bạo thấy mọi người đều bật cười vui vẻ trước câu chửi của mình, cảm thấy rất đắc ý, nên lạ há miệng nói tiếp: -Chỉ có điều... Nhưng lão mới bật ra được mấy chữ đã dừng ngay lại. Chặn họng gã không phải là mũi Nga Mi thích của Du Hữu Thích, mà là ánh mắt sắc bén của Chu thiên sư: -Cây không cười nhạo cỏ yếu, cỏ không tranh gió của cây, cùng là anh em không nên gây chuyện thị phi, hãy quay lại chuyện chính đi! – Chu thiên sư nói đoạn, lại quay về chủ đề câu đối - Mọi người hãy nhìn xem, vế trên của câu đối “nước dâng tràn trề tận biển” có lẽ là cùng một ý tứ với ba chữ “hư hải tế” trên tấm lụa vàng. Lại thêm năm xưa, quả thực là hoàng đế Vĩnh Lạc đã phái Tam Bảo thái giám đưa đoàn thuyền viễn dương vượt biển. Bây giờ chỉ còn lại ba chữ cuối cùng “thực nhạn linh”. Có lẽ câu này mới là điểm mấu chốt nhất của vấn đề, có lẽ phải liên kết toàn bộ nội dung với nhau mới hiểu được ý nghĩa thật sự... -Mực phục linh? Hê hê, Chu thiên sư thật là người sành ăn! Đó là một món ăn nổi tiếng của Phúc Kiến, màu sắc, hương vị đều tuyệt vời, lại cực kỳ bổ dưỡng. Nhớ năm xưa... – Xem ra Thuỷ Du Bạo không những không sợ Du Hữu Thích, mà ngay cả Chu thiên sư lão cũng chẳng coi ra gì. Lời của Chu thiên sư còn chưa dứt, lão đã chen ngang mà thao thao bất tuyệt. Nhưng mới nói được nửa chừng, dường như lão chợt phát giác ra điều gì, nên lập tức đổi giọng. -Này! Này! Này! Con bé kia, vừa đưa mắt gì với cha ngươi thế? Ra hiệu à? Nói thầm à? Sợ mọi người nghe thấy à? Không công bằng! Thật không công bằng! Muốn nói thì cứ nói, muốn chửi thì cứ chửi, bộ da mặt già xác của lão Thuỷ ta đây được cái rất dày, trông ta ngứa mắt thì ngươi cứ nói toẹt ra! Lỗ Thiên Liễu là người thật thà, bị Thuỷ Du Bạo nói vậy thì đỏ bừng mặt. Cô không ngờ hành động kín đáo đưa mắt cho Lỗ Thịnh Nghĩa đã bị lão già lè nhè nát rượu kia phát hiện, lại còn ầm ĩ nói toạc ra, khác nào mình vừa làm việc gì mờ ám. Song Chu thiên sư lại như choàng tỉnh khỏi cơn mơ, vội vàng tiếp lời Thuỷ Du Bạo: -Đúng rồi đúng rồi, tại sao tôi lại hồ đồ như vậy nhỉ! Tấm lụa vàng là do nhà họ Lỗ lấy được, bí mật trong đó người Lỗ gia hẳn phải biết được nhiều nhất mới đúng. Chúng tôi đã tập trung được toàn bộ manh mối thu được đến đây, mà mọi người vẫn chưa đưa ra nửa lời kết luận. -Yên lặng! Đừng làm ồn! Mồm miệng của ông chẳng khác gì nổ bỏng ngô! - Lỗ Thiên Liễu vừa nói vừa bực bội nguýt Thuỷ Du Bạo một cái. Lỗ Thịnh Nghĩa vẫn im lặng, nét mặt đầy vẻ đăm chiêu. -Được rồi! Được rồi! Tôi nói nhỏ, nói nhỏ lại là được chứ gì. Mà ông Lỗ này, ông nói gì đi chứ. Chuyện không nói không rõ, ngờ không nói không tỏ. Ông cứ nói vài lời để tôi biết được chuyện này đầu cua tai ốc ra sao, không thì phí hoài công tôi lặn lội biết bao nhiêu đường đất. Ông nói cho tôi biết, sau này lúc rượu chè còn có chuyện để tán dóc nữa chứ! - Thuỷ Du Bạo đoán chừng ở đây có chuyện thú vị, liền gặng hỏi không tha. -Đúng đấy Lỗ sư phụ! Núi Long Hổ chúng tôi đã vì gia tộc của ông mà điều động biết bao nhiêu công sức nhân lực, chuyện đó tạm chưa nói đến, nhưng bây giờ đến môn phái cũng gặp phải rắc rối, không được sông an lành. Chi bằng ông hãy nói rõ sự tình, rồi tất cả chúng ta cùng hợp sức giải quyết. Như vậy núi Long Hổ mới có thể yên bình trở lại, bọn anh Du đây cũng có thể quay về Thái Hồ sống những ngày tháng vô lo như trước kia! - Lời của Chu thiên sư nghe rất thấu tình đạt lý. -Anh cả Lỗ, anh cứ nói đi! Dù thế nào đi nữa tôi cũng quyết theo anh đến cùng! Chỉ cần tìm được cách hoá giải chỗ phá bại trên phần mộ tổ tiên, dù là địa ngục hay bể máu, tôi cũng không sợ! – Du Hữu Thích vừa nói, vừa giật giật cần cổ theo thói quen. Lỗ Thịnh Nghĩa chỉ rũ đầu ngồi bất động, hai bàn tay to lớn xiết chặt vào nhau, gân xanh nổi lên chằng chịt, cơ bắp rung giật khe khẽ. Cuối cùng, ông đã hạ quyết tâm, bèn ngẩng đầu đứng bật dậy, đưa mắt nhìn một vòng khắp lượt mọi người: -Lần này quả thực đã lớn chuyện rồi! Tôi không ngờ chỉ vì mấy con chữ mà núi Long Hổ đã phải điều động đông người đến vậy, lại còn liên luỵ đến các anh em của chú Du đây. Nhưng mọi việc giờ đã xé ra to, muốn giấu giếm không phải dễ dàng; chuyện đã nghe vào tai, muốn bỏ đi cũng đã quá muộn. Trước tiên xin được nói rõ, việc chúng tôi đang làm là để tích đức tạo phúc cho nhân loại, cho đời sau, song để thực hiện được lại vô cùng gian nan, hiểm nguy chồng chất. Các vị hãy suy nghĩ cho kỹ lưỡng, nếu như bây giờ nói ra sự thực với các vị, thì hai cha con chúng tôi sẽ phải nhờ cậy đến các vị đấy! Kỳ thực những lời này chủ yếu là nói cho Chu thiên sư nghe, còn Du Hữu Thích vốn là bằng hữu lâu năm với Lỗ Thịnh Nghĩa, đã biết ít nhiều về chuyện của nhà họ Lỗ. Chu thiên sư không nói gì, chỉ gật đầu. Lỗ Thịnh Nghĩa biết, với những bậc chân tu cao đạo như ông, một cái gật đầu đã là quá đủ. -Một lời thôi! Nếu cần đến tôi, anh cứ nói! Không cần đến tôi thì tôi đi ăn cơm đây! - Thuỷ Du Bạo nói oang oang, song giọng nói lại lè nhè không rõ, có lẽ do ngụm rượu trong miệng còn chưa kịp nuốt xuống. -Anh Thuỷ, chuyện này anh không cần phải nghe đâu, không lại hại anh chẳng còn cơ hội để uống rượu thì nguy to! - Lỗ Thịnh Nghĩa nói. -Không cho tôi nghe? Cũng được! Tôi đi! À, phải rồi, chưởng giáo thiên sư còn nhắn tôi chuyển lời gì cho các vị nữa, nhưng hình như tôi quên phéng mất rồi! - Thuỷ Du Bạo nói xong, lập tức ngoay ngoảy đi ra ngoài. -Ông nói thật đấy ư? Nhờ đưa tin mà cũng giấu lại một phần? – Lỗ Thiên Liễu trách móc. -Chịu thôi! Nấu bếp lâu ngày thành bệnh rồi, cắt thái cái gì cũng phải xà xẻo lại cho mình mấy thứ ngon lành chứ! -Đừng đi! – Khi Thuỷ Du Bạo đi ngang qua trước mặt Du Hữu Thích, đã bị hắn giơ tay chặn lại – Anh Lỗ, cứ để ông ta nghe, khi hành sự cũng dẫn ông ta theo, tôi sẽ coi chừng! – Du Hữu Thích đã suy nghĩ kỹ càng, người như thế này, nếu không gây trở ngại thì giữ, nếu gây trở ngại thì giết người bịt miệng là xong. Trước tiên cứ tìm cách moi hết những thông tin mà lão đã biết rồi tính tiếp. Kỳ thực những lời vừa rồi của Lỗ Thịnh Nghĩa cũng là để thăm dò Thuỷ Du Bạo. Ông đã lờ mờ phát hiện ra rằng lão bếp già bộ dạng lôi thôi nói năng bạt mạng này chắc chắn không phải hạng tầm thường. Chỉ nhìn vào những lời nói thật giả lẫn lộn và công phu “dính tay chặt” của lão, cho dù không phải kẻ giang hồ già đời, cũng là thành phần ranh ma được nhào nặn từ nơi chợ búa. Còn nữa, chưởng giáo thiên sư là một nhân vật thần thông, người được ông đích thân phái đến chắc chắn phải có huyền cơ dụng ý nào khác nữa. -Như vậy cũng được! Bây giờ tôi sẽ kể lại tường tận mọi việc, anh Thuỷ cũng lại đây nghe luôn đi! Lỗ Thịnh Nghĩa bắt đầu kể qua một lượt về sứ mệnh chôn bát bảo định cõi phàm của tổ tiên họ Lỗ xưa kia, sau đó lại kể đến chuyện bảo bối do họ Mặc cất giấu bị chiếm đoạt, hai nhà Lỗ, Mặc hợp sức tranh giành bảo bối với họ Chu. -Họ Chu lợi dụng khí số của bảo bối để đoạt lấy thiên hạ, trong chuyện này có một người đã đóng vai trò quan trọng, chính là Lưu Cơ Lưu Bá Ôn. Cũng chính vì nhà họ Chu có được sự trợ giúp của vị cao nhân nửa tiên nửa phàm này, nên hai nhà Mặc, Lỗ tới giờ vẫn chưa đoạt được bảo bối từ trong tay họ. -Một lần, trong một cuộc tranh đoạt, nhà họ Lỗ chúng tôi đã vô tình đoạt được một hộp vàng mệnh lý[41], qua đó biết được rằng Lưu Cơ vì muốn giúp họ Chu đoạt thiên hạ, nên đã xem trộm thiên cơ, động đến binh đao, nên công sức tu hành bị hao tổn, dương thọ sụt giảm, buộc phải nhanh chóng rời xa thế tục để tu lại cái gốc tiên thiên. Nhưng nếu rời xa thế tục để tu hành, thì khí số đời người sau này lại phải dựa vào khí hoàng gia của nhà họ Chu mới được bảo toàn, ngày sau mới có được cơ hội xuất đạo. Nhưng ông ta cũng biết rằng bảo bối mà nhà họ Chu đoạt được đã đến giai đoạn bảo khí cạn kiệt. Nếu muốn giữ vững giang sơn cho họ Chu, buộc phải tìm ra một cách thức khác. Lỗ Thịnh Nghĩa kể lại sự việc này một cách hết sức chắc chắn, vì thông tin này ông đã trực tiếp thu được từ hộp vàng mệnh lý. Còn những nội dung tiếp theo, đều là thông tin mà hai nhà Lỗ, Mặc thu thập được sau một thời gian dài bí mật theo dõi nhà họ Chu, hoặc nhờ mua chuộc những người trong cung cấm nhà Minh, nên mức độ tin cậy không biết được mấy phần. -Trước kia rời xa thế tục, Lưu Cơ đã đi khắp thiên hạ, tìm kiếm huyền số thiên cơ có lợi cho giang sơn nhà họ Chu, tổng kết nên những phương pháp hiệu quả và khả thi nhất cung cấp cho Chu Thái Tổ, để ông ta cứ theo đó mà làm. Nhưng khi đó Thái Tổ tuổi tác đã cao, không muốn lao lực nữa, nên đã truyền lại bí mật này cùng với ngôi vị cho hoàng tôn Chu Doãn Văn, đồng thời cũng nói cho ông ta biết ý nghĩa thực sự ẩn giấu bên trong, dặn ông ta sau khi kế vị hãy dốc sức thi hành. -Nhưng Lưu Cơ có giỏi tính toán đến đâu cũng không thể ngờ được rằng Vĩnh Lạc đế Chu Đệ lại cướp đoạt giang sơn, Chu Doãn Văn mang theo bí mật kia bỏ trốn biệt tích. Sau khi đoạt được ngai vàng, hoàng đế Vĩnh Lạc cũng hiểu rõ chỗ yếu của xã tắc nhà họ Chu, nên đã cho tìm kiếm khắp trong điển tích sách vở, cùng những ghi chép bí mật trong cung, rồi tập trung đông đảo nhân tài văn học biên soạn thành bộ sách “Vĩnh Lạc đại điển”. Mục đích chính là muốn tìm kiếm thông tin có liên quan tới bí mật kia, những mong giữ vững hoàng quyền đời đời bền vững. Nói đến đây, Lỗ Thịnh Nghĩa bèn ngừng lời. -Quá hay! Quá hay! Câu chuyện thật là hấp dẫn. Sau đó thế nào, kể tiếp đi chứ! - Thuỷ Du Bạo thấy Lỗ Thịnh Nghĩa dừng lại, thì sốt sắng thúc giục ông kể tiếp. -Vậy họ Chu đã động tới bảo vật nào trong bát bảo? - Mặc dù Chu thiên sư đã lờ mờ đoán ra họ Chu đã đoạt được bảo bối nào, nhưng vẫn muốn xác nhận rõ hơn. Lỗ Thịnh Nghĩa lại đưa mắt nhìn Lỗ Thiên Liễu. Thấy Lỗ Thiên Liễu không có ý ngăn cản, ông mới chậm rãi kể tiếp: -Là Hoả bảo trong Ngũ hành! -Nói như vậy, thì mười hai chữ kia chính là bí mật mà Chu Doãn Văn đã mang theo? – Chu thiên sư biết Lỗ Thịnh Nghĩa không muốn tiếp lộ thêm thông tin nào nữa, thế nhưng đây lại chính là điểm mấu chốt của vấn đề trước mắt, ông cần phải hỏi rõ. -Chúng tôi cũng không dám khẳng định! - Lỗ Thiên Liễu đáp lời Chu thiên sư bằng giọng Quan Thoại tròn vành rõ chữ - Cần phải xem xem ý nghĩa chính xác của chúng là gì đã! -Ồ! Nhưng nếu điều đó là sự thật, thì hoàng đế Vĩnh Lạc cũng đã tìm ra được một phần nội dung từ những nơi khác! – Chu thiên sư nói. -Đúng thế! Sau khi thầy kể cho con nghe những điều đã chứng kiến trên núi Võ Đang, mọi người cũng cho là như vậy. Nhưng hôm nay, khi đọc được câu đối thề nguyện của Tam Bảo thái giám trên Bát quái gỗ, e rằng những gì hoàng đế Vĩnh Lạc thu thập được năm xưa chưa hẳn đã nhiều như thầy nói. Nhưng giờ đây, con băn khoăn một điều, đó là nếu Vĩnh Lạc đế đã tìm được bí mật kia từ những nơi khác, thì nội dung trên tấm lụa chưa chắc đã phải là chìa khoá do Lưu Cơ để lại! - Lỗ Thiên Liễu đưa ra nhận định. -Suy nghĩ của con cũng rất có lý. Quy luật hưng suy của bảo bối là ba trăm năm một vòng luân hồi, trong đó một trăm năm hưng, một trăm năm bình, một trăm năm suy. Vì vậy sư hưng vượng suy bại của những gia tộc nương tựa vào bảo vật cũng phải tuân theo quy luật trên, trừ phi lại đoạt được bảo bối khác, hoặc áp dụng một thủ đoạn khác để thay đổi cách cục. Vận số hai trăm bảy mươi sáu năm của triều Minh, lại cộng thêm khoảng thời gian từ khi Minh Thái Tổ nổi dậy cho đến khi đoạt được thiên hạ, vừa vặn khoảng trên dưới ba trăm năm. Nếu nhìn vào đó, có thể thấy rằng những gì hoàng đế Vĩnh Lạc đã tìm được và thực thi đều không hề có tác dụng. -Chẳng phải mọi người vừa nói còn nói thiếu một câu gì đó ư? Có lẽ đó mới là mấu chốt! – Du Hữu Thích tỏ ra vô cùng hào hứng với cuộc thảo luận, vì hắn đã nghe ra lần hành sự này có liên quan tới một món bảo bối có thể thay đổi số trời, cải biến vận mệnh. Hắn có thể nhân cơ hội này để hoá giải phá cục phong thuỷ của gia tộc. Bởi vậy hắn chăm chú lắng nghe không sót một từ. -Còn nữa! - Lỗ Thịnh Nghĩa lên tiếng, song lại dừng một lát mới nói tiếp – Có lẽ năm xưa hoàng đế Vĩnh Lạc vẫn chưa giải mã được ý nghĩa huyền vi thực sự của những câu này, nên tất cả những việc ông ta đã làm đều không đúng cách. Chu thiên sư đưa tay vuốt vuốt chòm râu, khẽ gật đầu: -Cũng có thể! Nhưng nếu chỉ xét về mặt chữ, cách làm của hoàng đế Vĩnh Lạc đã rất chu toàn. “Hoả linh kế” có thể giải thích là tiếp nối tác dụng của Hoả linh, cũng có thể giải thích là sức mạnh của Thuỷ minh, thứ đứng tiếp sau Hoả linh, nói thẳng ra là cần tìm Thuỷ bảo. Khi Hoả bảo suy bại, cũng là lúc Thuỷ minh hưng vượng. Hoàng đế Vĩnh Lạc cho xây điện vàng Chân Vũ, đúc tượng Chân Vũ giả, là cầu mong được Thuỷ thần Chân Vũ bảo vệ phù trì. Dẫn sấm sét luyện điện, mượn lửa trời để kéo dài uy lực của Hoả bảo trong tay, cách làm này hiệu quả rất nhỏ, sức mạnh của lửa trời cũng chỉ đủ để duy trì một ngọn đèn nhỏ nhoi trong điện sáng mãi không tắt mà thôi. Về sau lại phái Trịnh Hoà đi thuyền vượt biển. Nhìn lại các đời hoàng đế mọi triều đại, tất cả đều kết mối bang giao với nước ngoài thông qua đường bộ, duy chỉ có hoàng đế Vĩnh Lạc dùng đường thuỷ, lại ban tên cho Trịnh Hoà là Tam Bảo thái giám. Tất cả các hành động này đều nhằm mượn lấy sức mạnh của Thuỷ minh, săn lùng các bảo bối trong dự tính và cả ngoài dự tính. -Thế nhưng chúng ta không thể tiến hành giải mã giống như hoàng đế Vĩnh Lạc, vì phương pháp của ông ta, chúng ta không có khả năng thực hiện. Và quan trọng nhất là ông ta đã làm như vậy nhưng vẫn không tìm được Thuỷ minh thực sự. - Lỗ Thiên Liễu nói. -Bây giờ cần thiết nhất là phải giải mã được câu cuối cùng “thực nhạn linh” có ý nghĩa gì. - Lỗ Thịnh Nghĩa nói. -Đúng vậy! Sau khi ý nghĩa của cả bốn câu đã sáng tỏ, kết hợp chúng lại với nhau để giải thích, có lẽ sẽ có được phát hiện mới! – Chu thiên sư cũng có cùng quan điểm. Lỗ Thiên Liễu đột nhiên sức nhớ ra một điều, vội kêu lên: -Này, ông Thuỷ Du Bạo, tại sao ông không nói gì? Ông hãy nói ra thông tin truyền khẩu của chưởng giáo thiên sư đi chứ! Ông nói mau lên! Ánh mắt của tất cả mọi người đều đổ dồn về phía Thuỷ Du Bạo. Lão bếp già cười rất đắc ý, đưa bầu rượu lên miệng tợp lấy một hớp, rồi mới ghé sát về phía mọi người, khẽ thì thào trong hơi rượu nồng nặc: -Đến đỉnh núi Bút Đầu núi Giang Lang tại Cù Châu, Chiết Giang để tìm người đưa tin thứ hai! Chú thích [40] Trong thói quen của người Trung Quốc, nói người khác là con rùa là câu chửi mắng rất nặng nề, có phần thô tục. [41] Chiếc hộp gói tóc, móng, Bát tự ngày sinh, và vị trí sao trời vào ngày sinh của một người.
Lời Nguyền Lỗ Ban Quyển 4 - Chương 26: Phân âm dương Spoiler: Click vào để đọc Cả đoàn người ẩn mình trên đảo nhỏ Thái Hồ quan sát suốt hai ngày hai đêm, không thấy có bóng dáng kẻ nào theo dõi, trong giang hồ cũng không có tin đồn đặc biệt nào. Thế là Chu thiên sư dẫn đầu, nhân lúc đêm sâu đưa mọi người tiến vào ranh giới Chiết Giang, đi thẳng tới đỉnh Bút Đầu trên núi Giang Lang. Suốt dọc đường đi, bọn họ vô cùng thận trọng. Đầu tiên, ngoài những người đã biết rõ nội tình, tất cả những người khác đi theo đều không được biết họ đang đi đâu. Tất cả các chặng hành trình trong mỗi ngày đều được quyết định ngay trước khi xuất phát, đi đâu cũng phái người do thám trước, sau khi xác nhận an toàn mới truyền tin cho người phía sau tiến lên. Cuối cùng còn phái người đoạn hậu để xoá sạch dấu vết, đồng thời quan sát xem có kẻ bám đuôi hay không. Đi trước dò đường là Quan Ngũ Lang. Trong cả đoàn người, ngoài Lỗ Thiên Liễu và Lỗ Thịnh Nghĩa ra, anh ta là người đáng tin nhất. Đi sau cùng xoá dấu vết là hai tiểu đồng của Chu thiên sư. Vì tiểu đồng tuổi nhỏ, ít gây chú ý, hành sự cũng kỹ lưỡng, và quan trọng nhất là chúng không biết bất cứ nội tình gì, không có bất cứ xung đột lợi ích nào với mục đích chuyến đi. Những người còn lại đi cùng một nhóm, như vậy có thể tiếp ứng và coi chừng lẫn nhau, đề phòng có người lén lút tìm cơ hội tung tin tức ra ngoài. Lão bếp già Thuỷ Du Bạo suốt dọc đường đi tay không lúc nào rời bầu rượu, vừa ngáo ngơ ngắm cảnh, vừa liên tục nốc rượu, rảnh chuyện lại đấu khẩu với người khác, hoá ra lại là người vui vẻ thảnh thơi nhất trong bọn. Du Hữu Thích đi sau cùng, vừa đi vừa đẩy một con thuyền. Đó là một con thuyền nhỏ có gắn một bánh xe dưới đáy, trông rất giống với loại thuyền nhỏ thả chim cốc săn cá. Xỏ cây sào qua nút thừng đằng trước và đằng sau, rồi gác đầu sào lên vai, lại chẳng khác gì một cỗ xe nhỏ. Nhưng khác là ở chỗ loại thuyền thả chim cốc đều được làm bằng gỗ, còn chiếc thuyền này có vỏ bằng đồng. Nó được đúc hoàn toàn từ loại đồng điếu màu đen vớt từ đáy sông Lưu Quang dưới chân núi Lưu Quang. Loại đồng này nhẹ như gỗ, cứng như thép, đã được ghi chép ngay từ đời Tống trong tác phẩm “Kim liệu phổ”. Sông Lưu Quang nước xiết nhiều xoáy, sâu không thấy đáy, nên chỉ thi thoảng mới có người nhặt được vài mảnh quặng đồng dạt vào bờ. Nếu ai cũng bơi lội thiện nghệ như Du Hữu Thích để lặn xuống sông mò, thì đồng điếu dưới đáy sông đã bị vét sạch từ lâu. Trên thuyền chất đầy đồ đạc, phần lớn là những vật dụng cần thiết và lương khô, nước uống. Ngoài ra còn có những món đồ tế nhuyễn mà Du Hữu Thích đã tích cóp trong nhiều năm qua, bao gồm tấm áo giáp đồng rẽ nước do tổ tiên họ Du để lại, nên thuyền rất nặng. Du Hữu Thích đi sau đẩy thuyền, hai đệ tử của hắn đi trước quàng thừng kéo phụ. Đi sau Du Hữu Thích là người anh em kết nghĩa của hắn Hoàng Đại Giải, hắn và Du Hữu Thích thay phiên nhau đẩy thuyền. Du Hữu Thích cho dù là đẩy thuyền hay đi không, lúc nào cũng không rời mắt khỏi Thuỷ Du Bạo. Hắn đã nói sẽ trông chừng lão bếp già kia, nên nhất định phải giữ lời. Suốt dọc đường đi, Thuỷ Du Bạo vẫn tỏ ra lịch sự với Du Hữu Thích, vì rượu cho lão uống đều do Du Hữu Thích mua về, hơn nữa vài bình rượu dự trữ cho mấy ngày sau đều để cả trên thuyền của Du Hữu Thích. Đỉnh Bút Đầu trên núi Giang Lang không quá cao. Vì vậy, ngoài hai đệ tử của Du Hữu Thích ở lại trông thuyền, tất cả những người còn lại đều thong dong lên núi giống như một đoàn khách vãng cảnh. Mọi người lưu lại đình Văn Hoa trên đỉnh núi đợi suốt hai ngày đêm, nhưng vẫn không thấy bóng dáng người đưa tin thứ hai của núi Long Hổ đâu cả. Cuối cùng, đến cả Chu thiên sư cũng bắt đầu nghi ngờ Thuỷ Du Bạo. -Nếu tôi lừa gạt các người, các người cứ việc đem tôi ra chiên, rán, luộc, hầm, quay, nướng, chín rồi không thèm ăn đổ thẳng vào thùng rác là xong! - Thuỷ Du Bạo lớn giọng thề thốt. Lỗ Thiên Liễu vốn thẳng tính, không nhịn được lại bật cười, nói: -Ông thì chỉ có chiên, rán, luộc, hầm, tổ sư núi Long Hổ ăn những món ông nấu không nổi giận mà ăn thịt ông luôn à? -Ý cô nói là tôi nấu ăn khó nuốt à? Không tin vào tay nghề của tôi à? Cô cứ hỏi Chu thiên sư mà xem! Không thì đợi lúc nào xuống núi, tôi nấu cho cô ăn thử sẽ biết liền! - Thuỷ Du Bạo tỏ ra bực bội, xem ra lão rất để bụng những đánh giá của người khác về tay nghề nấu nướng của mình. Chẳng ai thèm tiếp tục đấu khẩu với Thuỷ Du Bạo, vài câu qua lại khi nãy đã khiến mọi người nuốt nước miếng còn không kịp. Hai ngày trên núi, chỉ ăn lương khô uống nước suối cầm hơi, mồm miệng ai cũng thấy nhạt nhẽo đến khó chịu. Tất cả mọi người cứ chôn chân tại chỗ ngồi đợi cũng chẳng phải cách hay. Mọi người bàn bạc một hồi, rồi quyết định để Chu thiên sư, Lỗ Thiên Liễu, Lỗ Thịnh Nghĩa ở lại tiếp tục chờ tin, để cho họ phần lương khô còn lại, rồi những người khác xuống núi trước. Đến ngày thứ năm, những người dưới núi đoán chừng đám Lỗ Thiên Liễu đã ăn hết lương khô, liền cho người chuyển thức ăn lên núi. Thuỷ Du Bạo kiên quyết đòi đi, vì đích thân lão đã nấu được hai món ăn đắc ý, muốn Lỗ Thiên Liễu thưởng thức tài nghệ của mình. Thế là Du Hữu Thích liền cùng Thuỷ Du Bạo lên đỉnh Bút Đầu. Hai người vừa lên đến đỉnh, đồ ăn tiếp tế còn chưa kịp dọn ra thì kẻ đưa tin đã đến. Lần này vẫn là tin truyền khẩu, chỉ là hai câu đơn giản: “Dang cánh đông nam, lông vũ chạm biển”. Mặc dù kẻ đưa tin không phải là người, những vẫn phát âm rất chuẩn xác. Chu thiên sư và Thuỷ Du Bạo đều nhận ra đó là con sáo mắt đỏ mà chưởng giáo thiên sư vô cùng yêu quý. Thiên Sư giáo nuôi rất nhiều chim sáo, vì nó là một trong bốn loại linh cầm, có thể qua lại giữa hai thế giới âm dương. Trong Thiên Sư pháp có kiểu phép thuật dùng chim sáo truyền tiếng ma để hỏi về kiếp trước, kiếp này. Mà lai lịch của giống chim sáo này lại càng đặc biệt. Tên gọi chính xác của nó là “dịch duệ”, trong “Linh cầm truyện” có viết: “Dịch duệ là giống chim trời, có thể tự do đi lại giữa hai cõi âm dương, mắt lửa nhận yêu tà, miệng nói tiếng ma quỷ. Thích vùng đất ác, thường đi ban đêm, mỏ ăn óc quỷ, móng cào xác chết. Nuôi nó, là thứ vũ khí lợi hại hộ cát đuổi tà”. Thuỷ Du Bạo vừa nhìn thấy con sáo mắt đỏ, liền đổ một chút rượu vào lòng bàn tay. Con sáo lập tức sà xuống bàn tay lão, chúi đầu uống rượu. Vừa nhìn đã biết là đôi bạn chí thân, một người một chim, cùng là phường nát rượu. Xem ra chưởng giáo thiên sư lần này đã quá to gan mạo hiểm, dám dùng hai kẻ đó để đưa tin. -Lão Thuỷ, đừng có chuốc say nó, kiểm tra xem còn có thêm lời nhắn nào không, không khéo lại giấu nhẹm mất thông tin gì đấy! - Mặc dù Du Hữu Thích nhìn chim sáo uống rượu cũng cảm thấy rất tò mò thú vị, nhưng vẫn không quên bài học lần trước của Thuỷ Du Bạo. -Hề hề! Có tiến bộ! Lắt léo chửi khéo ta là giống súc sinh à? Yên tâm đi, cứ để nó uống, uống cho đã rồi chuyện gì cũng phun ra hết, uống chưa đã thì hai cái miệng trên dưới của ngươi cùng hỏi cũng chẳng cạy ra nổi một chữ! - Thuỷ Du Bạo nói đoạn, lại đổ thêm chút rượu vào lòng bàn tay. Chu thiên sư và Lỗ Thịnh Nghĩa nghe lời trả treo của Thuỷ Du Bạo với Du Hữu Thích, đều không dám bật cười. Nhưng vẫn là Lỗ Thiên Liễu không nhịn được, lại cười phá lên. Du Hữu Thích nhất thời chưa kịp hiểu ra, thấy Lỗ Thiên Liễu bật cười còn ngơ ngác hỏi: -Con bé kia, cười cái gì? Lỗ Thiên Liễu đỏ mặt, quay đầu đi, chỉ cười mà không nói. Du Hữu Thích đưa tay gãi gãi đầu, rồi mới sực tỉnh, nhảy dựng lên: -Lão cua già chết tiệt! Dám chửi ta miệng đít lẫn lộn à? Thuỷ Du Bạo chẳng thèm đếm xỉa tới Du Hữu Thích, một tay nâng con sáo, tay còn lại bưng đĩa thức ăn mà lão vừa mang đến lên: -Lỗ tiểu thư, cô nếm thử xem, đây là món cải trắng chao dầu chính tay tôi nấu đấy! Ngon tuyệt! Con sáo uống sạch trơn chút rượu trong lòng bàn tay Thuỷ Du Bạo, sau đó lại bật ra hai câu lơ lớ nghe không rõ tiếng gì với tiếng gì. -Nói gì thế? Nói lại lần nữa đi! Nói lại lần nữa đi! – Chu thiên sư vội vàng giục giã, lo sợ sẽ bỏ sót thông tin quan trọng. Song cho dù Chu thiên sư có thúc giục thế nào, con sáo vẫn cụp cánh rụt cổ lờ đi, không đoái hoài gì tới. -A! Là say thật rồi hay là lên cơn nói nhảm đấy hử? Nói năng cũng chẳng đến đầu đến đũa! - Thuỷ Du Bạo mắng con sáo, rồi ngoảnh lại nói với Chu thiên sư – Thiên sư, đừng giục nó nữa, cái giống súc sinh chết tiệt này quen thói rồi, tại chưởng giáo thiên sư chiều quá đâm hư. Mấy lời vừa nãy tôi đã nghe ra, hình như là “Bát quái có đường, tự mình tìm xem” thì phải! Mọi người nghe Thuỷ Du Bạo nói vậy, liền nhớ lại câu nói ngọng líu ngọng lô của con sáo ban nãy, có vẻ cũng gần giống thế. Lỗ Thiên Liễu vội lấy Bát quái gỗ ra. Bát quái gỗ sau khi ghép thành đã được Du Hữu Thích dùng bong bóng cá bọc lại, không dễ bung ra. Các đường nét và chữ viết phía sau Bát quái rất rõ ràng, cứ như mới được vẽ lên, song hình vẽ được tạo nên từ các đường nét lại rất quái lạ, không thể nhận ra nó có ý nghĩa gì. Bát quái gỗ được chuyền tay hết người này đến người khác, đã chuyền khắp một vòng mà ai cũng nhăn mày nhíu trán chẳng hiểu gì. Chỉ có Thuỷ Du Bạo không xem Bát quái. Lão cứ một tay bưng đĩa thức ăn một tay cầm đôi đũa lẵng nhẵng bám theo Lỗ Thiên Liễu, miệng lải nhải không ngừng: -Lỗ tiểu thư ơi, cô cứ nếm một miếng xem nào! Tôi đảm bảo không lừa cô đâu, phải nói là ngon tuyệt vời! Tôi gọi cô là chị được chưa? Nếm một miếng đi. Nếu cô ăn mà thấy không ngon, tôi gọi cô là là thím là mợ luôn! Bắt tôi gọi cô là mẹ trẻ cũng xong! Cô đừng nghe người khác nói xằng, cái thứ cá chẳng ra cá rùa chẳng ra rùa, còn khoác lác tổ tiên được theo chân Tam Bảo thái giám ra hải ngoại trở trò gian thương buôn lậu. Kể cả cứ cho là thật đi, thì tổ tiên hắn chắc chắn cũng chưa có diễm phúc được ăn món cải trắng ngon tuyệt thế này đâu! Du Hữu Thích dường như sực nhớ ra điều gì, vội nói: -Đưa Bát quái cho tôi xem lại! Cuối cùng, trong ánh mắt chờ đợi của mọi người, Du Hữu Thích đã khẳng định chắc nịch rằng, hình dạng của nét vẽ giống như sơ đồ hành trình của thuyền viễn dương trước khi Tam Bảo thái giám lên đường. -Nếu đúng là sơ đồ hành trình của Tam Bảo thái giám, vậy thì chúng ta không cần suy nghĩ về kết quả nữa. Vì sự thực đã chứng minh, phương pháp “vượt biển xa” của hoàng đế Vĩnh Lạc đã không đem lại kết quả như mong muốn. Than ôi! Ai cũng nói Thiên Sư giáo chúng ta làu thông thiên địa, nắm cả âm dương, vậy mà đôi khi chỉ một huyền cơ nho nhỏ cũng không đủ sức phá giải! - Lời nói của Chu thiên sư đầy cảm khái, xen lẫn nỗi thất vọng nặng nề. -“Làu thông thiên địa, nắm cả âm dương!” - Lỗ Thiên Liễu lặp lại lời nói của Chu thiên sư, tựa như có một tia chớp xẹt qua trí não. Chương “Âm dương” trong cuốn “Huyền giác” có câu: “Vạn vật đều có âm dương, dùng cảm giác để nhận biết vật, cần phải thấy suốt cả âm dương. Áp dụng vào hành động, cần phải nhìn rõ phải trái, lần rõ trong ngoài, nghe rõ động tĩnh, phân rõ sáng tối...” Lỗ Thiên Liễu cầm Bát quái gỗ lên, đưa một ngón tay ấn vào vị trí của hình vẽ, sau đó từ từ lật Bát quái lại, hướng mặt phải lên trên. Người đầu tiên hiểu được hành động của cô chính là Chu thiên sư. Ông lập tức dấn lên một bước, đưa hai tay đỡ nhẹ lấy mép Bát quái. Những ngón tay đặt trên mép Bát quái có phần run rẩy, hơi thở vốn bình hoà cũng trở nên gấp gáp. Một vị thiên sư đạo hạnh cao thâm lại có phản ứng này, chứng tỏ ông đang trong trạng thái vô cùng kích động và hưng phấn. Phương vị Tôn Mộc! Vị trí tương ứng ở mặt trước của đồ hình được cấu thành từ các nét vẽ là vị trí Tốn Mộc của Bát quái. Quẻ tượng Tốn Mộc chủ về đông nam, Tốn vi Phong, tượng quẻ là gió. Nhưng Lỗ Thiên Liễu và Chu thiên sư đều học về loại Bát quái số tiên thiên cổ xưa hơn, nên biết rằng vị trí này còn có một tầng ý nghĩa khác. Quẻ Tốn Mộc, cũng là quẻ thuận. Trong vạn vật của thế gian, thứ gì thuận nhất? Chính là nước. Ngoài ra, trong phần chú giải của quẻ Tốn vi Phong hậu thiên còn viết rằng: “Hạ xuống mà chưa lên, sau đó sẽ hưng khởi”, kỳ thực là được giải thích căn cứ theo hiện tượng sóng sau bè sóng trước của tướng Thuỷ hậu thiên. Lỗ Thiên Liễu và Chu thiên sư cùng đưa mắt nhìn nhau, họ đều đang cố gắng để tĩnh tâm trở lại. Tâm thái còn có thể dùng định lực của Đạo gia để trấn tĩnh, nhưng mạch tư duy rối bời thì không có cách nào ngăn trở được. Đồ hình được tạo thành từ các nét vẽ lại tương ứng với vị trí Tốn Mộc của Bát quái hậu thiên, cũng chính là vị trí Thuỷ trong tám số thành thế của Bát quái số tiên thiên cổ xưa. “Hoả linh kế” là Thuỷ minh, “giả Chân Vũ” là mượn sức của thuỷ thần, “viễn hải tế” là đi đường thuỷ, cũng có thể giải thích là bờ biển ở rất xa. Tất cả những nội dung đó có vẻ như để làm bước đệm và định nghĩa cho vế cuối cùng. Lỗ Thiên Liễu thở ra một hơi thật khẽ, đây chính là phương pháp trấn tĩnh mà cô đã học được từ cuốn “Huyền giác”. Đợi khi tâm tĩnh trở lại, cô mới chậm rãi cất lời: -Con nhớ thiên sư đã kể, vị lão đạo sĩ trên núi Võ Đang có nói hoàng đế Vĩnh Lạc không biết do đâu mà biết được rằng Tử Cấm Thành tại Bắc Bình và đỉnh Thiên Trụ của núi Võ Đang là hai huyệt nhãn âm dương của trời đất, hơn nữa còn là nam bắc âm dương đảo lộn. Thầy nghĩ xem, nguyên lý này phải chăng cũng phù hợp với Bát quái số tiên thiên cổ xưa? Chu thiên sư lập tức gật đầu. -Vậy nếu coi vị trí mắt cá dương bên trong Bát quái là Bắc Bình, vị trí mắt cá âm là núi Võ Đang, vậy thì vị trí tương ứng với đầu ngón tay của con ở mặt sau sẽ là nơi nào? -Khí ngang sang đông, đi thẳng về nam, là phương đông nam của Thần Châu. “Dang cánh đông nam, lông vũ chạm biển”, có lẽ là Phúc Kiến... – Chu thiên sư vẫn đang đắn đo, đang băn khoăn, vì ông cũng không dám khẳng định. Trong lúc Chu thiên sư vẫn đang ngập ngừng, muốn nói lại thôi, thì Lỗ Thịnh Nghĩa không thể ngồi yên được nữa, bèn buột ra một câu: -“Vũ Di thắng cảnh phương đông, trập trùng ngàn đỉnh như lông vũ xoè”. “Vũ Di thắng cảnh phương đông, trập trùng ngàn đỉnh như lông vũ xoè” và “Dang cánh đông nam, lông vũ chạm biển” đều là nói về khu vực phía đông núi Vũ Di ở Phúc Kiến. Nơi đây núi non trùng điệp, đỉnh núi tầng tầng, vách núi san sát, khe núi dọc ngang, giống hệt như tầng tầng lông vũ xoè rộng. Lỗ Thịnh Nghĩa biết được nơi này trong một lần đi tìm kiếm tung tích báu vật ở Thiệu Hưng. Lần đó, ông đã quen được một người thợ đan tre. Người thợ đan sống trong một sơn thôn chìm sâu trong rừng trúc xanh mướt bạt ngàn ngay tại vùng núi non trùng điệp ken dày như lông vũ nơi đó. Người thợ đan tên là Chúc Tiết Cao, tay nghề đan lát thuộc hàng cao siêu hiếm có. Khi gã đan đồ tre trúc, các khâu chẻ tre, pha nan, chuốt nan, đan lát, tạo hình đều nhanh thoăn thoắt, chớp mắt đã xong, khiến người ta không khỏi trầm trồ thán phục. Và đáng kinh ngạc hơn nữa là trong quá trình đan, gã còn biết lợi dụng sự khác biệt về màu sắc đậm nhạt của mỗi nan tre để tạo thành các hoa văn trang trí khác nhau trên thành phẩm. Lỗ Thịnh Nghĩa đã từng tận mắt nhìn thấy gã đan một chiếc sọt tre, chỉ thấy mười ngón tay múa tít như bay, nan tre hết phất sang trái lại vụt sang phải, còn chưa kịp nhìn kỹ, thì một chiếc sọt tre vàng óng điểm xuyết những bông cục đen nhánh đã được đan xong. Việc Lỗ Thịnh Nghĩa kết thân với gã còn có một duyên do khác. Đó là vì ông đã phát giác ra kỹ pháp đặc thù của Lỗ gia trong rất nhiều món đồ tre trúc do Chúc Tiết Cao đan. Ví dụ khi đan các loại đồ gia dụng, Chúc Tiết Cao thường đan thêm các chốt ngầm gia cố bên cạnh những bộ phận phải chịu tải, kỹ xảo này có cùng nguyên lý với phương pháp tạo thêm khớp mộng ngầm ở giữa trụ xà trong công phu Giá lương (bắc xà) của nhà họ Lỗ. Hay như khi đan những hoa văn nổi ở bên ngoài đồ tre trúc, kỹ xảo kéo nan đan xen rất giống với phương pháp khắc gỗ “chừa vuông khắc nổi” của nhà họ Lỗ. Điểm quan trọng nhất là loại giỏ xách cỡ lớn với mắt đan sáu ô do gã đan có cách sắp xếp nan tre giống hệt như quy luật “rào trúc cắm nghiêng” độc nhất vô nhị của nhà họ Lỗ. Vì vậy, Lỗ Thịnh Nghĩa cho rằng đây là hậu duệ của các tiền bối Lỗ gia từng lưu lại bảo vệ bảo bối ở nơi nào đó; cho dù không phải, chắc chắn cũng phải có mối liên quan. Sau vài lần tiếp xúc với Chúc Tiết Cao, Lỗ Thịnh Nghĩa phát hiện người này là một nghệ nhân lặng lẽ sống cách biệt với đời. Từ nhỏ đến lớn gã chỉ ở lì trong núi, đã ngoài ba chục tuổi mà mới xuống núi có hai lần. Tay nghề đan lát của gã quả thực do tổ tiên truyền lại, song không hề để lại bất cứ tin tức hay manh mối nào có liên quan tới Lỗ gia. Nhưng có một hiện tượng hết sức kỳ lạ, đối diện với đủ kiểu thăm dò của Lỗ Thịnh Nghĩa, gã thợ đan cứ ngẩn ngơ như thể ngủ mê chưa tỉnh. Nhưng trong lúc giao tiếp xử sự thường ngày, Chúc Tiết Cao lại tỏ ra rất từng trải, nói năng cử chỉ chẳng thua kém một người lão luyện giang hồ. Hơn thế nữa, định lực của gã rất mực cao siêu, không dễ kích động, chỉ nhìn vẻ mặt khó mà phán đoán được tâm tư của gã. Thực ra con người ai cũng có hai mặt, nên một kẻ như Chúc Tiết Cao là rất khó đoán. Hoặc là gã là kẻ chất phác ngây ngô cực độ, hoặc là ngay cả một kẻ lão luyện giang hồ như Lỗ Thịnh Nghĩa cũng đã bị qua mặt. Đúng là lòng người thăm thẳm lấy gì đo. Mỗi lần Lỗ Thịnh Nghĩa ra ngoài có việc, nếu đi qua vùng núi Thiên Linh, đều tạt qua thăm người bạn này. Cuộc sống trong núi khó khăn hơn nhiều so với bên ngoài, nên Lỗ Thịnh Nghĩa cũng nhiều lần chu cấp cho gã. Trong chuyến đi lần này, chặng dừng chân đầu tiên của họ chính là sơn thôn nơi Chúc Tiết Cao cư trú. Nơi đây giống như một đại dương xanh biếc. Một dòng suối nhỏ xuyên suốt qua khe núi, vách núi hai bên tre trúc phủ um tùm. Trên con đường nhỏ men theo vách núi, có ba bốn thanh niên cao to lực lưỡng vác theo những cây tre vừa đốn đi xuống dốc. Trên một tảng đá tròn nhẵn thín bên bờ suối, có mấy người đàn bà trẻ già lẫn lộn đang ngồi thong dong sửa sang, trau chuốt từng sợi nan tre. Những sợi nan mềm mại trơn tru, lấp loáng một màu xanh mướt như sơn, mượt mà như làn nước suối đang róc rách vắt qua dưới chân phiến đá. Bên suối có một máng dẫn nước ghép từ thân tre lớn bổ đôi, gác trên giá dựng từ thân trúc nhỏ, bắt nguồn từ bờ suối, quanh co chạy hút vào tận rừng sâu. -Quả là một nơi tuyệt vời! Sống ở đây, người phàm hẳn cũng nhuốm hơi hướng thần tiên! – Đây có lẽ là câu nói tử tế nhất của Thuỷ Du Bạo trong chuyến đi này. Lỗ Thịnh Nghĩa đã nhìn thấy Chúc Tiết Cao ở bãi rộng đầu thôn. Tuy nói là đầu thôn, nhưng đứng từ đây lại hoàn toàn không thể nhìn thấy khung cảnh trong thôn, vì toàn bộ sơn thôn đã chìm khuất trong bóng tre trúc dày đặc, Nếu không có người dẫn đường, chẳng ai ngờ được ở đây lại có một sơn thôn đông đúc đến thế. Gã thờ đan đang dạy mấy đứa trẻ đan đồ chơi. Nhìn thấy đám Lỗ Thịnh Nghĩa đi đến, gã không hề tỏ ra ngạc nhiên, cũng chẳng thấy vẻ vui mừng khi có bạn nơi xa tìm đến.
Lời Nguyền Lỗ Ban Quyển 4 - Chương 27: Lại ý huyền Spoiler: Click vào để đọc Một con sáo mắt đỏ bay vụt qua bãi trống, đậu trên máng tre chúi đầu uống nước. Một đứa trẻ không mấy chú tâm vào đan lát đã phát hiện ra con sáo, bèn reo lên gọi những đứa trẻ khác cùng ùa đến như ong vỡ tổ. Con chim sáo bay trở lại đậu trên mũi thuyền đồng của Du Hữu Thích, sau đó sải cánh bay vút vào rừng tre. Đó chính là con sáo mắt đỏ của chưởng giáo thiên sư. Sau khi đưa tin đến nơi, nó vẫn bám theo bọn họ. Chỉ có điều nó bay trên trời, lại tự mình kiếm thức ăn, nên suốt chặng đường chỉ xuất hiện đâu ba bốn lần. Lần nào cũng vậy, cứ uống hết rượu trong lòng bàn tay của Thuỷ Du Bạo, nó lại bay đi mất hút. Con sáo đã kéo theo cả lũ trẻ con rồng rắn chạy đi sạch, và như vậy, gã thợ đan có thể rảnh rỗi trò chuyện dăm câu ba điều với Lỗ Thịnh Nghĩa. -Ồ! Đông người thế! Đến tận nơi thâm sơn cùng cốc này, thật vất vả cho các vị quá! – Âm sắc địa phương trong lời nói của gã rất nặng, nhưng ngữ điệu có phần nhạt nhẽo. -Quả thực có chuyện cấp thiết, mới phải dẫn cả bọn đến làm phiền anh! - Lỗ Thịnh Nghĩa đã quen với thái độ lạnh nhạt của gã. -Thế à! Muốn tôi giúp chuyện gì? - Lời nói thẳng tuột của gã đã khiến cho một vài người phải lập tức nhìn hắn với ánh mắt khác. Mới qua lại có một câu mà đã biết bọn họ tìm đến để nhờ vả, người này hẳn không phải ngây ngô. -Chuyện là thế này, chúng tôi... - Lỗ Thịnh Nghĩa chưa nói hết câu, gã thợ đan đã ngắt lời: -Không cần phải nói rõ mục đích! Tôi giúp anh không mong cầu điều gì, chỉ vì anh coi tôi là bạn, mà anh cũng không phải người xấu! - Ngữ điệu tuy lạnh nhạt, song lại khiến Lỗ Thịnh Nghĩa vô cùng cảm động – Nhưng mọi người làm gì mà lại kéo đến tận đây? Ở đây chẳng có thứ gì đáng giá! - Những người đang mải tấm tắc trước cảnh sắc xung quanh đều cảm thấy lời của gã thợ đan có vẻ không thành thực. Để chứng minh cho sự tín nhiệm của mình, Lỗ Thịnh Nghĩa quyết định nói ra những mật ngôn trên tấm lục vàng cho gã thợ đan biết. Ông kéo gã sang một bên, xoay lưng về phía những người còn lại, rồi chấm ngón tay vào máng dẫn nước, viết lên mặt đá hàng chữ “Hoả linh kế, hư hải tế, giả Chân Vũ, chân nhạn linh”, sau đó hạ giọng giải thích cho gã thợ đan. Gã thợ đan tỏ ra rất lơ đãng với những lời giải thích của Lỗ Thịnh Nghĩa, chỉ chăm chú nhìn những con chữ, ra chiều ngẫm nghĩ, miệng lẩm bà lẩm bẩm. Nhìn thấy phản ứng của gã thợ đan, giọng Lỗ Thịnh Nghĩa rời rạc dần rồi dừng hẳn. Đợi đến khi Lỗ Thịnh Nghĩa không nói gì nữa, gã thợ đan mới cao giọng nói lớn: -Viết sai mấy chữ phải không? Hay là người viết nghe nhầm? Hơi khác so với tên gọi một chút! Lời vừa nói ra, tất cả những người biết về mười hai chữ này thảy đều trợn tròn con mắt. Chẳng lẽ trong đó còn có hàm ý gì khác? -Các anh em! Đến chỗ mấy cô em vừa nãy xin ít nước về uống nhé! -Tìm xem xung quanh có cây quả gì không, hái một ít về đây. Nhớ đào thêm ít măng tối về xào món đưa cơm! -... Chu thiên sư, Du Hữu Thích tìm cách đuổi hết những người không biết nội tình đi, sau đó xúm cả lại quanh gã thợ đan. -Anh Lỗ, anh giải thích như vậy là không đúng! Những chữ này đúng ra phải là hai chữ một địa danh: “Hoả Linh, Kế Hư, Hải Tế, Giả Chân, Vũ Chân, Nhạn Linh”. “Hoả Linh” là cầu Hoả Linh, nơi đó rặt là cây phong, trên núi lại toàn đá đỏ, dưới nước mọc đầy rong tía và cỏ chổi màu đỏ, cả vùng thoạt nhìn tựa như mới bị lửa thiêu, nên cây cầu này mới có tên là cầu Hoả Linh. Bên dưới cầu Hoả Linh là sông Kế Hư. Sông này nước chảy quanh năm không cạn, nhưng lại không tìm thấy nguồn nước ở đâu, nên gọi là kế tiếp hư vô, mới thành ra cái tên này. -“Hải Tế” là tên một giếng nước, ở hạ lưu sông Kế Hư, cách cầu Hoả Linh khoảng mười mấy dặm đường núi, nằm ở lưng chừng vách núi, vốn là một đầm nước tự nhiên. Mặc dù miệng đầm chỉ lớn bằng ang nước, nhưng không ai biết nó sâu bao nhiêu. Người ta đồn rằng nó là một con mắt biển, nối thông với long cung dưới đáy biển sâu, là nơi biển cả hấp thu nước của trời đất mà không bao giờ khô cạn. Giếng này có thể nhìn thấy từ xa, nhưng rất khó lại gần, vì vách núi này nằm ở chính giữa con đường xả lũ từ trên núi xuống, nên phía dưới vách núi bị nước lũ xói mòn sâu hoắm vào trong, nếu muốn trèo lên chắc phải biết cách đu người lơ lửng trên vách đá. Nhưng người trong vùng cho dù có khả năng này cũng chẳng ai dám trèo lên. Truyền thuyết nói rằng nếu bị khí âm hàn trong giếng phun trúng, không sinh bệnh tất cũng gặp vận xui xẻo. Nghe nói còn có người bị hàn khí thổi cho hồn bay phách tán, rơi ngay xuống giếng. -Hai chữ tiếp theo tôi cảm thấy không đúng. Từ giếng Hải Tế đi về phía đông, qua bốn đỉnh núi sẽ đến rừng Giá Trinh. “Giá Trinh” và “Giả Chân” âm đọc gần giống như nhau. Đó là một khu rừng vô cùng kỳ lạ, chỉ mọc toàn cây nữ trinh, cứ hai cây một mọc sát vào nhau. Truyền thuyết nói rằng muốn biết vợ có lén lút ngoại tình hay không, chỉ cần bảo cô ta khấu đầu trước hai cái cây mọc liền nhau một cái. Nếu hai cái cây tách rời ra, chứng tỏ cô ta không giữ được tiết tháo. -Từ rừng Giá Trinh đi tiếp, xuôi theo dòng nước trong sơn cốc men theo chân núi đi khoảng hơn hai mươi dặm, rồi vòng vèo qua mấy ngọn núi, sẽ đến một thung lũng tên là Ngộ Chân. Là “Ngộ” chứ không phải “Vũ” như anh viết. Thung lung Ngộ Chân rất lớn, lại sâu hun hút, đường lối bên trong hết sức khó đi, rất nhiều trùng độc thú dữ, vô cùng nguy hiểm. Sở dĩ có cái tên này, ý nói là nếu đi vào đó một chuyến, sẽ ngộ ra được ý nghĩa chân thực của sống chết vui buồn. Mặc dù nơi đó cực kỳ nguy hiểm, song trước đây vẫn có rất nhiều người lui tới, có điều chẳng ai ngộ ra được điều gì cả. -Hai chữ cuối cùng “Nhạn Linh”, tôi vẫn chưa thể khẳng định, chỉ nghe người già nói rằng ở phía tận cùng của thung lũng Ngộ Chân có một đoạn kéo dài rất khó tìm ra. Có người đã vô tình vào được nơi đó, nói rằng bên trong có thác Nhạn Linh. Vì dòng nước đổ xuống bị đá nhọn chặn đường, bắn đi tung toé, bọt nước bay tung đan xéo vào nhau, giống hệt như lông vũ chim nhạn, vô cùng đẹp mắt. Nhưng đây chỉ là lời đồn đại từ mấy đời trước, về sau cũng chẳng có ai chứng thực, không biết là thật hay giả. Trong khi Chúc Tiết Cao giảng giải, mọi người đều nín thở lắng nghe như nuốt từng lời, không một ai động cựa hay lên tiếng. Lời gã thợ đan vừa dứt, chỉ còn nghe thấy tiếng nước chảy rí rách, gió trúc lao xao. -Hãy dẫn chúng tôi tới đó! - Lỗ Thịnh Nghĩa phá vỡ sự im lặng bằng một câu chắc nịch. -Không được! – Gã thợ đan từ chối thẳng thừng. -Tại sao? -Sao thế? -Có chuyện gì? Mọi người vừa nghe đã mồm năm miệng mười nhao nhao lên hỏi. Song gã thợ đan vẫn bình thản như không, cứ ngồi ung dung đợi cho những tiếng ồn ào lắng xuống, mới khẽ đằng hắng rồi nói rành rọt: -Những nơi đó đã không thể đi được nữa. Nếu các vị đến đây sớm hơn khoảng một trăm năm, tôi sẵn sàng đưa các vị đi. Nhưng bắt đầu từ đời ông nội của tôi, không những người trong sơn thôn này, mà tất cả các sơn thôn khác trong vùng núi Thiên Linh đều đã đặt ra quy tắc không ai được phép bén mảng tới đó! -Đến sớm hơn một trăm năm? Đó là kiếp trước của ta. Những năm tháng đó ta còn bận hưởng phúc trong cung, làm gì có thời gian rảnh để đến xó rừng heo hút này! - Thuỷ Du Bạo thấy gã thợ đan nói năng có vẻ hoang đường, liền tìm lời châm chọc. -Có ở trong cung thì cái ngữ ông cũng chỉ là thái giám thôi! Đừng lắm điều, im mồm nghe cậu ta nói! – Du Hữu Thích sừng sộ chặn họng Thuỷ Du Bạo. Gã thợ đan chẳng thèm đếm xỉa tới Thuỷ Du Bạo, thản nhiên nói tiếp: -Trước đây, cư dân ở nơi này đều sống bằng nghề hái thuốc, bán tre, rất ít người làm nghề đan lát như nhà chúng tôi. Nhưng bắt đầu từ đời ông nội tôi, những người đi rừng hái thuốc thường xuyên mất tích một cách bí hiểm, không rõ sống chết thế nào. Sau đó qua điều tra xem xét, mới phát hiện những người này đều gặp nạn ở những nơi như thung lũng Ngộ Chân, rừng Giá Trinh, giếng Hải Tế. Một người hái thuốc may mắn thoát chết trở về có nói rằng, cây cối đường đi ở những khu vực đó đều hoàn toàn thay đổi, lạc vào trong không nhìn thấy ánh mặt trời, không thể xác định phương hướng. Từ đó về sau, cư dân ở đây không dám đi hái thuốc nữa, chỉ bán tre trúc, bắt đầu học cách đan đồ tre trúc mang bán như nhà chúng tôi. Nhưng Chúc Tiết Cao thật không ngờ, nghe xong những câu chuyện rùng rợn mà gã vừa kể, đám người trước mặt lại không giấu được niềm hưng phấn. -Đường đến đó có xa không? Hay là anh vẽ giúp chúng tôi một sơ đồ đường đi, chúng tôi sẽ tự tìm tới đó. – Chu thiên sư đề nghị. -Nói thế nào nhỉ. Nếu tính theo đường chim bay, kể cũng không xa lắm. Nhưng đường đi đến đó ngoắt ngoéo quanh co, lên dốc xuống đèo, tính ra cũng không gần đâu. -Vậy đường có dễ đi không? Mất khoảng bao lâu mới tới nơi? Chúng ta phải mang cho đủ lương thực đấy, nếu đói thì biết làm thế nào! - Thuỷ Du Bạo hỏi câu này, hẳn là muốn tính toán xem phải mang theo bao nhiêu rượu. -Mặc dù đoạn đường từ cầu Hoả Linh đến giếng Hải Tế chưa từng xảy ra tai nạn, vẫn là con đường cũ, song nhiều năm nay không có ai đặt chân tới, chắc rằng đường đã không còn, hẳn không dễ đi đâu. Từ giếng Hải Tế đi đến điểm tiếp theo, nghe nói chí ít cũng mất khoảng sáu ngày. Tiếp nữa thì tôi không biết! Lỗ Thiên Liễu từ đầu chí cuối chỉ đứng bên cạnh chăm chú lắng nghe. Nhưng không biết tại sao, cô luôn cảm thấy gã thợ đan trông bề ngoài có vẻ chất phác thật thà kia vẫn còn giấu giếm điều gì không chịu nói. -Còn lối đi nào khác hay không? - Lỗ Thiên Liễu hỏi bằng tiếng Quan Thoại, cô sợ gã thợ đan nghe không hiểu tiếng Ngô. -Không! - Mặc dù gã khẳng định dứt khoát, song Lỗ Thiên Liễu vẫn phát giác có một tia bất định xẹt ngang qua ánh mắt của gã. -Được! Chúng tôi cần chuẩn bị chút đồ đạc, ăn cơm xong sẽ lập tức lên đường! - Lỗ Thịnh Nghĩa nói với Chúc Tiết Cao. Gã thợ đan quay đầu gọi một đứa trẻ ở phía xa lại, bảo nó vào trong thôn nhắn người nhà chuẩn bị cơm nước, rồi nói với Lỗ Thịnh Nghĩa: -Các vị phải chuẩn bị chút lương khô chống đói, như măng khô, bánh ngô đậu xanh... Nước uống thì không cần, suốt dọc đường đều có suối chảy. Cần có thêm cây gậy cật tre để mở đường, dùng nó để chặt cành phạt lá còn tốt hơn cả đao. Mang thêm ít dép trúc bọc chân, khi đi ven sông Kế Hư lồng nó ra ngoài giày sẽ không bị trơn trượt, lại tránh được đá dăm găm vào chân. Những thứ này nhà tôi đều có sẵn, các vị cứ lấy mà dùng, nếu thiếu tôi sẽ làm thêm. Nói xong, gã không ngó ngàng gì tới đám Lỗ Thịnh Nghĩa nữa, quay trở lại chỗ ngồi gọi lũ trẻ đến dạy đan. Một loáng sau, đồ ăn đã được dọn lên, đều là những thức dân dã chốn núi rừng, như măng khô, nấm tươi, củ mài, thức ăn chính là cơm độn ngô nấu ống tre. Chúc Tiết Cao không cho đám Lỗ Thịnh Nghĩa vào trong thôn, cơm nước do một đám trai gái choai choai bưng ra tận bãi trống đầu thôn. Mọi người không ai khách sáo, lập tức ngồi xuống ăn uống ngon lành. Vốn dĩ toàn là những người không câu nệ, suốt dọc đường đi đã phát ngán vị lương khô, nên bữa cơm bình dị hôm nay khiến họ cảm thấy ngon miệng lạ thường. Lỗ Thiên Liễu cầm theo một ống cơm tre đến ngồi bên cạnh gã thợ đan. Gã thợ đan không hề ngẩng lên, chỉ cắm đầu mải miết đan sọt. Lỗ Thiên liễu đã được nghe kể về tay nghề thần kỳ của gã, nhưng giờ đây, chỉ là một chiếc sọt bình thường mà gã đan mãi không xong. Rõ ràng gã đang muốn dùng sự bận rộn của đôi tay để che giấu điều gì đó. -Bọn trẻ thật ngoan ngoãn chăm chỉ, bé gái thì xinh đẹp lanh lợi, bé trai thì khoẻ mạnh hoạt bát. Nơi đây quả thực tuyệt vời, khác nào chốn thần tiên. Nếu có thể sống mãi những ngày tháng thế này thì tốt quá! Chú Chúc ơi, đúng là chú không muốn biết chúng tôi tìm tới nơi đó với mục đích gì ư? Gã thợ đan vẫn cúi gằm, chỉ lặng lẽ lắc lắc đầu. -Có rất nhiều việc tổ tiên không cho phép làm, là vì không muốn đời sau phải chịu khổ gặp hoạ, cũng giống như quy tắc không được tới thung lũng Ngộ Chân của tổ tiên nhà chú. Thế nhưng có những việc nếu tổ tiên không làm, con cháu đời sau sẽ phải chịu khổ nhiều hơn. Nếu như nơi đây núi không còn xanh nữa, nước không còn trong nữa, những đứa trẻ đáng yêu kia không còn thức ăn nước uống, liệu chú có xông vào thung lũng Ngộ Chân để tìm cho chúng một nơi ở mới hay không? Gã thợ đan không lên tiếng, cũng không lắc đầu. -Có rất nhiều chuyện có lẽ chú hiểu rõ hơn chúng cháu, nên cháu cũng không muốn rườm lời. Cháu chỉ muốn chú biết rằng, việc làm lần này của mọi người, mục đích cũng tương tự như vậy... Không đợi Lỗ Thiên Liễu nói dứt câu, gã thợ đan đã đứng phắt dậy lầm lì bước đi, vụt một cái đã mất dạng sau rừng tre hun hút. Đến tận khi đám Lỗ Thịnh Nghĩa lên đường, gã thợ đan cũng không ló mặt ra, chỉ cho người mang đến các món vật dụng cần thiết và một sơ đồ đường đi nguệch ngoạc. Nhìn vào tấm sơ đồ, có thể thấy rằng, sau khi ra khỏi khe núi, cần men theo con đường mòn dưới chân núi đi về phía nam, sau đó vòng qua một ngọn núi ở bên trái rồi quay đầu đi về phía đông bắc, băng qua một ngã rẽ kẹp giữa hai ngọn núi rồi rẽ phải đi thêm một đoạn, sẽ đến được cầu Hoả Linh. Vừa ra khỏi khe núi, Lỗ Thiên Liễu bèn dừng bước: -Đợi chút đã, còn có người đang đến! Mọi người đều ngơ ngác, chỉ có Chu thiên sư hơi lộ nét cười tỏ vẻ đồng ý. Chờ đợi đã một hồi lâu, đám Du Hữu Thích bắt đầu sốt ruột, nhưng Lỗ Thiên Liễu vẫn khăng khăng: -Chắc chắn sẽ có người đến! Đừng vội, sẽ không lãng phí thời gian của chúng ta đâu! Sau vài câu trò chuyện với gã thợ đan, Lỗ Thiên liễu dám khẳng định rằng gã sẽ đến, vì cô đã nhìn thấu thần thái và hành vi của gã. Có lẽ đó chính là thứ tiềm năng mà cuốn “Huyền giác” đã thức dậy trong cô. Lỗ Thiên Liễu vừa dứt lời, một cái bóng lêu nghêu thình lình xuất hiện ngay trước lối ra vào khe núi. Chính là gã thợ đan Chúc Tiết Cao. Trang phục của Chúc Tiết Cao rất đặc biệt, ngang lưng quấn một bó nan tre, cổ tay, bắp chân đều mang một vòng mảnh tre bảo hộ, đầu đội một chiếc nón không bện mép, quanh vành nón một vòng nan tre chĩa ra tua tủa. Sau lưng gã giắt một thanh khảm đao bằng thép đen chuôi gỗ tần bì, đây là thanh đao chuyên dùng để chặt tre chẻ nan. Trước ngực áo có hai chiếc túi vải đặt ngang, bên trong giắt một con dao dài nhỏ và một lưỡi dao hình vuông, vốn là dụng cụ để pha nan và chuốt nan. Làm đồ tre thường phải ngồi, nên dụng cụ đặt ở trước ngực là thuận tay nhất. -Đợi tôi à? – Gã thợ đan hỏi. -Đợi chú đấy! - Lỗ Thiên Liễu đáp. -Biết tôi sẽ đến? -Có lẽ! Nhưng không biết tại sao chú lại đến. -Vì các người không phải là kẻ xấu! -Sao chú biết chúng tôi không phải là kẻ xấu? - Lỗ Thiên Liễu cười hỏi. -Vì kẻ xấu đã tới từ lâu rồi! – Gã thợ đan cũng cười. Lời vừa nói ra, một số người lập tức mặt mũi tối sầm, tim đập như trống...
Lời Nguyền Lỗ Ban Quyển 4 - Chương 28: Ẩn trong cỏ Spoiler: Click vào để đọc Nếu xuất phát từ cầu Hoả Linh, có lẽ phải mất đến mấy ngày trời mới tới được rừng Giá Trinh, chưa kể phải đảm bảo có thể thuận lợi băng qua khu vực giếng Hải Tế đã trở nên cực kỳ nguy hiểm. Nhưng Chúc Tiết Cao đã dẫn mọi người đi theo một con đường khác, một con đường mà người bình thường không thể đi qua. Mặc dù đoạn đường này rất gian nan, nhưng an toàn hơn nhiều. Vả lại đi theo đường đó, chưa tới hai ngày đã có thể đến được rừng Giá Trinh. Chúc Tiết Cao thoạt tiên cũng không nghĩ tới con đường đó. Nhưng khi nhìn thấy con thuyền đồng của Du Hữu Thích, gã đã sực nhớ ra. -Con thuyền này có thể đi ngược dòng nước chảy xiết không? – Gã thợ đan hỏi. -Vấn đề không phải ở con thuyền, mà cần có người khoẻ mạnh chèo thuyền, cần có một hoa tiêu tốt, và phải có mái chèo chắc chắn. – Du Hữu Thích thành thực trả lời. -Mái chèo tôi làm được! – Gã thợ đan hiểu rõ về mái chèo, và cũng biết cách làm mái chèo. Gã bện mái chèo bằng cách ghép các thanh tre lại với nhau, kiểu mái chèo này rất mực dẻo dai, chịu lực tốt, hơn nữa khi gặp phải lực cản quá lớn, các thanh tre sẽ toẽ ra tạo thành khe hở cho dòng nước chảy qua, đảm bảo cho mái chèo không bị gãy. Du Hữu Thích quét mắt nhìn khắp lượt đám người: -Hãy thử xem sao! Dám thử, thì chí ít hắn cũng đã chắc chắn được tám phần, nếu không, Du Hữu Thích sẽ kiên quyết từ chối. Hành tẩu giang hồ không phải trò đùa, tuyệt đối không được khinh suất. Hắn nhìn khắp lượt mọi người, là muốn xác nhận xem bọn họ có đủ để ghép đôi thành đội chèo và một hoa tiêu hay không. Cuối cùng, Du Hữu Thích quyết định đích thân hắn sẽ làm hoa tiêu. Đi thuyền ngược dòng nước xiết, hoa tiêu có vài trò vô cùng quan trọng, hắn phải nằm rạp trước mũi thuyền, quan sát sự biến hoá của luồng nước và dòng xoáy, để đưa ra quyết định thật chóng vánh, chỉ huy lực độ của các tay chèo, điều chỉnh hướng của mũi thuyền, không để thuyền đụng đầu trực diện với luồng nước xiết; lại phải tránh né đá ngầm, lợi dụng khe hở giữa các luồng nước và dòng hồi lưu để giảm thiểu lực cản cho thuyền. Các tay chèo thiện nghệ cũng tìm đủ bốn người, đó là hai đệ tử của Du Hữu Thích và người anh em kết nghĩa của hắn Hoàng Đại Giải, cộng thêm một tay chèo cứng cáp sức khoẻ như thần là Quan Ngũ Lang. Họ đã bàn bạc xong xuôi, khi nước chảy chậm chỉ cần một đôi chèo thuyền, thay phiên nhau nghỉ ngơi giữ sức; khi gặp phải dòng nước xiết, cả bốn sẽ hợp sức chèo chống. Chuẩn bị xong xuôi, gã thợ đan liền dẫn mọi người băng qua một triền sông đá sỏi lổn nhổn, đến trước một con sông nhỏ chảy xuyên qua núi, rồi nói: -Con sông này người bản xứ gọi là sông Quá Thiên, chúng ta sẽ xuất phát từ đây ngược dòng lên phía trên! Chúc Tiết Cao đã làm xong mấy chiếc mái chèo, còn kết thêm một chiếc bè tre không to không nhỏ, phần đầu bè tre có lắp một ròng rọc tre cực kỳ kiên cố. Con thuyền đồng của Du Hữu Thích ngược dòng đi trước, kéo theo sợi dây thừng do Chúc Tiết Cao bện từ các thanh tre. Sau khi đi được một đoạn, sẽ cố định đầu dây thừng vào một chỗ, những người phía sau liền quay ròng rọc để cuốn đầu thừng còn lại, kéo bè tre tiến lên. Như vậy, chiếc bè cũng có thể đi ngược dòng thuận lợi. Sông Quá Thiên nước chảy rất xiết, nhưng vẫn không thể gây khó dễ cho mấy tay chèo cừ khôi. Song cũng có mấy khúc sông khiến họ sợ đến tim đập chân run, vã mồ hôi lạnh. Những đoạn đó, một bên là vách núi dựng đứng cao chót vót, bên còn lại, phía ngoài bờ sông là vực sâu hun hút, nước sông còn tràn cả qua bờ, đổ xuống vách đá, tạo nên những thác nước như tấm mành mành trải rộng. Con thuyền phải băng qua ngay mép bờ, cạnh dòng thác đang ào ào đổ xuống. Lại có hai khúc sông chảy qua ngay trên đỉnh sống đá, cả hai bên đều là vách núi dốc tuột sâu hoắm. Đi qua những nơi này, chỉ cần hơi sơ sẩy một chút, con thuyền đồng sẽ lao qua bờ sông nông thấp mỏng manh, trôi tuột xuống vực thẳm bất cứ lúc nào. Chẳng trách gọi là sông Quá Thiên, hệt như một dòng sông chảy qua ngang trời. Đây cũng là nguyên nhân tại sao nhất định phải chèo thuyền ngược dòng mà lên, chứ không thể đi men theo bờ sông. Vì có sông mà chẳng có bờ, chỉ có thể di chuyển trên mặt nước. Hơn nữa, nếu không có con thuyền đồng của Du Hữu Thích, cũng chẳng có cách nào di chuyển được trên dòng sông này. Chèo thuyền ngược dòng nước xiết, yêu cầu phải liên tục thay đổi phương hướng thuận theo dòng nước, rất khó tránh khỏi va chạm với đá ngầm dưới lòng sông và vách đá hai bên bờ. Hơn nữa, khi gặp phải những dòng xoáy cuồn cuộn đổ xuống, con thuyền còn phải nhờ vào vách đá để giảm bớt xung lực. Bởi vậy, thi thoảng lại thấy thân thuyền va chạm vào vách đá khiến hoa lửa bắn tung toé hàng chùm. Nếu là những loại thuyền khác, hẳn đã tan xác từ lâu. Sau khi băng qua luồng nước xiết cuối cùng, đoàn người cũng đã tiến vào được một khúc sông phẳng lặng thêng thang. Lúc này, cả bốn tay chèo đều cơ bắp rã rời, tay chân bải hoải. Còn Du Hữu Thích, vì đôi mắt phải mở căng quan sát trong suốt một thời gian dài, không có lấy một giây phút nghỉ ngơi, nên mi mắt giờ cứng đờ không khép lại nổi. Cảnh sắc nơi đây như một thế giới hoàn toàn khác biệt. Bốn phía núi non trùng trùng bao bọc, trên núi là rừng cây vạt xanh vạt đỏ, đá núi mảng nâu mảng vàng, sắc màu rực rỡ như gấm. Mặt nước thoạt nhìn phẳng lặng như gương, ngưng đọng một sắc lam biêng biếc. Nhưng kỳ thực ở xung quanh có tới hơn trăm khe suối, dòng chảy liên tục đổ nước vào, vì vậy nơi đây được gọi là hồ Tụ Lưu, cũng có người gọi là Chén Rượu Trời. Song vành miệng của “chén rượu” này không hề tròn trịa, mà ở phía nam có một vụng nước mềm mại. Tại sao lại nói là mềm mại? Vì trên bờ vụng mọc chi chít một lớp cỏ ngải dày đặc, gió nhẹ lướt qua, dập dờn như một mái tóc mềm. -Trông nó giống vệt lông mày hơn. Nếu đứng từ trên núi nhìn xuống dưới, mặt nước nơi đây và bờ cỏ ngải trông giống hệt như con mắt và lông mày. Bởi vậy, vụng nước kia còn được gọi là vụng Mi Tử. - Đến được nơi đây, Chúc Tiết Cao tỏ ra hoạt bát hơn rất nhiều. -Nếu mặt nước nơi này giống như con mắt, hẳn là một con mắt đang rơi lệ! - Thuỷ Du Bạo suốt dọc đường im thin thít, có lẽ vì chết khiếp trước đủ mọi cảnh tượng hiểm trở nguy ngập. Lúc này vừa mới định thần, lập tức chõ ngay miệng vào. -Cũng đúng! Cũng đúng! – Chúc Tiết Cao quay đầu nhìn dòng chảy của sông Quá Thiên ở sau lưng, gật đầu lia lịa. Lỗ Thiên Liễu chợt ngẩn người, vì lời nói của Thuỷ Du Bạo khiến cô cảm thấy có điều gì đó không được tốt lành. Cô quay đầu nhìn Chu thiên sư, phát hiện hai đầu lông mày của ông chau lại một cách kín đáo. Bọn họ lên bờ từ vụng Mi Tử. Sau khi lên bờ mới phát hiện ra, đám “lông mày” này rậm rạp hơn và cao hơn nhiều so với khi nhìn từ xa lại. Tiến vào bãi cỏ ngải, mới cách một bước chân đã không nhìn thấy người bên cạnh. Ở đây có đường đi không? Dù có đường chắc hẳn cũng không thể đi được! Đường đi nằm ở trong “mái tóc” phía sau “lông mày”. Giống như người, phía trước trán thường có một ít tóc mai xoã xuống tận lông mày, phía sau vụng Mi Tử cũng có một khe Quải Phát. Đó là một khe núi mọc dày đặc cỏ ngải cao lút đầu, uốn lượn quanh co, thật giống như một món tóc mai mềm mại. Nhưng làm thế nào để đi qua con đường này? Trong khe núi không những cỏ ngải san sát ken dày, mà chiều dài cũng không hề ngắn. Chưa nói trong đó có ẩn tàng nguy hiểm hay không, mà ngay cả phương hướng cũng rất khó xác định. -Tôi đi trước phạt cỏ mở đường! – Ngũ Lang vừa nói vừa co duỗi cánh tay đã tê dại sau chặng chèo lái cật lực. -Cỏ ngải chỗ này là loại cỏ ngải lồng ống, đi vào trong khe núi là hai loại cỏ ngải tám lớp cỏ và cỏ ngải ống xương, đều là những giống cỏ cực kỳ dai bền và cứng cáp. Chưa nói cậu có mệt hay không, chỉ với thanh đao kia e rằng có chặt đến mẻ lưỡi cũng chưa đi nổi trăm bước. Thời Nam Tống, Nhạc Phi đánh bại quân Kim ở vũng Hoàng Thiên, chính vì đã dụ được quân Kim sa vào bãi cỏ ngải rậm rạp như thế này. Chúc Tiết Cao miệng nói, tay thoăn thoắt không ngừng, chặt lấy một cây trúc nhỏ chết khô dưới chân núi, sau đó dao pha tre dao chuốt nan cùng múa lên nhoay nhoáy, chớp mắt đã đan xong một khung vuông hình chữ thập. Sau đó, gã hái lấy một ôm lá, phiến lá rộng bản như của loài cây nhiệt đới, song không hiểu sao lại xuất hiện ở vùng này. Chúc Tiết Cao nói rằng người dân quanh đây quen gọi giống cây này là gai thi dệt, lúc còn xanh bền dai như vải, không dùng dao kéo rất khó rạch thủng, nhưng khi khô héo, chỉ một cơn gió nhẹ đã vỡ tan. Chúc Tiết Cao dùng dao pha nan cẩn thận lột lấy một lớp trên mặt lá gai thi dệt xuống, sau đó dùng nan tre xâu lấy buộc vào khung tre, làm thành một con diều hình phiến lá màu xanh biếc. Ngay từ khi Chúc Tiết Cao bắt đầu đan khung trúc, Lỗ Thịnh Nghĩa và Lỗ Thiên Liễu đã nhận ra gã muốn làm diều. Vì kết cấu của bộ khung trúc có rất nhiều điểm giống với bộ khung của diều hâu gỗ do tổ tiên Lỗ gia thiết kế. Chúc Tiết Cao lại dỡ lấy một đoạn dây thừng mà gã mang theo bên người, rồi xe thành một sợi dây nhỏ. -Này cậu Chúc, cậu muốn thả diều à? Con diều bé tẹo thế kia làm sao có thể đưa được chúng ta vượt qua bãi cỏ. Hay là bảo Lỗ sư phụ làm lấy vài con chim gỗ. Chẳng phải người ta vẫn bảo chim gỗ do tổ tiên họ Lỗ làm ra chở được cả người ư? Chúng ta cưỡi lên chim gỗ bay vọt qua là xong! - Thuỷ Du Bạo nằm khểnh trên vạt cỏ, vừa lắc lư bầu rượu rỗng không vừa nói với Chúc Tiết Cao. -Chim gỗ biết bay là sự thật, nhưng chưa chắc đã chở được người, vì bản thân nó đã rất nặng, động lực của máy móc lại có hạn. Hơn nữa, chim gỗ sau khi hoạt động sẽ không nhận được phương hướng! – Gã thợ đan lên tiếng trong khi vẫn cắm cúi xe thừng. Lỗ Thịnh Nghĩa và Lỗ Thiên Liễu đưa mắt nhìn nhau, ý tứ rất rõ ràng: gã thợ đan kia thậm chí còn thông hiểu cả đặc trưng kỹ thuật cổ xưa nhất của nhà họ Lỗ, nhưng lại khăng khăng không chịu thừa nhận mình là truyền nhân của Lỗ gia, liệu bên trong còn có ẩn tình gì khác? -Ha ha! Cậu nói thật nực cười! Chim gỗ của nhà Lỗ sư phụ không tìm được phương hướng, thế con diều bằng lá cây của cậu thì tìm được chắc? Vậy thì chắc cậu phải gắn cho nó đôi mắt cá hấp đấy phỏng! Ha ha! - Thuỷ Du Bạo lại châm biếm. -Không cần gắn thêm mắt, chỉ cần chúng ta có mắt là được! - Giọng Chúc Tiết Cao vẫn bình thản như không. Mặc dù gã đối đãi với người khác không nhiệt tình, nhưng cũng ít khi tức giận. Có lẽ do sống lâu ngày trong chốn rừng sâu non xanh nước biếc, nên đã chung đúc được mấy phần phong thái của kẻ thoát tục. -Xong rồi! Sợi thừng dài đúng một trăm đốt tre! – Rất lâu sau, gã thợ đan mới ngẩng đầu lên nói. Lúc này trời đã nhá nhem, lại vừa phải cật lực chèo thuyền ngược dòng suốt một buổi chiều, nên bọn họ quyết định dừng chân nghỉ ngơi lấy sức. -Hôm nay đã bắt mọi người phải mệt nhoài cả rồi, cái thân già của tôi cũng chịu không thấu. Không biết phía trước còn có chỗ nào phải lội ngược dòng như thế này nữa không? – Chu thiên sư ngồi xếp bằng bên bờ sông, nhưng tâm tư chồng chéo, không thể nào nhập định được. -Hết rồi! Chặng đường tiếp theo đều phải tự đi bằng chân thôi. Đương nhiên, phải xem chúng ta có biết cách đi không, cũng phải xem con đường đó có chịu để chúng ta đi qua hay không! – Câu trả lời của Chúc Tiết Cao có vẻ huyền bí, song lạ lùng là chẳng có ai hỏi vặn, dường như mọi người đều hiểu rõ ẩn ý trong lời của gã. Con diều đã được thả lên trời vào sáng sớm ngày hôm sau. Mặc dù con diều không biết đường, nhưng chắc chắn nó sẽ bay theo hướng gió. Mà gió trong khe núi chắc chắn sẽ thổi dọc theo khe, cho dù khe núi quanh co khúc khuỷu hay thẳng tắp. Vì vậy, cho dù cỏ ngải có cao cỡ nào, người ở phía sau chỉ cần đi theo con diều sẽ không sợ bị lạc. Nhưng mắt phải ngửa lên nhìn diều, nên bước chân sẽ không thể vững chãi. Cộng thêm cỏ ngải rậm rịt rất vướng víu, tốc độ di chuyển của mỗi người lại khác nhau, nên đoàn người càng đi càng phân tán, đội ngũ mỗi lúc một kéo dài. Lỗ Thiên Liễu thoạt tiên đi song song với Lỗ Thịnh Nghĩa, ngay trước mặt họ là Chúc Tiết Cao, theo sau là Quan Ngũ Lang. Mặc dù khoảng cách giữa họ chỉ chừng ba bước chân, nhưng không thể nhìn thấy nhau, chỉ có thể nghe thấy âm thanh. Về sau, đến âm thanh cũng không nghe thấy nữa, vì bản thân mỗi người khi vạch cỏ mà đi cũng gây nên những tiếng sột soạt liên hồi, gây nhiễu loạn thính giác. Thứ nữa là khoảng cách giữa bọn họ cũng dần dần bị kéo giãn. Nhưng vẫn có mấy người luôn bám sát nhau từ đầu chí cuối, vì bọn họ phải dắt nhau mà đi, đó là Du Hữu Thích và hai gã đệ tử. Bọn họ một người đẩy thuyền, hai người kéo thuyền, mặc dù bị rớt lại phía sau một đoạn, nhưng vẫn có thể theo kịp đội hình. Người anh em kết nghĩa của Du Hữu Thích là Hoàng Đại Giải không đi cùng bọn họ, vì Du Hữu Thích đã phái hắn coi chừng Thuỷ Du Bạo. Không thể lơ là với lão già này, lão biết quá nhiều chuyện, lại lắm mồm lắm miệng. Đến đoạn cuối bãi cỏ ngải trong khe Quải Phát, Lỗ Thiên Liễu là người đầu tiên chui ra khỏi đám cỏ rậm rì. Ngay bản thân cô cũng không ngờ mình còn đi trước cả Chúc Tiết Cao. Chui ra ngay sau cô không phải Ngũ Lang, mà là đệ tử của Chu thiên sư. Đi song song với cô đáng lẽ phải là Lỗ Thịnh Nghĩa, nhưng khi đi ra lại là Chu thiên sư. Loạn rồi, vị trí của mọi người đã rối loạn hết cả! Nhưng không ai bị lạc là được. Chúc Tiết Cao đã cầm dây diều đi ra, theo sau gã là Lỗ Thịnh Nghĩa và Ngũ Lang. Ba người họ cao gần bằng nhau, bước đi cũng đồng đều, vì vậy nãy giờ luôn theo sát nhau. Tiếp theo là một tiểu đồng của Chu thiên sư, sau nữa là ba thầy trò Du Hữu Thích cùng với con thuyền của họ. Sau khi con thuyền đồng được lôi ra, đám cỏ ngải lại quay về với vẻ tĩnh mịch vốn có. -Chậm thế nhỉ! Hình như không nghe thấy động tĩnh gì, người vẫn chưa ra đủ! – Ngũ Lang cất giọng ồm ồm. Thực ra chưa đợi anh ta lên tiếng, đám Chu thiên sư, Lỗ Thiên Liễu đã phát hiện ra điều bất ổn, chỉ có điều họ gắng giữ bình tĩnh, không biểu lộ ra nét mặt. -Liệu có chuyện gì không? - Lỗ Thịnh Nghĩa hỏi. Không ai trả lời. Không ai biết phải trả lời thế nào. Lỗ Thiên Liễu đi ra một chỗ cách xa hẳn những người còn lại, rồi tĩnh tâm ngưng thần, dùng ba giác siêu phàm tìm tòi trong đám cỏ ngải dày đặc như một mái tóc rậm rạp khổng lồ. Một hồi lâu sau, các giác quan của cô vẫn không tìm ra bất cứ điều gì. -Có chuyện rồi! Để tôi quay lại xem sao! – Du Hữu Thích nói đoạn, rút ngay đôi Nga Mi thích, kéo theo hai để tử phăm phăm lao vào bãi cỏ. -Dừng lại! Nghe tôi nói đã! – Chúc Tiết Cao lên tiếng – Nếu thật sự đã gặp nguy hiểm, mấy người quay lại cũng chẳng giải quyết được vấn đề gì. Nếu không phải gặp bất trắc, mà chỉ là đi lạc, tôi sẽ buộc diều ở đây, sớm muộn gì họ cũng tìm ra được! -Cậu chẳng có anh em gì trong đó, nên nói cứ như không! – Du Hữu Thích mặt giận phừng phừng - Nếu có nguy hiểm thì anh em chúng tôi cùng chết! -Cậu Du, hãy bình tĩnh, cậu Chúc nói đúng đấy! Tôi cũng còn một đứa tiểu đồng chưa ra được, cũng đang ruột gan như lửa đốt đây. Nhưng mọi việc phải suy nghĩ thấu đáo rồi mới được hành động. Cậu làm như vậy sẽ hỏng việc đấy! - Đứa tiểu đồng mà Chu thiên sư vừa nhắc đến do chính tay ông nuôi nấng từ nhỏ tới lớn, ông coi nó chẳng khác gì con đẻ. -Yên lặng! - Lỗ Thiên Liễu đột nhiên kêu lên. Mọi người ai nấy im bặt, cùng quay đầu nhìn về phía khe núi. Bãi cỏ ngải rộng ngút mắt bị gió thổi dạt nhấp nhô như sóng, nhưng là những con sóng bất động. Cả bãi cỏ không hề có chỗ nào xao động, chắc chắn là không có người đi qua. Song Lỗ Thiên Liễu đã nghe thấy một số thứ! Có người rùng mình kinh sợ, có người siết chặt vũ khí. Thậm chí đệ tử của Chu thiên sư còn móc cả bùa chú ra. -Đằng kia! - Lỗ Thiên Liễu hô lên, rồi chạy thẳng về phía vách đá ở một bên khe núi. Ngũ Lang chỉ sải vài bước đã vượt lên trước mặt cô: -Ở đâu? Để tôi đi! Du Hữu Thích cũng vội vã chạy theo. Thế là trong lúc những người còn lại chưa kịp phản ứng, cả ba người đã mất hút trong bãi cỏ ngải xanh rì. Từ trong bãi cỏ ngải nhấp nhô như sóng, thình lình vọt ra một cái bóng đen sì, kéo theo một tiếng rít khàn đặc lao thẳng lên trời. Tình huống bất ngờ khiến mọi người tóc tai dựng đứng, mồ hôi lạnh toát chớp mắt đã túa ra đẫm trán. Khi định thần lại, mọi người mới phát hiện ra bóng đen chính là con chim sáo mắt đỏ. Vừa ra khỏi bãi cỏ ngải, nó lập tức lao vụt ra khỏi cửa khe núi. Thật kỳ lạ, con chim sáo từ khi bị lũ trẻ trước thôn đuổi bắt đã bay mất tăm, không còn thấy xuất hiện, lúc này đột nhiên lại vọt ra từ bãi cỏ rậm rì, thật không hổ danh là con chim tiên của chưởng giáo thiên sư, xuất thần nhập quỷ. Cũng ngay lúc đó, ba người Lỗ Thiên Liễu cõng theo Thuỷ Du Bạo sõng sượt như con chó chết từ trong đám cỏ ngải lao ra. Lão bếp già mắt nhắm nghiền, mặt trắng bệch như sáp, tay vẫn nắm khư khư bầu rượu. -Chuyện gì thế? -Tại sao lại như vậy? -Còn hai người nữa đâu? Mọi người nhao nhao chạy xúm cả lại. Chu thiên sư móc ra một chiếc bình nhỏ, đổ ra hai viên thuốc rồi nhét vào miệng Thuỷ Du Bạo, nhưng hai hàm răng lão đã nghiền chặt vào nhau, không sao tách ra được. -Để tôi! – Chúc Tiết Cao tiện tay nhổ lấy một nhánh cỏ, rũ bỏ bùn đất bám trên gốc, để lộ ra chùm rễ trắng nõn. Sau đó gã bảo Chu thiên sư tránh ra, rồi ngồi thụp xuống trước mặt Thuỷ Du Bạo, nhét đám rễ cỏ vào lỗ mũi lão ta ngoáy loạn lên. Thuỷ Du Bạo bỗng hắt hơi thật mạnh một tiếng rồi bừng tỉnh dậy. -Cái gì vậy? Có mùi hành, lẫn chút mùi hồi hương, cho vào món măng củ chao dầu được đấy! – Không biết Thuỷ Du Bạo đã tỉnh thật hay chưa, măng củ mà cũng mang chao dầu được? -Đây là cỏ thông toàn, có thể tỉnh táo đầu óc chữa hôn mê. Nếu dùng để nấu ăn, có thể thông đường ruột, tốt hơn ba đậu nhiều! – Chúc Tiết Cao trả lời Thuỷ Du Bạo rất nghiêm túc. -Ông Thuỷ! Ông có nhìn thấy người anh em của tôi đâu không? Tôi bảo hắn đi theo ông mà! – Du Hữu Thích nôn nóng hỏi. -Anh hỏi tôi? Tôi mới phải hỏi mọi người kìa! Tại sao tôi lại ở đây? Lúc nãy tôi còn thấy mình đang nướng thịt muối diêm tiêu trên lò, đến nỗi mặt mày ám khói mũi sặc diêm tiêu, còn chưa kịp ăn thử miếng nào, đã ở đây rồi! -Ông nằm mơ đấy! - Đứa tiểu đồng còn lại của Chu thiên sư nói. -Chả nhẽ là mơ ư? Lúc ngửi thấy mùi thịt nướng hình như tôi vẫn đang đi mà! Không biết là tôi nướng thịt trước rồi đi ngủ, hay là đi ngủ rồi mới nướng thịt nhỉ? Ôi! Ôi! Tôi lú lẫn mất rồi! -Thôi, đừng hỏi thêm nữa, ông ta chẳng trả lời được câu gì ra hồn đâu! Mùi khói và mùi diêm tiêu? Tôi đoán ông ta ngửi nhầm rồi, có lẽ không phải là mùi diêm tiêu, mà là mùi lưu huỳnh na ná như thế. Dùng bột lá cây mạn đà la hun với lưu huỳnh sẽ tạo thành thứ mê hồn hương, một loại độc dược hạ lưu trong giang hồ. Trong khe núi đầy cỏ ngải này, ngoài chúng ta ra, chắc chắn vẫn còn những kẻ khác. Ba người bọn họ có lẽ cách bọn ta khá xa, tụt hẳn lại phía sau nên mới bị kẻ khác hãm hại. Nhưng trước chuyến đi chúng ta không hề để lộ thông tin, ngay cả đường đi cũng chỉ mới xác định tức thời, tại sao lại gặp mai phục được? – Chu thiên sư dù gì cũng là người của Biện Vi đường núi Long Hổ, hiểu rộng biết nhiều, chỉ với mấy câu nói loạc choạc không đầu không cuối của Thuỷ Du Bạo đã phân tích ra đầu mối. -Nếu có vấn đề, hẳn là vào buổi tối hôm qua. Thời gian một đêm đủ để ai đó lén lút truyền tin ra ngoài. Nếu như tối qua lập tức vượt khe, có lẽ chuyện này đã không xảy ra! – Chúc Tiết Cao nói. -Ý cậu nói là trong số chúng ta có nội gián? Cậu nói thử xem trông ai giống kẻ gian? Người của tôi, tôi lấy mạng ra đảm bảo! – Du Hữu Thích vừa nói vừa vỗ ngực bồm bộp. -Đêm qua đường tối, đi lại rất khó khăn! - Lỗ Thiên Liễu tuy nói thực tình, nhưng trong lòng cũng ngấm ngầm hối hận. Trên người cô có mang theo mắt bạch xà, treo thứ này lên cánh diều, vẫn có thể nhận ra đường để vượt khe Quải Phát ngay trong đêm. -Thì thế! Chính anh đã dẫn chúng tôi đi theo con đường này, liệu có phải trước đó... - Đệ tử của Chu thiên sư đứng bên cạnh cũng nói xen vào, nhưng chưa kịp nói hết câu đã bị ánh mắt nghiêm khắc của Chu thiên sư chặn lại. Mặc dù lời chưa nói hết, nhưng ý tứ đã rõ ràng, người khả nghi nhất chính là gã thợ đan. -Còn con chim kia nữa! Ông Thuỷ là bạn thân của nó, dùng nó truyền tin thì còn gì tốt bằng. Ông tự dưng lăn ra ngất xỉu chẳng biết là thật hay giả? Đừng có diễn kịch đấy nhé! - Một đệ tử của Du Hữu Thích cũng lên tiếng. Thấy sư thúc tự dưng mất tích, họ đương nhiên không tránh khỏi lo âu. -Ngươi nói ta là phường gian tế? Ngươi đi đất bằng tay đặc sản đái ngược lên đầu à? Dầu mỡ chiên đít gà đổ vào mắt ngươi à... - Thuỷ Du Bạo vừa nghe có kẻ chĩa mũi nhọn vào mình, lập tức tỉnh như sáo, chửi bới sa sả đến vuốt mặt không kịp. Nếu không có Du Hữu Thích can ngăn, tay đệ tử chắc hẳn đã lao lên tẩn cho lão bếp già một trận. -Chúng ta đừng nghi ngờ lẫn nhau nữa, hãy nhanh chóng rời khỏi nơi này. Nơi đây địa thế hiểm yếu, chớ lừng chừng mà để đối phương ra tay tóm gọn! - Mặc dù Lỗ Thịnh Nghĩa cũng cảm thấy sự việc có nhiều điểm đáng ngờ, nhưng lúc này tuyệt đối không được để xảy ra chia rẽ nội bộ. Nếu không, việc chính còn chưa bắt đầu, đã bị một mánh khoé nhỏ của đối phương làm cho tan rã. Hoàng Đại Giải và đứa tiểu đồng đang kẹt lại trong khe Quải Phát hẳn là lành ít dữ nhiều, nhưng trong tình thế này, không thể hành sự theo tình cảm. Mặc dù ai nấy đều ôm lòng ngờ vực, nhưng vẫn nghe theo lời Lỗ Thịnh Nghĩa, nhanh chóng rời đi. Chỉ để lại một tia hy vọng trong bãi cỏ dại hoang vu ngút mắt, chính là một con diều... Hết tập 4
Lời Nguyền Lỗ Ban Quyển 5 - Chương 1: Kinh rừng sớm Spoiler: Click vào để đọc Vùng đất dưỡng thi theo lời Chu thiên sư, chính là khi người ta chưa chết hẳn, dùng màng mỏng bằng bạc thuần hình tam giác phong kín cung Nê hoàn của họ. Như vậy, bảy phách của người chết sẽ tiêu tán, nhưng vẫn giữ lại được ba hồn trong thi thể. Sau đó, chôn thi thể xuống đất trong tư thế đứng thẳng, đầu cách mặt đất khoảng một thước rưỡi, đó chính là ranh giới giao thoa giữa âm và dương. Như vậy, xác chết có thể cùng lúc hấp thụ hai luồng địa khí âm dương. Xác chết kiểu này được gọi là “dưỡng thi”, tức xác chết được nuôi dưỡng. Dưỡng thi có cả đặc điểm của xác dương và hồn âm, không biết đau đớn, không có cảm giác, sức mạnh vô địch. Khi dùng bùa chú để điều khiển, nó sẽ trở thành một cỗ máy giết người, một công cụ mê hoặc. Trong các trước tác “Dị táng ký” của Lê Đại người đời Tống và “Kiếm bạc dã đàm” không rõ tác giả viết vào đời Nguyên đều có những ghi chép liên quan đến dưỡng thi. o O o Khi Chúc Tiết Cao dẫn đoàn người thình lình xuất hiện trước khu rừng Giá Trinh, bên trong cánh rừng bỗng rùng rùng rùng hỗn loạn. Từ trong rừng vọng ra những tiếng như vượn hú, ếch kêu, như sói tru, chim rít, thảm thiết rối loạn, nghe rùng rợn vô cùng. Tiếng xào xạc của lá cây va đập dội lên từng đợt lúc chỗ này lúc chỗ kia, cả một khu rừng hệt như đang bị một bàn tay khổng lồ gạt qua gạt lại. Sự xuất hiện đột ngột của bọn họ đã làm kinh động đến yêu ma quỷ quái, hay đã thức dậy dã quỷ vong hồn? Năm ngón tay trái của Chu thiên sư múa tít như bay. Động tác bấm độn thuần thục đến nhường này, chỉ có những vị thiên sư đạo hạnh cao thâm như ông mới có thể thực hiện được. Khi đầu ngón tay cái của Chu thiên sư dừng lại trên đốt thứ hai của ngón giữa, khu rừng lại quay trở về với trạng thái tĩnh mịch ban đầu. Từng ngọn cây lá cỏ đều như đông cứng, gió nhẹ phất qua cũng không khiến chúng lay động mảy may. Lúc này, Lỗ Thiên Liễu đang rất hoang mang, cũng vô cùng sợ hãi. Thính giác nhạy bén siêu phàm của cô không thể tìm ra bất kỳ tiếng động lạ thường nào trong khu rừng đang lặng phắc. Vừa mới đây thôi còn ầm ào rối loạn, thoắt một cái đã im lặng như chết. Tình hình quả thực vô cùng khó hiểu, càng khiến người ta phải khiếp sợ hơn. Khả năng điều khiển có thể đạt tới trình độ này, nguồn sức mạnh ẩn giấu phía sau chắc chắn phải khủng khiếp đến khó tưởng tượng. -Có thứ gì ở đó? - Lỗ Thịnh Nghĩa thấp giọng hỏi nhỏ Chu thiên sư. -Có một số thứ âm uế, nhưng đều do con người tạo ra. Không sao đâu, họ có thể tạo ra, chúng ta cũng có thể chống lại! - Lời của Chu thiên sư đã thức dậy niềm tin và dũng khí của mọi người. Nhưng chỉ với lòng tin và dũng khí vẫn chưa đủ. Muốn vượt qua khu rừng này, quan trọng nhất vẫn là phải có khả năng. Sau khi đi vào khu rừng, họ phát hiện ra cây cối ở đây giống hệt như những gì Chúc Tiết Cao đã kể, cứ hai cây một tựa sát vào nhau. Thế nhưng nhìn vào những đám cây bụi và lá rụng trên mặt đất, nơi đây chắc chắn không phải là suốt trăm năm không có bóng người lui tới. -Cậu Chúc, chẳng phải cậu nói nơi đây hơn trăm năm qua không ai được phép đặt chân tới ư? Tại sao lại không có lớp mùn do lá cây tích lại? Du Hữu Thích thắc mắc đầu tiên. -Chú không nghe chú Chúc nói hay sao? Kẻ xấu đã tới từ lâu rồi! – Lỗ Thiên Liễu nhanh nhảu trả lời thay Chúc Tiết Cao – Không được đến không phải là không muốn đến, mà là kẻ xấu không cho họ đến. Ở đây không những lá cây không tích thành mùn, chú cứ nhìn kỹ mà xem, cành cây cũng đã được cắt xén gọn gàng. Còn nữa, còn nữa… - Lỗ Thiên Liễu đột ngột đổi giọng Quan Thoại hô lớn - Cẩn thận! Đừng đụng vào gốc cây! Nhưng đã muộn! Hai gốc cây đang tựa sát vào nhau đã thình lình tách đôi ra. Có người hiếu kỳ đưa tay sờ vào cành cây, khiến chúng đột ngột tách rời. Hai cây nữ trinh vừa tách nhau ra, một gã đệ tử của Du Hữu Thích cũng bay vụt đi. Thật khó tưởng tượng, một gã ngư phu cao to cường tráng, một gã cướp hồ sức vóc lừng lững, một cơ thể vai u thịt bắp gân cốt rắn rỏi nhường đấy lại có thể bay đi nhẹ tênh như một phiến lá qua phía trước cây nữ trinh vừa tách nhau ra. Bị gốc cây vô ý sờ vào bật phải hất văng đi đã là một chuyện hết sức quái lạ và khó tin, nhưng càng quái lạ và khó tin hơn nữa, đó là cú hất mới chỉ là khúc dạo đầu. Điểm rơi xuống của gã đệ tử lại là một cặp cây nữ trinh khác, nên thân thể văng đi còn chưa kịp tiếp đất, lại bị quật văng đi tiếp. Điểm rơi tiếp theo vẫn là một cặp cây nữ trinh. Tay đệ tử đã rơi phịch xuống dưới gốc của cặp cây nữ trinh thứ tư. Không phải là gốc cây đã hết lực đàn hồi, mà là trong lúc hắn đang bị hất văng tới cặp cây thứ tư, có một thứ đã bay vụt lên trước, đập vào gốc cây trước cả hắn, kịp thời tiết hết lực đàn hồi. Thứ lao vọt lên phía trước hắn là một bầu rượu sành. Rượu văng tung tóe lên thân cây càng lá, mùi rượu phả ra sặc sụa trong gió. Chủ nhân của bầu rượu đương nhiên chỉ có thể là Thủy Du Bạo. Khi ở trong thôn của Chúc Tiết Cao, lão không được ăn thịt uống rượu, nhưng lúc lên đường, lão đã kịp xin một chiếc gùi tre đan bằng nan mảnh có nắp đậy để mang theo số rượu còn sót lại bên mình. -Tôi đã nói rồi mà không nghe! Với những khu rừng có linh tính như thế này, phải mang theo ít rượu chè hương nến cúng tế đàng hoàng, nếu không sẽ làm kinh động tới thần linh. Nhìn mà xem, chỉ cần tưới rượu là bình yên vô sự, đúng không? Bọn trẻ các ngươi đúng là chẳng hiểu biết gì cả. À, mà Chu thiên sư, tại sao cả ông cũng quên được nhỉ? - Thủy Du Bạo lải nhải một hồi, không biết là thật hay giả. Lỗ Thiên Liễu hơi sững lại. Thủy Du Bạo lúc nào cũng ra vẻ bênh vực Chu thiên sư, nhưng mấy câu cuối cùng lại như có ý trách móc, trong lời nói dường như còn có ý tứ gì khác. Tay đệ tử của Du Hữu Thích cuối cùng cũng đã “vô sự”. Xương hông trái vỡ vụn, cẳng chân phải gãy làm ba khúc, hai dẻ xương sườn lòi cả ra ngoài. Với thương thế này, xem ra hắn không thể làm được sự việc gì nữa. Mọi người đành phải khiêng hắn ra khỏi rừng Giá Trinh, tìm một nơi an toàn cho hắn ngồi tạm, để lại lương khô và thuốc trị thương. Giờ đây, hắn chỉ còn làm được một việc duy nhất, đó là dưỡng thương và chờ đợi. Du Hữu Thích lòng nặng trĩu như đá đeo. Đích đến còn xa tít tắp, thế mà hắn đã mất đi một người anh em và một đệ tử. Xem ra mọi chuyện không phải là cứ cố gắng là sẽ hoàn thành, cần phải gửi gắm hy vọng cho một người có nhiều khả năng đạt được mục đích nhất. Hắn bắt đầu âm thầm tính toán trong lòng. Cho dù lời nói của Thủy Du Bạo có thánh tướng đến thế nào, chỉ quăng đi một bầu rượu tuyệt đối không thể giải được nút. Hơn nữa, họ mới chỉ giẫm vào mép khảm, còn nút lẫy thật sự trong khảm diện vẫn chưa bung ra. Lỗ Thịnh Nghĩa cẩn thận dùng chiêu đo đạc bằng ngón tay và thế Phục long thám căn để kiểm tra rừng cây trước mặt, và người thợ mộc già này đã phát hiện ra điều bí mật trong quy luật sắp xếp của những cặp cây sánh đôi. Cục tướng của khảm diện này giống hệt như thành lũy bốn phương liền ụ của nhà họ Lỗ, chính là “ba mươi sáu Thiên Canh chầu thánh vị”. Khảm diện Thiên mục thác bộ (mắt lệch chân xiêu) bí truyền trong giới khảm tử gia phương nam cũng dựa theo nguyên lý này. Bộ pháp di chuyển trong cách cục Thiên Canh chầu thánh vị có yêu cầu hết sức nghiêm ngặt về độ ngắn dài mau chậm của bước đi, nếu không thể tuân theo quy luật đó, trong quá trình di chuyển, sẽ gây ra hiện tượng lệch lạc thị giác. Đi càng nhiều bước, cảm giác sai lệch càng chồng chéo, cuối cùng bản thân sẽ mất kiểm soát mà tự đâm đầu vào gốc cây. Bởi vậy, khảm diện này còn được gọi một cách thông tục là “mắt lệch chân xiêu”, nếu sa vào trong khảm, sẽ có hiện tượng mắt nhìn lệch lạc chân bước xiêu vẹo, nhận lầm phương hướng. Không ai biết được muốn vượt qua khảm diện Thiên Canh chầu thánh vị ở đây, xét về bộ pháp cần phải tuân theo những quy tắc gì, dài ngắn ra sao, nhanh chậm thế nào. Hơn nữa, ở đây lại sử dụng từng cặp cây để làm mê chướng, trên cây cành lá rậm rịt, không thể dùng làm vật tham chiếu để ước lượng khoảng cách giữa các bước chân. Trong tình hình này, chỉ cần một bước đi có chút sơ sẩy, thì tiếp đó chỉ trong vòng mười bước chắc chắn sẽ đụng cây trúng nút. Thế nhưng nhà họ Lỗ có một phương pháp cố định thường xuyên được sử dụng để đối phó với dạng khảm diện mê chướng quanh co kiểu này, đó chính là vừa đi vừa thăm dò. Tức là đi một bước nhìn một bước, sau khi đi xong một bước, đợi cho thị giác hồi phục bình thường, quan sát cho kỹ rồi mới bước tiếp. Mặc dù tốc độ chậm chạp, nhưng rất hiệu quả để thoát khỏi khảm diện an toàn. Phương pháp này thông thường được thi triển nhờ kỹ pháp Tịch trần trong công phu Lục hợp của nhà họ Lỗ, vì người luyện Tịch trần thị lực rất tốt, lại thận trọng và kiên nhẫn, có thể phát hiện ra những nút lẫy rất khó quan sát. Trong đoàn người, giỏi kỹ pháp Tịch trần chỉ có mình Lỗ Thiên Liễu. Vì vậy, người thứ hai trúng phải nút lẫy không ai khác ngoài cô. Lỗ Thiên Liễu không va phải gốc cây đôi, mà bị một sợi dây da mềm giấu dưới vạt cỏ quật trúng. Sau khi quan sát thấy mọi thứ vẫn bình thường, cô tiếp tục giơ chân định dấn lên một bước, lập tức bị sợi dây da quật thẳng cánh vào mu bàn chân. Lỗ Thiên Liễu bất ngờ bị mất thăng bằng, lao thẳng vào gốc một cặp cây nữ trinh. Song Lỗ Thiên Liễu đang mất đà loạng choạng vẫn không đâm trúng hai cây nữ trinh kề sát, cô đã khựng lại khi chỉ còn cách thân cây chưa đầy một bàn tay. Nguyên nhân rất đơn giản, ngày từ khi bắt đầu tiến lên, Lỗ Thiên Liễu đã quấn sợi xích của Phi nhứ bạc lên chuôi đao của Ngũ Lang. Cũng giống như những động tác phối hợp mà họ vẫn thường xuyên luyện tập, nếu xảy ra chuyện bất thường, Ngũ Lang sẽ lập tức giật đao kéo cô trở lại. -Là dây bật tám bước! Liễu Nhi, men sát thân cây đi vòng quanh gốc, đừng đi qua khe hở giữa hai cây! - Thực ra chưa cần Lỗ Thịnh Nghĩa nhắc nhở, Lỗ Thiên Liễu cũng đã nhận ra. Nút lẫy vừa rồi là một kỹ xảo mà các “bang thòng lọng” thuần thục ngựa phương Bắc sử dụng thường xuyên nhất, chủ yếu dùng để bắt ngựa hoang, linh dương. Nói dây bật tám bước là đối với con người, còn đối với ngựa là vừa bằng một cú sải vó, đó là chính khoảng cách bật trước giật sau của sợi dây da. Song loại nút này có một khuyết điểm cực lớn, đó là đầu dây phải căng cố định[1]. Vì vậy, chỉ cần biết được độ dài của sợi dây khi nó bật ra, thì đi qua điểm căng cố định sẽ là an toàn nhất. Lỗ Thịnh Nghĩa bảo cô nép sát thân cây vòng quanh gốc, chính là đi qua điểm căng cố định. Lỗ Thiên Liễu nép sát thân cây đi vòng quanh gốc, không gặp phải sự cố nào. Cứ đi được tám bước, cô lại tiện tay gỡ sợi dây bật tám bước ra. Làm như vậy là để đề phòng nếu như phía trước gặp phải mũi công kích không thể chống trả, có thể rút lui nhanh chóng. Mọi người đều bám sát theo sau Lỗ Thiên Liễu, từ từ tiến lên, không ai dám kêu ca chậm chạp. Ở đây, nơi đâu cũng có thể xuất hiện những cú tấn công tàn độc và giết chóc. Nhưng thật may mắn, bọn họ không gặp thêm một cú đột kích nào. Rất có thể đối phương muốn đảm bảo độ nghiêm mật của khảm diện, nên đã không tính tới việc ngầm thiết kế đường sống bên trong, nên bản thân chúng cũng không thể ra vào nhanh chóng để ra tay tấn công. Lỗ Thịnh Nghĩa cũng đã lưu tâm đến tình hình này, ông bèn nói nhỏ với Chu thiên sư: -Chúng ta đang đi qua khảm chặn, giống như một bức tường bao vô hình, ý đồ ban đầu là ngăn chặn không cho ai đi qua. Qua chỗ này sẽ tiến vào phạm vi hoạt động của đối phương, tiếp theo chắc chắn sẽ gặp phải trùng trùng cạm bẫy. Mọi người hãy tập trung tinh thần cao độ, vì có thể gặp phải đòn tàn sát bất cứ lúc nào! Chu thiên sư đưa mắt quan sát rừng cây không thực rậm, rồi đưa ra một ý kiến khác: -Khu rừng rất lớn, nên đối phương không thể đoán được chúng ta sẽ đi ra từ chỗ nào. Lỗ sư phụ, ông đừng quá lo lắng, khi ra tới rìa khảm, tôi sẽ sử dụng bùa mờ mắt để làm rối loạn đường đi che giấu hình thù, tuyệt đối không có chuyện gì đâu! Lỗ Thịnh Nghĩa không nói gì thêm, trong lòng thầm nghĩ: “Cái vị thiên sư già này đúng là chẳng mấy hiểu biết về khảm diện! Đây là cách cục ba mươi sáu Thiên Canh chầu thánh vị, cuối cùng sẽ chỉ hướng về một vị trí, khảm diện có lớn đến đâu rồi cũng sẽ phải quay vòng trở lại”. Tốc độ di chuyển quả thực vô cùng chậm chạp. Đến tận khi trời tối mịt, họ vẫn chưa thoát ra khỏi rừng Giá Trinh. Màn đêm sập xuống cũng đồng nghĩa với nguy hiểm cận kề, nếu muốn sống sót qua đêm tối trong khảm diện của đối phương, không những cần phải có dũng khí phi thường, mà càng cần phải có những phương pháp cao minh. Lỗ Thịnh Nghĩa nhặt lấy một cành cây, vạch vẽ một hồi trên mặt đất, cuối cùng quyết định cả bọn ngồi túm tụm thành vòng tròn tại khoảng trống ở chỗ giao nhau giữa Thiên Canh chầu thánh vị và dây bật tám bước. Vị trí này chính là phần khe hẹp nằm bên ngoài phạm vi tấn công kết hợp của nút cây và nút dây da, và cũng là góc chết mà phía đối phương không thể tiếp tục ra chiêu. Quan Ngũ Lang đặt ngang cây phác đao trên hai đầu gối, nhìn thẳng về phía trước, vẻ mặt quyết liệt, không chút sợ hãi, khí thế hiên ngang hệt như lực sĩ kim cương. Ngũ Lang tuy vụng về thô kệch, song rất biết cách tập trung. Lúc này, trong đầu anh ta chỉ lặp đi lặp lại một động tác, đó là tập trung tất cả tinh khí và lực đạo để chém xuống một đao sấm sét. Anh ta muốn dùng một nhát đao đó để chặn đứng mối nguy hiểm có thể xuất hiện từ trong bóng tối. Du Hữu Thích đặt con thuyền đồng ở sau lưng, chắn ngang con đường vừa mới đi qua. Lúc trước còn thấy vác theo con thuyền đúng là của nợ, không ngờ lúc này lại trở thành một lá chắn vô cùng kiên cố. Ở bên ngoài con thuyền đồng, Lỗ Thịnh Nghĩa căn cứ theo phương vị “lá nghiêng vây hình tủ” rải xuống một trăm mười chiếc đinh chỉ thiên đế đĩa. Những chiếc đinh nhọn hoắt đưa qua đưa lại như con lật đật, đầu đinh chốc lại lóe lên sắc bạc rờn rợn. Phía trước mặt Ngũ Lang không bố trí một nút lẫy phòng vệ nào, nhưng Chu thiên sư đã cắm lên mặt đất mười hai đạo bùa Hỏa vân chu sa. Tác dụng của loại bùa này là khi gặp phải luồng sức mạnh tà quái, sẽ chiếu rọi ra ánh sáng đỏ rực, khiến sức mạnh tà quái vô hình kia phải hiện nguyên hình. Tuy rằng đối phương không thể nhanh chóng băng qua khảm diện không có đường sống để tập kích bất ngờ, nhưng vẫn phải đề phòng những thủ đoạn âm tà. Vì những thủ đoạn kiểu đó không liên quan gì tới khảm nút, có thể xuất hiện bất cứ lúc nào và bất kỳ nơi đâu. Trước đây, trong giới khảm tử giang hồ có quy ước rằng, chỉ cần khảm diện chưa bị phá, sẽ không được phép dùng thủ đoạn khác tấn công giết hại người bị vây khốn trong khảm. Nhưng xưa kia, từ lúc hai nhà Lỗ, Mặc bắt đầu giao tranh với nhà họ Chu, đã phải ngậm đắng nuốt cay bởi quy ước này. Vì nhà họ Chu mặc dù tinh thông nghề khảm tử, nhưng lại không thuộc về giới khảm tử giang hồ. Để đạt được mục đích, họ sẵn sàng hạ sát chiêu không từ thủ đoạn, bất chấp quy ước. Mãi tới khi trời lờ mờ sáng, đối phương vẫn không có động tĩnh gì. Duy chỉ vào thời khắc trước lúc bình mình, khi bóng tối vẫn còn dày đặc, từ trong rừng bỗng vẳng đến hai tiếng kêu quái dị. Tuy không thực lớn, nhưng đủ khiến người nghe toát mồ hôi lạnh, rùng rợn đến muốn vỡ tim. Người bình tĩnh nhất chính là Chu thiên sư. Yêu ma quỷ quái ông đã thấy nhiều, chí ít đã có rất nhiều hồn ma ác nghiệt đã bị tiêu diệt dưới tay ông, nên vài ba tiếng kêu quái đản hoàn toàn không thể khiến cái tâm đạo hạnh cao thâm của ông có mảy may xáo trộn. Lỗ Thiên Liễu cũng khá vững vàng, vì ba giác trong sáng của cô không phát hiện ra bất cứ thứ gì khác thường, nên cô nghĩ rằng đó chẳng qua chỉ là tiếng chim kêu thú hú mà thôi. Còn có một người cực kỳ trấn tĩnh nữa, đó là Quan Ngũ Lang. Không phải do anh ta đạo hạnh cao thâm, mà sau một đêm chuyên tâm tụ lực chuẩn bị sẵn sàng cho cú hạ đao, lúc này anh ta không thể gượng thêm được nữa, nên đã nhắm mắt ngủ vùi. Cơn buồn ngủ cố cưỡng lại suốt một đêm giờ mới kéo đến, lập tức khiến anh ta ngủ say như chết, ngay cả những âm thanh quái đản vừa rồi cũng không thể khiến anh ta giật mình choàng tỉnh. Rừng núi buổi sớm mai thường khởi lên một màn sương mờ nhạt, rừng Giá Trinh cũng không ngoại lệ. Mặc dù trời đã tang tảng sáng, song trong khu rừng vẫn ngưng đọng một màn sương trắng mờ đục như sữa, khiến những thân cây sánh đôi trông mờ mờ ảo ảo, tựa như một đoàn yêu quái trùm khăn sô trắng. -A… Giết! Cú ra đao được ấp ủ suốt một đêm của Ngũ Lang bỗng thình lình chém ra, luồng hàn quang sắc lạnh hệt như một tia chớp rạch toang màn sương trắng đục. Đao đã chém ra nhưng không thể thu lại. Cơ thể Ngũ Lang sau cú nhảy vọt xuất đòn, khi hạ xuống lập tức trơ ra như tượng đá trong thế xuống tấn vững chãi, hai tay nắm cứng lấy chuôi đao bằng sắt sống, chỉ còn hơi thở gấp gáp và gân cơ co giật là còn bộc lộ được sức sống hừng hực trong cơ thể anh ta. Anh đang vận lực, đang giằng co, đang dốc sức giành giật thanh đao với một sức mạnh vô hình. Trạng thái cứng đờ bất động chỉ là tạm thời. Một loáng sau, hai cánh tay của Ngũ Lang đã run lên bần bật, hai chân đang xuống tấn cũng bắt đầu di dịch. Song những điều này vẫn chưa có gì đáng kinh ngạc, quái đản hơn nữa là thanh đao trên tay anh ta bắt đầu nhuốm đỏ, từ mũi đao lan đến thân đao, chuôi đao rồi tới đôi tay của Ngũ Lang. Cuối cùng ngay cả khuôn mặt của Ngũ Lang cũng đỏ rực lên, hệt như tưới máu, hệt như lửa cháy. Thân thủ của Chu thiên sư chớp mắt đã trở nên nhanh nhẹn khác thường, thật khó tưởng tượng đó là một ông già đã ngoài sáu chục. Ông xoay nghiêng người lại, xoạc ngang một bước đã tới bên cạnh thanh đao, tay trái phắt một cái rút từ vạt sau tấm đạo bào ra một đạo bùa màu vàng, tay phải móc ra một bình sứ màu chàm từ trong túi vải đeo chéo sau lưng. Sau đó dùng ngón tay trỏ và ngón giữa của tay trái kẹp chặt đạo bùa, ngón cái tay phải bật mở nắp bình sứ. -Một sách chia làm trăm trang giấy, một trang chia làm hai đường thông. Âm không được dương dùng, dương không mở cửa âm. Ánh trời xanh xanh, ngẩng đầu thần linh, tám phương khí tịnh, thù oán đều bình. Thái Thượng Lão Quân, gấp gấp theo sắc lệnh! – Chu thiên sư lầm rầm một đoạn chú ngữ, rồi vung mạnh tay trái, lá bùa lập tức bốc cháy rừng rực. Tàn tro vừa tơi tả bay lên, chiếc bình sứ trong tay phải cũng đổ xuống mũi đao. Tư thế của tay cầm bình như muốn đổ ra thứ gì đó, nhưng lại không có thứ gì chảy ra. Song động tác vừa hoàn thành, sắc đỏ như máu trên thanh đao đã nhạt đi nhanh chóng. Tiếp đó, sắc đỏ trên chuôi đao và tay, mặt Ngũ Lang cũng lần lượt tiêu biến. Sắc mặt vừa trở về trạng thái bình thường, Ngũ Lang lập tức hai chân mềm nhũn, “phịch” một cái ngã ngồi xuống đất, cây phác đao cũng rơi thẳng xuống đập đánh “choang” vào đá tảng, hoa lửa bắn tung. Chú thích [1] Có nghĩa là để sợi dây có đủ lực đàn hồi, cần phải cố định chắc chắn trên mặt đất.
Lời Nguyền Lỗ Ban Quyển 5 - Chương 2: Đường quay đầu Spoiler: Click vào để đọc Chu thiên sư thở ra một hơi thật dài, rồi quay người lại. Lỗ Thiên Liễu đứng ngay phía sau đã nhìn thấy trên trán ông lấm tấm mồ hôi. -Suýt chút nữa thì sơ sảy! - Lời nói của Chu thiên sư nghe như tự trách mình - Cứ nghĩ đối phương sẽ sử dụng ma đêm, thật không ngờ bọn họ còn có thể điều động ma rạng sáng. Lỗ Thiên Liễu nghe vậy, cảm thấy hiếu kỳ, liền hỏi: -Thiên sư, thế nào là ma đêm, thế nào là ma rạng sáng? -Ma đêm là loài ma quỷ hoạt động vào ban đêm. Tức là những loại khí âm uế như khí xác chết, khí đầm lầy tích tụ trong ngóc ngách, dưới mặt đất, chỉ xuất hiện sau khi ánh dương minh đã tắt. Những loại khí này hòa quyện với nhau sẽ tạo ra được một sức mạnh kỳ lạ, đây cũng chính là ma quỷ trong quan niệm của người thường. Còn ma rạng sáng chỉ xuất hiện vào thời khắc chuyển giao giữa sáng và tối, vào lúc sắc trời âm u mờ mịt. Loại khí này thường là sự tụ tập của huyết khí và sát khí, không có dương minh sẽ không xuất hiện, nhưng dương khí mạnh sẽ lập tức tiêu tán; có âm ám sẽ không xuất hiện, đến khi âm ám lui sẽ hiện ra. Cũng tương tự như các hiện tượng trúng tà, gặp sát mà dân gian thường nói. – Chu thiên sư nói liền một mạch, có thể thấy rằng cách giải thích của ông về ma quỷ có nhiều khác biệt so với cách lý giải của nhà họ Mặc và cách hiểu của Lỗ Thiên Liễu. -May mà trời vừa rạng sáng cậu Ngũ liền ngủ thiếp đi, nếu không, chúng ta sẽ không thể phát hiện ra đòn tập kích của lũ ma rạng sáng. Âm lực của chúng trái ngược với lũ ma đêm. Nếu chúng ta tỉnh táo sẽ phát hiện được ma đêm, nhưng đối với ma rạng sáng, chúng ta chỉ có thể phát giác khi đã ngủ say! Quan Ngũ Lang bị lũ ma rạng sáng quấy phá, lập tức tỉnh ngủ, không còn muốn chợp mắt thêm nữa. Có điều thần thái có phần uể oải, sắc mặt lờ đờ. Cũng khó trách, gặp phải ma quỷ, chắc chắn tinh thần cũng bị ảnh hưởng ít nhiều. -Sao trông thất thần thế? Sợ rồi à? Chỉ là gặp ma thôi mà, ai chết mà chẳng ra ma. Nào, làm một hớp rượu lấy lại tinh thần đi! – Dù sao Thủy Du Bạo cũng đã già đời, lại ở trên núi Long Hổ khá lâu, chẳng còn lạ lẫm gì những chuyện ma quỷ phá phách, nên chủ động đến an ủi Ngũ Lang. Ngũ Lang vừa ngẩng đầu lên, còn chưa kịp phản ứng đã bị Thủy Du Bạo đổ cho hai ngụm rượu, ho sặc ho sụa. Nhưng anh ta lập tức đứng bật dậy, không biết do rượu phát huy tác dụng, hay là bị kích động bởi lời nói của Thủy Du Bạo. -Cho dù có sợ cũng không phải ngại. Nếu không có nhát đao của cậu, không chừng cả bọn đã bị ma quỷ bắt mất hồn rồi! - Thủy Du Bạo đang nói thực tình, nhưng dường như trong lời nói còn có ẩn ý gì khác. Chu thiên sư bất giác khẽ nhíu lông mày. Đợi sau khi sương mù tan hết, trời sáng hoàn toàn, bọn họ mới tiếp tục di chuyển về phía trước. Nhưng lúc này, một vài khuôn mặt đã lộ rõ vẻ sợ hãi. Kể cũng khó trách, người thì mất tích, người thì bị thương, lại gặp ma ngay lúc ban ngày, áp lực đang đè trĩu tầng tầng trong tâm não họ. Đoạn đường phía trước hệt như một địa ngục vô tận, trong khi bọn họ mới chỉ bắt đầu cất những bước khởi hành. Lại mất hơn nửa ngày trời, họ mới thoát ra khỏi rừng Giá Trinh. Vừa ra khỏi rừng, Chu thiên sư lập tức đốt lên hai bó hương thanh tà ổn chân, cộng thêm lá bùa hư hình để làm màn che mắt. Song hành động này có vẻ như thừa thãi. Bên ngoài khu rừng lá reo chim hót, hết sức bình yên, không hề có cảnh giết chóc trùng trùng như Lỗ Thịnh Nghĩa đã nói. Đầu óc căng như dây đàn của mọi người bởi vậy cũng giãn ra một chút. Nhưng Chúc Tiết Cao lại chậm rãi tạt cho mọi người một gáo nước lạnh: -Cảnh tượng ở đây đã khác hẳn so với miêu tả của các tiền bối nhà tôi. Nhìn vào cách phân bố và phạm vi, cũng khác hẳn với những vùng rừng núi thông thường, hình như tồn tại một quy luật sắp đặt do con người tạo ra. Lỗ Thiên Liễu cũng đã nhận thấy, mặc dù vị trí và hình dạng của cây cối, cỏ bụi ở đây cũng mỗi thứ một vẻ, những viền ngoài của chúng gọn ghẽ trơn tru, không đan xen rối loạn vào nhau. Chỉ cần nhìn vào một điểm này, đã có thể khẳng định chúng do con người chăm sóc xén tỉa. Không những thế, khứu giác của Lỗ Thiên Liễu đã phát giác ra mùi máu tanh ẩn hiện trong gió nhẹ. -Chú Chúc, cháu thấy chỗ này có tà khí, liệu còn con đường nào khác không? - Lỗ Thiên Liễu hạ giọng hỏi Chúc Tiết Cao. Chúc Tiết Cao không nói gì, chỉ khẽ lắc đầu. -Anh Lỗ, căn cứ theo lộ số trong nghề khảm tử, chúng ta cần phải tìm ra con đường chính xác để tiến lên, nếu đi lầm chỗ không có đường, sẽ là đường chết! – Du Hữu Thích nói nhỏ với Lỗ Thịnh Nghĩa, nhưng lời nói tuy khẽ, vẫn bị một người khác nghe thấy, đó là Thủy Du Bạo đứng cách đó khá xa. -Đằng kia có đường! – Lão bếp già Thủy Du Bạo mắt mũi kèm nhèm lại tìm ra đường đi đầu tiên. Ở chỗ giao nhau giữa hai mảng rừng một vàng một xanh rõ rệt, lấp ló một dãy bậc đá trắng toát. -Đằng kia có chim! – Còn có người mắt tinh hơn Thủy Du Bạo, chính là đứa tiểu đồng của Chu thiên sư. Từ chỗ họ đang đứng đến dãy bậc thang lát đá trắng là một sườn dốc thoai thoải rất rộng lớn, một màu cỏ mướt xanh rờn, hệt như một tấm thảm Ba Tư tinh xảo. Đám chim chóc đang đậu trên bãi cỏ, không lớn, chỉ cỡ nắm đấm, lại mang bộ lông màu nâu pha lục, mắt không tinh rất khó phát hiện ra. Tiểu đồng dù sao cũng chỉ là một đứa trẻ ham vui, lập tức nhón chân chạy vụt đi, khẽ khàng đến gần đàn chim. Khi còn cách đàn chim chưa đầy hai chục bước, lũ chim vẫn ngóc cái mỏ dài, lắc đầu ngó nghiêng kiếm mồi trong cỏ, chẳng có phản ứng gì. Đến khi đứa tiểu đồng chỉ còn cách đàn chim chừng chục bước, lũ chim mới bắt đầu hoảng hốt, bỏ chạy tán loạn. -Thì ra là giống chim đần không biết bay. Nhìn mấy con kia xem, đến chạy cũng lạch bà lạch bạch. Lát nữa có thịt chim ăn rồi! – Du Hữu Thích thấy vậy cũng bắt đầu tỏ ra khoái chí. Tay đệ tử của hắn và đệ tử của Chu thiên sư cũng đã chạy vọt lên, vây lấy đàn chim từ hai phía. -Đừng! - Lỗ Thiên Liễu hét lên. Là Du Hữu Thích đã khiến cô sực tỉnh. Vừa nãy, nhìn thấy đàn chim, cô cũng cảm thấy thú vị, nhưng vừa nghe Du Hữu Thích chê bai lũ chim đến chạy cũng không nhanh, thính giác nhạy bén của cô đã phát hiện ra tiếng cọ xát và gõ đập của kim loại. Đó là thứ âm thanh đặc thù chỉ xuất hiện khi các chốt trục xoay chuyển, co kéo, mà nguồn gốc của chúng lại chính là lũ chim không biết bay kia! Đồng thời, thứ mùi máu tanh phảng phất mà cô vừa ngửi thấy hình như cũng tập trung trên cơ thể chúng. -Đừng! – Tiếng hét đến lạc giọng của Lỗ Thiên Liễu có phần hơi muộn, đứa tiểu đồng đã lao người vồ về phía con chim. Trong khoảnh khắc đó, có người lờ mờ nhận ra, có người nhìn thấy rõ rành rành con chim vừa tháo chạy đã quay đầu lại, lao vút về phía tiểu đồng. Con chim đã bị chụp lấy, nhưng đứa tiểu đồng đã không bao giờ còn đứng dậy được nữa. Hai tay đệ tử vội vã dừng ngay bước chạy trên sườn dốc phủ rợp cỏ xanh. Nhưng vạt cỏ trơn mượt cộng thêm quán tính của đà chạy đã khiến chúng trượt thẳng đi phải hơn chục bước mới dừng lại được. Nhưng lúc này, những con chim chỉ biết chạy lạch bà lạch bạch bỗng tung mình bay lên, mặc dù bay không cao, song cũng đủ để chúng lao thẳng xuống đầu hai kẻ vừa dừng bước. Cả hai lập tức kẻ khua đao người múa kiếm vội vã đỡ đòn. Nhưng thật bất ngờ, đao kiếm va đập vào thân chim lại bật ra những tiếng loảng xoảng như chém vào kim loại, hoa lửa bắn ra tung tóe. -Chim cắt thép! Là chim cắt thép! Mau nằm rạp xuống, rạp người sát đất! - Lỗ Thịnh Nghĩa vừa quát lớn, vừa lôi ra hộp mưa đinh Tý Ngọ. Hộp mưa đinh Tý Ngọ bình thường được dùng để đựng đinh thợ mộc, đinh lớn mũ vuông, đinh đuôi dẹt, đinh xoắn ốc, đinh chốt, đinh nhỏ… đều được đựng trong hộp, mỗi thứ một ngăn, sử dụng vô cùng thuận tiện. Nhưng chỉ cần xoay nút Tý Ngọ dưới đáy hộp, đinh trong hộp sẽ được lò xo bắn đi tới tấp, biến thành một trận mưa đinh. Nhưng khi chạy đến gần, Lỗ Thịnh Nghĩa mới phát hiện ra lũ chim trước mắt không hoàn toàn giống như chim cắt thép trong trí nhớ của mình. Mặc dù chiếc hộp mưa đinh Tý Ngọ được tổ tiên nhà họ Lỗ thiết kế chuyên để đối phó với chim cắt thép, nhưng liệu nó có tác dụng với đám nút di động na ná như chim cắt thép trước mặt hay không, Lỗ Thịnh Nghĩa thực không dám chắc. Đệ tử của Du Hữu Thích xuất thân trộm cướp, quen nghề chém giết mưu sinh, kinh nghiệm chiến đấu khá phong phú. Nghe thấy tiếng quát của Lỗ Thịnh Nghĩa, bèn vung đao chém thẳng xuống, cơ thể thuận thế đổ về phía trước, rạp sát mặt cỏ mà lao đi. Hai con cắt thép lao vọt qua sát trên người hắn, một chiếc mỏ thép cày rách toạc mông quần, lông cánh của con cắt thép còn lại hớt bay một nhúm tóc sau gáy hắn. Đệ tử của Chu thiên sư cũng đã đổ người rạp xuống, nhưng là bị đâm ngã. Chiếc mỏ nhọn hoắt của một con cắt thép đã dùi thẳng vào vai hắn, xung lực của cú đâm đẩy hắn ngã nhào. Con cắt thép không chịu buông tha, chiếc mỏ thép vẫn cắm chặt vào vai, trong khi hai bộ móng vuốt nhọn hoắt và đôi cánh sắc lẹm cào bới liên hồi, chớp mắt đã máu phun thành tia, thịt da tung tóe. Nếu không phải Chu thiên sư kịp thời chạy đến, có lẽ toàn bộ phần vai trái của gã đã đi tong. Chu thiên sư quả nhiên thân thủ phi phàm, một kiếm đâm ra, lập tức hất văng con cắt thép đang bám chặt trên vai đệ tử, lại vùn vụt chém sang trái phải, đánh rơi hai con chim thép đang xáp tới. Nhưng đột nhiên, từ trong thảm cỏ ồ ạt lao ra cả một đàn cắt thép, bay thẳng về phía ông. Ông đã không kịp ứng phó, thậm chí không còn đủ thời gian để rạp người xuống tránh. Một đóa hoa cỡ lớn màu vàng chanh bỗng nở xòe ra trước mặt Chu thiên sư, cánh hoa nhỏ dài mềm mại, bóng mượt long lanh như nước chảy. Những cánh hoa vừa xòe rộng, toàn bộ đàn chim cắt thép đang lao đến đã bị bọc kín vào trong. Cuống của đóa hoa đang nằm trong tay Chúc Tiết Cao, thì ra nó chính là bó nan tre quấn quanh lưng gã. Nhưng khi gã thợ nan vung bó nan ra, trông nó còn mềm mại linh động hơn cả hoa thực. Những sợi nan tre nhỏ dài mềm mại đã quấn chặt lấy cánh sắc và vuốt nhọn của bầy cắt thép. Có thanh nan cùng lúc trói liền mấy con, có con cùng lúc bị mấy thanh nan trói chặt. Bầy chim thép vùng vẫy loạn xạ, va đập choang choảng vào nhau, song không thể thoát khỏi những sợi nan dẻo quẹo. Chúng càng vùng vẫy, lại càng bị trói chặt. Lại có một bầy cắt thép nữa lao vụt ra từ trong bãi cỏ. Lỗ Thịnh Nghĩa đã chạy đến nơi, chiếc hộp mưa đinh Tý Ngọ chĩa thẳng về phía bầy chim, lẫy lò xo bật mở, một trận mưa đinh đen kịt, dày đặc phóng thẳng về phía đàn chim. Cả bầy cắt thép lập tức rơi xuống rào rào, chỉ nghe thấy hàng tràng những tiếng cọt kẹt khô khốc. Những chiếc đinh đủ mọi hình thù vừa phóng ra từ hộp mưa đinh Tý Ngọ đã luồn lách vào các khe hở trên mình chim thép, chốt lẫy bên trong lập tức bị kẹt cứng. -Mọi người cẩn thận, nhìn kỹ xem còn con nào nữa không! - Lỗ Thịnh Nghĩa vừa nói vừa chuyển hộp đinh cho Lỗ Thiên Liễu, rồi cúi xuống nhặt lấy một con chim cắt trúng đinh trên mặt đất – Phương pháp chế tạo khá giống với chim gỗ của nhà họ Lỗ, nhưng lại được làm từ thép ròng, ngoại hình, động ác giống hệt chim thật, kỹ thuật quả thực cao hơn Lỗ gia một bậc! -Đúng là giống y như thật. Chúng gọi là chim cắt thép ư? - Lỗ Thiên Liễu nhìn con chim thép trong tay Lỗ Thịnh Nghĩa, không giấu được vẻ kinh ngạc. -Chim cắt thép có lẽ là tên gọi chung, khi chế tạo sẽ căn cứ theo hình dáng thực tế của loài chim bản địa, như vậy mới che mắt được. Nhưng thực kỳ lạ, lũ chim hoạt động nhờ lò xo, lại không có que gậy điều khiển, làm sao lại biết tấn công con người? - Lỗ Thịnh Nghĩa cũng cảm thấy lạ lùng. Tay đệ tử của Chu thiên sư mặc dù đang đau đớn đến nghiến răng nghiến lợi, mặt mũi méo xệch, song vẫn muốn khoe khoang kiến thức: -Mọi người không nhìn thấy cần cổ của chúng ư. A…! Chấm đỏ phía dưới... A... Đó là “thị huyết định”, là thứ yêu pháp bắt nguồn từ Tây Vực... Đúng lúc này, vọng đến tiếng kêu đau đớn của Chu thiên sư. Đứa tiểu đồng ngã sấp được nhẹ nhàng lập ngửa lên, nó đã bị chiếc mỏ dài sắc ngọn của con chim thép mổ xuyên qua tròng mắt, đâm sâu vào tận não trái. Phần cổ cũng bị đôi cánh và bộ vuốt sắc bén như dao cào rạch nát bươm, chỉ còn là một đám máu thịt bầy nhầy. Cái chết của đứa tiểu đồng quả thực rất thương tâm, song lời cảnh báo từ đó lại là hiện thực: hãy mau chóng quay về? Nếu theo như lộ trình mà Chúc Tiết Cao đã nói, phía trước còn phải vượt qua một chặng đường khá dài. Đó là chưa kể đến thung lũng Ngộ Chân, nơi mà đến một lần sẽ ngộ ra được ý nghĩa chân thực của sự sống và cái chết. Phía trước sát khí trùng trùng, không biết còn bao nhiêu sát chiêu tàn độc đang rình rập. Tiểu đồng chết thảm, đệ tử bị thương, Chu thiên sư phải hứng chịu nỗi mất mát to lớn nhất, thế nhưng quyết tâm tiến lên phía trước của ông lại càng trở nên mãnh liệt. Kiên định không kém chính là Du Hữu Thích. Gia tộc đã bị cắt đứt mạch phong thủy, nhà tan người mất, hậu vận bị phá hủy hoàn toàn. Trên đời này, loại người đáng sợ nhất chính là kẻ bần cùng! Đương nhiên, bần cùng không chỉ là nghèo khổ, mà là không còn bất cứ thứ gì để mất, không còn bất cứ thứ gì lưu luyến. Thử hỏi nếu rơi vào thảm cảnh như hắn, còn thứ gì có thể ngăn cản hắn tiến lên? Thế nhưng quyết tâm tiến lên của Du Hữu Thích là có mục đích, hắn khao khát thoát ra khỏi cảnh ngộ hiện tại, muốn thay đổi số mệnh cùng cực. Còn bậc tu hành đạo hạnh cao thâm như Chu thiên sư, vì lẽ gì phải bất chấp tất cả để tiến lên? Là vì tấm lòng từ bi muốn cứu nhân độ thế, hay là vì sứ mệnh ban đức tạo phúc trời trao? Chúc Tiết Cao rất kiệm lời, song gã luôn quan sát kỹ lưỡng cách phản ứng của mọi người trước những khảm diện, nút lẫy. Trong lúc quan sát, thần thái của gã dần dần lộ ra một vẻ hào hứng và phấn khích khó giấu giếm, bên trong thân hình lờ đờ chậm chạp dường như có một linh hồn cuồng dại sẵn sàng thoát xác lao ra. Gã cũng không muốn rút lui, có lẽ gã đã tìm thấy niềm hứng khởi và vui sướng chưa từng có từ trong nguy hiểm, hoặc giả gã đã phát hiện ra niềm hy vọng hiện thực hóa ý nghĩa cuộc đời từ một người nào đó. Còn những người nhà họ Lỗ chắc chắn càng không chịu lui bước. Như vậy, chỉ còn lại một mình Thủy Du Bạo. Du Hữu Thích thấy tình thế đã đến nước này, lão bếp già có thể theo tận đến đây cũng đã nằm ngoài dự tính. Bây giờ trông chừng lão để giữ bí mật cũng chẳng còn ý nghĩa gì, liền chủ động giải phóng cho lão: -Này ông Thủy, ông hãy quay về đi! Nếu còn đủ sức, giúp tôi đưa người anh em đang nằm ở bìa rừng cùng về nhé! -Tại sao tôi phải quay về? Đi qua khu rừng khi nãy, chỉ cần một thằng ranh lao ra là đủ bóp chết tôi rồi, đi theo mọi người vẫn an toàn hơn. Mà nữa, tại sao người không cho đệ tử của người quay về? - Thủy Du Bạo rất tinh ranh, lão vừa mở miệng đã chỉ ra ngay vấn đề mà người khác rất dễ bỏ qua, đó chính là vấn đề sinh tồn mà chỉ có người lăn lộn nhiều năm trong giang hồ mới hiểu được. Du Hữu Thích gượng cười nhăn nhó nhìn gã đệ tử. Sau cú tấn công của chim cắt thép, cậu chàng vẫn mặt mày tái mét chưa hồi lại được. Dù cơn khiếp sợ chưa lui, nhưng hắn vẫn không chịu quay về, chỉ nói với Du Hữu Thích một câu gọn lỏn: -Cái mạng này của con nằm trong tay sư phụ! – Nói xong, ngấn lệ trong mắt như chực trào ra. Tất cả đều không muốn quay lại, nên chỉ còn cách tiếp tục dấn bước trên con đường đầy bất trắc. Thi thể của đứa tiểu đồng được chôn cất ngay tại đầu đường. Chu thiên sư làm như vậy là để lưu lại một mốc dẫn hồn, phòng khi bất trắc có thể dẫn mọi người thoát ra đúng hướng. Vệt trắng lấp ló mà Thủy Du Bạo nhìn thấy phía xa đích thực là một con đường lát đá trắng, nổi bật trong màu xanh mướt mát của cây rừng. -Chớ đi theo con đường này! Ở nơi hoang sơn cùng cốc tự dưng lại xuất hiện một con đường đẹp đẽ tinh xảo đến thế, bên trong chắc chắn có chỗ khó lường! – Có vẻ Chu thiên sư đã lĩnh ngộ được mức độ nguy hiểm của khảm diện nút lẫy mà trở nên thận trọng hơn hẳn. -Ông còn đường nào khác không? – Không phải Chúc Tiết Cao hỏi xóc Chu thiên sư, gã thực tâm hy vọng ông lão thần thông kia nghĩ ra được chiêu thức thần kỳ nào đó. Chu thiên sư cũng không lưu tâm xem Chúc Tiết Cao có ý gì, chỉ hạ giọng nói khẽ: -Tôi nghĩ rằng cậu có! -Con đường này được lát bằng đá tuyết ngọc, là một loại đá phèn. Vì chất đá có mật độ không cao, nên các sắc tố tạp chất trong đá sẽ bị mưa nắng lâu ngày rửa trôi. Thời gian càng dài, màu sắc càng trắng sáng. Nhìn vào độ tinh khiết của mặt đá nơi đây, có thể thấy con đường này chí ít cũng đã có từ hơn năm trăm năm về trước. - Lỗ Thiên Liễu sau khi quan sát kỹ lưỡng mặt đá, bèn lẩm bẩm một mình. Kỳ thực kiến thức về đá của nhà họ Lỗ không thực sự phong phú, song Lỗ Thiên Liễu có một người bạn vong niên là tay thợ đá Thạch Hóa Tùng người Lạc Sơn, Tứ Xuyên. Thạch Hóa Tùng, giang hồ quen gọi là “thần đá Hóa Tùng”, rành rẽ các loại đá trong thiên hạ như lòng bàn tay, yêu thích đá đẹp đá lạ còn hơn cả mạng sống. Phần lớn những hiểu biết về đá của Lỗ Thiên Liễu đều học được từ ông ta. -Chính xác! Con đường đá trắng này trước đây đã có, cư dân ở đây đều biết đến. Tổ tiên có kể lại rằng đây là con đường thiện nhân, hay còn gọi là đường quay đầu. Năm xưa, ở đầu con đường còn có một tấm bia đá, trên bia có khắc dòng chữ: “Đường trắng đi mất trắng, chi bằng hãy quay đầu”. Thế nhưng những người đã đi qua con đường này đều không gặp chuyện gì bất trắc, trừ khi họ sa vào thung lũng Ngộ Chân. Vì vậy, câu văn trên bia đá hẳn là có ý khuyên mọi người không nên đến thung lũng Ngộ Chân. Vả lại hai bên con đường mọc nhiều cây thuốc, quả rừng, gỗ tốt, nên dân cư trong vùng thường chưa cần đi hết con đường đã thu hoạch được kha khá mà quay trở về luôn, ngoại trừ những kẻ lòng dạ quá tham lam. Nhưng bây giờ thì rất khó nói, bia đá đã biến mất, khu rừng cũng đổi khác. Giờ đây nó là đường thiện nhân hay đường sát nhân, phải đi qua mới biết được! – Chúc Tiết Cao nói liền một tràng. Không ai tinh tế bằng phụ nữ. Nghe những lời của Chúc Tiết Cao, Lỗ Thiên Liễu cảm thấy có điều gì bất ổn. Ở đây có một con đường thần bí và quan trọng như vậy, tại sao gã lại không hề nhắc đến ngay từ đầu. Gã quên ư? Nếu xét theo tính cách của một con người bình thường, những nơi chỉ đi qua một lần sẽ rất khó quên, có thể nhắc đi nhắc lại suốt một đời người. Bên cạnh đó, những nơi bản thân cư trú lâu năm, người ta sẽ cảm thấy chẳng có điều gì đáng nói. Nếu như Chúc Tiết Cao đã quên thực, thì chỉ có một lý do duy nhất, chính là gã đã quá quen thuộc con đường này, nên trong tiềm thức đã cảm thấy không cần thiết phải kể cho bọn họ. Trước khi đến đây, Chúc Tiết Cao còn khăng khăng nơi này đã hơn trăm năm không ai bén mảng, vậy tại sao gã lại thông thạo con đường này đến thế? Nhưng ở một nơi nguy hiểm trùng trùng lại nhiều mâu thuẫn như nơi đây, trong một thời khắc rất cần đến sự tin tưởng và tương trợ lẫn nhau như lúc này, một số điều nghi ngờ tốt nhất là không nên nói. Lỗ Thiên Liễu không hỏi gì, chỉ lẳng lặng thi triển chiêu thức cánh tay xích. Quả cầu thép trên đầu Phi nhứ bạc nảy tưng tưng trên các bậc thang đá. Sau khi xác nhận không thấy điều gì khác lạ, cô mới dẫn đầu đoàn người bước lên con đường đá trắng như tuyết. Bỗng một thân hình vạm vỡ lách qua bên cạnh băng lên. Là Quan Ngũ Lang, anh ta đã tranh lên trước Lỗ Thiên Liễu đặt bước chân đầu tiên trên con đường đá...
Lời Nguyền Lỗ Ban Quyển 5 - Chương 3: Chạy thục mạng Spoiler: Click vào để đọc Đúng như lời Chúc Tiết Cao đã nói, hai bên con đường đá trắng quả thật có rất nhiều loài thảo mộc kỳ lạ, nhiều tán cây quả chín sum suê. Quả là bất thường, lúc này mới chỉ đầu xuân, vạn vật mới kịp nhú lộc đâm chồi, thế mà cây cối đã sai trĩu quả vụ thu. Nhìn từ xa, quả nào quả đấy mẩy căng mọng nước, nhìn mà ứa nước miếng. Nhưng nhớ lại bài học khi nãy, không một ai dám nghĩ đến việc nếm thử. Đoàn người di chuyển không nhanh, nhưng con đường đá trắng chẳng mấy chốc đã kết thúc. Cũng không có gì đáng ngạc nhiên, vì đây vốn dĩ không phải là con đường để đi, mà để người ta kịp thời quay đầu lại. Nhưng không một ai quay đầu lại. Mà không quay đầu, tức là phải đi theo con đường khó khăn gấp bội. Du Hữu Thích đã bỏ lại con thuyền đồng, vì mang nó theo quá tốn công. Khi bọn họ sắp xếp những vật dụng trên thuyền, Chúc Tiết Cao tiện thể đi một vòng quan sát địa hình xung quanh. Vị trí này nằm ở lưng chừng sườn núi, bên cạnh có một khe núi thấp ngoằn ngoèo lượn qua. Trong khe núi, từ ngọn cỏ, bụi rậm, cho đến cây cối hai bên, đều nghiêng chênh chếch theo cùng một hướng. Xem ra vào mùa mưa, nơi đây hẳn là một con sông. Vị trí của các gốc cây nghiêng ngả ở khá cao, chứng tỏ lượng nước chảy qua không hề ít. Rất có thể đây là con sông xả lũ chủ yếu của vùng núi này. Du Hữu Thích co cẳng đá bay con thuyền đồng xuống khe núi. Con thuyền lăn lóc mấy vòng rồi biến mất tăm trong đám cỏ ngải cao rợp. Nơi có đường chưa chắc đã đi được, nơi không có đường chưa chắc đã không đi được, điều khiến người ta phân vân nhất chính là có tới mấy con đường cùng hiện ra trước mắt. Lúc này, có đi được hay không, chỉ trong một ý niệm. Trước mắt bọn họ có hai con đường, nhưng rắc rối hơn nữa là Chúc Tiết Cao và Chu thiên sư mỗi người đều khăng khăng với một con đường khác nhau. Theo lý thì nên nghe lời Chúc Tiết Cao, dù sao đây cũng là nơi mà tổ tiên gã đã từng sinh sống. Nhưng Chu thiên sư cho rằng bản thân Chúc Tiết Cao chưa từng đặt chân đến nơi này, vả lại những chặng đường mà gã đã dẫn họ đi qua, không có chặng nào được thuận lợi suôn sẻ. Quyết định của Chu thiên sư được đưa ra sau một hồi phân tích kỹ lưỡng. Nhìn vào sự khác biệt về màu sắc cây rừng và cách bố trí của cây cối, ông ta đã nhận ra vạt rừng phía trước rất giống với đồ hình “Hư thăng phân thanh” của Đạo gia. Đồ hình “Hư thăng phân thanh” là để dạy cho người mới tu đạo cách khống chế thất tình lục dục khi nhập hư đề thăng, giấu chúng vào các bộ phận khác nhau trên cơ thể, sau đó đưa một mạch khí thanh linh quanh co chảy qua đó, cuối cùng đến được linh khiếu. Con đường mà Chu thiên sư lựa chọn, thế uốn lượn của nó rất hợp với đường đi của khí mạch xuyên qua đồ hình “Hư thăng phân thanh”. -Cậu Chúc, con đường mà cậu lựa chọn có lẽ đúng là con đường mà tổ tiên đã nói, nhưng nếu trong hơn trăm năm nay đối phương đã thay đổi nó rồi thì sao? – Chu thiên sư vẫn rất điềm đạm từ tốn, giọng điệu khách khí như muốn thương lượng. Song lời nói của ông kể cũng có lý, con đường mà Chúc Tiết Cao lựa chọn hoàn toàn dựa vào thông tin do tổ tiên truyền lại, trong khi đối phương rất có thể đã giăng cạm bẫy nhằm vào những thông tin này. -Tôi không biết con đường tôi chọn có chính xác hay không, nhưng tôi biết cách để đi qua con đường này! – Chúc Tiết Cao rất cứng rắn, tính cách của gã khác hẳn với đám nan tre mềm dẻo cong thẳng hợp thời trong tay gã. Có lẽ là do gã sống lâu năm trong núi, ít tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Lỗ Thiên Liễu đang đứng bên cạnh lại phát hiện ra điều mâu thuẫn trong lời nói của Chúc Tiết Cao: “Hắn biết cách vượt qua con đường đã bị khảm tử gia khống chế suốt trăm năm? Hắn đã đi qua, hay có người dạy hắn cách đi qua? Không hiểu tay thợ nan này rốt cuộc là thần thánh phương nào?”. -Anh Lỗ, nếu anh tin tôi hãy theo tôi. Nếu không tin, các bị cứ việc đi theo thiên sư, tôi sẽ ở đây đợi mọi người! - Lời lẽ của Chúc Tiết Cao vẫn hết sức bình thản, không hề có vẻ khiêu khích hay thách thức. -Nếu không thể ngã ngũ, chúng ta cứ chia đôi đường mà đi, ai thích theo ai thì cứ việc! – Du Hữu Thích thấy hai người đều rất mực kiên quyết, bèn đưa ra một ý kiến dở ẹc. -Cậu đã biết cách vượt qua, vậy chúng ta vẫn sẽ theo cậu. Nếu không đúng thì quay trở lại, mất thêm một ngày nửa buổi cũng chẳng đáng là bao! – Chu thiên sư dù sao cũng là người tu hành, nên đã chủ động nhượng bộ. Ông hiểu rõ, hiện tại bọn họ chỉ còn lại mấy người, nếu lại phân tán lực lượng, đừng nói tới việc thành công hay không, ngay đến chuyện bảo toàn mạng sống trở ra cũng đã rất khó đảm bảo. Có lẽ Chúc Tiết Cao đã đúng. Đi theo con đường mà gã lựa chọn, trước mắt hiện ra một vùng non nước đẹp tươi, đất phủ cỏ thơm cây khoe quả đẹp, không hề có một dấu hiệu nguy hiểm. Người khác nghĩ thế nào thì không biết, nhưng mấy người nhà Lỗ gia càng đi càng cảm thấy nặng nề. Khảm tử gia đều hiểu rõ, ở những khu vực có diện tích lớn sẽ không thể thiết kế khảm diện liên tiếp, chỉ có thể đặt khảm nút ở vài nơi hiểm yếu, cũng chính là chặn giữ cửa ải. Chỉ khi không thật tin tưởng vào khảm nút đã đặt, mới phải bày thêm các nút giết ở dọc đường, mà giới khảm tử gọi là “nút đường” hay “nút dây”, tác dụng chủ yếu là tiêu hao bớt sức mạnh của người phá khảm. Lúc này, họ đã đi được chừng nửa ngày đường, mà không hề đụng độ với một nút đường của đối phương, tất cả đều bình thường như các vùng sơn thủy khác. Đường cũng bằng phẳng dễ đi, không có đoạn nào phải leo trèo vất vả, quả thật rất bất thường... Ba giác nhạy bén của Lỗ Thiên Liễu đã phát hiện ra có rất nhiều vật sống đang lượn lờ quanh họ, nhưng lại không xông ra tấn công hay cản đường. Bước đi của Lỗ Thiên Liễu mỗi lúc một chậm, rồi dần dần rớt lại phía sau đoàn người. Nhưng sau khi bỏ cách những người đi trước một đoạn, cô liền phát hiện ra rằng bọn họ đang bị bao trùm bởi những tia sáng xuyên qua khe lá, giống như vừa được dát vàng. Trên cơ thể họ phản chiếu màu sắc của các loại lá cây, xanh vàng loang lổ. -Ồ! - Lỗ Thiên Liễu nhìn xuống người mình, tại sao cô lại không giống như bọn họ? Lúc nãy khi đi cùng bọn họ, cô không chú ý, lúc này cách xa mới nhìn thấy. Phải chăng hiện tượng này thi thoảng mới xuất hiện trong đám cành lá một cách ngẫu nhiên? Không đúng! Không phải là ngẫu nhiên! Lỗ Thiên Liễu lập tức bừng tỉnh. Thảo nào đối phương không trực tiếp đối đầu với họ, vì bọn họ đã vô thức sa vào khảm diện, đối phương cho rằng tình cảnh hiện giờ của bọn họ không đáng để chúng ra tay. -Khoan đã! Hình như chúng ta đi nhầm đường rồi! - Lỗ Thiên Liễu không dám nói thẳng rằng bọn họ đã sa vào khảm diện, chủ yếu vì lo sợ sau khi biết được sự thực, một số người khó tránh hoảng loạn. Cần phải tuyệt đối giữ bình tĩnh, không được để đối phương biết mình đã phát hiện ra. Nếu không rất có thể họ sẽ thay đổi khảm diện. -Làm gì có! Chúng ta còn chưa gặp một ngã rẽ nào, chỉ có một con đường duy nhất, có nhắm mắt cũng chẳng thể đi nhầm! – Chúc Tiết Cao ngoái đầu lại nói với Lỗ Thiên Liễu. -Vậy chúng ta đang đi về hướng nào? - Lỗ Thiên Liễu muốn tìm cách gợi ý để giúp mọi người nhận ra tình huống bất ổn. Du Hữu Thích ngẩng đầu nhìn một tia sáng đang rọi xuống, sau đó trả lời thay Chúc Tiết Cao: -Con bé Liễu này, không nhận ra ư? Đang đi về hướng nam! Lỗ Thiên Liễu gật đầu, phương pháp nhìn ánh mặt trời tìm hướng mà Du Hữu hích vừa sử dụng là phương pháp định hướng quen thuộc của dân sông nước, vì trên những mặt nước rộng lớn mênh mông, không có vật gì làm mốc, chỉ có thể dựa vào ánh mặt trời. -Không đúng, là đi về hướng đông! – Chúc Tiết Cao lại một lần nữa bất đồng ý kiến với người khác. Nhưng nếu gã chưa chắc chắn, gã sẽ không đưa ra lời phản đối. Gã vừa sử dụng phương pháp “đón dương ngược âm”, tức là thông qua quan sát màu sắc của cây cối, đá núi và các loài rêu bám trên đó để định hướng. Phương pháp này và phương pháp quan sát vòng năm trên thân cây đều là nhũng kỹ xảo định hướng thường dùng của người vùng núi. -Không thể nào! – Du Hữu Thích không có phong thái điềm tĩnh như Chu thiên sư, vừa nghe Chúc Tiết Cao bác bỏ phán đoán của mình, lập tức máu nóng bốc lên, không chịu nhượng bộ. Lỗ Thịnh Nghĩa là người hiểu biết, vừa nghe thấy hai bên định hướng bất đồng, lập tức nhận ra có điều bất ổn. Lại thấy Du Hữu Thích nổi giận, thì vội vàng khuyên giải: -Người anh em, đừng nóng, có lẽ cả hai người đều đúng, chúng ta đã đi nhầm đường rồi! -Không đúng, nhìn từ chỗ tôi, rõ ràng đang đi về phía tây nam! – Chu thiên sư đợi mọi người yên lặng, mới nói ra kết quả thu được từ bàn Độn giáp. Lại thêm một phương hướng khác nữa! Đến lúc này mọi người mới ý thức được chuyện chẳng lành: họ đã đi nhầm đường, đã sa vào khảm diện. Lập tức có hai người đưa ánh mắt giận dữ nhìn Chúc Tiết Cao. -Cái con bé này, làm cái trò gì vậy? Đang yên đang lành tự dưng đi hỏi phương hướng để làm gì? Chẳng phải chỉ cần đi qua được là xong chuyện hay sao? – Chúc Tiết Cao lại quay qua trách móc Lỗ Thiên Liễu. Chúc Tiết Cao tuy nói lý, song nghe lại như cãi cùn. Vừa nói dứt lời, gã đã dẫn đầu đi thẳng lên phía trước. Chu thiên sư đưa mắt cho Du Hữu Thích, Du Hữu Thích lập tức hiểu ý, rảo nhanh mấy bước bám sát Chúc Tiết Cao, cặp Nga Mi thích loang loáng hàn quang cũng được lôi ra từ sau lưng. Lỗ Thiên Liễu có chút lo sợ, bây giờ cô mới cảm thấy chuyến đi lần này quá vội vàng rối loạn, không giống như trước khi tiến vào vùng núi Thiên Lĩnh, phân công rõ ràng, mỗi người một việc. -Mọi người nghe tôi nói đã. Đừng đi vội, nghe tôi nói đã! - Lỗ Thiên Liễu chạy vội lên trước, muốn ngăn mọi người lại. Nhưng Chúc Tiết Cao dẫn đầu cứ đi phăm phăm, càng đi càng nhanh. Những người phía sau cũng vội vàng bám sát, không ai để ý đến Lỗ Thiên Liễu. -Đợi đã! Xung quanh có tiếng động lạ, cẩn thận có nút sống! - Lỗ Thiên Liễu đã bắt đầu cuống quýt, không còn lo sợ đối phương nghe thấy, cao giọng hô lớn. Chúc Tiết Cao đột ngột khựng lại. Du Hữu Thích đi sát sau lưng gã phản ứng hết sức mau lẹ, bàn chân xoay ngang, dừng ngay lại chỉ cách Chúc Tiết Cao chưa đầy nửa bước. Phía sau nữa là đệ tử của Du Hữu Thích và đệ tử của Chu thiên sư, bọn họ đều không kịp thu thế, đâm sầm vào lưng Du Hữu Thích. Du Hữu Thích đang ngang hai tay, chặn đứng ngay hai kẻ phía sau lại mà không hề chao đảo. Chúc Tiết Cao vừa dừng bước liền ngồi thụp xuống, đưa tay khẽ vạch một bụi cỏ lá nhỏ ở bên đường. Bên dưới bụi cỏ có nửa dấu chân, một nửa dấu chân đi giày đế trúc. Chúc Tiết Cao duỗi bàn chân ra, phát hiện dấu chân có kích cỡ tương tự với bàn chân của gã. Đôi giày gã đang đi cũng được kết từ trúc. -Chuyện gì thế? – Du Hữu Thích đứng ngây ra. -Là khảm đường vòng phải không? - Lỗ Thịnh Nghĩa rảo bước lên hỏi. Chúc Tiết Cao gật đầu, rồi lại lắc đầu, im lặng không nói lời nào. -Suỵt! Im lặng! - Lỗ Thiên Liễu vừa dừng lại ngay phía sau mọi người lên tiếng, giọng hơi run rẩy. -Sao thế? Phát hiện ra gì à? - Thủy Du Bạo thấy bộ dạng căng thẳng của Lỗ Thiên Liễu, hạ giọng hỏi khẽ. Lỗ Thịnh Nghĩa cũng đưa ánh mắt lo lắng nhìn Lỗ Thiên Liễu. -Bọn chúng đến rồi, xuất hiện khắp nơi, đang tiến lại gần! - Lỗ Thiên Liễu khép hờ hai mắt, tập trung toàn bộ tinh thần để lắng nghe, dùng tiếng Quan Thoại thông báo rành mạch những thông tin mình vừa thu nhận được, bộ dạng tựa như trúng tà. -Đi theo tôi! – Chúc Tiết Cao đứng bật dậy, lao về phía trước, lần này không phải là đi nhanh nữa, mà đã bắt đầu chạy. Du Hữu Thích lập tức bám sát phía sau, những người khác chỉ biết vội vã chạy theo. Đường núi vốn rất khó đi, sau khi đổi đi thành chạy, lại càng gian nan hơn nữa. Du Hữu Thích chắc chắn không kịp Chúc Tiết Cao, bản lĩnh sông nước của hắn không thể thi triển trên đường núi, không vấp ngã đã là khá lắm rồi. Lỗ Thịnh Nghĩa và Ngũ Lang ngã sấp ngã ngửa mấy lần, khắp người lem nhem bùn đất, lá cỏ. Lúc này đã đổi thành Chu thiên sư bám sát Chúc Tiết Cao, sau lưng ông là Thủy Du Bạo. Thật không thể ngờ lão bếp già lôi thôi kia lại thạo vượt đường rừng đến vậy. Bước chạy của lão không nhanh, nhưng vô cùng ổn định, bước nào ra bước đấy, người phía trước chạy nhanh đến đâu cũng không thể khiến lão rớt lại. Tiếp sau là Lỗ Thiên Liễu, mặc dù cô rất giỏi khinh công, nhưng chạy trên đường núi cũng không phải dễ dàng, đã mấy lần muốn vượt qua Thủy Du Bạo mà không thành công. Chúc Tiết Cao lại một lần nữa dừng lại thình lình, cúi xuống vạch một bụi cỏ bên cạnh ra xem, lần này đã thấy nguyên cả một dấu chân. -Không còn xa nữa, chạy mau! – Chúc Tiết Cao còn chưa quan sát kỹ, vừa nhìn thấy dấu chân đã lập tức khẳng định. -Chạy mau! - Tiếng hô của Lỗ Thiên Liễu gần như phát ra đồng thời với Chúc Tiết Cao, nhưng ý tứ của hai người hoàn toàn khác nhau. Ý của Lỗ Thiên Liễu là mối nguy hiểm đã cận kề. Khi họ lao ra khỏi khu rừng, chạy đến một bãi đất bằng phẳng ở lưng chừng ngọn núi phía trước, rừng cây ở phía sau giống như đang đổ xuống một cơn mưa bão khủng khiếp, cây cối chao đảo dữ dội, vặn vẹo vào nhau phát ra những âm thanh vô cùng rùng rợn. -Cuối cùng thì cũng đi qua! Đường gì cũng được, hình gì cũng xong, chỉ cần vẫn còn cái mạng để uống rượu là tốt rồi! - Thủy Du Bạo quay lại nhìn cảnh tượng quái dị sau lưng, ngậm ngùi thốt lên. Chu thiên sư cảm thấy lời này giống như nói cho ông nghe. Rừng cây mà họ vừa thoát ra rõ ràng được bố trí dựa theo đồ hình Hư thăng phân thanh, bởi vậy ông đã lựa chọn con đường “khí mạch xung linh đài”[2]; còn con đường mà Chúc Tiết Cao lựa chọn là “huyết mạch nhiễu bình tâm”[3], là con đường “ý huyết giao hòa hóa diên hống”, thế mà gã ta cũng đi qua được. Trong lúc tháo chạy, Lỗ Thiên Liễu vô cùng kinh ngạc trước thể lực và bộ pháp của Thủy Du Bạo. Còn nữa, lão sâu rượu này sau khi tiến vào trong núi, ngoại trừ lần quăng bình rượu vào gốc cây ở rừng Giá Trinh, không hề động đến một giọt rượu nào. Trong khi Lỗ Thiên Liễu đang nhìn Thủy Du Bạo đầy băn khoăn nghi hoặc, Lỗ Thịnh Nghĩa liền kéo cô sang một bên, nói nhỏ: -Sau khi thoát ra, cha đã phát hiện khảm diện lúc này được cải tiến từ cục “Cửu chuyển thiên cách”, cục thứ bốn mươi trong Kỳ môn Độn giáp. Con nói không sai, trong khảm diện còn có nút sống, nhưng thông thường nút sống chỉ được tung ra sau khi những người sa vào khảm diện đã chạy được bảy vòng, sức lực cạn kiệt. Tay Chúc Tiết Cao kia chắc chắn là một cao thủ trong giới khảm tử, hắn có thể nhận ra sự biến hóa phương vị ba cấp phía sau bóng cây và ánh sáng trời, nên mới đi được ba vòng đã đưa chúng ta thoát ra, khiến bọn canh khảm giật dây không kịp bung nút sớm hơn. Cao thủ như vậy, nhà họ Lỗ chúng ta cũng hiếm khi gặp được! -Có nghĩa là bản lĩnh của hắn hơn hẳn chúng ta, chỉ là giấu giếm không để lộ? Nếu quả thực hắn là hậu duệ của nhà họ Lỗ, cơ hội thành công của chúng ta sẽ tăng lên đáng kể! - Lỗ Thiên Liễu nói. -Nhưng nếu hắn là mồi nhử của đối phương, cơ hội trừ khử chúng ta cũng sẽ rất lớn! - Lỗ Thịnh Nghĩa đáp. -Nếu hắn là mồi nhử của đối phương, tại sao phải dẫn chúng ta đến đây? - Lỗ Thiên Liễu cũng thấy quái lạ. -Bảo bối mà tổ tiên Lỗ gia cất giấu, người khác khó lòng lấy được. Bởi vậy, cần phải chiếm được lòng tin của chúng ta, sau đó biến chúng ta thành chiếc chìa khóa, đây là một tuyệt chiêu để đoạt lấy bảo bối! Suy nghĩ không hoàn toàn sai, nghi ngờ cũng có lý. Những chuyện xảy ra tiếp đó lại khiến Lỗ Thiên Liễu bắt đầu nghi ngờ nhận định của Lỗ Thịnh Nghĩa, vì còn nhiều điểm đáng ngờ hơn xuất hiện trên một con người khác. Vòng qua sườn núi, chỉ cần vượt qua một đỉnh núi tròn nữa là đến được lối vào thung lũng Ngộ Chân. So với những đỉnh núi trước đó, đỉnh núi này có vẻ xơ xác hơn nhiều. Nhìn từ xa lại, toàn bộ phần đỉnh chỉ lơ thơ bốn năm gốc cây, vỏ cây đen sạm, tán cây xanh thẫm đến ngả đen, thân cây cong queo vẹo vọ. Dưới ánh nắng xế chiều đỏ bầm như máu, trông chúng chẳng khác nào bầy quỷ dữ mới thoát ra từ địa ngục. -Nơi đây không thể dừng lại, cần phải nhanh chóng tiến lên phía trước, đi qua đỉnh núi kia sẽ nghỉ chân! – Du Hữu Thích xuất thân cướp bóc, dày dạn kinh nghiệm giang hồ. Hiện giờ bọn họ đang đứng ở chỗ trũng giữa hai ngọn núi, phía trước lại là đỉnh núi trọc rộng lớn, nếu dừng lại nghỉ chân ở nơi này, cho dù đối phương âm thầm tập kích hay tấn công trực diện cũng đều vô cùng thuận lợi. Chu thiên sư cũng gật đầu đồng ý, còn dẫn ra một câu trong binh pháp: “Trại không đối diện với chỗ khúc khuỷu, trại không dựng ở lưng chừng dốc”. Bọn họ mới leo lên được một nửa sườn núi trọc, chút ánh tà dương cuối cùng đã tắt lịm cuối chân trời. Tia sáng cuối ngày vừa vụt tắt, mọi người lập tức cảm thấy một luồng hàn khí luồn dọc sống lưng. Cùng lúc đó, một cơn gió nhẹ xoáy tròn bỗng lướt qua đầu bọn họ không một tiếng động, chỉ cuốn lên một làn bụi mỏng táp đầy lên mặt mũi. -Chu thiên sư, hàn khí thấu xương, có vẻ rất bất thường. - Lỗ Thiên Liễu nói với Chu thiên sư cảm giác của mình. Chu thiên sư lập tức dừng bước: -Đúng là có chút bất thường! – Ông vừa nói vừa thoăn thoắt bấm năm ngón tay bên trái, sau đó đột nhiên lại chuyển sang bấm tay phải. Thấy Chu thiên sư đổi tay bấm độn, Lỗ Thiên Liễu bỗng mặt mày biến sắc. Tay trái đoán nhân tình, tay phải đoán ma quỷ, đó là phương pháp bấm độn “tả hữu âm dương” của núi Long Hổ. Chuyển sang tay phải, chứng tỏ luồng hàn khí và gió xoáy vừa rồi có liên quan đến ma quỷ. Lỗ Thiên Liễu cũng như những người con gái khác, có thể không sợ người xấu hay thú dữ, song ma quỷ không thể không sợ! Chú thích [2] Có nghĩa là khí mạch xông lên linh đài, là một phương pháp tu luyện của Đạo gia. Đạo gia phân chia hơi thở, huyết mạch và các cơ quan trong cơ thể thành mấy bộ phận, sau đó dùng ý thức để khống chế những khái niệm có thể ảnh hưởng đến việc tu đạo, giấu vào các bộ phận trên, sau đó đưa dòng khí bản nguyên chạy lên linh khiếu theo một lộ trình nhất định, đạt đến mục đích nhập hư để thăng, đả thông khí mạch. [3] Có nghĩa là huyết mạch vây quanh chỗ ngang tim. Đạo gia gọi một số vật chất xấu hấp thụ từ bên ngoài và một số vật chất không tốt do cơ thể sản sinh ra là diên hống (chì, thủy ngân), ý là khó giải trừ mà lại mang độc tố. Trong quá trình tu luyện cần dùng ý niệm để vận hành huyết mạch, hóa giải toàn bộ những vật chất này. Trong quá trình đó cần khiến huyết mạch vận hành, và con đường cuối cùng của huyết mạch sẽ xoay chuyển tới vị trí ngang với tim, bởi vì những vật chất xấu được hóa giải sau cùng sẽ được tống ra ngoài qua sự hít thở của phổi.
Lời Nguyền Lỗ Ban Quyển 5 - Chương 4: Đất dưỡng thi Spoiler: Click vào để đọc Động tác bấm độn bên tay phải cũng đã dừng lại, Chu thiên sư nét mặt hoang mang. -Là thứ ô uế gì ư? - Lỗ Thiên Liễu hỏi. -Không biết! Rất quái lạ. Kết quả bấm độn là nửa người nửa ma. – Chu thiên sư đáp. -Ông nói nhịu rồi phỏng? Cái gì mà người cái gì mà ma? Ở chỗ núi hoang rừng thẳm lại không đèn không đóm như thế này, đừng có nói nhảm, lại gọi mấy thứ linh tinh đến bây giờ! - Thủy Du Bạo đi ngang qua bên cạnh Lỗ Thiên Liễu và Chu thiên sư, đã nghe thấy đoạn đối thoại giữa hai người. Thủy Du Bạo vừa nói dứt lời, lại một cơn gió mạnh thổi vèo qua, kèm theo những tiếng lào xào sột soạt. Trong gió như văng vẳng tiếng nuốt nghẹn, khiến người nghe không khỏi liên tưởng đến cảnh yêu ma uống máu nhai xương, mà rùng mình ớn lạnh. -Là tiếng gì thế? Nghe rùng rợn quá! - Đệ tử của Du Hữu Thích lên tiếng, răng môi gõ vào nhau cầm cập. -Đừng sợ! Là tiếng gió thổi rừng trúc mà thôi! – Chúc Tiết Cao trấn an. -Tiếng gió thổi rừng trúc không giống như thế! – Ngũ Lang cất giọng ồm ồm phản bác – Nhà chúng tôi ở vùng Dương Sơn, rừng trúc sát cạnh nhà, tôi nghe không biết bao nhiêu năm rồi, nhưng chưa bao giờ nghe thấy âm thanh tương tự. -Tre trúc vốn chẳng loại nào giống loại nào, hơn nữa khi trồng trúc, khoảng cách và bố cục lại mỗi nơi một khác. Những nguyên nhân đó đều tạo nên sự khác biệt trong tiếng gió thổi rừng trúc. Ngay cả cùng một cây trúc, không có lỗ thì làm ống thổi lửa, có lỗ thì làm ống sáo, cậu nói xem âm thanh của chúng có giống nhau không? Ngũ Lang tính tình chất phác, nói không lại Chúc Tiết Cao, mặc dù cảm thấy cách gã giải thích không thực thỏa đáng, cũng chỉ biết ngậm miệng không nói được gì thêm. Chúc Tiết Cao nói không sai, rừng trúc nằm ở ngay sườn núi bên kia cách đỉnh núi chỉ chừng mươi bước. Trúc ở đây quả thực cũng không giống với những loại tre trúc khác, có màu đen nhánh, thân cao cành thưa, lá chỉ lơ thơ, song phiến lá rất lớn. Kỳ quặc nhất là trên thân trúc quả thực có lỗ, trông hệt như cây sáo, những tiếng nghẹn ngào văng vẳng đúng là do gió thổi qua các lỗ thủng phát ra. Trúc mọc rất dày, mỗi khi có gió thổi qua, thân trúc, lá trúc cọ quẹt vào nhau phát ra thứ âm thanh hết sức lạ lùng. -Trúc sáo định hồn! – Chu thiên sư kiến thức uyên thâm, vừa nhìn đã nhận ra chủng loại của giống trúc lạ. -Đó là truyền thuyết, hình như gọi là “trúc sáo dàn tiếng định ba hồn”, nói rằng đây là giống trúc do Diêm Vương trồng ở ranh giới âm dương để trấn định những cô hồn dã quỷ không chịu đầu thai. Nhưng thực chất là do tại các mắt đốt, gốc cành trên cây trúc tiết ra nhựa ngọt, thu hút sâu bọ đục lỗ trên thân trúc để chui vào. Thế nhưng cách sắp xếp kiểu “dàn tiếng định hồn” lại là do con người trồng nên! – Chu thiên sư nói đúng, các thân trúc ngay hàng thẳng lối, khoảng cách đều đặn, chỉ có thể do con người bố trí – Trúc trồng theo kiểu này hẳn không phải để nhìn cho đẹp mắt, mà chắc chắn còn có tác dụng khác! -Đương nhiên là có tác dụng rồi! Chẳng phải đã khiến mấy người sợ hết vía rồi ư? – Chúc Tiết Cao chỉ đơn thuần là nói ra phán đoán của mình, không có ý cãi cọ hay xem thường ai cả. Theo như gã biết, đám trúc này ngoài việc phát ra những âm thanh rùng rợn thì không còn tác dụng gì khác. -Cãi lời người già, gặp họa chẳng xa. Đúng là cá không ăn muối cá ươn, bảo ngươi bẻ măng ăn, ngươi lại gặm thân trúc. Vậy cũng hay, rồi ị ra nguyên một cái ghế trúc gắn sau mông đít, đi đến đâu ngồi luôn đến đấy! - Lời của Chúc Tiết Cao đã đắc tội với mọi người, cũng kích động thói điêu ngoa của Thủy Du Bạo, thế là lão chẳng cần để ý tới thời gian hoàn cảnh, lập tức phun ra một tràng thóa mạ gã thợ đan. Chúc Tiết Cao chỉ cười nhạt, chẳng thèm đếm xỉa đến lão. Gã cảm thấy kiểu ăn nói của lão Thủy giống hệt như mình, đều thẳng ruột ngựa. -Đừng có dông dài chuyện tre trúc nữa, nhanh chân lên! Nhìn dưới chân núi đen đặc một đám, có lẽ là một vạt rừng, xuống tới đó chúng ta sẽ nghỉ chân! – Du Hữu Thích ngoài miệng nói vậy, nhưng chân vẫn đứng yên, chỉ đưa mắt hết nhìn Chúc Tiết Cao lại nhìn Chu thiên sư. Chu thiên sư khẽ mỉm cười, không tiếp tục tranh luận với Chúc Tiết Cao nữa. Chúc Tiết Cao cũng không nói thêm lời nào, chỉ vuốt lại bó nan tre quấn ngang hông, sửa sang lại con dao pha nan trong túi vải, sau đó dẫn đầu rẽ trúc mở đường, đi thẳng xuống sườn núi. Lỗ Thiên Liễu đi bên cạnh Chúc Tiết Cao. Gã thợ đan vừa cất bước, cô vội vàng thở ra để thu ngực thót bụng, luồn qua khe hở giữa các thân trúc mà đi. Ngũ Lang cũng bám theo Lỗ Thiên Liễu, nhưng với khổ người vạm vỡ to cao, thật khó lòng len lách được qua vạt trúc. Anh ta liền giơ phác đao đâm chéo xuống, chặt đứt phăng gốc một thân trúc to ngang miệng chén. Việc này khác nào mở ra một cánh cửa trên tường kín, những người phía sau đều bám theo anh ta mà đi. Người đi cuối cùng là Thủy Du Bạo. Vừa chui qua vạt trúc, lão lập tức chun mũi hít lấy hít để, rồi hai hàng lông mày giật lên vài cái. Sau khi vượt qua vạt trúc, Lỗ Thiên Liễu không vội đi ngay. Bởi vì vừa mới bước qua, cô đã cảm thấy lồng ngực ngột ngạt, hơi thở nặng nề. Cô chợt nhớ trong “Huyền giác” có viết rằng, nếu đột ngột xuất hiện tình trạng này, gọi là “ý áp” cần hết sức thận trọng, nên lập tức tập trung tinh khí để quan sát biện nhận, cảm giác từng biến đổi tinh vi nhất ở từng ngóc ngách xung quanh và từng bộ phận trên cơ thể. Lúc này, mọi người đều muốn nhanh chóng đi đến vạt rừng dưới chân núi. Trong tình hình đó, Lỗ Thiên Liễu không thể tập trung tinh khí, cô còn lâu mới đạt tới trình độ có thể tụ khí nhập huyền trong nháy mắt. Nhưng tình trạng này đã khiến cô càng thêm thận trọng, bước đi thật chậm, cố gắng sử dụng ba giác trong sáng rà soát khắp xung quanh xem có động tĩnh gì không. Khi tụt lại phía sau, Lỗ Thiên Liễu vừa hay nhìn thấy Thủy Du Bạo đang hít hít ngửi ngửi như con chó già, liền phì cười mà hỏi: -Ông Thủy ơi, ông có ngửi ra cái gì không? Có món gì ngon ư? Song Thủy Du Bạo không trả đũa câu nói đùa của Lỗ Thiên Liễu, mà nói với cô bằng một giọng rất lạ lùng: -Liễu bán tiên, cô cũng ngửi kỹ đi, xem có điều gì bất thường không? Lỗ Thiên Liễu nghe Thủy Du Bạo gọi mình là Liễu bán tiên, thì ngẩn ra kinh ngạc. Khi còn ở núi Long Hổ, cô đã được chưởng giáo thiên sư và mấy vị lão thiên sư thân phận cực cao xem tướng giúp, và nói rằng cô có tướng nửa người nửa tiên, thanh đồng bích nhãn, chuyện này vốn dĩ chỉ có ông Lục và mấy vị thiên sư xem tướng được biết, vả lại cái tên “Liễu bán tiên” cũng chỉ có chưởng giáo thiên sư gọi trêu cô hai lần. Lão Thủy Du Bạo kia rốt cuộc là nhân vật thế nào, tại sao ngay cả chuyện này cũng biết? Trí não Lỗ Thiên Liễu nhanh chóng rà soát lại một lượt tất cả những sự việc thoạt nhìn có vẻ ngẫu nhiên đã xảy ra suốt dọc đường đi. Xem ra lời ông Lục nói với cô trước đây quả thực không sai, “chỉ người cao thâm mới làm được việc ngẫu nhiên”. -Hỏi cô kìa! Sao lại nghệt ra thế? Đang nghĩ đến miếng thịt đầu lợn giấu dưới gối à? -Có! - Lỗ Thiên Liễu đáp quấy quá. -Có cái gì? - Thủy Du Bạo có vẻ không tin, dường như lão đã biết Lỗ Thiên Liễu không ngửi thấy gì, chỉ nói bừa để trêu ghẹo mình mà thôi. -Tôi ngửi thấy đã mấy ngày nay ông không uống rượu, không biết là muốn cai rượu hay không nỡ uống? -Không nỡ uống. Để dành rượu cho việc khác. -Ồ! - Mặc dù Lỗ Thiên Liễu không biết có thể dùng rượu vào việc gì, song cô cảm thấy Thủy Du Bạo không cầm bình rượu trong tay cũng chẳng khác nào cô không có Phi nhứ bạc, Ngũ Lang không có phác đao. -Hai người đừng có lắm chuyện nữa, trời tối như mực lại không có đường đi, đừng có để gạo sống cơm rời chạy nước sôi (đi lạc không tìm thấy) đấy nhé! – Du Hữu Thích phía trước lớn tiếng gọi. -Biết rồi! -Hiểu rồi! Lỗ Thiên Liễu và Thủy Du Bạo cùng lên tiếng, chứng tỏ bọn họ đều hiểu thứ tiếng lóng thổ phỉ của Du Hữu Thích. Xuống tới lưng chừng núi, Lỗ Thiên Liễu càng cảm thấy lồng ngực đau tức, tâm tư buồn bực, còn Thủy Du Bạo hai hàng lông mày càng nhíu giật liên hồi. Người dừng chân đầu tiên là Chu thiên sư, vừa dừng bước vừa gọi người đi trước là Chúc Tiết Cao dừng lại. -Sao thế? Sắp tới khu rừng phía dưới rồi! – Gã thợ đan cảm thấy khó hiểu trước hành động của Chu thiên sư. -Không phải! Tôi cảm thấy rất bất ổn, xung quanh đây tà khí nồng nặc! – Chu thiên sư đáp. -Đừng có thần hồn nát thần tính nữa, hãy nhìn cả vạt... A! – Chúc Tiết Cao còn chưa nói dứt lời, một cơn gió lạnh buốt đã thình lình ập tới thốc thẳng vào mũi miệng. Không ai nói gì thêm nữa. Cơn gió âm hàn ma quái đã đủ để thức tỉnh mọi người nhớ lại sự việc rùng rợn từng gặp ở rừng Giá Trinh. -Than đượm thì lửa xanh, gió to thì mưa đến, có chuyện quái gì đâu, là trời sắp mưa đấy! - Lời của Thủy Du Bạo xem chừng có lý, mọi người nghe vậy cũng thấy bớt căng thẳng. Quả nhiên, lời vừa nói dứt, những hạt mưa lạnh toát đã táp lên đầy mặt. -Mưa thật rồi! Chúng ta mau chạy xuống khu rừng trú tạm! - Lỗ Thịnh Nghĩa nói rồi lập tức lao đi ngay, nhưng mới được mấy bước, một tiếng quát nghiêm khắc đã vang lên: -Không được cử động! Đó là giọng của Chu thiên sư. Mặc dù trong bóng tối không nhìn thấy vẻ mặt của ông, song trong tiếng quát tràn đầy lo sợ và hãi hùng, khiến bầu không khí như đông cứng lại. Cơn mưa mỗi lúc một dày. Nhưng lúc này mới chỉ đầu xuân, mưa trong núi có lớn cỡ nào, cùng lắm cũng chỉ giống như một màn bụi nước giăng kín đất trời, khiến bóng đêm càng trở nên thâm u mờ mịt. -Lỗ sư phụ, ông bước sang phải bốn bước. Ngũ Lang, cậu bước sang trái ba bước! – Chu thiên sư nói rành mạch từng câu từng chữ - Cậu Du, dẫn đệ tử của cậu lùi về phía sau bốn bước, sau đó hai người tách nhau ra năm bước. Cậu Chúc, hãy bước lên phía trước hai bước! – Chu thiên sư tiếp tục sắp xếp. -Ông Thủy, ông bước lên phía trước bốn bước đi, tôi cũng bước lên trước một bước! - Lỗ Thiên Liễu đã hiểu Chu thiên sư muốn sắp xếp kiểu gì, nên chưa đợi Chu thiên sư lên tiếng, đã mau mắn sắp xếp vị trí cho mình và Thủy Du Bạo. -Còn ngươi nữa, tạm thời tránh sang bên phải, tránh ra cả trăm bước cũng không sao, chỉ cần khi ta gọi ngươi nghe thấy là được! - Đệ tử của Chu thiên sư đang đứng ở ngoài cùng bên phải, cách những người còn lại khá xa, vì vậy Chu thiên sư cho hắn đứng ở một vị trí khác hẳn, vì hắn vẫn chưa bước vào phạm vi nguy hiểm. Rất lâu, rất lâu sau, những người đang đứng bất động ở nguyên vị trí đều đã bị mưa tạt ướt sũng. Ướt mưa chỉ là chuyện nhỏ, quan trọng hơn là nỗi sợ hãi, lo lắng, căng thẳng đè nặng trong tâm lý, lại không dám cựa quậy, không biết phải làm gì. Tình trạng này khiến cho mấy kẻ thường ngày chẳng màng sống chết, chém giết quen tay, giờ lại thấy ruột gan như lửa đốt. -Làm cái quái gì thế này, kết lưới sống hay giậm ván trượt? Này ông Chu, ông có tính lầm không đấy? Đừng có lừa chúng tôi đứng dầm mưa ở đây. Tôi chỉ muốn lao xuống dưới kia, cho dù có chém giết đến tan xương nát thịt cũng xong! – Du Hữu Thích là người đầu tiên lên tiếng phản đối. -Ngươi dù gì cũng là kẻ đầu gấu có nghề, mới thế mà đã không chịu được à? Đến như nấu rượu cũng phải đủ lửa đủ thời gian mới sủi tăm được chứ! - Thủy Du Bạo chưa đợi Chu thiên sư lên tiếng, đã vặc lại Du Hữu Thích. -Chẳng phải ông vừa nói nổi gió là vì sắp mưa hay sao? Bây giờ mưa cũng đã mưa, gió cũng đã dừng, sao còn chưa đi? Chẳng lẽ cứ đứng lì cả đêm ở đây chịu ướt? - Đến lượt Chúc Tiết Cao lên tiếng. -Lúc trận gió âm hàn thổi tắc mũi tắc miệng cậu, chẳng phải cậu cũng cảm thấy bất thường ư? Hơn nữa, nếu bây giờ đi, cậu có nhận ra được phải đi về hướng nào không? – Là giọng nói trầm tĩnh của Chu thiên sư. -Thì đi xuống dưới... – Chúc Tiết Cao vừa thốt được nửa câu đã khựng ngay lại, vì gã đột nhiên không còn cảm thấy độ dốc vốn có của sườn núi dưới chân nữa. Ngay cả rừng cây đen kịt vừa ở trước mắt cũng chẳng thấy đâu. Không nhìn thấy rừng cây còn dễ hiểu, vì lúc này đã sắp nửa đêm, lại thêm mưa bụi mù mịt. Đây là một sườn núi không rộng cũng không dài, độ dốc rất rõ ràng, chẳng lẽ do đứng bất động quá lâu nên bàn chân đã tê dại? -Mọi người hãy nghe tôi nói! – Chu thiên sư vận khí để phát âm, nên giọng nói rất trầm ổn – Lúc nãy, ở bên ngoài vạt trúc sáo định hồn, tôi đã sơ suất, chưa xem xét kỹ tác dụng của vạt trúc sáo đã vội lao vào. Nó là sáo trúc dàn tiếng định ba hồn. Sau khi người ta chết đi, ba hồn bảy phách sẽ tiêu tán, nhưng nếu như định ba hồn lại không cho tiêu tán, thì xác chết có thể nuôi được. Lúc này, chúng ta đã sa vào vùng đất dưỡng thi. Thế nhưng có thể dùng sườn núi đất ít đá nhiều như thế này làm đất dưỡng thi, quả thực không thể ngờ tới! Vùng đất dưỡng thi theo lời Chu thiên sư, chính là khi người ta chưa chết hẳn, dùng màng mỏng bằng bạc thuần hình tam giác phong kín cung Nê hoàn của họ. Như vậy, bảy phách của người chết sẽ tiêu tán, nhưng vẫn giữ lại được ba hồn trong thi thể. Sau đó, chôn thi thể xuống đất trong tư thế đứng thẳng, đầu cách mặt đất khoảng một thước rưỡi, đó chính là ranh giới giao thoa giữa âm và dương. Như vậy, xác chết có thể cùng lúc hấp thụ hai luồng địa khí âm dương. Xác chết kiểu này được gọi là “dưỡng thi”, tức xác chết được nuôi dưỡng. Dưỡng thi có cả đặc điểm của xác dương và hồn âm, không biết đau đớn, không có cảm giác, sức mạnh vô địch. Khi dùng bùa chú để điều khiển, nó sẽ trở thành một cỗ máy giết người, một công cụ mê hoặc. Trong các trước tác “Dị táng ký” của Lê Đại người đời Tống và “Kiềm bạc dã đàm” không rõ tác giả viết vào đời Nguyên đều có những ghi chép liên quan đến dưỡng thi. Mặc dù Chu thiên sư đã tự gánh trách nhiệm về mình, nhưng mọi người trong thâm tâm đều rõ, nguyên nhân chủ yếu vẫn là do Chúc Tiết Cao và Du Hữu Thích quá hấp tấp và ngoan cố, mới dẫn đến sai lầm đáng tiếc này. -Bây giờ mọi người hãy coi như đang giúp tôi. Nếu mọi người cảm thấy mệt mỏi, có thể ngồi hoặc nằm tùy ý, có điều phải ở nguyên vị trí không được di chuyển, nhất định phải duy trì được vị trí “Bát tiên định tà”. Chỉ có bố cục hình dương khí này mới có thể trấn áp dưỡng thi không cho chúng đội đất chui lên. Còn về việc chúng ta phải thoát khỏi đây bằng cách nào, xin hãy cho tôi thêm chút thời gian suy nghĩ. Lời nói của lão thiên sư đã thể hiện rõ phong độ của bậc tu đạo cao thâm, nhưng lại khiến Chúc Tiết Cao và Du Hữu Thích cảm thấy trong lòng hổ thẹn. -Hề hề, vị trí “Bát tiên định tà”[4] à? May mà ở đây có một vị Hà tiên cô là cô, nếu không bố cục này đã không bày được! - Thủy Du Bạo hạ giọng nói với Lỗ Thiên Liễu, không biết là trêu đùa cô, hay lão thực sự hiểu được tuyệt chiêu đuổi yêu hàng ma của núi Long Hổ. -Nếu tôi là Hà tiên cô, chắc ông là Thái Thượng Lão Quân! Đứng nhầm chỗ rồi! - Lời nói của Lỗ Thiên Liễu mang ý thăm dò, cô hy vọng Thủy Du Bạo có thể hiểu được mà chủ động tiết lộ thân phận thật của lão. -Ha ha, đúng là bán tiên có khác, lời nói cũng mang khí tiên. Nhưng cục “Thất điện nhất nghê”[5] không chỉ có một vị trí “Bát tiên định tà”. Một tép tỏi còn xào được bảy con tôm nõn, thật khó nói tôi có đứng nhầm chỗ hay không. - Thủy Du Bạo thì thào. Lỗ Thiên Liễu không nói gì, không phải giận Thủy Du Bạo ví cô là một tép tỏi, mà vì cô đã phát hiện ra điểm bất thường trong lời của lão. Vị trí “Bát tiên định tà” là phương pháp sắp xếp bố cục thường gặp khi các thiên sư trên núi Long Hổ đi làm ngoại công[6]. Nhưng những lời vừa rồi của lão Thủy lại như vô tình hay hữu ý nhắc nhở cô rằng, bố cục bảy nam một nữ ở đây chưa chắc đã là “Bát tiên định tà”. Vậy đó là cục tướng huyền diệu nào? Trong đó còn có dụng ý gì khác? Thời gian chậm chạp nhích từng chút một, ít nhất thì những người phải đứng chôn chân trong vùng đất dưỡng thi đang cảm thấy như vậy. Cùng với thời gian nặng nề trôi đi, cơn sợ hãi bất an vừa được Chu thiên sư xoa dịu lại dần dần trỗi dậy. Điều này cũng khó trách, Chu thiên sư nói là sẽ nghĩ cách thoát thân, nhưng đến tận lúc này vẫn chưa thấy hé răng, chỉ ngồi xếp bằng trên đất, nhắm chặt mắt bấm ngón tay miệng lầm rầm không ngớt. Chúc Tiết Cao không thể ngồi yên được nữa. Gã cho rằng sai lầm lần này là do bản thân quá cố chấp, làm liên lụy đến mọi người, trong lòng vừa hổ thẹn, vừa thấy mất mặt vô cùng. Nhưng nghĩ lại, trong những kỹ năng mà tổ tiên đời đời truyền thụ, không thấy có chỗ nào nhắc đến chuyện hồn ma quỷ quái. Trong khi lúc nãy, ngoài hai cơn gió âm tà thốc thẳng vào mặt mũi, cũng không thấy có hiện tượng bất thường nào khác. Không lẽ lão già mũi trâu kia đang bày trò huyền bí để trả đũa gã? Nghĩ đến đây, Chúc Tiết Cao quyết định biến mình thành cây gậy dò đường. Nếu không có chuyện gì, sẽ bóc mẽ được màn kịch huyền bí của lão Đạo sĩ, còn nếu quả thực có điều bất trắc, cũng đáng đời gã. Dù sống hay chết, cũng coi như làm tròn trách nhiệm với mọi người. Chúc Tiết Cao đã nghĩ là làm, chẳng thèm nói lấy một tiếng, đã đứng bật dậy lao thẳng người đi. Động tác của gã thợ đan không hề chậm chạp, song gã vừa mới dấn lên một bước đã ngã sấp mặt xuống đất, bùn nước xung quanh bắn lên tung tóe như nan quạt. -Đừng cố giãy giụa! Hãy thả lỏng! Kệ cho nó kéo! Chúng tôi sẽ cứu cậu! – Chu thiên sư hướng về phía Chúc Tiết Cao la lớn. Song lúc này, Chúc Tiết Cao không còn nghe thấy gì nữa. Vừa ngã xuống đất, gã đã trở thành một kẻ mất hồn, động tác đờ đẫn, trong cơn quẫn loạn đã mù quáng giãy giụa kịch liệt. -Á!!! Cái gì kia? - Lỗ Thịnh Nghĩa cũng rú lên khiếp đảm, bởi vì trên mặt đất ngay trước chỗ ông đang đứng, bỗng thò lên một cánh tay đen đúa, da quắt xương khô, song móng tay lại dài nghêu, trắng ởn, cong vút như một cái móc sắt. Không phải chỉ có một mình Lỗ Thịnh Nghĩa, mà xung quanh những người khác cũng đã thình lình mọc lên một hai cẳng tay tương tự. Những cánh tay khua khoắng dữ dội, nắm chụp liên hồi, như đang khao khát cực độ được túm bắt thứ gì đó. Chính một cánh tay tương tự đã đột ngột đội đất vươn lên túm chặt lấy gót chân Chúc Tiết Cao. Song đấy vẫn chưa phải là điều đáng sợ nhất, mà sau khi gã ngã xuống, đất trên sườn núi bỗng nhiên nhão nhoét như bùn. Vạt cỏ, bùn đất, đá vụn, tất cả đang trồi sụt, đang cuộn lật nháo nhào. Cánh tay đen đúa nhăn nheo vẫn túm chặt lấy bàn chân gã thợ đan, từ từ lôi xuống mặt đất xốp nhuyễn từng chút một, hệt như đang nhận gã xuống đầm lầy. Chúc Tiết Cao càng giãy giụa điên cuồng, tốc độ lún xuống lại càng chóng vánh. Chú thích [4] Bát tiên tức là tám vị tiên trong thần thoại Đạo giáo, gồm có Thiết Quải Lý, Hán Chung Ly, Lã Động Tân, Trương Quả Lão, Hà tiên cô, Tào Quốc Cữu, Hàn Tương Tử và Lam Thái Hòa, trong đó chỉ có Hà tiên cô là nữ. [5] Có nghĩa là bảy tia chớp một cầu vồng. [6] Thiên Sư giáo cho rằng, ngoài việc tĩnh tu ngộ đạo, thì ra ngoài giúp dân chúng trừ yêu phục ma cũng là một cách tu luyện công đức, được gọi là “ngoại công”.
Lời Nguyền Lỗ Ban Quyển 5 - Chương 5: Thiên cầm trấn Spoiler: Click vào để đọc Mọi người không được hoảng loạn! Không được di chuyển! Hãy nghe lời tôi! – Chu thiên sư quát lên thật lớn. Lần đầu tiên Lỗ Thiên Liễu thấy Chu thiên sư lớn tiếng đến vậy. Chu thiên sư vừa quát vừa móc ngay trong túi vải ra một cuộn dây tròn. Cuộn dây ánh vàng lấp lánh, có vẻ là thứ dây được xe từ tơ của loài tằm kim diệp hoặc của giống ngài toái tinh. Chu thiên sư thắt đầu dây thành một nút rút hai vòng, rồi lại lôi ra hai chiếc bình nhỏ, một bình đừng mỡ dòi, một bình đựng máu mèo đen, đều là những thứ hữu hiệu để đối phó với các loại xác sống hung ác. Chu thiên sư đưa ngón tay một ấn một lắc trên miệng bình, rồi lần lượt bôi những thứ dính trên hai đầu ngón tay lên nút rút. -Đưa cho con, trước tiên hãy bắt chéo[7] từ chỗ con! - Lỗ Thiên Liễu vừa nhìn thấy thủ pháp của Chu thiên sư, đã biết ngay ông định làm gì. Đầu sợi dây được chuyển qua Thủy Du Bạo để đưa cho Lỗ Thiên Liễu, trong lúc luống cuống, Thủy Du Bạo còn để dây quấn cả vào người, may mà chỉ quấn một vòng, không làm ảnh hưởng tới việc kéo sợi dây. Lỗ Thiên Liễu quấn sợi dây vàng kim quanh ngón trỏ tay phải, rồi buộc đầu dây lên quả cầu của Phi nhứ bạc, quăng về phía Du Hữu Thích. Du Hữu Thích dưới sự hướng dẫn của Chu thiên sư, vội quấn sợi dây quanh ngón giữa tay trái một vòng, rồi mắc đầu dây lên Nga Mi thích, ném về phía tay đệ tử. Thoáng chốc, sợi dây vàng kim đã được chăng thành một mạng lưới thưa thớt giữa mấy người, mắt lưới chỉ là hai hình dấu nhân lớn có phần méo mó. Lưới đã được dệt xong, nhưng hành động tiếp theo mới là thử thách thực sự, đó chính là phải lồng hai vòng nút rút lên hai tay Chúc Tiết Cao. Nhưng ai có thể vượt qua vạt đất chi chít những cánh tay đang điên cuồng khua khoắng của dưỡng thi để đến chỗ Chúc Tiết Cao? Người gần Chúc Tiết Cao nhất chính là tay đệ tử của Du Hữu Thích. Mặc dù gã thanh niên này có đủ dũng khí, lại sẵn sàng thực hiện việc này, nhưng Chu thiên sư không đồng ý: -Chúc Tiết Cao đã dịch chuyển, vị trí Bát tiên định tà bị thay đổi, nên mới khiến cho một số ít dưỡng thi thoát ra khỏi lòng đất. Nếu ngươi lại rời vị trí, bị dưỡng thi bắt được, thì cục thế này sẽ bị phá vỡ hoàn toàn! Đến lúc đó toàn bộ chúng ta sẽ không ai chạy thoát. Lúc này, tốt nhất là có một người bên ngoài chạy đến lồng dây vào vị trí. -Đệ tử của ông đấy! Đệ tử của ông đang đứng bên ngoài đấy thôi? Thấy ồn ào như vậy mà không chịu đến giúp một tay! Hay là chui vào đâu ngủ mất rồi. Mau gọi hắn đến đi, Chúc Tiết Cao đã lún đến tận ngực rồi! – Du Hữu Thích cuống lên giục giã. -E rằng hắn không làm được! Muốn vượt qua được những cánh tay dưỡng thi, tốc độ phải đạt đến hàng thượng thừa! - Nếu quả đúng như lời Chu thiên sư nói, họ biết tìm đâu ra một người như thế trong tình cảnh này? Chúc Tiết Cao vẫn không ngừng giãy giụa, nhưng sau mỗi cú vùng vẫy, cơ thể lại lún sâu thêm một nấc. Lúc này, bùn đất đã sắp ngập tới cổ gã. Lỗ Thịnh Nghĩa thực sự không thể đứng nhìn thêm được nữa. Chính ông đã đến nhờ Chúc Tiết Cao giúp đỡ, hơn nữa, nhìn vào những kỹ năng của gã, rất có thể đây cũng là hậu duệ của Lỗ gia. Ban đầu ông còn nghi ngờ gã là tai mắt do đối phương gài vào, nhưng nếu đúng là nội gián, tại sao lại bị dưỡng thi kéo xuống lòng đất? Nghĩ đến đây, Lỗ Thịnh Nghĩa chẳng nói chẳng rằng, vứt ngay chiếc hòm gỗ trên lưng xuống đất, ngoắc đầu dây đang cầm trên tay vào quai hòm, rồi giậm chân một cái lao vút đi. Trong số họ, người có tốc độ chậm nhất lại chính là Lỗ Thịnh Nghĩa. Khi đột nhập vào vườn Cô Tô, ông đã bị cây đổ đè gãy chân, tuy đã khỏi nhưng vẫn còn tập tễnh. Vả lại sau cuộc tháo chạy thục mạng trong từng, thương tật lại phát tác nặng thêm, bước chân gần như chỉ còn là những cú nhảy giật xiêu vẹo. Những cánh tay cuồng dại của dưỡng thi rào rào thọc lên khỏi đất, tựa như măng mọc sau mưa. Nhưng thật kỳ lạ, mặc dù có vô số cánh tay thò lên nhanh đến chóng mặt, song lại không thể bắt trúng bước chân vụng về chậm chạp của Lỗ Thịnh Nghĩa. Bởi vì cánh tay tuy đã trồi lên, nhưng trước những bước chân tập tễnh giật cục quái đản, không giống người thường cũng chẳng giống thú vật bình thường, chúng không biết có nên bắt hay không, và bắt bằng cách nào. Giật vội đầu dây trên tay gã đệ tử của Du Hữu Thích, Lỗ Thịnh Nghĩa gần như bổ nhào người xuống lăn đến bên cạnh Chúc Tiết Cao. Nút rút đã được tròng vào cổ tay Chúc Tiết Cao. Chu thiên sư khẽ kéo nhẹ dây, nút rút liền thít chặt lại, ăn sâu vào da thịt, mơ hồ như có một tia sáng vàng kim chảy xuôi theo huyết mạch của Chúc Tiết Cao. Ngay sau đó, đất bùn, đá vụn xung quanh Chúc Tiết Cao càng chuyển động dữ dội hơn, song cơ thể gã không tiếp tục lún xuống nữa. -Quay lại mau! Điểm trấn không đủ, toàn bộ sẽ chết hết! – Chu thiên sư vừa kéo nút dây vừa quát lên thật lớn, thần thái và ngôn ngữ đã hoàn toàn không còn vẻ trấn tĩnh của người tu đạo. Cũng khó trách ông, cục “Bát tiên định tà” đã thiếu mất vị trí dương tiên của Lỗ Thịnh Nghĩa, toàn bộ khu đất dưỡng thi tựa như đang cuộn sóng. Trong những khối đất bùn nhấp nhô dữ dội, cả đám dưỡng thi đang gắng sức vùng vẫy chui ra. -Nhanh! Không trấn được nữa rồi! Dưỡng thi sắp thoát ra rồi! – Nhưng cho dù Chu thiên sư có gào thét đến rách họng, Lỗ Thịnh Nghĩa cũng không thể quay trở về chỗ cũ. Vì lúc này, trên khoảng đất giữa nơi ông đang đứng và vị trí ban đầu, lũ dưỡng thi đã ngoi lên khỏi mặt đất. Những cánh tay khô xác, những cơ thể nham nhở, những cái đầu nát rữa đang lúc nhúc đội đất chui lên, quờ quạng loạn xạ, không còn một khe hở nào cho Lỗ Thịnh Nghĩa lách qua. -Á! Lại vang lên một tiếng kêu rú hãi hùng, là tiếng của Ngũ Lang. Anh ta đang dồn hết tâm trí về phía Lỗ Thịnh Nghĩa, nên không phát hiện ra phía sau lưng có một đám cánh tay dưỡng thi rùng rùng mọc lên, từ xa tới gần. Đến khi phát hiện ra, thì cả hai bàn chân đã bị túm chặt, chớp mắt đã lún đến đầu gối, đến bắp đùi. Chu thiên sư thấy vậy, vội vàng kéo mạnh đầu dây. Sợi kim tuyến buộc trên ngón cái Ngũ Lang lập tức xiết sâu vào da thịt, cơ thể không lún xuống thêm nữa. Nhưng đúng lúc đấy, một cánh tay dưỡng thi thình lình vụt lên ngay dưới chân Chu thiên sư. Có lẽ thiên sư đã dự cảm được từ trước, nên đất đá dưới chân vừa lỏng ra, ông lập tức phản ứng, cả hai chân cùng bật về phía trước. Nhưng do trong tay ông đang giữ bộ phận điều khiển chủ đạo của mạng lưới dây kim tuyến, không thể nhảy đi quá xa. Bởi vậy, tuy dưỡng thi không túm được chân ông, nhưng đã chụp trúng vạt đạo bào. Chu thiên sư liền bị giữ chặt, ông cũng chẳng còn tay nào để xé đứt vạt áo, nên không thể di chuyển được nữa. Nếu lại có thêm dưỡng thi khác đội đất chui lên, hẳn ông khó lòng thoát được. -Huýt!!! Từ miệng lão Thủy đột ngột rít lên một tiếng huýt sáo chói tai. Tiếng huýt vừa vang lên, một cái bóng đen thui bỗng lao xuống từ đỉnh núi, vút qua bên cạnh mọi người, sau khi lượn một vòng tròn, bèn lao thẳng về phía mấy con người đang bị giữ chặt không thể cử động. Bóng đen lướt qua nơi nào, những thân xác dưỡng thi đang nhung nhúc chui lên ở nơi ấy bỗng như cỏ khô gặp lửa, lập tức co rút lại. Cuối cùng, bóng đen nhẹ nhàng đáp xuống quai hòm gỗ của Lỗ Thịnh Nghĩa, một bên móng vuốt đỏ như máu vừa hay đè lên nút thắt trên sợi dây kim tuyến. Mạng lưới được đan bằng sợi dây kim tuyến đột nhiên lóe lên một chớp sáng vàng kim pha lẫn màu đỏ máu. Chớp sáng vừa lóe lên, đám dưỡng thi liền cuống quýt rụt cả vào trong đất, còn nhanh chóng và đột ngột hơn cả lúc chúng ngoi lên. Nhìn vào đôi mắt nhấp nhánh đỏ rực của bóng đen, mọi người đã nhận ra nó chính là con sáo mắt đỏ của chưởng giáo thiên sư, loài chim trời dịch duệ. Cục diện “Bát tiên định tà” lại được thiết lập, và một vị trí trong đó đã được con chim trời linh thiêng trấn giữ. Thảo nào đám dưỡng thi đã phải run sợ mà chui vào lòng đất. Cuối cùng mọi người đã có thể thở phào. Thủy Du Bạo tỏ ra vô cùng đắc ý: -Phân chim một cục hỏng chục mâm cơm. Vào lúc cấp bách, vẫn là con chim ranh này hữu dụng nhất! Ha ha! – Đang cười khoái chí, ngoảnh đầu lại thấy Chu thiên sư đang nhìn mình chằm chằm, lão lập tức trở về với bộ dạng lầm lì, cúi đầu ôm lấy bình rượu. Chu thiên sư nhìn Thủy Du Bạo với ánh mắt đầy nghi hoặc. Thiên sư trên núi Long Hổ đều nuôi các loài chim thú linh thiêng để làm trợ thủ khi thực hiện các pháp thuật trừ ma đuổi quỷ. Song các giống linh cầm linh thú thường chỉ nghe lời người nuôi dưỡng chúng, không phải do mỗi người có phương pháp nuôi dưỡng huấn luyện riêng, mà vì cơ thể chúng đã được cấy một loại bùa tên là “chú thông tâm”. Chú thông tâm, tức là tương thông với tâm ý của chủ nhân, như vậy, các giống linh cầm mới có thể hành động theo ý tứ của chủ nhân. Nếu như một người khác điều khiển được thiên cầm, trừ phi chú thông tâm đã bị phá giải, nếu không người đó chắc chắn đã giết chết chủ nhân của chú thông tâm. Chim sáo đưa tin, chim sáo nghiện rượu, chim sáo bám theo đoàn người, tất cả những chuyện này vẫn có điểm hợp lý. Nhưng Thủy Du Bạo chỉ huýt sáo một tiếng đã gọi được con sáo đậu đúng trên quai hòm gỗ, lại chặn móng vuốt đúng trên nút thắt, những việc này cho dù là cao thủ huấn luyện chim cũng khó lòng thực hiện được, trừ phi thiên cầm đã tương thông với tâm ý của người điều khiển. Đây là con chim sáo mắt đỏ của chưởng giáo thiên sư, làm sao Thủy Du Bạo lại có thể tâm ý tương thông với nó? Hay là ông đã nhìn nhầm, con dịch duệ này không phải con dịch duệ đó? Sự xuất hiện của lão Thủy quả thực rất đáng nghi ngờ. Hơn nữa sau khi lão ta xuất hiện, các hành trình đến đỉnh núi Giang Lang, đến vùng núi Thiên Linh, dường như tất cả đều là do lão bếp già này sắp đặt, hơn nữa, lại là kiểu đi tới đâu sắp đặt tới đó. Nếu như lão quả thực là người đưa tin của chưởng giáo thiên sư, tại sao không nói hết thông tin ngay từ đầu, mà đợi tới khi mọi người định không cho lão đi cùng mới úp mở nói ra? Hơn nữa, kẻ đưa tin tiếp theo lại chính là con sáo mắt đỏ vốn rất nghe lời lão. Như vậy, liệu thông tin truyền đạt có phải là chủ ý của lão hay không? Hay là thông tin đã bị lão thay đổi? Còn nữa, tấm lệnh bài Thiên sư mà lão mang đến liệu có đúng là do chưởng giáo thiên sư giao cho lão hay không? Chúc Tiết Cao vừa được Lỗ Thịnh Nghĩa lôi ra khỏi lòng đất, lập tức tỉnh táo hoàn toàn. Nhìn khắp trên dưới, cũng không thấy có thương tích gì, ngoài một vết hằn tím bầm quanh cổ chân. Lỗ Thịnh Nghĩa thấy Chúc Tiết Cao bình yên vô sự, liền vội vàng cà nhắc trở lại vị trí của mình. Con chim sáo cũng biết điều, thấy Lỗ Thịnh Nghĩa đã quay lại, lập tức xòe cánh bay lên, chấp chới mấy cái đã mất hút vào bóng tối. Chu thiên sư tạm thời gác nỗi hoài nghi sang một bên. Trước mắt, họ vẫn ở trong vòng nguy hiểm, không phải thời cơ thích hợp để xử trí chuyện nghi ngờ. Lúc này, họ cần phải đồng tâm hiệp lực vượt qua cơn kiếp nạn, sau khi thoát thân sẽ theo dõi, biện nhận kỹ lưỡng hơn. -Cậu Chúc, về sau đừng tự ý hành động nữa, sẽ liên lụy đến mọi người. Chúng ta hãy ở nguyên vị trí không được di chuyển, bảo tồn sức lực, không được nóng nảy, chắc chắn sẽ có cơ hội! – Chu thiên sư nghiêm khắc nhắc nhở Chúc Tiết Cao. Mặc dù Chúc Tiết Cao không hiểu khi nãy đã xảy ra chuyện đáng sợ thế nào, nhưng nhìn vào vẻ kinh hoàng chưa kịp tiêu tan trên nét mặt của mọi người, và mặt đất nham nhở giống như vừa bị cày xới, gã đã đoán ra cơn xốc nổi vừa rồi chắc hẳn đã khiến mọi người phải một phen kinh hồn bạt vía. Chu thiên sư đã nói đúng, có trách chỉ trách gã kém hiểu biết lại không giữ được bình tĩnh, suýt chút nữa đã báo hại mọi người. Thế là gã rất thành khẩn ghìm lòng bình tĩnh, ngồi yên chờ đợi. Mặc dù không biết phải đợi đến bao giờ, và chờ đợi điều gì, nhưng gã đã hiểu, nhất định phải làm như vậy. Trời đã sắp sáng, cơn mưa vẫn chưa có vẻ tạnh, Chu thiên sư cũng chưa có vẻ muốn hành động. Chu thiên sư chưa hành động, những người khác cũng không dám hành động. Chỉ có Thuỷ Du Bạo, trời càng về sáng, lão càng có vẻ bất an, nét mặt và ánh mắt càng thêm u ám. Một lão già lười biếng, bây giờ đến ngồi cũng không thể ngồi yên. Dầm mưa suốt cả đêm thì không sao, nhưng trời vừa sáng, Chúc Tiết Cao và mấy người bỗng cảm thấy khó chịu, ai nấy run lên cầm cập, tinh thần cũng uể oải trông thấy. -Lạnh không? May mà tôi có rượu đây, lần này thì có tác dụng rồi nhé! – Thuỷ Du Bạo nói đoạn, ném ngay bình rượu cho Chúc Tiết Cao – Uống một ngụm thật lớn, chia ba lần từ từ nuốt xuống, sẽ thấy ấm hơn nhiều. Chu thiên sư thấy Chúc Tiết Cao mở nắp bình rượu, thì hơi ngẩng lên, như muốn nói gì rồi lại thôi. Đúng vậy, ông vốn định ngăn không cho mọi người uống rượu của Thuỷ Du Bạo, nhưng rồi nghĩ thế nào lại im lặng. Thuỷ Du Bạo còn bảo Ngũ Lang và Chúc Tiết Cao dùng rượu rửa vết thương do dưỡng thi gây ra. Chúc Tiết Cao và Ngũ Lang cảm thấy nơi bị dưỡng thi chộp phải đang sưng tấy lên, ngứa ngáy rất khó chịu, không biết phải xử lý thế nào. Nhưng dùng rượu rửa xong, không những hết ngứa, mà cảm giác sưng tấy cũng đỡ rất nhanh. -Hai cậu đã trúng phải thi độc, trong loại rượu này hẳn có thứ giải được độc tố của dưỡng thi. – Chu thiên sư vừa nói vừa nhìn Thuỷ Du Bạo với ánh mắt đầy ẩn ý. -Thế à? Thế mà tôi chẳng biết gì cả. Này lão thiên sư, tôi nghe nói có thể dùng gạo nếp để giải thi độc phải không? Hay là trong ngũ cốc dùng để ủ rượu có gạo nếp nhỉ? – Thuỷ Du Bạo nói vậy, đến Chu thiên sư cũng không có cách nào phản bác. -Cái thứ rượu quái gì thế này? Ông Thuỷ, ông pha thêm nước vào rượu à? Chẳng có mùi vị gì cả! – Người cuối cùng nhận lấy bầu rượu là Du Hữu Thích. Vừa nuốt xuống một hớp, tinh thần hắn phấn chấn hẳn, lập tức cất tiếng chê bai. -Không pha thêm nước thì làm sao tôi đủ uống? Không pha thêm nước thì hết nhẵn từ lâu rồi! Tôi cứ uống đến đâu pha đến đấy, bầu rượu lúc nào cũng đầy. -Hi hi, đã thành bạn tốt rồi đấy, ông ấy hào phóng mang thứ nước có mùi rượu cho mọi người uống, đúng là mặt trời mọc đằng tây! – Mặc dù Lỗ Thiên Liễu chỉ là trêu chọc, nhưng cô cũng nói không sai, lão Thuỷ bình thường tiếc rượu như mạng, hành động hôm nay rõ là rất bất thường. Nhưng không ai để ý thấy trong sọt của Thuỷ Du Bạo vẫn còn vài bình rượu nữa. Hẳn lão ta không thể “uống đến đâu pha nước đến đấy” với tất cả số rượu mang theo. Vả lại từ sau khi lên núi, hình như lão chưa hề uống một hớp rượu nào. Lão Thuỷ đang nói dối! Nhưng tại sao lão ta phải nói dối? Lão đã pha thêm thứ nước gì vào bình rượu vừa đưa cho mọi người uống? Trong những chiếc bình còn lại là rượu, hay là thứ gì khác... Sắc mặt của Chu thiên sư đã trở nên nặng trịch như bầu trời trong cơn mưa. Lúc này đã sắp tới giờ Ngọ, ông càng tinh thần căng thẳng, tụ khí ngưng thần, ở trong trạng thái cảnh giác cao độ. Thuỷ Du Bạo cũng cảm thấy bất an, cứ ngó ngoáy như dòi, không chịu ngồi yên lấy một chốc. -Ông Thuỷ ơi, ông đang căng thẳng chuyện gì thế? – Lỗ Thiên Liễu hỏi. -Cô không nên biết là hơn, biết rồi lại càng thêm lo lắng nghi ngờ, chỉ cần tập trung chú ý, có chuyện gì cứ làm theo lời tôi là được! Thuỷ Du Bạo càng nói vậy, Lỗ Thiên Liễu càng cảm thấy lo sợ. -Tôi biết rõ ông là thần thánh phương nào rồi, nếu ông không chịu nói cho tôi hay, tôi sẽ nói chuyện của ông cho mọi người biết! – Giọng Ngô nhỏ nhẹ của Lỗ Thiên Liễu nghe thật êm tai, vừa như nũng nịu vừa như doạ dẫm, thật khiến người ta khó lòng không nhượng bộ. -Cái con ranh này, không thành tiên chắc cũng thành tinh. Được rồi, tôi sẽ nói cho cô nghe! – Thuỷ Du Bạo lại suy nghĩ một lát, rồi quyết định nói rõ đầu đuôi sự việc cho Lỗ Thiên Liễu biết. Lão đổi sang tư thế bò rạp xuống, ghé sát sang Lỗ Thiên Liễu lúc này đang ngồi xếp bằng trên đất. -Nuôi xác còn lợi hại và nguy hiểm hơn cả nuôi ma, phương pháp vô cùng tàn độc. Để phát huy tối đa khả năng của dưỡng thi, thường sẽ bắt người sống, rồi tra tấn, giết chết người thân yêu nhất của người đó ngay trước mặt hắn ta. Sau đó lại hành hạ hắn ta thêm vài ngày nữa, để cho oán khí và khí hung sát tích tụ thật nhiều trong người hắn. Đợi đến khoảng giờ Ngọ, sẽ phong ba hồn, diệt bảy phách rồi chôn người đó dựng đứng dưới lòng đất. Như vậy, ba hồn còn lại có thể đêm là ma, rạng sáng là vong, ban ngày là sát. Khi sử dụng, ma đêm là mê, vong sáng là hoặc, sát ngày là hung. Nói cách khác, từ giờ Tý trở đi, càng gần đến giờ Ngọ, dưỡng thi càng có khả năng trồi lên khỏi mặt đất! -Vậy khoảng thời gian từ sau giờ Ngọ đến giờ Tý là thời gian ẩn phục ư? – Lỗ Thiên Liễu hỏi. -Con bé này thông minh gớm, có lẽ giờ Dậu là lúc ẩn sâu nhất! -Vậy chúng ta có thể lợi dụng khoảng thời gian này để thoát ra? -Không biết vùng đất dưỡng thi này kéo dài tới đâu, tốt nhất cần có vật gì để trấn, như vậy chúng ta mới có thể toàn mạng thoát thân. -Ở đây lấy đâu ra vật trấn? -Không biết! Đến giờ tôi vẫn chưa tìm ra vật trấn. Nhưng việc này vẫn còn có thời gian để tính toán, bây giờ quan trọng nhất là phải đối phó với sát ban ngày. Lỗ Thiên Liễu nghe lão nói vậy mới phát hiện ra, lúc này đã gần đến giờ Ngọ. -Vong sáng không xuất hiện, sát ngày sẽ càng hung dữ, cô phải hết sức thận trọng. Còn nữa, cô đã biết được chuyện này, chốc nữa hoàn toàn dựa vào cô và lão Chu xử trí. Ông ta biết phải làm gì! – Thuỷ Du Bạo vừa nói vừa cười bí hiểm. “Kiến thức Đạo gia của ông Thuỷ này không hề thua kém bất cứ một vị thiên sư nào, đây rõ ràng không phải đạo hạnh của một lão nấu bếp suốt ngày chỉ biết đến rau cỏ!” – Lúc này trong lòng Lỗ Thiên Liễu chồng chất vô số điều nghi vấn, nhưng nghi vấn lại không thể mở miệng hỏi, chỉ có thể tự mình phán đoán. Như Thuỷ Du Bạo vừa nói, cô phải hết sức thận trọng. Mưa bụi vẫn mịt mờ không tạnh, mọi người vừa ướt vừa lạnh, cảm thấy khó chịu vô cùng. Nhưng vào lúc chỉ còn cách giờ Ngọ một khắc, họ bỗng cảm thấy được sự ấm áp. Hơi ấm được truyền đến từ dưới đất, nhưng chỉ chốc lát sau đã chuyển từ ấm áp sang nóng giãy. Chẳng bao lâu, mặt đất đã không thể ngồi được nữa, ngay cả khi đứng, đế giày cũng nóng bỏng rất khó chịu. Nhưng thật quái lạ, mặt đất tuy nóng rừng rực, song không hề thấy có hơi nước bốc lên. Theo lý mà nói, với độ nóng như vậy, chắc chắn sẽ phải khiến nước mưa trong lòng đất bốc hơi ít nhiều mới đúng. -Tĩnh tâm, hít sâu thở ngắn, không được để sát làm mê loạn tâm thần! – Giọng Chu thiên sư tuy vẫn điềm tĩnh, song sắc mặt đã càng thêm trầm trọng. Mạng lưới được đan từ sợi dây kim tuyến bất chợt rung lên. Lúc đầu còn ngờ rằng ai đó sợ hãi mà run tay khiến sợi dây dao động theo, nhưng đến khi tất cả mọi người đều thấy toàn thân rung lên bần bật, họ mới ý thức được rằng không phải do bọn họ làm lưới rung, mà là lưới rung khiến cho bọn họ rung theo. Cùng với sự rung động, đất đá cát sỏi dưới chân họ bắt đầu từ từ trồi sụt. Trong cơn xáo trộn, thi thoảng lại vọng lên những tiếng “ùng...! ùng...!” hết sức ghê rợn. Chú thích [7] Tức là bắt chéo sợi dây thành hình chữ X trong một phạm vi và góc độ nhất định.
Lời Nguyền Lỗ Ban Quyển 5 - Chương 6: Quả nát người Spoiler: Click vào để đọc Mau! Dùng vũ khí thường xuyên sử dụng nhất đâm xuống dưới chân! – Chu thiên sư hét vang. Bất kể là người làm trong ngành nghề nào, thứ dụng cụ mà họ sử dụng thường xuyên nhất, quen tay nhất, trải qua một thời gian dài sẽ được thẩm thấu mồ hôi tinh huyết, ánh sáng nhật nguyệt, có thể dùng để trấn hung trừ tà. Ví dụ con dao mổ của người đồ tể, lười rìu của thợ mộc, dùi đục của thợ đá, lưỡi kéo của thợ may..., chúng đều có linh lực nhất định. Mọi người đều vội vã vung đao, kiếm, rìu, thích đâm xuống mặt đất, Thủy Du Bạo cũng đổ chút rượu xuống bên chân. Mặt đất từ từ bình lặng trở lại, nhưng mạng lưới kim tuyến vẫn rung động không ngừng, hơn nữa, ngay cả sợi dây kim tuyến cũng trở nên nóng bỏng, khiến những ngón tay đang giữ sợi dây nóng rát như muốn bốc cháy. -Đừng hoảng loạn! Cố gắng chịu đựng! Tất cả chỉ là ảo giác! – Chu thiên sư ngoài miệng nói vậy, nhưng ông hiểu rõ chỉ bằng mấy lời nói sẽ không thể giúp mọi người chịu đựng được cảm giác bỏng giãy như thiêu như đốt này. Ông bèn thò tay vào trong túi, móc ra một bình sứ màu xanh, miệng lầm rầm tụng niệm: -Tây có núi xanh, núi liền trời xanh, trời có khí thanh, khí thông một khiếu trong lành, khí thịnh vạn vật thanh linh. Thiên sư cầm sách, Lão Quân ban lệnh, khai thanh mở linh. Biến! - Nắp bình vừa mở, mọi người liền cảm thấy có một luồng khí mát rượi chạy dọc theo sợi kim tuyến, khi chạy qua những chỗ thắt nút, cảm giác bỏng rát lập tức biến mất. Sau đó, hơi mát truyền qua ngón tay chạy xuống, ngay cả cái nóng như thiêu đốt trên mặt đất cũng nhanh chóng tiêu tan. -Mọi người hãy nhắm mắt ngưng thần, mặc kệ mọi thứ, có xuất hiện chuyện quái lạ gì cũng không được di chuyển. Cố gắng chịu đựng qua giờ Ngọ ba khắc, mọi chuyện sẽ ổn! - Lỗ Thiên Liễu nói lớn, vì cô biết phương pháp của Chu thiên sư chỉ có tác dụng tạm thời, nếu muốn trấn áp được mối nguy nhật sát, hẳn cô phải hy sinh chút máu mới xong. Sau khi Thủy Du Bạo giảng giải cho Lỗ Thiên Liễu về ma đêm, vong sáng và sát ngày, Lỗ Thiên Liễu đã rà soát trong các lý luận của Đạo gia, và tìm ra một câu “sát ngày dùng máu thuần âm để phá”. Máu thuần âm có rất nhiều loại, máu ly xà, máu rùa thiêng, máu chim tinh vệ, song những loài đó chỉ có thể ngẫu nhiên gặp được mà không dễ tìm. Còn loại máu thuần âm thường gặp nhất là máu của xử nữ, tức con gái trinh tuổi dưới hai mươi bốn. Ngón trỏ thông với trung nguyên, mạch của nó đi thẳng tới uyên điền cực âm. Lỗ Thiên Liễu bèn đưa ngón tay trỏ vào trong miệng, sẵn sàng cắn rách ngón tay, dùng âm huyết phá giải dương sát. Mạng lưới kim tuyến sau một hồi rung lắc, lại từ từ dừng lại. Vẫn chưa đến giờ Ngọ ba khắc, tất cả mọi thứ đều đã khôi phục trạng thái bình thường. -Không cần dùng tới máu của cô nữa! Ngày Thái âm, năm Thanh hòa, lại đúng hôm mưa dầm âm u. Tất cả đã được người ta tính toán từ trước, nên mới không lo không sợ, quả là liệu việc như thần. Cao thủ ẩn thân, kim giấu trong bông. Lợi hại! - Thủy Du Bạo cao giọng nói lớn, cách nói năng đã khác hẳn với giọng điệu của lão bếp lèm bèm lúc trước, dường như muốn cạnh khóe điều gì. Nhưng chẳng ai để ý đến lời của Thủy Du Bạo, không biết là do chưa hết khiếp đảm bởi dưỡng thi, hay đang âm thầm tính toán điều gì khác. -Cú đứng mãi thế này cũng không phải cách hay, liệu chúng ta có thể cứ duy trì vị trí này rồi di chuyển xuống chân núi không? - Lỗ Thịnh Nghĩa đưa ra một cách xem chừng không mấy khả quan. -Hôm qua tôi thấy dưỡng thi không túm được anh Lỗ, hẳn là vì chân anh phải đi cà nhắc. Hay là chúng ta cũng thay đổi cách đi, cứ hai bước lại co chân nhảy một bước, như vậy có lẽ dưỡng thi không thể bắt được! – Du Hữu Thích là kẻ đầu óc lanh lợi, suy đoán và phương pháp của hắn nghe rất có lý. -Bây giờ thì không được! Chỉ cần di chuyển, hình sẽ tán loạn, khí của tám vị trí phân bố không hài hòa, khó tránh được sát ngày tấn công. Hãy cố đợi thêm chút nữa! -Chu thiên sư nói rất đúng, chúng ta hãy đợi đến giờ Dậu hãy đi, lúc đó dưỡng thi sẽ ẩn phục bất động! - Lỗ Thiên Liễu cảm thấy mình cần đứng ra nói đỡ cho Chu thiên sư đôi câu, nếu không, mọi người sẽ không thể hiểu nổi Chu thiên sư đang làm gì. -Cho dù đến giờ Dậu cũng không được! Còn cần phải có một hai vật trấn có thể trấn áp được chúng! – Chu thiên sư nói. -Hoa nghìn cánh cỏ độc rữa, nấm trăm màu rêu địa hoàng, rắn năm bước dế sọc đỏ, thịt diêm tiêu mì nước kiềm. Xa, không đi được. Gần, sao không tìm? - Thủy Du Bạo lại lảm nhảm, hai mắt nhắm lại, mí mắt giật liên hồi, tựa như mê ngủ. Lỗ Thiên Liễu đã nhận ra, mấy câu này xuất hiện trong trước tác “Vật khắc vật biện kim phương” của danh y Khang Mai Đình người Cửu Giang đời Minh. Ông Lục nói sách này có điểm tương đồng với phong thủy học, ông đã từng nghiên cứu kỹ, và giảng giải cho Lỗ Thiên Liễu nghe. Mấy thứ mà Thủy Du Bạo vừa nhắc đến đều từng đôi tương khắc với nhau, thế nhưng giữa chúng lại có quan hệ nương tựa, nên thường xuất hiện rất gần nhau. Hoa nghìn cánh nếu không có cỏ độc rữa bên cạnh sẽ không thể nở, và hoa nghìn cánh cũng là phương thuốc duy nhất có thể giải được độc tố của cỏ độc rữa. Nấm trăm màu chỉ có thể sống được trên rêu địa hoàng, và cũng chỉ có rêu địa hoàng mới có thể giải được độc của nấm trăm màu. Rắn năm bước phải nhờ dế sọc đỏ bóc bỏ lớp màng dịch độc dính trên răng, còn dế sọc đỏ lại phải ăn lớp da lột của rắn năm bước mới có thể sống qua mùa đông. Còn hai thứ sau cùng là do Thủy Du Bạo tự chế ra, lão cho rằng nấu mì với thịt muối diêm tiêu là ngon nhất, và dùng nước luộc thịt để nấu mì cũng là đúng vị nhất. Cho dù Lỗ Thiên Liễu không biết ý nghĩa của hai thứ cuối cùng, nhưng những thứ phía trước cũng đủ để cô đoán được Thủy Du Bạo đang ám chỉ điều gì. Cô đã tìm được vật trấn dưỡng thi, nó chỉ ở quanh đây, ở ngay sát vùng đất dưỡng thi. Không một ai dám liều lĩnh di chuyển. Tất cả bọn họ đang phải giăng tấm lưới kim tuyến “Bát tiên định tà”, giống hệt như một đám châu chấu bị xâu trên sợi dây. Không ai dám, cũng không ai có thể tự tiện hành động theo ý mình. Kỳ thực như bọn Du Hữu Thích, Quan Ngũ Lang, tuy đều biết rõ cao nhân núi Long Hổ bản lĩnh phi thường, nhưng xét từ độ tín nhiệm, họ vẫn nghe lời Lỗ Thiên Liễu hơn. Vì vậy, khi Lỗ Thiên Liễu nói cần đợi đến giờ Dậu, bọn họ đều tập trung ánh nhìn về phía Lỗ Thiên Liễu, chỉ cần cô lên tiếng, sẽ lập tức hành động. Song Lỗ Thiên Liễu từ đầu đến cuối chỉ kín đáo đưa mắt nhìn về phía Chu thiên sư, thi thoảng lắm mới qua lại dăm ba câu không đầu không cuối với Thủy Du Bạo. Trong suốt buổi chiều, cô để ý thấy Chu thiên sư mặc dù mặt ngoài điềm tĩnh, nhưng vẫn có rất nhiều động tác nhỏ cho thấy ông đang lo lắng trong lòng, sau đó lại chuyển từ lo lắng sang bất lực. Tại sao lại như vậy? Đang tiến dần đến thời điểm dưỡng thi ẩn phục, đã sắp sửa được thoát thân rồi. Phải chăng vì không tìm được vật trấn nên ông mới thành ra như vậy? Đột nhiên, Lỗ Thiên Liễu sực nhớ đến một chuyện rất không hợptình hợp lý. Đệ tử của Chu thiên sư! Hắn đang nấp ở bên kia sườn dốc, nhưng từ đầu đến cuối không thấy thò mặt ra một lần nào. Dường như ngay cả Chu thiên sư cũng đã quên bẵng mất kẻ này, ngay cả lúc nguy hiểm nhất đêm qua cũng không hề gọi hắn đến giúp đỡ. -Ông Thủy ơi, ông hãy nói xem vật trấn ở đâu? Giờ Dậu sắp đến rồi, mà hình như Chu thiên sư vẫn không tìm thấy! - Lỗ Thiên Liễu biết đã đến lúc phải chuẩn bị, không thể tiếp tục chết dí ở đây thêm một đêm nữa. Chưa nói tới sự nguy hiểm của dưỡng thi, chỉ riêng việc tiếp tục dầm mưa cũng đủ khiến mọi người thể lực khó đương, nên đến giờ Dậu bằng mọi giá phải rời đi. -Đừng lo lắng! Lúc cần biết tự nhiên sẽ biết! - Thủy Du Bạo chỉ cười rồi nói nhỏ với Lỗ Thiên Liễu. Đúng vậy! Đến một lão nấu bếp già trên núi Long Hổ còn biết được vật trấn ở đâu, chẳng nhẽ một vị thiên sư đạo hạnh cao thâm cai quản Duyệt Vi đường lại không thể tìm ra. Đã gần đến giờ Dậu, Chu thiên sư lại trở nên bình tĩnh khác thường, những biểu hiện lo lắng và bất lực khi nãy đều đã tiêu tan, hồi phục hoàn toàn vẻ uy nghi của bậc tiên phong đạo cốt. Ông hết sức thận trọng nhưng không hề chậm chạp, lôi ra một lô một lốc đồ lễ, có bùa giấy vàng, bột chu sa, ấn đoạn hồn, bút âm dương, lại còn cả kiếm gỗ đào, nến không khói, hương miếng. Ông trải một tấm lụa Bát quái có hình vẽ Tam Thanh xuống đất, rồi lần lượt bày những thứ kia lên. Quá trình thực hiện cũng hết sức tuần tự: đốt nến, thắp hương, vẽ bùa, đóng ấn, niệm chú. Mọi công đoạn đều hết sức chỉnh chu trật tự, những thứ dùng xong lập tức được cất vào trong túi. Rất nhanh chóng, những thứ vừa mới bày ra la liệt giờ chỉ còn lại hai lá bùa và một miếng hương đang cháy dở. Lỗ Thiên Liễu thì thầm hỏi Thủy Du Bạo: -Ông ấy làm vậy có đúng không? -Đúng! Đây là dùng trúc thay nến, trúc sáo định hồn sở dĩ có thể bao vây vùng đất dưỡng thi, vì bản thân nó quả thực có tác dụng định hồn, lại thêm được hấp thụ thi khí dưới lòng đất trong một thời gian dài, dùng nó làm loại nến bùa cắm xuống hai đầu dòng khí của vùng đất dưỡng thi. Trong khi cây trúc bốc cháy, sẽ có thể trấn định không cho dưỡng thi chui lên khỏi lòng đất. -Vật trấn chính là trúc sáo định hồn ư? - Lỗ Thiên Liễu đột nhiên sực tỉnh. Chu thiên sư đã xong xuôi mọi việc, cất giọng sang sảng mà nói: -Bây giờ, tôi sẽ buông dây kim tuyến. Dây vừa buông hết, cậu Ngũ hãy nhanh chóng chạy ngược lại, chặt lấy hai cây trúc sáo mang về. Còn tất cả những người khác chạy ngay xuống núi, càng nhanh càng tốt! Lời vừa nói dứt, không đợi cho người khác kịp hỏi han thắc mắc, Chu thiên sư đã buông chùng sợi dây liền mấy thước, rồi đưa dây lên miệng. Chỉ nghe “phựt” một tiếng, sợi dây đã bị cắn đứt. Các nút dây đang quấn quanh ngón tay mọi người chớp mắt đã bung ra. Sợi dây còn chưa kịp rơi xuống đất, ai nấy đã cắm đầu cắm cổ chạy thục mạng xuống dốc. Chỉ có Chu thiên sư vẫn đứng yên bất động. Mọi người mới vừa cất bước, đất đá trên sườn núi lập tức bung ra, nhưng tốc độ chậm hơn đêm qua rất nhiều. Đến khi Ngũ Lang chạy đến bên vạt trúc, mới có đôi ba cánh tay dưỡng thi lẻ tẻ thò lên. Chu thiên sư vô cùng điềm tĩnh, ông thổi hai hơi vào miệng hương, khiến nó càng cháy đượm, rồi miệng lầm rầm tụng niệm. Khói hương phả đến nơi nào, những cánh tay vừa mới thò lên lập tức bất động giống như bị giữ chặt. Đây là một pháp thuật rất thường gặp trong các chiêu pháp thần kỳ của núi Long Hổ, tức phép “thổ phục” nhờ khói và bùa chú, khiến các xác hung hồn ác đã ngoi lên ngộ nhận rằng chúng vẫn đang ẩn phục dưới lòng đất.Khi miếng hương cháy hết, Ngũ Lang và Chu thiên sư kịp đã vót nhọn gốc hai cây trúc cắm phập xuống đất, rồi rũ hai lá bùa vàng đã viết sẵn cho cháy bùng lên, dính lên trên ngọn trúc. Hai cây trúc sáo liền cháy bừng bừng như hai ngọn nến, soi sáng ít nhiều cho sườn dốc dưỡng thi. Du Hữu Thích lúc này đã chạy xuống đến chân núi, nhìn thấy Chu thiên sư đã hoàn thành mọi việc, thì buột miệng lầm bầm: -Đơn giản thế thôi mà tại sao đêm qua không chịu làm ngay đi, báo hại cả đám sợ đến vỡ mật, lại phải dầm mưa suốt cả đêm! -Không đơn giản đâu chú ơi, vả lại cũng phải đợi đúng giờ này nữa! - Lỗ Thiên Liễu phân trần với Du Hữu Thích. -Chưa chắc! Cách nấu đã thông thạo, lại có phụ bếp tốt, mà lừng khừng mãi không chịu dọn bàn, chắc chắn còn có mưu mô gì khác! - Thủy Du Bạo lại nói nhăng nói cuội chuyện nấu nướng, song trong lời lẽ hồ đồ quả thực có ẩn chứa huyền cơ, chỉ có điều không phải ai cũng hiểu được. Hai cây trúc sáo dùng để thay cho nến cúng cháy rất nhanh, vì chúng được trồng ngay bên cạnh mảnh đất dưỡng thi, nên đã hút được một lượng lớn mỡ người từ xác chết. Chu thiên sư không lường trước được tình huống này, vì vậy khi ông và Ngũ Lang chưa chạy được bao xa, hai cây trúc sáo chỉ còn lại non nửa, về cơ bản đã không còn tác dụng trấn áp. Những cánh tay dưỡng thi đã thọc lên mặt đất lại bắt đầu vùng vẫy, và những chỗ khác cũng bắt đầu lổn nhổn thò ra những phần cơ thể của dưỡng thi. Khi ngọn lửa cuối cùng trên trúc sao tắt ngấm, dưỡng thi chớp mắt đã rào rào đội đất chui lên từ trên đỉnh dốc trở xuống, tựa như một cuộn thảm đang lăn đi vùn vụt trải thẳng xuống chân dốc, không biết đến đâu mới chịu dừng lại. -Chạy mau! Chạy tiếp xuống dưới! – Chu thiên sư vừa chạy cuống cuồng vừa hét lớn. Đám người đang đứng lại dưới chân dốc không thể ngờ được rằng vùng đất dưỡng thi lại rộng lớn đến vậy, lúc này mới vội vã quay đầu tháo chạy thục mạng. -Chạy vào trong rừng! Vùng đất dưỡng thi không kéo dài tới đó! – Chu thiên sư gào lên lạc giọng. Dưới chân dốc quả nhiên có một cánh rừng, cây cối thấp lùn mọc san sát, hẳn là trong rừng rễ cây chằng chịt, không thể “trồng” được dưỡng thi. Hơn nữa cây sống hấp thu khí của trời đất, đón ánh sáng của nhật nguyệt, ít nhiều cũng có mang linh tính, cho dù có dưỡng thi, chúng cũng không thể đội cây mà chui lên. Mặc dù Lỗ Thiên Liễu không phải là người chạy đầu tiên, nhưng cô bẩm sinh đã có mối linh cảm đặc biệt với cây cối, nên là người đầu tiên phát hiện ra rừng cây có chỗ bất ổn. Cây trong rừng là loại lãnh sam lá kim, theo lẽ thường thì phải mọc ở những khu vực tương đối cao so với mặt nước biển, có khí hậu giá rét. Hơn nữa, xét về chỉnh thể, trông những thân cây rất không cân đối, trên cành lá có một số thứ không thuộc về cây. -Không được vào rừng! - Lỗ Thiên Liễu hết lên thật lớn. Người chạy đầu tiên là đệ tử của Du Hữu Thích. Khi nghe thấy tiếng hét, hắn còn cách bìa rừng hơn chục bước chân, bình thường với khoảng cách này, hắn hoàn toàn có thể dừng lại kịp. Thế nhưng đến gần bìa rừng, lại xuất hiện một sườn núi rất dốc, cộng thêm quán tính lao xuống khiến cho hắn khác nào chiếc xe trượt nghìn cân, không thể dừng lại được. Điều duy nhất mà hắn có thể làm lúc này là thuận đà nhảy vọt lên, khiến cơ thể bay ngang trên không trung một đoạn, nhằm tiêu trừ xung lực, tránh để lao thẳng vào cây rừng mà bị thương. Vị trí tiếp đất hắn cũng đã chọn sẵn, đó là một tán cây của hàng cây thứ hai, có thể nhờ vào tán lá để giảm bớt lực đạo rơi xuống. Chạy phía sau hắn là Du Hữu Thích. Mặc dù chỉ chậm hơn tay đệ tử hai bước, song vừa nghe thấy tiếng hét của Lỗ Thiên Liễu, hắn đã lập tức thu bước dừng chân. Lênh đênh sông nước đã nhiều năm, định lực dưới chân hắn đã đến mức độ phi phàm, nên chỉ loạng choạng hai bước nhỏ, hai chân hắn đã đứng thẳng trong tư thế dừng. Song tư thế này chưa thể giúp hắn dừng ngay lại, mà lực quán tính vẫn đẩy hắn trượt đi theo con dốc. Lỗ Thiên Liễu cũng đã đuổi kịp, may nhờ có Du Hữu Thích ngăn cô lại, cô mới chụp được quai hòm trên lưng Lỗ Thịnh Nghĩa. Đối với người nhà họ Lỗ, chiếc hòm gỗ sau lưng cũng chẳng khác gì vũ khí tùy thân của người luyện võ, không được phép rời tay. Vì vậy, khi Lỗ Thiên Liễu chụp được quai hòm, Lỗ Thịnh Nghĩa theo phản xạ lập tức vung tay giữ lấy đầu còn lại của tay nắm. Cùng lúc đó, Lỗ Thiên Liễu phóng Phi nhứ bạc về phía sau lưng, Phi nhứ bạc vừa hay quấn chặt lấy tay Chu thiên sư. Chu thiên sư đang chạy với tốc độ không nhanh, đột ngột bị giật mạnh về phía trước, suýt chút nữa đã ngã lộn cổ, may nhờ có Ngũ Lang phía sau kịp chụp lấy thắt lưng ông. Cơ thể của Ngũ Lang gần như đổ nghiêng xuống sườn dốc trượt đi. Để ngăn chặn thế trượt, anh ta bèn cắm phập phác đao xuống mặt đất. Mũi đao rạch trên sườn núi đầy sỏi, tóe ra từng chùm lửa xẹt. Lực kéo của cả mấy người đồng thời tác động lên bàn tay trái đang giữ chặt chuôi đao của Ngũ Lang, khiến các đầu móng tay bật cả máu tươi. Cuối cùng phác đao cũng đã dừng lại. Con sóng dưỡng thi rùng rùng phía sau cũng chấm dứt chỉ cách phác đao chưa đầy hai thước. Vùng đất dưỡng thi cuối cùng cũng đến chỗ kết thúc. Đám Lỗ Thịnh Nghĩa, Chúc Tiết Cao và Du Hữu Thích đang lôi kéo lẫn nhau ở dưới cùng cũng đã dừng lại, chỉ còn cách cây lãnh sam ngoài cùng chưa đầy một thước. Nhưng mặt mũi của họ lúc này có phần biến dạng, vì trong khi đang trượt xuống, một cơn mưa máu dày đặc đã nhuộm đỏ bầm cơ thể họ từ trên xuống dưới. Là máu tươi của đệ tử Du Hữu Thích. Lúc này, nằm vắt ngang trên tán cây lãnh sam đã không còn là cơ thể cao lớn của gã thanh niên, mà là một đám máu thịt nát bấy. Phát hiện của Lỗ Thiên Liễu quả không sai. Môi trường sống tự nhiên của cây lãnh sam lá kim thường là vùng núi cao với áp suất khí quyển thấp. Bởi vậy, lãnh sam mọc ở nơi đây do môi trường khí hậu không phù hợp, nên rất khó kết thành quả nón. Những thứ không thuộc về cây lãnh sam trong cảm giác của Lỗ Thiên Liễu chính là đám quả nón trên cành. Vì tất cả những quả nón trên cây đều là loại quả nón bằng sắt vừa chạm là nổ. Chúng được tạo thành bằng cách ghép các vảy sắt lại với nhau, bên trong ẩn giấu chốt lẫy lò xo, nếu chạm phải, toàn bộ vảy sắt sẽ bắn tứ tung, không thể tránh né. Lỗ Thịnh Nghĩa quan sát kỹ lưỡng những quả nón bằng sắt, phát hiện ra chúng được móc vào nhau, chứ không phải là xỏ bằng dây, kỹ thuật tinh xảo thật khó tưởng tượng. Mặc dù Du Hữu Thích là kẻ cướp, song rất trọng tình cảm, nên tỏ ý muốn lấy thi thể đệ tử xuống chôn cất. Lỗ Thịnh Nghĩa chắc chắn không thể từ chối yêu cầu này. Du Hữu Thích đã vì đại sự của nhà họ Lỗ mà phải giải tán anh em, phá hủy sào huyệt, những người đi cùng hoặc tử thương, hoặc mất tích không còn một ai, quả thực đã phải hy sinh quá lớn. Lỗ Thịnh Nghĩa bảo mọi người tránh ra xa, sau đó cởi bỏ tấm áo ngoài dày rộng, lấy từ trong hòm gỗ ra một chiếc ống da và hộp dây. Trong ống da đựng những dụng cụ khều dây gỡ nút như kim, móc, kéo, kẹp, trong hộp dây đựng dây kết bằng bờm ngựa. Ông định dùng dây bờm ngựa xuyên vào trong mắt lỗ của quả nón bằng sắt để gỡ chúng xuống. Trong suốt quá trình đó, tất cả mọi người đều căng thẳng như muốn nghẹt thở. Du Hữu Thích cũng bắt đầu hối hận về yêu cầu của mình, bèn đến can ngăn Lỗ Thịnh Nghĩa. Ai dè Lỗ Thịnh Nghĩa nhất định không chịu, nói rằng muốn xem bản lĩnh của đối phương ghê gớm đến đâu. Mưa đã ngớt, chỉ còn lất phất vài hạt. Song mồ hôi lại đổ ròng ròng khắp người Lỗ Thịnh Nghĩa, gần như có thể nghe thấy tiếng lộp độp khi chúng rơi xuống đất. Một quả, hai quả, ba quả... Những quả nón bằng sắt đã được dây bờm ngựa chốt lại không thể bùng nổ lần lượt được bỏ vào hòm gỗ. Cuối cùng thì mọi người cũng nghe thấy Lỗ Thịnh Nghĩa lên tiếng: -Được rồi! Nút đã giải hết! Mọi người cùng xúm lại, gỡ thi thể từ trên tán cây xuống. -Cẩn thận, đừng đụng vào cây bên cạnh! Đầu tiên dịch chuyển thi thể đi, rồi nâng lên, đề phòng bên dưới vẫn còn nút lẫy chưa được giải! - Lỗ Thịnh Nghĩa đứng bên cạnh nhắc nhở. Đợi đến khi lấy được cái xác xuống chôn cất xong xuôi, Lỗ Thịnh Nghĩa mới nói rằng, ông đã gỡ được bảy quả nón bằng sắt trên cây lãnh sam bên ngoài. Đáng ra phải có tám quả, nhưng một quả đã bị gã đệ tử chạm phải mà phát nổ. Trên cây lãnh sam phía trong ông gỡ được ba quả, đáng ra phải có sáu quả, nên ba quả còn lại hẳn đã bắn hết lên người gã. -Quá nhiều, quá dày đặc. Nếu chỉ nổ một quả may ra còn có cơ hội sống! - Lỗ Thịnh Nghĩa nói. -Anh Lỗ, sao anh không vứt mấy quả đó đi, còn cất vào hòm làm gì? – Chúc Tiết Cao hỏi. -Đây đều là những vật hiếm có, cho dù muốn bắt chước để làm theo cũng phải bỏ ra rất nhiều công sức. Cứ giữ lấy, biết đâu sau này lại phải dùng đến! Rừng cây rậm rạp vô cùng, cây nào cây đấy chi chít quả nón bằng sắt, cho dù là thần tiên cũng không thể vượt qua. Vì vậy, phương pháp an toàn nhất là đi vòng qua nó. Sau khi vòng qua rừng lãnh sam, một vạt rừng đạm trúc[8] hiện ra trước mắt họ, trải dài dưới một thung lũng với vách đá hai bên. Bọn họ không ai có khả năng trèo lên vách núi dựng đứng, vì vậy buộc phải xuyên qua rừng trúc mà đi. Chú thích [8] Là một giống tre cỡ trung bình. Thân non màu xanh sẫm, có lớp phấn trắng bao phủ dày đặc, khi già ngả màu lục nhạt hoặc vàng. Còn có tên là trúc mao kim, trúc phấn xanh.
Lời Nguyền Lỗ Ban Quyển 5 - Chương 7: Trúc rối loạn Spoiler: Click vào để đọc Đến lúc này Lỗ Thiên Liễu mới nhìn rõ đám quỷ anh, vóc dáng và diện mạo của chúng quả thật giống hệt trẻ nhỏ, nhưng động tác có phần đờ đẫn cứng nhắc. Nếu không phải tận mắt chứng kiến, chẳng ai ngờ được chúng có thể chạy nhanh đến vậy. Tất cả bọn chúng đều trần như nhộng, trên làn da trắng bệch nổi phồng lên những mạch máu ngoằn ngoèo màu tím anh. Trên chiếc đầu lớn tròn xoe, lại mọc ra một đầu mũi nhọn hoắt và hàm răng nanh lởm chởm. Nơi đôi mắt là một khe hở rất dài và lớn, nhưng lại giống như không thể mở ra. Bây giờ vách Quỷ anh đã thành hình, giống như một chiếc ống tròn, chụp cứng lấy bốn người. Lũ quỷ anh sau khi tạo thành bức tường, hình dạng mỗi đứa một khác, thảo nào số lượng của chúng đông đảo hơn nhiều so với vách Bách anh. Vì chúng có lớn có nhỏ, lại méo mó biến dạng theo đủ kiểu khác nhau. “Vách Bách anh, vòng tuyệt mệnh”, đây là câu nói mà tất cả các khảm tử gia trong giang hồ đều thuộc nằm lòng. o O o Trúc trong rừng đạm trúc mọc vô cùng hỗn loạn. Kể từ lúc bắt đầu lên núi, đây là khu rừng đầu tiên không thấy có dấu vết sửa sang của con người. Rất nhiều thân trúc nghiêng ngả, cong queo, đổ gãy, cành úa lá tươi đan rối vào nhau, không phân biệt được đâu là cây sống đâu là cây chết. Từ trong rừng trúc thi thoảng lại bay ra một thứ mùi hôi tanh nồng nặc, tựa như mùi chuột chết. Lúc này trời đã sáng hẳn, mưa phùn lại rơi mù mịt như sương. Toàn bộ khu rừng chìm trong tiếng rì rầm của hạt mưa nhỏ trên lá trúc, cành trúc. Phải chăng họ đã đi nhầm đường? Đi quanh một vòng rồi lại lạc vào đường rừng? Lần này, ngay cả Chúc Tiết Cao cũng không dám chắc chắn. Hay là bọn họ đã bỏ qua lối rẽ nào? Điều này mọi người đều bác bỏ, từ khu rừng lãnh sam đến rừng đạm trúc, bọn họ không hề nhìn thấy một lối rẽ nào. -Hay là vòng ngược chiều rồi? Lẽ ra phải đi vòng qua bên kia rừng lãnh sam. Mau quay lại thôi, khảm tử gia chẳng nói nơi không có đường chính là đường chết hay sao? – Du Hữu Thích lo lắng. -Ai nói ở đây không có đường? Chỉ có điều không biết con đường này có đi qua được hay không! - Lỗ Thịnh Nghĩa nói. -Vậy ư? Ở đây có đường? – Du Hữu Thích nhìn vào rừng trúc, vẻ đầy nghi hoặc. Bên trong rừng trúc cành xiêu lá úa, nhìn kiểu gì cũng không giống đường đi. Cho dù có đường, hẳn cũng không phải dành cho con người. -Người ta có thể làm ra hình thù ngay ngắn, thì tại sao không thể làm ra hình thù hoang sơ? - Lỗ Thiên Liễu xen vào một câu. -Đúng vậy! Thôi mặc kệ, cứ đi rồi tính. Cho dù là con đường khảm diện do đối phương bày ra, chúng ta vẫn cứ phải đi. Chỉ cần không bị lạc đường, chẳng may có sai vẫn quay lại được! – Chúc Tiết Cao lúc nào cũng muốn đơn giản hóa các vấn đề phức tạp. Lần này Lỗ Thịnh Nghĩa đi trước dẫn đường. Công pháp Định cơ vốn được dùng để xác định phương hướng, phạm vi, hình dạng thích hợp nhất của công trình kiến trúc trong bất cứ điều kiện địa hình nào, vì vậy, ông có thể phát hiện ra đường đi trong khu rừng trúc hỗn tạp rối loạn cũng là hợp tình hợp lý. Quả nhiên có đường, mặc dù con đường rất khó đi. Lỗ Thiên Liễu lần này không đi cuối cùng, vì cô phải bám sát theo cha, sử dụng ba giác nhạy bén để giúp ông phát giác ra những điểm bất thường. Hơn nữa, nếu xuất hiện điều gì bất trắc, cô cũng có thể kịp thời trợ giúp cho ông. Lúc này, người đi cuối cùng là Chu thiên sư. Đây là sự lạ, vì trên suốt đường đi, Chu thiên sư với tư cách là bậc tôn trưởng, lại là người tu hành đạo hạnh cao thâm, nên luôn là nhân vật trung tâm của cả đoàn người, nhưng không hiểu sao lúc này ông lại có vẻ lo âu sợ hãi. Vẫn còn một việc quái lạ hơn nữa, hôm trước Chu thiên sư bảo tay đệ tử tránh xa vùng đất dưỡng thi, nhưng từ lúc đó trở đi, không hề gọi hắn một lần. Sau khi thoát khỏi vùng đất dưỡng thi, ông cũng không đi tìm, thậm chí chẳng buồn nhắc đến, dường như đã quên bẵng mất con người đó. Ai cũng biết Chu thiên sư không thể lú lẫn đến mức độ ấy. Ông ta làm như vậy, chắc chắn còn có dụng ý khác. Chỉ có Ngũ Lang bản tính thực thà, mới ngây ngô hỏi ông ta tay đệ tử đã đi đâu, nhưng Chu thiên sư nét mặt khác thường, chỉ trả lời gọn lỏn: -Có chuyện! Càng đi sâu vào trong rừng trúc, đường càng dễ đi, nhưng thông thường khi đường đi dễ dàng, người ta sẽ không quay đầu nhìn lại phía sau. Cũng chính vì thế mà họ đã không phát hiện ra một hiện tượng bất thường có liên quan tới tính mạng. Ngay cả người đi cuối cùng là Chu thiên sư cũng không phát hiện ra hiện tượng này. Tất cả những nơi mà họ đã đi qua đều không thể quay trở lại. Những cành trúc tươi trúc héo thoạt nhìn tưởng như rối loạn không theo quy tắc, nhưng kỳ thực, chúng đã tạo thành vô số các rào chéo ngược trên suốt dọc đường đi, giống như những hom giỏ bắt cá. Đi theo chiều thuận chỉ cần đẩy khẽ cành trúc là có thể lách qua, nhưng nếu quay ngược lại, sẽ phải đối diện với vô số gai trúc tua tủa đâm thẳng đến trước mặt. -A, có người! - Lỗ Thịnh Nghĩa vừa vòng qua một khóm trúc rậm, liền giật bắn mình trước một bóng người thình lình hiện ra trước mắt. -Ồ! Tại sao lại là anh ta? - Lỗ Thiên Liễu tuy cũng sợ đến toát mồ hôi lạnh, song vừa nhìn đã nhận ra bóng người trước mắt. Đó là một kẻ đáng lẽ không thể xuất hiện ở đây, một kẻ đáng lẽ phải đi cùng cả bọn. Kẻ đó đứng thẳng đơ ngay phía trước, xoay nghiêng về phía đoàn người, thân hình đu đưa nhẹ bẫng, tựa như một bộ da treo trong rừng trúc. -Là đệ tử của thầy kìa! Đi nhanh thật đấy, đã tới tận đây! Nhưng hình như có vẻ hơi dặt dẹo, cứ như vừa ăn đẫy cơm rượu nước đầu! - Thủy Du Bạo quay đầu nói với Chu thiên sư. Sắc mặt của Chu thiên sư lúc này hết sức khó coi, song không hề có vẻ kinh ngạc hay bất ngờ, dường như đã có dự cảm từ trước. Kẻ đó đúng là đệ tử của Chu thiên sư, nhưng đã chết. Một cành trúc sắc nhọn đâm xuyên vào sau gáy hắn, rồi thò ra qua chiếc miệng há hốc, nhấc bổng thi thể hắn lên, đưa qua đưa lại, chỉ còn đầu mũi chân kéo rê trên đất, trông dật dờ như thể đang bay. Du Hữu Thích thận trọng lại gần xác chết, hắn muốn quan sát xem ngọn trúc to bằng miệng chén kia đã xuyên thủng qua gáy kẻ kia bằng cách nào, và còn nguyên nhân nào khác khiến hắn thiệt mạng hay không. Xác chết vẫn quần áo chỉnh tề, không hề có dấu vết của giãy giụa xô xát, có thể phán đoán rằng hắn đã bị ngọn trúc đâm thình lình trong trạng thái không hề phòng bị. Song cơ thể người thấp hơn ngọn trúc, tại sao ngọn trúc lại có thể đâm xuyên qua gáy? Chắc hẳn không phải là do hắn tự vít cành xuống. Còn nữa, một thân xác trai tráng vạm vỡ thế kia treo trên đầu ngọn trúc, tại sao cành trúc lại không hề trĩu xuống? Du Hữu Thích đưa Nga Mi thích đẩy khẽ vào xác chết, cái xác bèn đong đưa như con lắc. -Cẩn thận, tôi đoán có thứ gia vị nào khác. Với thân thủ của hắn, chắc chắn không thể để cành trúc đâm trúng người mới phải! - Thủy Du Bạo nhắc nhở Du Hữu Thích. Du Hữu Thích không nói gì, chỉ khẽ gật đầu. Hắn không động vào cái xác nữa, mà vòng về phía trước xác chết. Đột ngột, hai con mắt của hắn trợn trừng lên như muốn vọt ra ngoài, mặt mũi tái xanh tái xám, lập tức xoay người, gập lưng, “ọe” lên mấy tiếng như muốn nôn. Một tên đầu sỏ cướp hồ giết người không gớm tay giờ lại nôn ọe trước xác chết? Sợ ư? Hay kinh tởm? Cả hai! Lỗ Thiên Liễu tuy rất hiếu kỳ, nhưng lại không dám chạy tới nhìn, sức chịu đựng của cô trên phương diện này thua xa Du Hữu Thích. Vì vậy, khi Thủy Du Bạo nhấp một ngụm rượu rồi đi đến bên cạnh cái xác, vụt một cái xoay nó về phía mọi người, Lỗ Thiên Liễu lập tức nhắm chặt mắt lại quay vội đi. Quá nửa thi thể ở phía bên kia da thịt nhăn đét lại như xác chết khô, một nửa đầu đã trơ xương như đầu lâu, chỉ còn vắt vẻo vài dải thịt, trên đó lúc nhúc vô số dòi bọ đang thi nhau rỉa rúc. Thảm trạng quả thực khủng khiếp, cũng hết sức quái đản. Mức độ nát rữa khô đét của nửa thi thể bên kia thường chỉ có những xác chết đã nhiều năm, trong khi tay đệ tử của Chu thiên sư mới biến mất chưa được hai ngày. Và khó hiểu hơn nữa là cái xác lại một nửa mục rữa một nửa nguyên lành như còn sống, không biết là bị trúng nút thuốc độc, hay trúng ngón tà thuật bàng môn nào? -Chẳng trách lại bị cành trúc nhấc bổng lên, chỉ còn một nửa trọng lượng... Ồ, không đúng, bên trong cũng đã bị moi móc hết rồi, chẳng còn được bằng một nửa nữa... - Những người khác đều thấy ghê rợn không dám nhìn, chỉ có Thủy Du Bạo vẫn thản thiên như không, không những tiến lại gần xem xét, lại còn phân tích rất hào hứng, tựa như đang bàn luận về một món ăn, khiến mọi người đều cảm thấy con người này thật tàn nhẫn. Trong lúc lão Thủy vẫn đang lải nhải không thôi, từ trong đám cành lá dày đặc phía trên bỗng có hai bóng đen lao vụt tới. Lỗ Thiên Liễu vội kéo Lỗ Thịnh Nghĩa ngồi thụp xuống. Ngũ Lang lập tức xoay tròn thanh phác đao che chắn phần đầu. Chúc Tiết Cao né người lách xuống bên dưới một đám trúc nghiêng vẹo, ngay cả Du Hữu Thích đang gập người nôn ọe cũng thuận thế đổ rạp người về trước. Chỉ có Thủy Du Bạo và Chu thiên sư vẫn đứng trơ trơ.Thủy Du Bạo câm bặt, nét mặt sầm lại như tảng đá. Chu thiên sư vẻ mặt lãnh đạm, người không nhúc nhích. Hai bóng đen không lớn, khi lao xuống ngang với độ cao của thân người, liền liệng thành vòng tròn, tách nhau ra, lần lượt rơi trên vai Thủy Du Bạo và Chu thiên sư. Đậu trên vai Thủy Du Bạo chính là con sáo mắt đỏ, còn đậu trên vai Chu thiên sư là một con vẹt lông xanh lớn hơn con sáo khá nhiều. Lông vũ trên mình nó màu xanh lam, từ cổ trở lên xanh biếc đến chói mắt, bên dưới phần cổ ngả sang màu đen. Đây chính là con vẹt mà Chu thiên sư nuôi dưỡng, người nuôi chim gọi giống này là “Lửa ma đêm”. Con vẹt vừa đáp xuống vai Chu thiên sư, lập tức the thé liên hồi: -Chưởng giáo mất tích, Long Hổ bị đánh. Chạy rồi! Tan rồi! Chưởng giáo mất tích, Long Hổ bị đánh. Chạy rồi! Tan rồi... Chu thiên sư mặt không biến sắc, ánh mắt bén nhọn kinh người chiếu thẳng về phía Thủy Du Bạo: -Ngươi là ai? Tiếng kêu quang quác liên hồi của con vẹt không hề ảnh hưởng đến âm hưởng sắc bén rành mạch trong lời nói của Chu thiên sư. -Người được chưởng giáo thiên sư phái đến! - Lời Thủy Du Bạo ngắn gọn điềm tĩnh chưa từng có. -Chưởng giáo thiên sư đã đi đâu? -Đi đến nơi cần đến, đi theo hướng cần đi! -Ngươi tính toán hết rồi phải không? -Là có người tính toán hơi muộn! -Thật ghê gớm! Ẩn mình trên núi Long Hổ suốt bao nhiêu năm, lại lừa gạt được chưởng giáo thiên sư tin tưởng. May mà bảo bối vẫn chưa lấy được, ngươi đã lộ hình quá sớm! -Trong lòng một bầu khí thanh linh, không có hình mà lộ, cũng có thể hiện hình tùy theo cảnh. – Thủy Du Bạo không những điềm tĩnh, mà còn hiển hiện ít nhiều khí độ thanh nhàn của tiên gia. -Con vẹt của ta bay chậm hơn con sáo kia đến trăm dặm một ngày, có lẽ đã đến chậm mất bốn năm ngày, vì vậy nó phải rời núi Long Hổ trước khi con sáo của người xuất phát. Không biết con sáo của người lấy đâu ra thông tin khẩu truyền của chưởng giáo thiên sư? – Suy luận của Chu thiên sư rất có lý, vấn đề chỉ ra cũng rất có khí thế lấn át. -Này, ông Chu, ông đừng có nói cái giọng đấy, làm tôi canh chẳng ra canh cháo chẳng ra cháo. Tôi chẳng phải là thiên sư, bấm độn không biết tính toán không hay, đừng hỏi tôi ba cái thứ vớ va vớ vẩn kia nữa. Đáng lẽ tôi đã bỏ đi rồi, là mọi người khăng khăng níu kéo tôi ở lại, sao bây giờ lại thành ra mũi lợn thối hoắc bỏ vào nồi kho, dù có lý cũng cãi không lại! - Thủy Du Bạo lại quay trở về với cách nói năng bạt mạng chẳng coi ai ra gì, cãi chày cãi cối, hẳn là do không trả lời được câu hỏi của Chu thiên sư nên thuận miệng nói càn. -Tốt lắm! Hôm nay phải đào tận gốc trốc tận rễ, nhổ đi cái đinh găm dưới đế giày! – Du Hữu Thích nhăm nhăm đổ thêm dầu vào lửa. Mấy ngày hôm nay hắn hết cự nự với Chu thiên sư, lại đấu khẩu với Thủy Du Bạo, cuối cùng cũng chộp được một cơ hội để phát tiết. -Chuyện gì thế? Hai người tự dưng đứng trơ ra như khúc tre ở đấy làm gì, có đi không? Đừng có ở luôn đây mà đấu khẩu đấy nhé! – Chúc Tiết Cao chui ra từ đám trúc nghiêng ngả, thấy bộ dạng của hai lão già như vậy thì lấy làm kinh ngạc. -Các người đi trước đi! Cả hai lão già đang hằm hè nhau lại bật ra cùng một câu. -Vậy chúng tôi đi trước đây! - Lỗ Thiên Liễu nãy giờ lắng nghe rất chăm chú, cũng phát giác ra những khuất tất bên trong. Con vẹt Lửa ma đêm của Chu thiên sư mang tin tức đến, nói rằng núi Long Hổ đã bị tấn công, chưởng giáo thiên sư mất tích, nên Chu thiên sư đã nghi ngờ về thân phận và ý đồ thực sự của Thủy Du Bạo. Trong khi Thủy Du Bạo lại ám chỉ Chu thiên sư có ý đồ ám muội. Chuyện này trước mắt không ai có thể phân rõ trắng đen, nên Lỗ Thiên Liễu quyết định tạm thời tránh mặt. -Chúng tôi đi thật đấy! - Lỗ Thiên Liễu lại quay đầu lại nhìn hai lão già đang gườm gườm nhau như hai con gà chọi. Chu thiên sư và Thủy Du Bạo đều không lên tiếng, chỉ khẽ gật đầu. Bọn họ vòng qua phía trước cỗ xác người lủng lẳng trên cành trúc, đi về phía trước, và phát hiện ra rằng, ở vạt rừng phía trước, những cây trúc nghiêng ngả đổ rạp không có nhiều thay đổi, song những thân cây thẳng tắp vươn cao trông lại có vẻ to lớn hơn nhiều so với những chỗ họ đã đi qua. Đúng lúc Lỗ Thịnh Nghĩa đang định rẽ đám cành lá rối loạn để lách lên, trong Lỗ Thiên Liễu lại vụt lên một cảm giác y hệt như khi ở trước rừng cây lãnh sam. Cô vội vàng chụp lấy Lỗ Thịnh Nghĩa giữ lại, nói dứt khoát: -Từ từ đã! Trên đám trúc ở đây có những thứ không thuộc về cây trúc. Trước khi tìm được và xử lý ổn thỏa những thứ đó, họ không được tiến thêm nửa bước. Hai lão già đã chuyển từ đấu khẩu sang đấu mắt, đấu thế. Lúc này, bối rối nhất chính là đám Lỗ Thiên Liễu, tiến lên không được, mà lui lại cũng chẳng xong, không muốn ở lại mà cũng không thể không ở lại. Đám dòi bọ quằn quại trên khuôn mặt nửa thịt chết nửa xương khô của cỗ thây ma, khiến nó như đang nhếch một nụ cười ma quái, dè bỉu đám người đang lúng túng trước mặt. Sáo mắt đỏ và Lửa ma đêm đột nhiên lao vút lên không, khiến mọi người cứ ngỡ Chu thiên sư và Thủy Du Bạo sắp động thủ đến nơi. Ngoái đầu nhìn lại, thấy hai lão già vẫn đứng bất động, trong khi hai con chim cũng không bay đi xa, chỉ lượn vòng vòng bên trên rừng trúc, dáng vẻ đầy sợ hãi hoảng loạn. “Linh cầm cảnh báo”! Lỗ Thiên Liễu biết hiện tượng này có ý nghĩa gì. Cô bất giác lùi lại một bước, tập trung tinh thần, dùng ba giác nhạy bén để lục soát trong rừng trúc. Nhưng do suốt nhiều ngày bôn ba mệt mỏi, tinh thần lại ở trong trạng thái căng thẳng cao độ, nên hiện giờ ba giác của cô không thể đạt đến trạng thái tốt nhất. Nhưng cho dù như vậy, cô vẫn nghe thấy có vật gì đang trườn đi một cách chậm chạp, mang theo một thứ mùi hết sức khó ngửi. Lỗ Thiên Liễu đột nhiên cảm thấy trước mắt lòe nhòe, bèn vội vàng chớp mạnh đôi mắt để rũ đi những hạt bụi mưa bám trên mi. Song trước mắt vẫn thấy hơi chao đảo. Một số thứ đúng ra không thể di chuyển giờ đang di chuyển. Là thứ gì? Là cây trúc! Là cành trúc! Là các đốt trên cành trúc! -Cây trúc kìa! - Lỗ Thiên Liễu không biết phải nói thế nào, chỉ biết đưa tay chỉ vào cây trúc, kêu toáng lên. Cô vừa đưa tay ra chỉ, bỗng một đoạn thân trúc ngay phía trước vụt một cái đã lao đến sát gần, lắc lư rơi thẳng xuống đầu Lỗ Thiên Liễu. -Chạy mau! – Chúc Tiết Cao vừa quát lớn, vừa vung tay đẩy Lỗ Thiên Liễu sang một bên, một thanh nan tre vàng óng vung ra, quấn ngay lấy “đoạn trúc”. “Đoạn trúc” đã rơi xuống đất, song từ trong rừng tiếp tục văng ra vô số “đoạn trúc” bay đến tới tấp, khiến bó lạt tre không thể nào bắt cho xuể. Vừa chạy ngược trở lại, Lỗ Thiên Liễu đã phát hiện ra lối về trúc ken tua tủa như hom giỏ. Bọn họ đã trở thành cá nằm trong đó, không thể trở ra. -Á! Nóng quá! Nóng chết mất! – Ngũ Lang đi đoạn hậu bỗng rú lên. Có thể khiến một gã trai mình đồng da sắt phải kêu la thảm thiết đến thế, nỗi đau đớn hẳn là khó tưởng tượng. Ngũ Lang vừa kêu rú, vừa đưa tay ra sau lưng giật phăng một miếng “vỏ trúc” màu xanh nhạt. Miếng “vỏ trúc” bị rứt xuống, lôi theo cả một mảng áo của Ngũ Lang, trên mảng lưng trần hằn rõ một vết cháy sém có hình vỏ trúc. -Chạy đi đâu? Không quay lại được! -Lách sang bên trái! -Hay là nấp dưới đám trúc nhỏ trước đã! -Không được, chúng nhiều quá! Lát nữa bị vây kín sẽ không còn đường chạy! Mọi người đã hoảng loạn cực độ. Lúc này những “đoạn trúc” đã bay đến rợp trời rợp đất. -Chạy sang đây! – Là giọng của Thủy Du Bạo. Cuộc đối đầu giữa Chu thiên sư và Thủy Du Bạo không biết đã kết thúc từ bao giờ, lúc này Thủy Du Bạo đang đứng trước một vạt trúc khô héo, đưa tay vẫy Lỗ Thịnh Nghĩa. Lỗ Thịnh Nghĩa ngần ngừ một thoáng, không biết có nên đi theo Thủy Du Bạo hay không. Chính trong khoảnh khắc ngần ngừ đó, một “đoạn trúc” đã rơi xuống cổ ông, rồi lập tức quấn một vòng quanh cổ hệt như vắt cho ông một tấm khăn quàng màu xanh nhạt. Nhưng dải khăn quàng quá chặt, lại ấm quá thể, hai mắt Lỗ Thịnh Nghĩa đã lồi hẳn ra, đến kêu cũng không kêu được thành tiếng, “phịch” một cái ngã lăn xuống đất. Lỗ Thiên Liễu vung Phi nhứ bạc đánh văng hai “đoạn trúc” đang lao đến, đưa tay trái định gỡ dải “vỏ trúc” thít trên cổ Lỗ Thịnh Nghĩa, song lại không thể tìm thấy đầu mối ở đâu, không biết phải gỡ từ chỗ nào. “Phụt” - Thủy Du Bạo ngửa cổ phun ra một ngụm rượu tung tóe trên không, ngụm rượu rất lớn, song hơi phun của Thủy Du Bạo cũng rất dài. Luồng hơi dài đã phun rượu thành một tấm màn rất rộng, bao trọn lấy bọn Lỗ Thiên Liễu. Mấy giọt rượu cuối cùng vừa hay rơi trúng “chiếc khăn quàng” thít quanh cổ Lỗ Thịnh Nghĩa, “chiếc khăn” giật lên mấy cái, rồi nhũn ra tuột xuống. Thủy Du Bạo chụp lấy sau cổ áo Lỗ Thịnh Nghĩa, chỉ một tay đã kéo bật ông lên. Sau đó lại buông tay, chưa đợi Lỗ Thịnh Nghĩa ngã sụp xuống, đã vỗ mạnh một chưởng vào giữa lưng ông. Chưởng này khiến Lỗ Thịnh Nghĩa hít thở lại được, mặc dù quanh cổ bỏng rát đau đớn, nhưng chân đã đứng vững được. Màn rượu của Thủy Du Bạo vừa phun ra, những “đoạn trúc” đã lao đến sát gần bỗng rung lắc dữ dội, lập tức bay ngược trở lại, có đoạn quay về cây trúc, có đoạn rơi vào trong bụi. -Chạy mau! Rượu chỉ có thể ngăn cản tạm thời! - Thủy Du Bạo vừa nói vừa đẩy Lỗ Thịnh Nghĩa. Lỗ Thịnh Nghĩa vừa kịp định thần, không còn sự lựa chọn nào khác, chỉ biết cắm đầu chạy theo Thủy Du Bạo. Con đường mà Thủy Du Bạo phát hiện bị che phủ hoàn toàn bởi đám cành trúc rối loạn thấp lè tè, phải cúi lom khom mới có thể luồn qua. Nhưng lúc này, chỉ cần có đường đi, chỉ cần tránh được sự công kích, cho dù phải bò mà đi, bọn họ cũng phải liều mạng. Đến khi không thể chạy nổi nữa, bọn họ mới ngồi phệt xuống đất thở hồng hộc. Nhưng đến tận lúc này, bọn họ vẫn chưa thể ra khỏi con đường bị phủ kín dưới cành trúc rậm rịt. Khi đã đỡ hổn hển, Lỗ Thiên Liễu đến bên Lỗ Thịnh Nghĩa để xem xét vết thương cho ông, liền phát hiện phần da trên cổ ông đã cháy đen và khô quắt lại, trên đó có vô số lỗ nhỏ li ti, nhưng không thấy có máu rỉ ra từ trong lỗ. -Không biết là thứ quái đản gì? Vết thương trông rất bất thường! - Lỗ Thiên Liễu vừa nói vừa đưa mắt về phía Thủy Du Bạo. Chưa đợi Thủy Du Bạo lên tiếng, Chúc Tiết Cao đã tranh nói trước: -Đây là dơi đốt trúc, thường gọi là sâu hỏa lưu. Hoa văn, màu sắc trên mình chúng trông giống hết như một đoạn trúc, và chỉ sinh sống trong rừng đạm trúc. Bên dưới cơ thể có trăm chân, vừa dùng để di chuyển, vừa dùng làm vòi hút thức ăn. Trong rừng đạm trúc, chúng hút nước trên lá trúc, sau khi vào trong cơ thể sẽ chuyển hóa thành một thứ dung dịch ăn mòn cực mạnh. Khi gặp vật sống, chúng sẽ bám lên cơ thể, trăm chân cắm sâu vào da thịt, nhả dung dịch vào cơ thể sống để làm cho cơ thịt nát rữa, rồi hút lấy để ăn. Sau khi hút no, chúng sẽ bò về cây trúc, nhả thứ dung dịch vừa hút được xuống gốc trúc. Bởi vậy những cây trúc có dơi đốt trúc ký sinh đều cao lớn hơn hẳn. Xác đệ tử của Chu thiên sư chính là bị giống quái vật này cắn hút, nên mới thối rữa nhanh chóng đến vậy! -Tại sao không nói sớm? Giống quái vật đó hình như còn biết bay! – Du Hữu Thích cằn nhằn. -Không phải bay, mà là nhảy. Giống này trước đây tôi đã từng thấy, nhưng to nhất cũng chỉ bằng cái đũa, có biết đâu lại lớn đến thế? – Chúc Tiết Cao nói. Thực ra giống dơi đốt trúc này còn có tên là dơi trúc. Trong trước tác “Dị trùng điển phả” có chép rằng: “Dơi trúc, hình dạng màu sắc giống như thân trúc, hút máu thịt rát như lửa thiêu, to bằng thân trúc nơi chúng ở...” -Vết thương phải xử lý như thế nào đây? - Người bị thương chính là cha mình và Ngũ Lang, nên Lỗ Thiên Liễu vô cùng lo lắng, không biết mức độ nguy hiểm của vết thương và phương pháp điều trị ra sao. -Thịt bị dung dịch trong thân dơi thiêu đốt, nên hoại tử mà thành ra như vậy. Cứ để kệ nó, vết thương sẽ dần bình phục! - Thủy Du Bạo nói. -Phải rồi, ông Thủy, thứ rượu của ông xem ra rất vạn năng, hay là thử dùng nó để chữa cho họ xem sao? – Du Hữu Thích đã bắt đầu tò mò với rượu của Thủy Du Bạo. Cũng dễ hiểu, vì bình rượu của lão đã hết lần này đến lần khác phát huy tác dụng thần kỳ. -Không phải món nào thêm muối cũng hợp, vết thương này tôi cũng bó tay! - Thủy Du Bạo nói. -Hỏi Chu thiên sư xem ông ấy có cách gì không? – Chúc Tiết Cao nói với Du Hữu Thích. -Chu thiên sư! Ô, cái lão mũi trâu này biến đi đâu rồi nhỉ? Không chạy cùng chúng ta ư? Lúc này mọi người mới phát hiện ra Chu thiên sư đã không thấy đâu nữa, không biết ngay từ đầu đã không chạy cùng mọi người, hay là đã thất lạc trên đường tháo chạy. Trong lòng Lỗ Thiên Liễu bỗng dấy lên một cảm giác như thể bị lừa gạt. Tại sao cô lại có cảm giác này. Cô đã bị ai lừa? Cô không rõ, nhưng chắc chắn đã có một ai đó đã lừa gạt mọi người. Là Chu thiên sư? Hay là Thủy Du Bạo? Nếu là Chu thiên sư, vậy vẫn còn may, chí ít lúc này cũng đã thoát khỏi ông ta. Mà không đúng! Cũng có thể bọn họ đã bị ông ta đưa đến một con đường không thể quay về. Nhưng con đường họ đang đi lại do Thủy Du Bạo dẫn vào. Phải rồi! Tại sao Thủy Du Bạo lại biết được con đường ẩn kín trong trúc thấp? Tại sao rượu của Thủy Du Bạo lại có thể khắc chế được lũ dơi đốt trúc? Nếu thông tin mà con vẹt “Lửa ma đêm” của Chu thiên sư mang đến là chính xác, thì Lão Thủy Du Bạo kia rốt cục là ai? -Chúng ta hãy nhanh chóng tiến lên, phải thoát khỏi rừng trúc này trước đã! - Lỗ Thiên Liễu đề nghị. Cuối cùng cũng đã thoát khỏi con đường phải cúi lom khom mà đi, nhưng họ vẫn chưa thể ra khỏi rừng đạm trúc. Khi bọn họ đã có thể đứng thẳng người, nhìn về phía trước, trải dài trước mắt vẫn là đọt xanh tua tủa, cành đan chằng chịt, bóng lá điệp trùng. Trong cảm giác của họ, rừng trúc ở đây như thể vô cùng vô tận, không bao giờ đi được đến tận cùng. -Khu vực này có vẻ thoáng đãng hơn nhiều! – Chúc Tiết Cao cuối cùng cũng lên tiếng. Nếu không phải cảm thấy sự lạ, một người như gã tuyệt đối không bao giờ chủ động phá tan sự yên lặng. Chúc Tiết Cao vừa lên tiếng, những người khác cũng lập tức nhận ra. Khu vực này trúc bụi và cành lá rối ren mỗi lúc một thưa, những búi trúc nhỏ dày đặc không còn thấy nữa. Trúc nghiêng và trúc thẳng thay đổi không nhiều, chỉ có vẻ thưa lá trơ trụi hơn trước chút ít. Thế nhưng những cây trúc chết khô và bị gãy cụt lại thấy nhiều hơn. Lúc này đổi sang Lỗ Thiên Liễu đi trước dẫn đường, cô không yên tâm để Lỗ Thịnh Nghĩa đang bị thương đi đầu. Lỗ Thiên Liễu bước đi vô cùng thận trọng, chỉ men theo những gốc cây trúc thẳng, không chui qua bên dưới những thân trúc ngả nghiêng, và tuyệt đối không bước qua những cây trúc đổ gãy. Đây là phương pháp di chuyển đề phòng dính nút mà các khảm tử gia thường dùng nhất. Nhưng cùng với sự thay đổi của rừng trúc, tình hình mỗi lúc càng trở nên phức tạp. Nếu vẫn kiên quyết di chuyển theo cách này, e rằng chẳng còn đường nào đi được nữa. Vì vậy, họ đành phải đánh liều tiến bừa về phía trước. Người trúng chiêu đầu tiên lại là Ngũ Lang. Khi Lỗ Thiên Liễu thận trọng bước qua một thân trúc khô héo đổ ngang, Ngũ Lang đang bám sát sau lưng cô bỗng rú lên một tiếng, cả cơ thể lập tức bị nhấc bổng khỏi mặt đất. Mặc dù Ngũ Lang đầu óc chậm chạp, song phản ứng lại vô cùng mau lẹ, lập tức bấm vào chốt lẫy tại chuôi phác đao, chúc mũi đao xuống dưới, cán đao xoay mạnh, mũi đao liền chém vòng về phía sau lưng. Ngũ Lang mang theo một cành trúc to ngang miệng chén, hạ xuống đất. Cành trúc đã đâm xuyên vào nách Ngũ Lang, máu tươi phun ra đầm đìa. -A! Cành trúc vọt ngược lên trên. Tôi đã nói mà, đệ tử của Chu thiên sư không thể tự nhiên lại bị treo trên cành trúc! Cành trúc tự vọt lên trên! – Du Hữu Thích tận mắt nhìn thấy rõ cây trúc bên cạnh Ngũ Lang đột nhiên cao vọt lên hơn một thước, cành trúc nhọn hoắt trụi lá trên cây trúc cũng theo đó đâm xéo lên trên, tốc độ cực nhanh, xiên thẳng vào nách Ngũ Lang. Chắc chắn đệ tử của Chu thiên sư cũng bị đâm trúng theo kiểu này, nhưng vì thi thể trông quá ghê sợ, nên khi đó hắn đã không chú ý quan sát kỹ cành trúc cắm sau gáy. -Cái gì mà trúc vọt lên trên? – Chúc Tiết Cao nghe thấy thì nổi lòng hiếu kỳ, chạy vượt qua trước mặt Lỗ Thịnh Nghĩa, muốn nhìn rõ hơn. -Chính là nó... Ối! – Du Hữu Thích chưa nói hết lời, Chúc Tiết Cao cũng chưa kịp nhìn rõ, rừng trúc bỗng rùng rùng biến đổi, mọc vọt lên cao, cành trúc vun vút xé gió đâm lên, thân trúc va vào nhau chát chúa. Chắc chắn là đã có người động chạm phải một thứ không nên động chạm. Ngũ Lang vừa chạm đất, lại tiếp tục bị một cành trúc khác đánh văng đi, đôi chân Chúc Tiết Cao và Du Hữu Thích chớp mắt đã bị các cành trúc trói chặt, Lỗ Thịnh Nghĩa và Thủy Du Bạo bị vô số cành trúc chằng chịt ken kín quanh người, tựa như bị nhốt trong một chiếc lồng lớn. Người thê thảm nhất chính là Lỗ Thiên Liễu, cô bị một cây trúc đổ nghiêng trên đất đánh bật lên rất cao, rất xa. Chưa kịp rơi xuống đất, từ bên dưới lại có một đoạn đạm trúc to lớn vùn vụt lao lên, trên thân cây tua tủa những cành xiên nhọn hoắt. Trong đó, một cành đâm trúng eo, một cành khác đâm trúng bụng cô. Nhưng hai cành trúc đều không xuyên sâu vào trong cơ thể cô giống như với Ngũ Lang, xung lực cực mạnh của cú đâm chỉ khiến cô bị đánh văng đi. Lỗ Thiên Liễu đáp xuống rất nhẹ nhàng, dù sao cô cũng là một cao thủ khinh công. Nhưng cô lại rơi xuống trong tư thế tứ chi tiếp đất, duỗi thẳng chân tay nằm sõng soài trên mặt đất hệt như con ếch chết, im lìm không nhúc nhích. -Tất cả đứng yên! Không được động đậy! Chỉ hơi nhúc nhích, cành trúc sẽ biến hóa! - Lỗ Thịnh Nghĩa không thể cử động, chỉ có thể hét lên - Liễu Nhi, con không sao chứ? - Lỗ Thịnh Nghĩa nhất thời không nhìn thấy Lỗ Thiên Liễu đâu, vì hai đòn tấn công đã đánh bật cô văng ra xa hơn hai chục bước. -Con không sao, không sao hết! Con chưa rõ đây là loại cạm bẫy nút gì, nên không dám cử động! - Lỗ Thiên Liễu đáp. -Là trận Trăm đốt đan xen! Khi chưa động vào chốt lẫy, nó chẳng khác rừng trúc bình thường. Chỉ cần chốt lẫy động, cây trúc sẽ chịu lực mà hoạt động, nhưng ngoại trừ một số cây đặc biệt, thì phương hướng lực đạo và phương thức hoạt động của những cây khác đều là tùy cơ, không thể phán đoán được vị trí của chốt lẫy! – Lúc này Lỗ Thịnh Nghĩa mới nhìn thấy Lỗ Thiên Liễu. -Nói như vậy là không có cách giải ư? - Lỗ Thiên Liễu hỏi. -Đúng vậy! Không có cách giải, chỉ có thể tránh! - Lỗ Thịnh Nghĩa đáp. Trận Trăm đốt đan xen, ban đầu được gọi là Cuồng chi mạn dã[9], là cục thứ mười tám trong Kỳ môn Độn giáp. Nghe nói khi Hoàng Đế giao chiến với Xuy Vưu, đã ngộ ra được cục này từ trong giáp đạo của thần cây. Cục này ít được sử dụng trong nghề khảm tử, vì nó cần đến bố cục rộng lớn và phải tốn rất nhiều thời gian để thiết kế. Nhưng nó lại thường xuyên được sử dụng trong binh pháp, như vào thời Tống, tướng lĩnh nhà họ Dương đã dùng một nghìn cây mâu ba trượng để phá đội ngựa giáp sắt liên hoàn; hay Lý Thế Dân đầu thời Đường dùng chạc sừng hươu bắt giết Lưu Hắc Thát trong rừng Tiểu Đào, đều là vận dụng chiêu này. Nhưng nhà binh chỉ dùng đến phần hình, tuyệt đối không thể đạt đến mức độ tinh vi kín kẽ, mắt xích liên hoàn như khảm tử gia. Giống như khảm diện trước mắt, cành khô cành tươi đan xen rối loạn, chằng chịt ngả nghiêng, không thể phân biệt, cho dù là cao thủ trong nghề khảm tử chưa chắc đã thoát ra được. -Ngũ Lang, đừng nhổ ngọn trúc ra, chưa chuẩn bị cầm máu, máu ộc ra sẽ mất mạng đấy. Gắng đợi bọn ta tình cách lại gần! – Du Hữu Thích biết Ngũ Lang tính tình lỗ mãng, vội lên tiếng ngăn cản. -Quái lạ thật, tôi thấy con bé Liễu cũng bị đâm trúng hai phát, tại sao lại không hề hấn gì? – Chúc Tiết Cao băn khoăn. -Ha ha! Trên người con bé có mang bảo bối gia truyền của gia tộc tôi, tôi đã giấu bảo bối vào người nó rồi! – Du Hữu Thích vẻ đầy đắc ý, dường như đã quên bẵng mất mình đang bị vây khốc trong đám cành trúc. Thì ra sau khi qua rừng Giá Trinh, Du Hữu Thích cảm thấy địa thế nơi đây hiểm ác khôn lường, lại nghĩ vận khí của tổ tiên đã hoàn toàn bị phá vỡ, dù có liều mạng cũng khó đương đầu với số mệnh. Chỉ còn cách đặt hết hy vọng vào một người có đủ linh tính, bảo vệ cho người này an toàn để lấy được bảo bối, khi đó, bản thân mình cũng sẽ được hưởng lây chút bảo khí mà hóa giải phá cục của gia tộc. Hắn đã lựa chọn Lỗ Thiên Liễu. Hắn từng nghe nói trên cơ thể cô có làn khí thần thánh, và cũng tận mắt chứng kiến, nên khẳng định rằng cô chính là người thích hợp nhất. Bởi vậy, hắn đã kín đáo tìm cơ hội để đưa bộ áo giáp đồng rẽ nước cho Lỗ Thiên Liễu mặc vào. Áo giáp đồng rẽ nước được đan từ sợi đồng xanh, thứ đồng được kéo sợi từ khối đồng xanh nung chảy từ cột đồng mà vua Trụ nhà Thương dùng để nung đốt người sống. Cột đồng đã được nung đỏ trong than lửa, tôi bằng máu người không biết bao nhiêu lần, đã thẩm thấu đan khí tinh huyết của không biết bao nhiêu sinh linh, còn cứng rắn hơn cả thép trời. Sau này, được ẩn sĩ triều Chu là Liêu Công Toàn chế thành sợi đồng dài ba nghìn thước, lại được thợ khéo Ma Bà ở Âm Sơn đan thành ba bộ áo giáp, một bộ “tránh lửa”, một bộ “rẽ nước”, một bộ “phá kim loại”. Nhưng sau khi triều Chu bị tiêu diệt, ba bộ áo giáp cũng đã biệt tích. Có người nói rằng chúng được ban tặng cho Khương Thượng, cũng có người nói rằng chúng được ban cho người có công lớn nhất trong số các chư hầu, nhưng thật giả thế nào, không thể khảo chứng được. Còn bộ áo giáp đồng của Du Hữu Thích là do tổ tiên hắn kiếm được từ Tây Dương, sau đó đã phải nhờ vả không biết bao nhiêu cao nhân mới có thể đọc được một vài con chữ kỳ quặc còn sót lại trên áo, thì ra chính là bộ giáp “rẽ nước” trong ba bộ áo giáp đồng xanh. Nhưng bộ giáp “rẽ nước” cũng đã không còn nguyên vẹn, bị khuyết mất vạt dưới và ống tay, chỉ còn lại phần thân áo dùng để bảo vệ trước ngực và sau lưng. Lỗ Thiên Liễu nhờ mặc bộ áo giáp này trong người, nên mới thoát khỏi kết cục thảm khốc. -Đã không sợ bị đâm thủng, tại sao lại không lợi dụng lực đâm để bật lên ngọn trúc, sau đó vít cong ngọn trúc rồi bật sang cây khác, băng qua khảm diện từ trên cao. – Chúc Tiết Cao nói đúng, các nút lẫy trên cây trúc thông thường sẽ không được bố trí trên ngọn trúc, khảm nút “nơi không có đường chính là đường chết” cũng sẽ không thể thiết kế trên phần ngọn. Vì ngọn trúc mềm dẻo, không ai có thể di chuyển trên đó được. Bởi vậy, phần ngọn trúc cũng tương tự như chỗ khuyết của khảm diện thông thường. -Liễu Nhi, sau khi con đứng dậy hãy lùi lại hai bước, sẽ đụng phải một cành trúc đang bị vít căng. Sau khi lẫy động, bên trái sẽ có một cành trúc lớn chếch xuống rồi bật lên, đâm trúng ngang lưng con, con có thể mượn sức mạnh của nó để bật lên ngọn trúc! - Lỗ Thịnh Nghĩa quan sát kỹ lưỡng bố cục xung quanh Lỗ Thiên Liễu, rồi mới đưa ra phương án. Lỗ Thiên Liễu làm đúng theo lời Lỗ Thịnh Nghĩa, lùi lại, chạm nút, rồi bị đánh bật lên cao. Sau khi bật lên, cô không rơi xuống nữa. Cô không vít cong ngọn trúc để chuyển sang ngọn khác như Chúc Tiết Cao đã gợi ý, mà sau khi bị đánh văng lên, cô đã phóng Phi nhứ bạc đi, dùng chiêu cánh tay xích quấn lấy ngọn trúc. Sau đó, cô dùng hai chiếc Phi nhứ bạc thay phiên nhau quấn vào các ngọn trúc, đu người băng qua trận Trăm đốt đan xen. Nhìn thấy Lỗ Thiên Liễu thuận lợi thoát ra, những người đang bị vây khốn mỗi người một vẻ biểu cảm. Có thể nhận ra, mỗi người họ đều mang trong lòng một suy nghĩ khác nhau. Lỗ Thiên Liễu mặc dù vô cùng lo lắng, không biết những người còn lại có thể thoát ra an toàn hay không. Nhưng lúc này đã không còn phương cách nào khác, bản thân cô may mắn rơi vào rìa khảm nên không bị vây khốn, nên buộc phải đi trước một bước, lấy việc chính làm trọng. Cơ thể mảnh mai của cô thoăn thoắt chuyền qua ngọn trúc, lướt đi giữa không trung. Khi cô lướt lên tới điểm cao nhất, linh hồn dường như đã bứt ra khỏi xác thân. Chú thích [9] Có nghĩa là cành cây cuồng dại đầy đồng.
Lời Nguyền Lỗ Ban Quyển 5 - Chương 8: Tỉnh cơn mơ Spoiler: Click vào để đọc Lỗ Thiên Liễu đột nhiên choàng tỉnh, mới phát hiện ra mình vẫn nằm bên đầm hồ lô. Tất cả mọi chuyện xảy ra trong hai ngày nay như một chiếc đèn kéo quân vừa lướt qua giấc mơ của cô, rồi lần lượt biến mất. Tim cô vẫn đập lên “thình thịch” từng hồi trong lồng ngực, tất cả những chuyện vừa thoảng qua trong cơn mơ đã khiến cô nhớ lại rất nhiều điều, và cũng phát hiện ra rất nhiều điều. Cô biết, bây giờ vẫn chưa phải lúc bỏ đi. Số mạng của cô đã được đặt tại đây, thắng thua chưa định, chân tướng chưa rõ, cha cô và mọi người có lẽ vẫn bị cầm chân trong trận Trăm đốt đan xen. Nghĩ đến đây, tâm tư cô bỗng nặng trĩu, cô bất giác hít ngược một hơi khí lạnh thật dài. Đợi đến khi nhịp tim bình tĩnh trở lại, Lỗ Thiên Liễu mới đưa ánh mắt nhìn khắp lượt xung quanh. Cô muốn tìm thứ vừa đánh thức cô dậy trong khoảnh khắc cuối cùng của giấc mơ, đó là hai cây cột đen rất lớn. Bên cạnh cô chỉ có hai cột trụ ngả nghiêng được chồng xếp lộn xộn. Nếu hai cột đá này là đá nguyên khối, đẩy đổ chúng xuống đầm, sẽ chỉ còn cách bờ đối diện một quãng ngắn, nhưng đáng tiếc là chúng lại được chồng xếp từ nhiều tầng đá rời. “Mình cũng đã từng xếp những cái cột tương tự thế này, lúc nhỏ mình đã từng xếp chồng gỗ lên nhau!” - Lỗ Thiên Liễu lẩm bẩm một mình – “Hình như còn có cha đứng ở bên cạnh, vừa xếp vừa giảng cho mình nghe điều gì đó...” Lỗ Thiên Liễu bỗng ngồi bật dậy: -Dùng điểm thông lực! Dùng điểm thông lực là một kỹ thuật truyền thống của nhà họ Lỗ, nhưng nó không thuộc về bất kỳ kỹ pháp nào trong công phu Lục hợp, mà là một loại công phu bổ trợ nằm ngoài Lục công, được gọi là Tiểu công. Tiểu công là loại công phu bắt nguồn từ những việc chuyên chở vật liệu, trộn vữa, chuyền dụng cụ..., vốn được sử dụng xen kẽ giữa Lục công. Công phu này có rất ít kỹ thuật, lại có sự khác biệt rất lớn so với những kỹ thuật tinh xảo của nhà họ Lỗ, không phải được truyền trong “Ban kinh”, mà hoàn toàn là thứ công phu được sáng tạo dựa vào tài năng của những thế hệ sau. “Dùng điểm thông lực, lực thành một đường, hình trông không vững, không thua xếp thẳng”, đây chính là khẩu quyết khi chồng xếp. Thực ra, nếu lý giải theo nguyên lý lực học, tức là sắp xếp trọng tâm của các bộ phận thành một đường thẳng xuyên suốt, từ đó giữ được trạng thái cân bằng tổng thể. Đương nhiên, nói thì dễ, nhưng bắt tay vào làm mới khó. Muốn vận dụng công phu “dùng điểm thông lực” để xếp chồng các tảng đá lên nhau hoàn toàn không phải chuyện dễ dàng. Muốn xếp sao cho thoạt nhìn nghiêng vẹo như sắp đổ, nhưng thực chất lại vô cùng kiên cố, lại càng khó khăn hơn nữa. “Không đúng! Nhìn từ bố cục và bề mặt tiếp xúc của những tảng đá trên hai cột đá, thì cách vận dụng “dùng điểm thông lực” vẫn chưa thật chính xác!” – Sau khi quan sát kỹ lưỡng, Lỗ Thiên Liễu liền đưa ra kết luận – “Đường lực tổng thể từ trên xuống dưới vẫn có sự lệch lạc, lẽ ra không thể chắc chắn như thế này được. Lẽ nào bề mặt tiếp xúc đã dùng chất gì đó để kết dính? Hay là đã sử dụng rãnh chốt, mộng khớp?” Lỗ Thiên Liễu vừa suy nghĩ, vừa đưa ánh mắt tìm tòi. Khi lướt qua vị trí ban nãy vừa quấn Phi nhứ bạc, cô bỗng phát hiện ra một vệt trắng in hằn lên trên lớp rêu màu xanh lục. Có lẽ đó là vết xước do sợi xích trên Phi nhứ bạc tạo ra. Thế nhưng mặt đá ở những nơi không bị rêu phủ rõ ràng có màu nâu thẫm, tại sao ở đây lại xuất hiện màu trắng? Lỗ Thiên Liễu đứng dậy, đến bên cạnh phần chân của cột đá. Ở đây, trong đám cỏ, cô đã tìm thấy một số mảng đá vụn màu nâu và lớp bột trắng. Lỗ Thiên Liễu đưa tay chấm lấy chút bột trắng, và xúc giác nhạy bén lập tức phát hiện ra rằng đám bột có hơi ấm. Đưa lên trước mũ, cô đã ngửi thấy một thứ mùi quen thuộc, thứ mùi thường xuyên ngửi thấy trong quá trình định móng, trừ uế, quét tường khi xây nhà: đá vôi. Thứ bột màu trắng chính là đá vôi, hơn nữa, còn là đá vôi sống, vì chỉ có đá vôi sống mới nóng lên sau khi tiếp xúc với nước. Trong mỏ than, mỏ pha lê, mỏ đá vôi đều có một chất tên là đá khoáng khoai sọ, tức là than đá, đá vôi bị bao bọc, cách ly trong một lớp đá không có tác dụng gì, sau khi khai thác ra, chúng có dạng khối. Loại đá khoáng sản này muốn sử dụng phải tốn rất nhiều công sức, thu lợi không nhiều, nên thông thường người ta chỉ coi đó là thứ bỏ đi, không thèm khai thác. Thế nhưng hai cây cột đá lại được xếp chồng từ chính loại đá khoáng này. Hơn nữa, lớp đá vô dụng xung quanh đã được gọt giũa bớt, chỉ còn một lớp rất mỏng. Đặc biệt nhất là lõi đá bên trong chính là đá vôi sống tự nhiên, không cần phải nung qua lửa. Chẳng biết các bậc tổ tiên đã đào đâu ra thứ đá cổ quái này. Vật quái dị, tác dụng chắc chắn cũng khác thường. Hai cột đá đã đứng ở đây không biết bao nhiêu năm mà không hề sứt mẻ hư hại, chứng tỏ bí mật trong đó vẫn chưa bị ai phát giác. Lỗ Thiên Liễu tung mình nhảy sang bờ bên kia. Trụ đá bên kia thoạt nhìn không có gì khác biệt so với trụ đá bên này. Lỗ Thiên Liễu móc từ trong túi ra một chiếc giũa cạo[10] mài từ thép ròng, dùng phần đuôi rộng vạch thành nhiều đường ngang dày sít trên mặt đá, sau đó lại vạch thêm rất nhiều đường thẳng dày đặc tương tự. Vụn đá bắn ra tung tóe, những đường rạch ngang dọc đã tạo thành rất nhiều ô vuông nhỏ. Cô lại dùng đầu nhọn của giũa để nậy lấy những ô vuông nhỏ bé ra, từ từ mở rộng phạm vi và độ sâu. Phương pháp cạo đá này, chỉ có những khảm tử gia đủ thận trọng và kiên nhẫn mới sử dụng đến. Làm như vậy sẽ tránh gây động chạm đến chốt lẫy. Lỗ Thiên Liễu nhanh chóng nhìn thấy màu trắng của lớp đá bên trong. Dùng đầu nhọn đào lấy một ít bột trắng đưa lên mũi ngửi, cô phát hiện đó không phải là đá vôi. Lỗ Thiên Liễu rất phấn khởi, lại là một loại đá khoáng màu trắng nữa, mặc dù không biết là thứ gì, nhưng cùng lúc xuất hiện hai loại đá khoáng, về cơ bản có thể xác định đây là hai trụ đá được thiết kế một cách có dụng ý, một thiết kế thâm thúy vô cùng. Đã là được thiết kế, vậy chắc chắn sẽ có chốt lẫy. Đối với những khảm diện hình trụ, thông thường chốt lẫy sẽ được đặt ở phần chân. Với hình trụ dạng xếp chồng, sẽ nằm ở khối thứ hai tính từ chân lên. Lỗ Thiên Liễu bắt đầu dùng phần đuôi rộng của giũa cẩn thận cạo sạch phần rêu xanh và bụi bám trên viên đá thứ hai. Không tìm thấy chốt lẫy, chỉ phát hiện ra một vết nứt trông có vẻ rất tự nhiên. Hơn nữa, vết nứt ở hai trụ đá trông giống hệt như nhau. Tuy chỉ là một vết nứt nhỏ rất khó phát hiện, nhưng lại nứt ở một vị trí cực kỳ quan trọng, vị trí này chính là điểm thoát lực của kết cấu “dùng điểm thông lực”. Chỉ cần tác dụng một lực đạo rất nhỏ lên vết nứt, có thể khiến trụ đá đổ xuống, hướng đổ chính là phía đầm nước nhỏ. Nhưng những tảng đá rời rạc rơi xuống đầm nước sẽ có tác dụng gì? Đá vôi sống có thể khiến nhiệt độ nước đầm nóng lên, còn có tác dụng tiêu độc khử uế. Không biết thứ đá khoáng màu trắng ở cột trụ trước mặt là thứ gì, nên càng không biết được tác dụng của nó. “Thôi mặc kệ! Trước tiên cứ đẩy đổ cột đã rồi tính tiếp. Đi đến đâu tính đến đấy, cho dù không thành công, nếu phá hỏng được ý đồ của đối phương cũng tốt!” Sau khi quyết định, Lỗ Thiên Liễu liền lấy ra một chiếc bẩy đế rộng. Dụng cụ này phía trước là lưỡi sắc, phía sau là đế rộng, chủ yếu dùng để cạo bỏ những dị vật, vết bẩn bám chắc trên bề mặt đá gạch. Vì phần đế có sức nặng nhất định, khi đặt lên trên mặt phẳng, chỉ cần đẩy nhẹ về phía trước sau, phần lưỡi sắc sẽ cạo bay được vết bám, nhẹ nhàng hơn dùng xẻng cạo rất nhiều. Trước tiên, Lỗ Thiên Liễu tiến đến phía trước cột đá vôi sống. Vì cô hiểu rõ nó hơn, nên sẽ hành động trước. Song lúc này, cách cô sử dụng bẩy đế rộng không được khoan thai như lúc bình thường, mà cầm ngược phần đế, vung mạnh cánh tay, đập thẳng cánh phần lưỡi sắc vào khe nứt. Rất chuẩn xác! Chuẩn xác hệt như người thợ mộc Lỗ gia ngắm đường kẻ khi làm đồ gỗ, phần lưỡi sắc đã chém thẳng vào vết nứt. Ngay sau đó, Lỗ Thiên Liễu thấy vết nứt trên cột đá nhanh chóng kéo dài, mở rộng. Một tràng những tiếng “lạch cạch” vang lên. Trụ đá nghiêng dần, rồi đổ về phía đầm nước. Những khối đá được chồng xếp theo phương pháp “dùng điểm thông lực” không hề tan rã, cả cột đá vẫn liền thành một khối đổ ập xuống nước. Điều này khiến Lỗ Thiên Liễu vô cùng kinh ngạc, vì nhìn vào vết nứt đã được tách vỡ hoàn toàn, cô đã nhận ra “dùng điểm thông lực” chỉ là dáng vẻ bề ngoài, bên trong trụ đá không những có chốt ngược nút cài, mà còn được lồng một sợi dây co giãn bện từ gân thú. Đúng vào khoảnh khắc tảng đá chuẩn bị va đập với mặt nước, sợi dây co giãn đột nhiên giật thẳng lại. Vang lên một tiếng nổ long trời lở đất, khác nào tiếng sấm rền, ì ùng vang dội trong lũng núi. Chim chóc, bướm ong đều kinh hãi bay mất tích. Đám bụi nước hình lông vũ cũng bị chấn động đến bắn tóe tứ tung, đổi hẳn hình dạng. Dòng nước chảy vào trong đầm cũng như ngừng hẳn lại. Tiếng nổ vừa dội lên, tất cả các tảng đá trên cây cột đều vỡ tan tành thành đá vụn, rải một lớp đều đặn trên mặt đầm tròn căng. Từ trong thung lũng bốc lên một làn sương khói dày đặc, nhất thời không thể phân biệt được đó là bụi bắn ra hay là hơi nước bốc lên sau khi đá vôi rơi xuống nước. Làn sương khói mù trời khiến tầm nhìn của Lỗ Thiên Liễu trở nên mờ mịt, nhưng cô vẫn nghe thấy một sự bất thường. Cây cột còn lại cũng bắt đầu đổ nghiêng, Lỗ Thiên Liễu chưa cần đi phá vết nứt, nó đã tự đổ xuống, quá trình tương tự với cây cột trước đó, có điều tốc độ chậm hơn rất nhiều. Lỗ Thiên Liễu đã hiểu ra, cho dù cô ra tay với cây cột nào trước, thì hai cây cột cũng sẽ lần lượt theo nhau đổ xuống. Khi nước trong đầm sủi bọt, cây cột đang từ từ đổ xuống cũng bắt đầu phân rã. Tiếng nổ lần này không kinh động bằng lần trước, nhưng lại kéo dài liên tục. Đá trên cột vỡ ra từng viên một, vụn đá bay ra nhỏ mịn hơn rất nhiều so với bột đá vôi, rắc trên mặt nước cũng đều đặn hơn nhiều. Trong lúc cây cột đá thứ hai lần lượt vỡ tung, lớp khói bụi và hơi nước mù mịt trên mặt đầm cũng dần dần nhạt bớt. Lúc này, trước mắt Lỗ Thiên Liễu đã không còn là mặt nước đầm xanh biếc, mà trở thành một mặt phẳng trắng xóa, một màu trắng thuần khiết như mặt tuyết, trắng đến nỗi không nhìn thấy một gợn bụi tạp. Lỗ Thiên Liễu quỳ xuống bên cạnh mặt phẳng trắng muốt vừa mới hình thành, cúi đầu quan sát kỹ lưỡng xem nó là loại chất liệu gì. Cô vừa cúi đầu, nhành hoa đang cài trên tóc bỗng rụng xuống hai cánh nhỏ. Cánh hoa đáp xuống mặt phẳng, không có bất cứ phản ứng gì. Hiện tượng này giúp Lỗ Thiên Liễu phán đoán rằng, mặt phẳng trắng muốt kia khá an toàn. Cô bèn đưa hai ngón tay trái khẽ chạm lên mặt phẳng. Cảm giác tại đầu ngón tay rất cứng rắn, giống hệt như mặt đá. Nhưng tại sao mặt đầm xanh biếc lại có thể biến thành một mặt đá trắng toát chỉ trong khoảnh khắc? Là thạch cao thiên nhiên! Sau một thoáng suy nghĩ, Lỗ Thiên Liễu đã nhận ra. Và cũng chỉ có thạch cao mới có thể tan chảy hoàn toàn dưới tác dụng của nhiệt độ cao khi đá vôi sống gặp nước. Sau khi nhiệt độ hạ xuống, nó sẽ đông kết lại một cách nhanh chóng. Lớp lớp bụi nước rơi xuống từ thác Nhạn Linh mang theo hơi lạnh của suối núi đã giúp cho bề mặt thạch cao ngưng kết nhanh chóng. Chú thích [10] Là một dụng cụ trong công phu Tịch trần, giống như chiếc que dẹt nhọn đầu, dùng để cạo bỏ bụi bặm trong khe hở.
Lời Nguyền Lỗ Ban Quyển 5 - Chương 9: Qua cột đổ Spoiler: Click vào để đọc Đây chính là con đường qua đầm được tổ tiên nhà họ Lỗ sắp đặt sẵn khi thiết kế bảo cấu! Nhưng đây lại là con đường chỉ được sử dụng một lần duy nhất. Sau khi nhiệt độ của nước đầm hồi phục lại trạng thái bình thường, sau khi độ căng mặt nước của nước đầm tăng lên, cùng với sự xối chảy của dòng thác Nhạn Linh, con đường thạch cao chắc chắn sẽ không trụ được bao lâu. Lỗ Thiên Liễu thu hông đề khí, thận trọng băng qua mặt phẳng thạch cao. Cho dù thạch cao đã đông kết thành khối, song vẫn rất giòn yếu, đi trên đó là một việc hết sức khó khăn và nguy hiểm. Nhưng đối với Lỗ Thiên Liễu, đây là con đường duy nhất mà tổ tiên để lại, vì vậy cô nhất định phải đi qua. Mặt phẳng thạch cao quả thực không hề chắc chắn, khó đảm bảo có thể đỡ nổi trọng lượng cơ thể Lỗ Thiên Liễu. Song Lỗ Thiên Liễu có đủ kỹ xảo để băng qua những bề mặt nguy hiểm như thế này, kỹ xảo đó cô đã học được từ Du Hữu Thích. Du Hữu Thích gọi chiêu này là “rùa trượt băng”, do hắn lĩnh hội được sau một lần nhìn thấy con rùa già không dưới chục cân bò trên lớp băng mỏng dính để phơi nắng. Lúc này, Lỗ Thiên Liễu cũng chẳng khác gì một con rùa trên mặt phẳng thạch cao, cố gắng duỗi dài tứ chi, thở ra để cơ thể xẹp xuống, từ từ bò về phía trước. Mặc dù động tác trông rất khó coi, nhưng có thể mở rộng diện tích chịu lực, phân tán điểm tác dụng lực, nên hiệu quả rất khả quan. Đoạn khó khăn nhất chính là phía dưới thác Nhạn Linh. Trên lớp thạch cao tại đó đã tích một lớp nước đọng. Mặc dù đám vụn nước đang bay phơi phới từ trên thác xuống có vẻ không tạo ra lực va đập, nhưng khối lượng của nước đọng, lại cộng thêm mức độ khó khăn khi phải trườn bò trên nước, khiến quả tim cô tựa như rút ngược lên tận cổ. Tốc độ rất chậm, rất chậm. Bụi nước táp đẫm khuôn mặt, bám đầy lên tóc, thấm qua quần áo khiến toàn bộ cơ thể Lỗ Thiên Liễu đều ướt sũng. Lỗ Thiên Liễu tựa như đang đón nhận một nghi lễ thanh tẩy, tận hưởng cảm giác mát mẻ sảng khoái khi đắm mình trong làn bụi nước đang phả xuống, lưu luyến không muốn rời đi. Phía sau những lùm cây kín đáo trên những ngọn núi xung quang, có một vài cặp mắt đang nhìn chằm chằm lên cơ thể thiếu nữ đang chìm trong màn bụi nước. Những cặp mắt đang chiếu ra những tia nhìn vô cùng phức tạp, không thể đoán lường. Bên cạnh đầm nước lớn, từ trong cột mây chướng ngại, từ trong bụi cỏ, từ trong khe đá, lẩy bẩy bước ra rất nhiều cơ thể bẩn thỉu trương phềnh. Đó là những cơ thể bé xíu, song đôi mắt lại lớn khác thường, có điều chỉ lờ đờ mở ra được một khe nhỏ, để lộ tròng mắt vàng ệch, không nhìn thấy tròng đen... Khi bò qua dưới thác Nhạn Linh, Lỗ Thiên Liễu đã dừng lại một chút. Vì vị trí này có nước thác đổ xuống, là nơi được làm lạnh sớm nhất và cũng chắc chắn nhất. Cô muốn dừng lại ở đó để điều hoà hơi thở, và cũng là để bề mặt thạch cao ở phía trước có thời gian đông kết chắc chắc hơn. Bên dưới màn mụi nước mịt mờ, Lỗ Thiên Liễu cảm thấy cơ thể mình được thấm đẫm trong làn nước suối mát lạnh. Dòng nước tinh khiết chảy dọc theo da thịt, dịu dàng vuốt ve từng chân tơ kẽ tóc, tỉ mỉ tẩy rửa từng mảy bụi trên cơ thể cô, giống hệt như công phu Tịch trần mà cô đã học. Chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, nhưng cũng đủ giúp Lỗ Thiên Liễu tìm lại được một số thứ vốn thuộc về mình, cũng trỗi dậy trong cô niềm tin và nỗi khát khao tiến lên phía trước. Khi lớp nước trên bề mặt thạch cao đã cao hơn hai tấc, lòng bàn tay Lỗ Thiên Liễu khẽ đẩy nhẹ về phía sau để lấy đà, cơ thể cô lao vụt đi tựa như một con cá trượt trên boong thuyền đẫm nước, loáng một cái đã đến được mép đầm phía trong cùng. Bờ đầm ở đây không có chỗ đặt chân, chỉ có một tảng đá lớn hình tròn và khe hở chật hẹp giữa hai vách đá dựng đứng hai bên. Nếu muốn thoát khỏi mặt đầm từ vị trí này, chỉ còn cách trèo lên tảng đá hoặc chui qua khe hở. Với khả năng khinh công không tệ, Lỗ Thiên Liễu hoàn toàn có thể tung mình lên trên tảng đá. Đáng tiếc là không có vị trí mượn lực để nhảy lên, bề mặt thạch cao phía dưới không thể chống đỡ nổi lực đạo đó. Khe hở ở hai bên tảng đá không lớn, song Lỗ Thiên Liễu muốn lách vào cũng không phải chuyện khó khăn. Trước hết, cô nhẹ nhàng tung Phi nhứ bạc vào trong khe, không thấy va đập vào vách, có lẽ bên trong còn có một không gian rộng. Lỗ Thiên Liễu khẽ xoay eo lưng thon thả, lách người qua khe hở ở một bên. Cơ thể mới chui vào được một nửa, cô liền dừng lại. Đây là phương pháp mà người nhà họ Lỗ quen dùng, khi đi vào chỗ tối tăm, luôn phải “một nửa trong nhà nửa ngoài đường”, ở trong trạng thái có thể tiến cũng có thể lui. Trước hết, cần nhận biết rõ tình hình bên trong, phán đoán xem có nguy hiểm hay không sau đó mới tiếp tục tiến vào. Lỗ Thiên Liễu nhặt lấy một viên đá nhỏ, rồi ném vào sâu trong bóng tối, sau đó tụ khí ngưng thần tập trung phán đoán. Từ tiếng vọng do viên đá phát ra, có thể đoán rằng bên trong là một không gian khá rộng, chạy dốc về phía trước một khoảng rất dài. Lỗ Thiên Liễu lại thò tay vào trong sờ soạng một hồi. Xung quanh rất khô ráo, không hề thấy rêu bám hay bùn đất. “Đây quả nhiên là một nơi kín đáo. Phía trên vụn nước bắn xuống như lông vũ, nhưng chỉ văng trên bề mặt tảng đá, phía dưới vẫn rất khô ráo. Mặt nước đầm bên dưới có dâng lên tới đâu cũng không thể chảy vào trong khe hở, bên trong lại có một không gian rộng lớn, quả là một nơi tuyệt hảo cho việc cất giấu.” - Lỗ Thiên Liễu thầm nghĩ, rồi cơ thể khẽ nhích một cái, đã chui tọt vào bên trong khe hở. Sau khi chui vào bên trong, Lỗ Thiên Liễu lấy ra con mắt bạch xà. Nhưng ánh sáng nhàn nhạt toả ra từ nó không soi sáng được nhiều, cũng không soi được xa. Nhưng cô có thể nhìn thấy rõ những giọt nước đang theo nhau chảy xuống từ đuôi tóc. Dòng nước đã xối sạch bụi bặm trên viên đá nhỏ trước mặt cô. Lỗ Thiên Liễu vô thức cúi xuống nhìn, đột nhiên mặt mày biến sắc, lập tức bất chấp tất cả xoay người vùng vẫy lách qua khe hở chạy trở ra ngoài, suýt nữa thì đánh rơi cả con mắt bạch xà đang cầm trong tay. Cô vừa bỏ chạy vừa thầm cầu khấn, mong cho hành động lỗ mãng của mình chưa gây ra hậu quả gì. Sau khi lách được ra ngoài, Lỗ Thiên Liễu phủ phục trên bề mặt thạch cao ở rìa đầm thở hổn hển, vẫn còn sợ hãi đến mặt mày tái mét, không ngớt thầm trách móc bản thân: “Đi lại trên giang hồ đã nhiều, tại sao vẫn bộp chộp thiếu cẩn trọng đến thế?” Cô tự trách móc vì cô đã yêu cầu ở bản thân quá cao, kỳ thực chính nhờ bản tính cẩn trọng mà cô mới phát hiện ra, trên mặt phiến đá đã được xối sạch bụi bặm xuất hiện một vết chạm dích dắc hình chữ chi. Vết chạm hình dích dắc chỉ có thợ mộc hoàng gia đời Minh mới sử dụng. Phương pháp này xuất hiện sớm nhất trên đá lát đường hầm của Hiếu Lăng đời Minh. Trong “Minh Hoàng lý hậu sách” có đoạn miêu tả về đường hầm lát đá: “...Đường rộng rãi vuông vắn, hoa văn là hai đường thẳng song song nối với nhau bởi một đường xéo...”. Vì vậy, thợ thuyền đã gọi kiểu hoa văn này là hoa văn hoàng đạo. Vì phương thức chạm khắc này được sử dụng đầu tiên trong lăng mộ hoàng gia, nên dương trạch và nhà cửa của dân thường sẽ không sử dụng loại hoa văn này, mà dùng các loại hoa văn mỹ quan hơn như hoa văn vặn thừng, hoa văn đường thẳng. Nếu người thợ sử dụng loại hoa văn dích dắc trong dương trạch, có thể coi là đã phạm ám phá, gây ảnh hưởng tới cát tướng phong thuỷ. Cho dù là cát tướng hay hung tướng, đó chắc chắn là dấu tích cho thấy người nhà họ Chu đã động chạm đến nơi này. Vì vậy, nếu đi tiếp vào bên trong, sẽ chỉ có khảm, nút mà không thể có bảo vật. Sở dĩ Lỗ Thiên Liễu có thể khẳng định như vậy, vẫn còn một nguyên nhân khác, đó là cục Huyền Vũ, chính xác hơn là cục tướng Huyền Vũ tràn đầy. Cũng không biết là tìm thấy cục phong thuỷ trước rồi mới cất giấu bảo vật tại đây, hay cất giấu bảo vật trước, sau đó nhờ tác dụng của bảo khí mới hình thành nên cục thế. Nhưng cho dù thế nào đi nữa, thứ được tàng trữ trong cục thế linh thiêng thần thánh nơi đây chắc chắn là Thuỷ bảo, mà nơi tàng trữ Thuỷ bảo chắc chắn không thể khô khan như ban nãy. Khi mới thò nửa người vào bên trong, cô đã phát giác ra những chỗ cô sờ đến đều khô ráo, không chút ẩm ướt, nhưng lại sơ suất không chú ý tới điểm này. Thế nhưng từ khe đá và hoa văn trên đá, cô cũng đã biết được một sự thực. Đó là trong vòng hơn trăm năm qua, đối phương không những đã sục sạo tìm kiếm khắp lượt nơi đây, mà còn tiến hành tác động, thay đổi. “Đối phương đã phải bỏ ra một lượng sức người sức của khổng lồ như vậy mà vẫn chưa thể phá giải được bí mật, liệu mình có thể tìm ra không?” - Lỗ Thiên Liễu băn khoăn tự hỏi. Lớp nước tích tụ trên bề mặt thạch cao mỗi lúc một nhiều thêm. Mực nước dâng cao, tức là trọng lượng của nước cũng tăng lên, bề mặt thạch cao có thể vỡ vụn bất cứ lúc nào. Khi đó, Lỗ Thiên Liễu sẽ lọt thỏm xuống đầm nước ma quái với sức hút khủng khiếp phía dưới. Thời gian cấp bách, nhưng ngược lại, đã khiến Lỗ Thiên Liễu càng thềm điềm tĩnh. “Hình cầu lấy điểm để hợp thành, tiếp xúc là điểm, tâm là điểm; không phải hình cầu đều có đường, bề mặt hay hình thù như thế nào, dùng huyền giác mà biết”, đây là một đoạn trong chương “Hình” của cuốn “Huyền giác”. Đoạn văn tự trên bỗng chập chờn mấy lần trong trí não Lỗ Thiên Liễu, rồi dần trở nên rõ nét. Việc cần làm nhất lúc này là phải xác định rõ “hình” của nơi đây, phải tìm ra “điểm” chính xác. Lỗ Thiên Liễu đưa hai tay vin vào bề mặt tròn trịa nhẵn nhụi của tảng đá lớn, cố gắng ngẩng đầu nhìn lên. Tư thế này rất khó, nếu không phải cô đã từng học được công phu uốn dẻo “rùa vươn mình” từ Du Hữu Thích, chắc chắn không thể thực hiện được động tác này. Lớp lớp bụi nước vẫn mù mịt bay xuống, rơi trên bề mặt tròn trịa của tảng đá, táp đầy lên khuôn mặt Lỗ Thiên Liễu. Trong màn bụi nước mịt mù, ánh sáng đa dạng. Lại thêm bụi nước khiến đôi mắt trở nên nhạt nhoà, khiến thị giác phát sinh những biến đổi không thể ngờ tới. Đúng như nội dung của chương “Hình” trong “Huyền giác” đã nói, vật thể hình cầu được hình thành bằng cách tập hợp các điểm, trung tâm của nó là điểm, bề mặt của nó cũng là điểm. Khi có vật bằng phẳng tiếp xúc với nó, chắc chắn sẽ là tiếp xúc điểm. Nếu không phải vật hình cầu, sẽ xuất hiện đường thẳng và mặt phẳng, nhưng hình dạng được tạo thành bởi các đường thẳng và mặt phẳng là hình gì, trong tâm mỗi người lại có sự lĩnh ngộ khác nhau. Mỗi tảng đá lớn bị kẹp giữa hai vách núi, cho dù thác nước có xói mòn nó kiểu gì, thì khả năng để nó trở thành hình cầu gần như bằng không. Nếu như không thể tạo thành hình cầu, vậy các đường thẳng và mặt phẳng của tảng đá sẽ tạo thành hình dạng như thế nào? Bên dưới màn bụi nước tung bay phơi phới, Lỗ Thiên Liễu đang trong tư thế gắng gượng ngẩng đầu đã nhìn thấy hình dạng của một ngôi nhà hết sức đơn giản, mơ hồ như có như không. Tuy rằng đó chỉ là một hình ảnh chập chờn xuất hiện dưới tác dụng của bụi nước, nhưng Lỗ Thiên Liễu tự đáy lòng đã chắc chắn mười mươi đó là hình dạng của một ngôi nhà, mà không cần tính tới sự khúc xạ của ánh sáng và sai lệch của thị giác. Có hình dạng của ngôi nhà, chắc chắn sẽ có vị trí cánh cửa. Lỗ Thiên Liễu không nhìn thấy cửa, vì vậy chỉ có thể tìm kiếm dựa vào linh tính và ba giác siêu phàm. Trong vô thức, Lỗ Thiên Liễu đã đứng dậy, đứng thẳng trên mặt phẳng thạch cao vô cùng yếu ớt. Có thể nhận ra, lúc này cô đã rơi vào trạng thái hư vô, quên bẵng cả sự tồn tại của chính mình, quên bẵng cả những mối hiểm nguy đang rình rập. Chính trong trạng thái hư vô quên đi tất thảy, ba giác trong sáng của Lỗ Thiên Liễu đã đạt tới một cảnh giới khó có thể tưởng tượng. Cô nghe thấy tiếng giọt nước đang thẩm thấu, tiếng sương mù đang lan toả, tiếng đoá hoa đang nở xoè. Cô ngửi thấy làn hương hoa phảng phất trên tảng đá, trong màn bụi nước đang mờ mịt bay xuống, dưới thác Nhạn Linh. Cô vuốt ve trên tảng đá đang chảy tràn nước thác. Cô không sờ thấy cửa, nhưng lại sờ thấy một kẽ nứt. Tảng đá dù sao vẫn chỉ là tảng đá, cho dù nó có bị nứt, thì đó cũng chỉ là một vết nứt chứ không phải là cánh cửa. Thứ Lỗ Thiên Liễu vừa sờ thấy có được coi là vết nứt hay không cũng rất khó nói, vì nó chỉ là một kẽ mảnh như sợi tóc và dài chưa đến nửa tấc, và cũng chẳng biết sâu được bao nhiêu. Chỉ có ba giác nhạy bén của Lỗ Thiên Liễu mới có thể phát hiện ra vết gợn tinh vi này. Điều đó khiến cô vui sướng đến ngây ngất, tựa như đã sờ được vào khoen cửa trên bảo cấu. Nhưng khác là ở chỗ khoen cửa thường là một vật cứng làm từ sắt hoặc đồng, còn khe nứt kia lại đem đến cho cô một cảm giác rất đỗi mềm mại, nuột nà. Cảm giác mềm mại và nuột nà nhường đấy chỉ xuất hiện ở chồi non vừa nhú khỏi mặt đất. Nhưng kỳ lạ là tại sao một chồi non yếu ớt lại có thể chui ra từ trong lòng tảng đá? Là muốn hiển dương sự thần kỳ của tạo hoá tự nhiên, hay muốn ẩn dụ rằng mệnh của trời, lực của bảo là không thể trái? Chồi non đang lớn lên, hương hoa đang đậm dần, vết nứt trên tảng đá cũng đang kéo dài, đang mở rộng. Và thế là ngôi nhà chập chờn trong hư ảo đã mở ra một cánh cửa; trên tảng đá tròn trịa trong cõi thực đã tách ra một vết nứt. Khi vết nứt đã mở rộng, từ bên trong cũng trồi ra một khóm hoa không biết tên gì, sắc cây xanh mượt, vẻ non nớt dịu dàng. Trên mỗi cành cây đều rủ xuống từng chùm hoa nhỏ xíu, thanh thoát, sắc hoa trắng muốt, loáng thoáng ánh xanh lam, lấp lánh trong veo như ngọc báu. Những bông hoa y hệt như nhành hoa dại mà Lỗ Thiên Liễu đang cài trên tóc. Lỗ Thiên Liễu đưa tay chạm khẽ lên những cành hoa, cảm giác từ trong đám lá cành toả ra một làn sương mù ấm áp. Vết nứt trên tảng đá vẫn không ngừng mở rộng, và càng có nhiều hơn những nhành hoa lách ra từ kẽ đá, liên tục uốn cong, bật dậy, vươn dài. Sức mạnh của hạt giống nảy mầm, của chồi non trỗi dậy thật khó lòng tưởng tượng. Khe nứt bé xíu trên tảng đá đã trở thành điểm đột phá của nguồn sức mạnh tự nhiên, khác nào chỗ khuyết trên khảm diện. Dưới tác dụng của sức mạnh thần kỳ đó, tảng đá chậm rãi mở ra một lỗ hổng.
Lời Nguyền Lỗ Ban Quyển 5 - Chương 10: Hoa mở đá Spoiler: Click vào để đọc Với Lỗ Thiên Liễu, những nhành hoa vừa đâm nứt toạc cả tảng đá lớn vẫn mang một vẻ nhu mì yếu ớt vô song, giống như đứa em gái nhỏ cần được chở che bảo vệ. Khi Lỗ Thiên Liễu đưa tay khe khẽ vuốt ve, chúng liền rụt rè nép sang một bên, khiến khe nứt lúc này trông giống hệt như một cánh cửa. Lỗ Thiên Liễu bước một bước vào bên trong khe nứt trên tảng đá, bước chân tự nhiên và khấp khởi vô ngần, tự nhiên như thể đứa con sà vào lòng mẹ. Khi cô vừa cất bước, những đám lá hoa xúm xít cũng nhanh chóng né sang một bên giống hệt như một bầy thú cưng nhỏ xíu. Bên trong tảng đá không hề tăm tối. Làn ánh sáng mờ ảo không biết phát ra từ nơi đâu đủ để cho cô nhìn rõ những đoá hoa nhỏ xíu ở bên trong. Từ vết nứt tiến vào trong, trên nền đất, trên vách đá, trên đỉnh nóc, nơi nào cũng kín rợp giống hoa cỏ không tên kia. Những đoá hoa trắng muốt ẩn hiển trong đám cành lá xanh mướt mát, hệt như bầu trời chi chít ánh sao. Trong đám lá cành luôn phảng phất một làn sương mờ nhạt, trông chẳng khác gì một cõi thần tiên. Bên trong tảng đá quả thật không hề tròn trịa như hình dáng bên ngoài, song cũng không giống căn nhà, mà giống một hang động. Nó chính là kiểu nhà ở cổ xưa nhất: nhà hầm. Loại nhà hầm này có chiều sâu nhất định, nóc nhà dạng vòm, nền nhà bằng phẳng, làm nhà bằng cách đào sâu vào đá, hoặc là xếp chồng từ đá tảng. Trong “Cư giá bản kỷ” có ghi chép về kiểu nhà này. Nhưng căn nhà hầm này trông giống một hang đá hẹp hơn. Nói cách khác, tảng đá tròn kẹp giữa hai vách đá thực ra có hình trụ tròn kéo dài vào trong. Khi đứng từ đầm nước nhìn vào, chỉ có thể nhìn thấy phần đầu tròn của hình trụ. Từ khe nứt đi vào trong, dưới chân có một con đường nhỏ hẹp, rất bằng phẳng, chất đá không giống với bề mặt bên ngoài của tảng đá tròn. Lỗ Thiên Liễu chỉ đi năm sáu bước đã đến vị trí chính giữa của hang đá. Cô dừng bước tại đây, là vì ngay phía trước có một vạt hoa rậm rạp hơn hẳn, làn sương mù phả ra quanh cành lá cũng đậm đặc khác thường. Lỗ Thiên Liễu ngồi xuống, thận trọng đưa tay khẽ vạch đám hoa ra, phát hiện phía dưới có một lỗ tròn đường kính khoảng hai thước, đang phả ra một làn sương mù mở ảo, ấm nóng. Đứng trước lỗ tròn mịt mờ sương toả, Lỗ Thiên Liễu ngưng thần tụ khí, các manh mối rời rạc trong trí não bắt đầu xâu chuỗi lại với nhau... Chắc chắn lỗ hổng này được nối thông với đầm nước nhỏ bên ngoài. Cây cột đá vôi đổ xuống khiến cho nước trong đầm sôi sục, bốc hơi. Nhưng do toàn bộ bề mặt đầm nước lại bị mặt phẳng thạch cao bịt kín, nên hơi nước chỉ có thể chạy qua đường nối đi vào lỗ hổng này, tràn vào bên trong tảng đá tròn. Hơi nước bên trong tảng đá không thể thoát ra ngoài, môi trường ẩm thấp và ấm nóng đã khiến hạt giống cây bên trong tảng đá nhanh chóng nảy mầm, và chính thứ sức mạnh thần kỳ của thiên nhiên cây cỏ đã tách rộng vết nứt sẵn có. Tất cả mọi thứ ở đây đều là do con người sắp đặt. Nhìn về tổng thể, đây là một chốt lẫy thần diệu đến tuyệt đỉnh chỉ hoạt động đúng một lần. Người thiết kế năm xưa có lẽ đã đi vào bên trong tảng đá thông qua con đường nối từ đầm nước đến phía dưới tảng đá, và lớp đá lát nền với chất liệu khác hẳn có lẽ được dùng để lấp con đường đó lại sau khi đã bố trí xong xuôi, khiến cho ngoài hơi nước ra, không còn thứ gì có thể đi qua được nữa. Một chốt lẫy hết sức bí mật và tinh xảo, nhưng không hề có sức sát thương, nên Lỗ Thiên Liễu có đủ lý do để tin rằng đây chính là kiệt tác của tổ tiên nhà họ Lỗ. Nhưng trong khi không ngớt thán phục sự thần diệu của bố cục, cô cũng không bỏ qua một chi tiết khác còn thần kỳ hơn nữa: “Không biết đó là hạt giống của loài thực vật nào, cất giữ trong tảng đá suốt mấy nghìn năm mà vẫn có thể nảy mầm? Không biết là loài thực vật nào mà hơi nước hầm hập vẫn không thể giết chết nó, ngược lại còn sinh trưởng nhanh chóng, càng lá sum suê, sống không cần đến đất bùn, chỉ cần hơi ấm và nước, lại bộc phát được một sức sống mãnh liệt đến thần kỳ? Có lẽ không phải là khả năng của bản thân hoa cỏ, có lẽ chính linh quang bảo khí của bảo bối đã đem lại cho loài hoa vô danh kia một sức mạnh thần kỳ” – Nghĩ đến đây, trong lòng Lỗ Thiên Liễu chợt bừng lên một niềm vui sướng khó kìm nén. Cô vội vã ngồi thụp ngay xuống, lại vạch đám hoa lá dày đặc ra, bắt đầu tìm kiếm. Nhưng động tác tìm kiếm vừa mới bắt đầu, cô đã vội dừng ngay lại, hoảng hốt ngoảnh về phía sau. Phản ứng của cô rất chính xác. Đúng lúc cô chạm tay vào những cành hoa, một cái bóng màu xanh xám đột ngột lướt qua bên ngoài khe đá phía sau lưng. Khi Lỗ Thiên Liễu đứng vụt dậy, cô đã thực sự hoảng loạn. Xúc giác siêu phàm đã cho cô biết, làn không khí xung quanh đang chuyển động một cách bất thường. Rất nhiều luồng sức mạnh không thể đoán lường đang tiến đến bao vây lấy tảng đá mà cô đang đứng, mức độ ghê gớm của những sức mạnh đó còn lớn hơn nhiều so với cái lạnh thấu xương trong “Tám mươi tư trụ phong vân”. Thính giác nhạy bén đã cho cô biết, từ nhiều hướng ở bên ngoài tảng đá đều có người đang vận lực, có tiếng khí chạy xương kêu, đều là những thân hình đã sẵn sàng đại khai sát giới. Lỗ Thiên Liễu bất giác đưa tay vin lấy một cành nhỏ đầy hoa. Cũng giống như những người con gái bình thường khác, vào lúc sợ hãi, sẽ muốn bám víu lấy một thứ gì đó một cách vô thức. Cành hoa vốn ưa trôi nổi ở những nơi nhiều nước giờ đơm chi chít những đoá hoa trắng ánh lam bé tí xíu. Trên cánh hoa lấp lánh những giọt nước trong veo, tựa như những hạt ngọc trời tinh xảo. Những ánh mắt, những dòng khí, những âm thanh khác lạ bên ngoài đang từ từ áp sát. Lỗ Thiên Liễu đã cảm nhận thấu triệt hơn nữa về sự nguy hiểm và nỗi khủng khiếp do chúng mang lại. Sức mạnh sắp ập tới là một thứ sức mạnh mà cô không có khả năng kháng cự hay chịu đựng, nên chỉ còn một cách là nhanh chóng rời đi, nhường lại thế giới bí mật trong lòng đá cho kẻ khác. Chỉ có bảo toàn được tính mạng, mới còn cơ hội để tìm bảo bối định hung huyệt. Một người thương yêu hoa cỏ rất mực như Lỗ Thiên Liễu sẽ không nỡ vứt bỏ những cành hoa đẹp đẽ, một người biết yêu thương ngay từ nhành hoa ngọn cỏ lại càng không dễ từ bỏ tính mạng của mình. Thế là Lỗ Thiên Liễu lập tức quay người, rảo bước về phía khe nứt, vừa đi vừa cài nhành hoa vừa hái được lên búi tóc. Cành hoa trên tóc khi nãy đã bị màn bụi nước đổ từ trên thác xuống làm cho hoa rã cánh rời, Lỗ Thiên Liễu bèn gỡ nó xuống, khi chui ra khỏi khe đá, cô nhẹ nhàng cài nó vào trong khóm hoa bên cạnh. Từ trong ke đá chui ra, cảnh tượng bày ra trước mắt khiến Lỗ Thiên Liễu sững sờ. Không biết tự bao giờ, thác Nhạn Linh đã không còn đổ xuống nữa. Không còn những tia nước mịt mờ bay tung như lông vũ, chỉ thi thoảng mới thấy nhỏ xuống vài giọt nước rời rạc. Lớp thạch cao trên măt đầm đã bị nước đọng ép vỡ, một mảng lớn ở giữa đã chìm hẳn xuống nước, chỉ còn vài miếng nhỏ còn lủng lẳng ven đầm. Trên mặt nước đã không còn lớp thạch cao, nhưng lại có thêm rất nhiều thứ khác. Cũng không biết là từ khi nào, trên mặt đầm nước nhỏ đã có một cây trúc dài và mảnh gác qua. Loại trúc này giống hệt như trúc trong trận Trăm đốt đan xen đã vây khốn đám Lỗ Thịnh Nghĩa, mang sắc xanh nhàn nhạt với lớp phấn trắng mịn màng, tựa như búp măng vừa trồi dậy. Lỗ Thiên Liễu đã không dám suy nghĩ gì thêm, cũng không tìm kiếm xem ai đã gác cây trúc qua đầm. Cảm giác huyền vi của cô ý thức được mối nguy hiểm đã cận kề ngay trước mắt. Trong lúc cấp bách, cô chỉ biết giẫm vội lên thanh trúc, chao đảo mà đi, ba bước dồn làm hai bước, vội vã tiến tới phần thắt eo nối giữa hai mặt đầm. Sợi dây phong huân ở đầm nước lớn cũng đã được kéo lên, còn căng hơn cả khi nãy. Lẽ nào quả thực đang có người âm thầm trợ giúp cô? Thế nhưng tại sao trong cô lại có cảm giác chẳng lành, thực không biết kẻ đó là thù hay là bạn? Lần này, Lỗ Thiên Liễu không vội băng qua ngay, mà ngẩng đầu nhìn về phía rừng cột đá đối diện với đầm nước. Cô đang khiếp sợ thứ hàn khí thấu xương ở đó, và cũng đang tính toán đường lui. Cuối cùng, cô lấy hết dũng cảm, đề hư thăng khí nhảy lên sợi thừng, bước theo bộ pháp én bay, nhanh chóng vượt qua đầm nước. Sang đến bờ bên kia, bước chân vẫn không hề dừng lại, mà còn sải rộng hơn, tiến thẳng vào trận Tám mươi tư cột phong vân. Trong toàn bộ quá trình, cơ bắp hai bên cổ Lỗ Thiên Liễu luôn căng thẳng, đầu không dám nhích sang bên cạnh lấy một ly. Chỉ sau khi thoát ra khỏi trận Tám mươi tư cột phong vân, cô mới ngoảnh đầu nhìn lại phía sau một thoáng. Chỉ liếc lại có một thoáng, nhưng cô đã lờ mờ nhìn thấy một bóng người quen thuộc vừa từ trên vách đá lao xuống, phóng thẳng đến tảng đá tròn. Mặc dù Lỗ Thiên Liễu cũng tò mò không biết bóng người này là ai, nhưng không vì thế mà dừng bước. Cũng chính vì bóng người trông rất quen thuộc, nên cô càng tăng tốc độ tháo chạy nhanh hơn. Sau khi thoát khỏi rừng cột đá sẽ đến khe đá hẹp uốn khúc. Vừa tiến vào khe đá, Lỗ Thiên Liễu bèn nghe thấy tiếng đao kiếm va chạm chát chúa vẳng lại át cả tiếng nước chảy nơi đầm nước. Quả nhiên là vùng đất thị phi gió đao mưa máu, Lỗ Thiên Liễu đang thầm cảm thấy may mắn vì mình đã phán đoán chính xác. Thoáng chốc đã đến trước cầu ván xoay ba đoạn. Trạng thái của cây cầu vẫn giống hệt như khi cô đi qua. Vì vậy, Lỗ Thiên Liễu lại nhẹ nhàng vượt qua cây cầu. Sau khi qua cầu, cô dừng lại định thần trong chốc lát. Bản thân cô cũng không ngờ có thể thoát ra suôn sẽ đến vậy, xem ra quẻ tướng “thuận xuất” đã gieo lúc trước quả thực đã ứng nghiệm. Thế nhưng vẫn còn rất nhiều điều cô vẫn không thể lý giải. Có thể thuận lợi vượt qua các khảm diện trong thị trấn đã là chuyện quá bất ngờ, lẽ nào lúc này đối phương lại dễ dàng thả cô đi? Hay là đối phương đã không còn rảnh rỗi để ra tay ngăn chặn cô nữa? Hay là bọn họ còn phải đối phó với những kẻ đột nhập khác nguy hiểm hơn, ví dụ như những người bên phía cha vừa thoát ra khỏi trận Trăm đốt đan xen? Nghĩ đến đây, Lỗ Thiên Liễu lập tức cất bước lao nhanh ra phía ngoài. Bây giờ là cơ hội tốt nhất để cô tẩu thoát, cũng là cơ hội tốt nhất để cô kịp thời ngăn cản Lỗ Thịnh Nghĩa, tránh cho bọn họ bị khảm diện trong thị trấn vây khốn, tấn công. Cũng đúng vào lúc này, dòng nước dưới cầu ba đoạn không biết từ lúc nào đã âm thầm xoáy thành bốn năm vòng xoáy. Xoáy nước không lớn, nhưng nhìn vào tốc độ xoáy và độ sâu của mắt xoáy, có thể thấy rằng chúng được tạo ra bởi một sức mạnh vô cùng đáng sợ. Từ con đường này, muốn thoát ra phía ngoài, buộc phải đi qua ngõ loanh quanh. Đúng lúc Lỗ Thiên Liễu chỉ còn cách đầu ngõ hai cửa tiệm, cánh cửa của một cửa hàng áo quan bên cạnh đột ngột bật tung, vọt ra một cái bóng màu xanh chàm. Bóng người đó thấp lùn to béo, trông không có vẻ rắn rỏi lanh lợi, nhưng tốc độ nhanh đến kinh người. Toàn bộ cơ thể giống hệt như một quả bóng da đang bật đi với một sức đàn hồi cực mạnh, mang theo một lực đạo khủng khiếp hơn rất nhiều so với quả bóng da, hệt như một khối bia đá đang lao vụt đi trong không trung. Mặc dù Lỗ Thiên Liễu có công phu khinh công hơn người, nhưng đòn tấn công thình lình cộng với tốc độ chóng mặt nhường kia khiến cô không thể tránh kịp. Bóng người màu xanh đã vỗ một chưởng sấm sét vào giữa lưng Lỗ Thiên Liễu, Lỗ Thiên Liễu còn chưa kịp cả liếc mắt, đã bay vọt ra xa, rồi ngã sóng soài trên mặt đất, nằm yên không động cựa. Gã áo xanh thủng thẳng đi đến bên cạnh Lỗ Thiên Liễu. Gã không cúi xuống xem xét, cũng chẳng thèm đưa tay kiểm tra hơi thở mạch đập của cô. Hắn rất tự tin, bị trúng một chưởng như vậy giữa lưng, dù là thần tiên cũng không chịu nổi chứ đừng nói đến cô gái yếu ớt mảnh mai trước mặt. Hơn nữa, với một cao thủ tầm cỡ như hắn, để phán đoán một người là sống hay chết không cần thiết phải kiểm tra hơi thở mạch đập, chỉ cần cảm nhận sự lên xuống của làn khí và sự lưu chuyển của kinh mạch là đã biết rõ. Gã áo xanh chỉ không thể ngờ được gã lại có thể đánh lén thành công dễ dàng đến vậy, cũng không ngờ đứa con gái kia lại chết chóng vánh như thế. Theo lý mà nói, cô ta là một cao thủ tuyệt đỉnh, trong trận chiến trong đêm ở Thái Hồ, cô ta chưa cần động thân thủ đã có thể biết được hướng đi của luồng khí và lực đạo trong cơ thể gã. Lần này, nếu không phải ở trong sào huyệt của gã, không phải gã đã quá quen thuộc với bố cục xung quanh, gã tuyệt đối không dám ra tay tập kích. Đúng vậy, gã áo xanh chính là gã béo đen bị Lỗ Thiên Liễu doạ cho phải bỏ chạy trên Thái Hồ đêm đó. Mặc dù trong lòng gã vẫn có đôi điều nghi hoặc, song lại chẳng mấy lưu tâm suy nghĩ gì thêm. Loại người này chỉ thấy hào hứng với việc giết người. Chỉ thấy gã xoay người, nhún chân, rồi vùn vụt lao về khe núi dẫn đến thác Nhạn Linh như một cơn lốc. Có lẽ cơn khát máu trong gã đã đánh hơi thấy mùi máu tanh sát phạt nồng nặc hơn từ nơi đó. Nước mưa đã khiến Lỗ Thiên Liễu tỉnh lại. Mưa rất lớn, trên nữa là sắc trời u ám, cô không biết lúc này là giờ nào, và mình đã nằm ở đây bao lâu. Sau lưng cô đau rát, tựa như mới bị nước sôi tạt phải. Đây là bằng chứng duy nhất giúp cô biết được mình vừa bị tấn công. Trong lúc bị tập kích, thính giác và khứu giác của cô không thu được bất cứ thông tin nào, chỉ có xúc giác cảm nhận được luồng lực đạo va chạm và nỗi đau đớn thực sự. Vào khoảnh khắc đó, cô biết rõ mình không thể chịu đựng nổi một sức mạnh nhường này, lại càng lo sợ đối thủ tiếp tục tung đòn tấn công, nên khi ngã xuống, cô đã nén hơi thở lại, sau đó dùng phép quy tức thở ra từng chút một. Lỗ Thiên Liễu chậm chạp bò dậy. Cô biết sau khi phải hứng chịu đòn tấn công nặng nề, phải đặc biệt chú ý tới phản ứng của gân cốt kinh mạch, nếu cử động vội vàng, rất có thể sẽ bị tàn tật, thậm chí mất mạng. Cô từ từ cử động tứ chi, thận trọng xoay lưng, rồi nhảy lên vài cái. Tất cả vẫn bình thường. Tấm áo giáp rẽ nước quả nhiên thần kỳ, mặc dù trong trận Trăm đốt đan xen nó đã từng bảo vệ cô trước sự tấn công của ngọn trúc, nhưng sức mạnh đó hoàn toàn không thể so sánh với chưởng lực tấn công của cao thủ vừa rồi. Bầu trời xám xịt không thể phân biệt được ngày đêm, vì vậy, màn đêm cũng sập xuống không một dấu hiện báo trước. Lỗ Thiên Liễu mới vừa mừng thầm vì may mắn, màn đêm đã nhấn chìm cô vào trong bóng tối dày đặc. Len lỏi trong một thị trấn đầy rẫy hiểm nguy giữa đêm đen quả là vô cùng đáng sợ. Nhưng cũng không thể đứng mãi ở đây, đợi cao thủ phía đối phương quay lại giết mình thêm một lần nữa. Mưa càng thêm nặng hạt, tiếng mưa rơi xối xả, không còn vẻ mong manh của mưa xuân nữa, mà khác nào mưa rào mùa hạ. Dòng nước phía dưới cầu ván xoay ba đoạn cuộn trào dữ dội, ba đoạn cầu cũng đã bắt đầu chầm chậm xoay tròn. Trong ngõ loanh quanh tối mịt như bưng. Mặc dù Lỗ Thiên Liễu có con mắt bạch xà nhưng không dám lấy ra soi. May mà cô có xúc giác nhạy bén, mặc dù hai mắt không nhìn rõ, nhưng cô chỉ cần vung Phi nhứ bạc đi, đã có thể biết được tình hình bên trong con ngõ. Từ cửa ngõ vào trong ba bước không có gì khác so với lúc vào, khảm diện vẫn chưa được khôi phục. Thế là Lỗ Thiên Liễu quả quyết tiến vào. Khi cô vừa đi tới đầu ngõ bên kia, liền nghe thấy những tiếng bước chân hỗn loạn đang tiến từ xa lại. Trong đó có một tiếng chân rất quen thuộc, trong đó có nhiều bước chân rất giống nhau. Một đợt nước mưa bắn tung toé ngay đầu ngõ, liền sau đó là một khuôn mặt trắng bệch, kinh hoàng lờ mờ xuất hiện trước mặt cô. -Cha! Vừa nghe tiếng bước chân tấp tểnh, Lỗ Thiên Liễu đã nhận ra Lỗ Thịnh Nghĩa. Trong lòng cô thoắt mừng rỡ, cha cô vẫn bình yên! Họ đã thoát khỏi trận Trăm đốt đan xen. Nhưng những bước chân đều tăm tắp phía sau là của ai? Bước chân rất nhẹ, hình thể không lớn, bộ pháp vụng về, nhưng tốc độ rất nhanh. Nghe tiếng biết là không đi giày, có lẽ là một giống thú nhỏ đi bằng hai chân. Sắc mặt của Lỗ Thịnh Nghĩa cho thấy ông đã khiếp đảm đến cùng cực. Tiếng gọi thình lình của Lỗ Thiên Liễu càng khiến ông hồn bay phách tán. -A! A! Liễu Nhi? Chạy mau! Chạy mau lên! Bị vây là mất mạng! - Mặc dù Lỗ Thịnh Nghĩa vừa giật mình kinh hoảng không phải nhẹ, nhưng bước chân không hề khựng lại lấy một thoáng. Lỗ Thịnh Nghĩa kéo Lỗ Thiên Liễu cùng chạy vụt đi. Trong lúc xoay người, Lỗ Thiên Liễu nhìn thấy nơi đầu ngõ xuất hiện một thân hình lùn tịt, to phềnh, da trắng bệch hệt như sắc mặt Lỗ Thịnh Nghĩa lúc này. Chạy ra khỏi ngõ loanh quanh, Lỗ Thịnh Nghĩa lập tức rút từ trong ngăn dưới của hòm gỗ ra một lưỡi cưa tròn bằng thép xanh vô cùng sắc bén, vung tay phóng thẳng về con ngõ sau lưng, rồi kéo Lỗ Thiên Liễu nấp sang một bên đầu ngõ. Chỉ nghe thấy tiếng cưa sắc cứa xoèn xoẹt vào da thịt, tiếng bước chân quái dị trong ngõ đã khựng lại. Lỗ Thiên Liễu hết sức ngạc nhiên, rõ ràng phía sau có rất nhiều tiếng bước chân, nhưng tại sao chỉ một cú ra đòn, tất cả đều dừng lại? -Oá... Từ bên trong dội ra một tiếng kêu rú cực kỳ rùng rợn, suýt chút nữa đã khiến Lỗ Thiên Liễu chết ngất vì khủng khiếp. Tiếng kêu vừa bật lên, dường như có một thứ gì nổ tung, mảnh vụn, dịch thể bắn tung toé ra khỏi ngõ, kéo theo một thứ mùi tanh tưởi thối rữa đến ghê rợn. Ánh trời bên ngoài ngõ có sáng hơn một chút, vì vậy Lỗ Thiên Liễu có thể lờ mờ nhìn thấy trên mặt đất ngập ngụa nước vàng và thịt vụn. Lưỡi cưa tròn mà Lỗ Thịnh Nghĩa đã ném đi lăn lông lốc trên mặt đá vài vòng rồi đổ xuống loảng xoảng. Lưỡi cưa vừa đổ xuống, một làn khói xanh nghi ngút bốc lên, lưỡi cưa bằng thép xanh lập tức tan chảy! Thì ra thứ nước vàng bắn ra từ trong ngõ có tính ăn mòn cực mạnh, đến kim loại cũng bị phá huỷ. Mùi khói xanh hết sức khó ngửi, cảnh tượng tan chảy còn ghê sợ hơn nữa. Mùi tanh tưởi thối rữa nồng nặc đã khiến ruột gan Lỗ Thiên Liễu cuộn lên dữ dỗi, cô đã không thể chịu đựng thêm được nữa, lập tức gập người oẹ ra một bãi nước trong. Nhưng Lỗ Thịnh Nghĩa lại không có phản ứng gì, dường như ông đã từng gặp phải tình cảnh đó. Ông chỉ nghiêng đầu, tập trung nghe ngóng động tĩnh bên trong con ngõ. Những bước chân đều tăm tắp lại dội lên trong ngõ, Lỗ Thịnh Nghĩa vội vàng kéo Lỗ Thiên Liễu chạy tiếp: -Chạy mau! Lúc nãy không phải là chủ anh! -Đó là cái gì? Thứ quái vật đó là gì? -Quỷ anh[11]! - Miệng mới bật ra hai chữ, chân đã vọt đi đến sáu bảy bước. Chú thích [11] Anh có nghĩa là trẻ nhỏ. Quỷ anh là đứa trẻ ma.
Lời Nguyền Lỗ Ban Quyển 5 - Chương 11: Vách quỷ anh Spoiler: Click vào để đọc Lúc này, ở chỗ cầu ba đoạn, có hai người đang từ từ trèo lên từ khe sâu bên dưới cây cầu. Bọn họ quay lưng về phía Lỗ Thịnh Nghĩa và Lỗ Thiên Liễu nên không phát hiện ra hai cha con đang chạy đến, nhưng hai người thậm chí còn không phát giác ra cả loạt bước chân rậm rịch trên con đường vắng tanh. Bởi vì bọn họ đang tập trung toàn bộ tinh thần trong cơn cảnh giác cao độ. Thứ quái vật vừa đẩy họ ra khỏi dòng nước có thể tranh thủ những sơ hở nhỏ nhất để tấn công họ bất cứ lúc nào. -Anh Ngũ Lang, chạy mau! - Lỗ Thiên Liễu đã nhận ra hai người, đó là Quan Ngũ Lang và Du Hữu Thích. -Không được lại đây! Nguy hiểm! – Ngũ Lang nghe thấy giọng của Lỗ Thiên Liễu, nhưng vẫn không quay đầu lại, chỉ nhả chiếc bàng quang lợn đang ngậm trong miệng ra, quát lên oang oang. Lỗ Thiên Liễu và Lỗ Thịnh Nghĩa lập tức khựng quay lại, vì họ nhìn thấy những cái bóng thấp lùn đang dồn ép Quan Ngũ Lang và Du Hữu Thích giống hệt như những kẻ đang truy đuổi phía sau họ. Lỗ Thịnh Nghĩa vừa dừng chân đã lập tức quay người, một tay cầm hộp mưa đinh Tý Ngọ, một tay cầm bào thập hình toái thân, hai thứ này đều có thể liên tục phóng ra ám khí tấn công ở tầm xa. Đã không còn đường chạy nữa, chỉ còn cách chặn không cho lũ quỷ anh đến gần. Lũ quỷ anh đang đuổi phía sau không lập tức lao đến, mà dàn thành hàng ngang chặn mất đường đi. Sau đó, cũng giống như những đồng loại vừa ngoi lên từ dưới nước, chúng từ từ áp sát, bằng những bước chân chậm chạp và đều tăm tắp. Trong bóng tối, lũ quỷ anh vẫn lũ lượt đổ ra từ con ngõ loanh quanh, tầng tầng lớp lớp bịt kín con đường. Từ dưới khe nước cũng liên tục có thêm quỷ anh ngoi lên, từ khe núi trên bờ bên kia cũng có. Chúng ùn ùn theo nhau lội xuống nước, lặn qua rồi leo lên bờ bên này. Bốn người bị dồn lại một chỗ, đã không còn kẽ hở để tháo lui. Lũ quỷ anh cũng đã dừng lại ở vị trí gần sát với bọn họ, rồi tầng tầng lớp lớp vây kín lấy bốn người. Những kẽ mắt lờ đờ vàng ệch nhìn chằm chằm vào bốn con người đang chìm trong kinh hoàng và tuyệt vọng. Không biết mưa đã ngớt tự bao giờ, chỉ còn lất phất như sương giăng kín màn đêm. Đến lúc này Lỗ Thiên Liễu mới nhìn rõ đám quỷ anh, vóc dáng và diện mạo của chúng quả thật giống hệt như trẻ nhỏ, nhưng động tác có phần đờ đẫn cứng nhắc. Nếu không phải tận mắt chứng kiến, chẳng ai ngờ được chúng có thể chạy nhanh đến vậy. Tất cả bọn chúng đều trần như nhộng, trên làn da trắng bệch nổi phồng lên những mạch máu ngoằn ngoèo màu tím xanh. Trên chiếc đầu lớn tròn xoe, lại mọc ra một đầu mũi nhọn hoắt và hàm răng nanh lởm chởm. Nơi đôi mắt là một khe hở rất dài và lớn, nhưng lại giống như không thể mở ra. Lỗ Thiên Liễu rùng mình ớn lạnh, cảm giác lạnh lẽo giống hệt như lúc ở bên đầm nước lớn. Bây giờ thì cô đã hiểu cái ớn lạnh khi ấy từ đâu mà đến. Là mắt, mắt của lũ quỷ anh. -Di chuyển đi, đừng để bọn chúng tập trung nhìn thẳng vào, sẽ khiến ý thức của chúng ta bị đóng băng! - Lỗ Thiên Liễu vội vàng nhắc nhở. Bốn người bắt đầu chuyển động, lưng dựa vào nhau rồi xoay vòng tròn, như vậy lũ quỷ anh sẽ không thể tập trung ánh mắt lên bất cứ ai. Lũ quỷ anh cũng bắt đầu chuyển động. Những con ở hàng trên cùng vẫn đứng yên, nhưng những con ở phía sau bắt đầu trèo lên cơ thể những con phía trước. Động tác trèo rất đều đặn, nhưng sau khi trèo lên, tư thế mỗi con một khác. -Bọn chúng có bao nhiêu con? - Lỗ Thiên Liễu thấy lũ quỷ anh cứ chồng chất lên cao mãi, thì bật kêu lên. -Chắc phải đến hơn trăm con! - Lỗ Thịnh Nghĩa đáp. -Chúng định làm gì? – Du Hữu Thích hỏi. -Xếp thành vách tường! - Lỗ Thịnh Nghĩa đáp. -Là vách Bách anh? - Lỗ Thiên Liễu kêu lên kinh hãi. -Không, còn lợi hại hơn, là vách Quỷ anh! Vách Bách anh có rất nhiểu điểm khác biệt so với phương pháp của khảm tử gia, nó giống như ma thuật, chính xác hơn phải gọi là tà thuật. Nó sử dụng một đứa trẻ còn sống làm chủ soái, rồi dùng chín mươi chín xác chết trẻ nhỏ đã được ngâm thuốc và yểm bùa chú sinh tướng làm công cụ, dùng sức mạnh mê hoặc của âm thanh và hình thù để phá huỷ tâm thần của người bị bao vây, đến khi người bị bao vây không thể chịu đựng nổi mà tự sát. Không thể làm tổn thương những cái xác trẻ nít này, vì nếu làm cơ thể chúng bị tổn thương, sẽ thức dậy cổ chú “mệnh huyết phụ” trong người chúng, thôi thúc quỷ anh tấn công xâu xé không ngừng nghỉ kẻ đã gây tổn thương đến nó, cho đến khi máu tươi của kẻ đó tưới đẫm toàn thân, phủ kín mọi cơ quan bộ phận trên cơ thể quỷ anh, nó mới chịu dừng tay. Những cái xác trẻ con đã được ngâm qua thuốc, chân tay cứng như sắt thép, sức mạnh có thể đục đá phá đồng. Chúng lấy máu người bằng cách cào rách bụng ngực, bứt đứt động mạch cổ, người bị tấn công sẽ không còn cơ hội sống sót. Vì vậy, những khảm tử gia hiểu biết sau khi làm tổn thương cơ thể quỷ anh sẽ lập tức tự cứa tay cắt thịt, nhân lúc quỷ anh chưa kịp tấn công, nhanh chóng dùng máu tươi phun đẫm toàn bộ cơ thể chúng. Vách Quỷ anh lại có chỗ khác biệt so với vách Bách anh. Quỷ anh ở đây được tạo ra bằng cách giết chết người phụ nữ đang mang thai sắp đến ngày sinh nở, sau khi chôn xuống đất bảy bảy bốn mươi chín ngày sẽ đào lên, mổ bụng, lấy thai nhi ra đem ngâm thuốc. So với xác chết trẻ nít của vách Bách anh, sức mạnh mê hoặc từ âm thanh, hình thù của nó còn ghê gớm hơn nhiều. Hơn nữa, chúng còn biết cách dùng ánh nhìn để mê hoặc. Ngoài ra, trong cơ thể chúng còn tràn đầy thứ dịch thể của xác chết có tính ăn mòn cực mạnh, chỉ cần tổn thương một chỗ, sẽ toàn thân phát nổ. Nếu để một giọt dịch thể văng trúng người, toàn bộ cơ thể sẽ rữa ra thành nước. Về số lượng, vách Quỷ anh cũng không giống với vách Bách anh, không chỉ giới hạn ở một trăm con. Vì chủ anh của nó không phải là đứa trẻ sống, nên không cần phải tính toán đến độ lớn nhỏ của sức mạnh điều khiển, vì vậy số lượng bao nhiêu không cần hạn chế. Bây giờ vách Quỷ anh đã thành hình, giống như một chiếc ống tròn, chụp cứng lấy bốn người. Lũ quỷ anh sau khi tạo thành bức tường, hình dạng mỗi đứa một khác, thảo nào số lượng của chúng đông đảo hơn nhiều so với vách Bách anh. Vì chúng có lớn có nhỏ, lại méo mó biến dạng theo các kiểu khác nhau. “Vách Bách anh, vòng tuyệt mệnh”, đây là câu nói mà tất cả các khảm tử gia trong giang hồ đều thuộc nằm lòng. Nhưng sau khi vách Bách anh đã tạo thành vòng, người bị vây vẫn có cơ hội thoát thân, đó là phải bắt được đứa trẻ sống làm chủ soái. Năm xưa Lỗ Thịnh Nghĩa và Lỗ Thiên Liễu đã từng cứu thoát già trẻ lớn bé nhà họ Nghê bị vây khốn trong vách Bách anh dưới khe Trích Thuý, phương pháp của họ chính là tìm ra chủ anh. Lúc đó, họ vốn dĩ định dùng cây đục ba ngạnh ghim chặt lấy cánh tay của đứa trẻ, nhưng do sự khúc xạ của mặt nước khiến họ nhận lầm vị trí, ngộ sát chủ anh, mà trúng phải cổ chú tuyệt tự. Lúc này, vách Quỷ anh đã thành vòng, song Lỗ Thịnh Nghĩa không những không có hành động gì, mà còn lảm nhảm liên hồi trong miệng. -Bao vây rồi! Chết chắc rồi! -Cha, chẳng phải cha biết cách tìm ra chủ anh để phá vây ư? – Sau khi biết được đây là vách Quỷ anh tương tự như vách Bách anh, Lỗ Thiên Liễu đã bình tĩnh hơn rất nhiều. -Đúng! Nhưng... nhưng mà... nhưng mà không thể tìm ra chủ anh trên vách Quỷ anh! - Lỗ Thịnh Nghĩa bắt đầu nói năng rối loạn. Kỳ thực từ nãy đến giờ, ông vẫn liên tục tìm kiếm chủ anh trong đám quỷ anh, nhưng không thể tìm ra. Vách Quỷ anh tạm thời chưa khởi động, mới chỉ bao vây. Dường như đối phương không muốn để họ chết ngay, hoặc là vẫn còn có mục đích nào đó chưa đạt được, nên để họ sống vẫn có ích hơn. -Không thể cứ ở đây chờ chết được! – Du Hữu Thích cảm thấy cứ quay lòng vòng tại chỗ không phải là cách hay. -Tôi mở một đường máu, mọi người chạy trước! – Không cần nghi ngờ về lòng dũng cảm của Ngũ Lang. -Không được! Nếu anh động đao, quỷ anh bị thương phát nổ, dịch thể bắn tung toé, toàn bộ chúng ta sẽ tan rữa thành nước vàng! – Lúc này, Lỗ Thiên Liễu đã hoàn toàn trấn tĩnh. Cô vừa tận mắt chứng kiến đám nước vàng làm tan chảy lưỡi cưa sắt, nên vội vàng ngăn cản hành động liều lĩnh của Ngũ Lang. -Đúng vậy! Quỷ anh không giống với những xác chết trẻ nít trong vách Bách anh, không được hành sự lỗ mãng! - Lỗ Thịnh Nghĩa nói. -Là như vậy ư? Vậy thì không dùng đao nữa là xong! – Ngũ Lang lại nói. Lỗ Thiên Liễu không đáp lời Ngũ Lang, vì ba giác nhạy bén của cô vừa phát giác ra một âm thanh quái lạ, giống như tiếng cây cổ thụ nghìn năm vừa bật rễ. Lỗ Thịnh Nghĩa và Du Hữu Thích cũng không lên tiếng, vì họ đã nhìn thấy người. Một người vừa lặng lẽ xuất hiện, đứng trên sống nóc của ngôi nhà bên cạnh, tay giương một chiếc ô bằng giấy dầu. Trời tối mịt mù, không thể nhìn rõ mặt, lại thêm bóng ô trùm kín, nên chỉ nhìn thấy phần cơ thể phía dưới. Đó là một thân người cao lênh khênh đang đứng thẳng đơ. -Phía đó có đường! - Lỗ Thịnh Nghĩa nói nhỏ. -Vâng! - Lỗ Thiên Liễu đáp. -Khi vách Quỷ anh vừa chuyển động, chúng ta sẽ nghĩ cách dụ kẻ đó xuống, con hãy thoát lên từ phía trên! - Lỗ Thịnh Nghĩa lại nói. -Vâng, nếu có cơ hội con sẽ tẩu thoát! - Lỗ Thiên Liễu mặc dù là nhi nữ, tình cảm yếu mềm, nhưng khi hành tẩu trên giang hồ gặp cơn nguy cấp, nhất thiết phải tuân theo một nguyên tắc. Ngay từ nhỏ Lỗ Thịnh Nghĩa đã dạy cho cô nguyên tắc này: chỉ có bảo toàn được tính mạng của mình, mới là cách đền đáp đúng đắn nhất đối với những người đã bảo vệ và hy sinh tính mạng vì mình. Huống hồ sứ mệnh thiên bảo định cõi phàm còn quan trọng hơn tính mạng của bất cứ một ai, bắt buộc phải có người giữ lại mạng sống để tiếp tục thực hiện sứ mệnh. Ngũ Lang và Du Hữu Thích cũng đều hiểu rõ, trong số họ, chỉ có Lỗ Thiên Liễu mới có khả năng tung mình nhảy lên mái nhà, di chuyển trên không, cũng chỉ có Lỗ Thiên Liễu mới có khả năng tiếp tục đại sự tìm bảo bối trấn hung huyệt. Vì vậy, cho dù phải hy sinh, cũng phải bảo vệ bằng được tính mạng cho cô. Kẻ cầm ô có thể đi lên trên mái nhà, chứng tỏ nóc nhà ở đây không phải là đường chết, mà chính là con đường bí mật dùng để đột kích do đối phương thiết kế. Nếu ba người Lỗ Thịnh Nghĩa hợp sức phá vỡ vách Quỷ anh, sau đó thình lình ra chiêu đánh bật kẻ trên nóc nhà, Lỗ Thiên Liễu sẽ có hy vọng trốn thoát. Xung quanh tĩnh mịch đến rợn người, chỉ nghe thấy tiếng xé gió của ba đoạn ván cầu đang xoay vùn vụt. Đột ngột bùng lên một tiếng nổ dậy đất, khiến đám Lỗ Thịnh Nghĩa tim muốn bắn ra ngoài lồng ngực, kẻ đứng trên nóc nhà cũng giật nảy cả người. Tất cả bọn họ đều vội quay về phía phát ra tiếng nổ theo phản xạ, đó chính là khe núi nơi có dòng thác Nhạn Linh. Lỗ Thiên Liễu đã nhìn thấy phản ứng của kẻ đứng trên nóc nhà, điều này có nghĩa là tiếng nổ vừa rồi cũng nằm ngoài dự liệu của đối phương, đối phương cũng đang bàng hoàng trước âm thanh đó. Bốn người họ vẫn tựa lưng vào nhau xoay vòng vòng. Khi Lỗ Thiên Liễu xoay đến vị trí quanh lưng về phía kẻ đứng trên nóc nhà, cô đã dùng tay ra hiệu với Ngũ Lang ở bên cạnh. Tín hiệu này chỉ có Lỗ Thiên Liễu và Ngũ Lang hiểu được, là do họ cùng nghĩ ra. Mặc dù Ngũ Lang không thông minh, nhưng vừa nhìn thấy Lỗ Thiên Liễu ra hiệu, anh ta lập tức hiểu được ý đồ của cô. Quả nhiên, không lâu sau, lại một tiếng nổ khủng khiếp nữa vang lên, lớn hơn hẳn lần trước. Thậm chí họ còn thấy dưới chân rung chuyển. Tiếng nổ dữ dội và cơn rung chuyển cũng khiến cho vách Quỷ anh chao đảo theo. Khi dư âm tiếng nổ còn chưa dứt, Lỗ Thiên Liễu và Ngũ Lang cùng dồn hết sức bình sinh rú lên một tiếng kinh hoàng. Tiếng rú lanh lảnh của Lỗ Thiên Liễu xen lẫn với tiếng hét oang oang của Ngũ Lang hệt như một lưỡi cưa sắc bén xẹt ngang màn mưa bụi, cảm giác còn rùng rợn hơn cả nhìn thấy ma quỷ. Lần này, kẻ đứng trên nóc nhà không chỉ nhìn về khe núi nơi phát ra tiếng nổ khủng khiếp, mà còn hớt hải đưa mắt nhìn khắp xung quanh. Hắn muốn biết hai kẻ kia đã bị thứ gì làm cho khiếp đảm đến nỗi phải rú lên đến thất thanh, thứ đó liệu có gây uy hiếp cho hắn hay không. Đúng vào lúc này, Ngũ Lang cắm phập cây phác đao vào khe đá dưới chân, rồi tay không lao thẳng về phía vách Quỷ anh. Chẳng ai ngờ được có người dám tay không lao vào lũ quỷ anh trông ghê tởm, nhơ nhuốc nhường đấy. Nếu như lũ quỷ anh có suy nghĩ, có lẽ ngay cả bản thân chúng cũng thấy bất ngờ. Nhưng vách Quỷ anh vẫn không bị phá vỡ, sức mạnh trời sinh của Ngũ Lang chỉ có thể khiến cho vòng tròn quỷ anh khẽ rung rinh. Điều này cũng nằm trong dự liệu của Lỗ Thiên Liễu. Nếu như một đòn đã có thể phá vỡ, thì vách Quỷ anh đã không thể trở thành thứ khảm diện mà người giang hồ mới nghe tên đã bủn rủn chân tay. Không phải Lỗ Thiên Liễu muốn Ngũ Lang phá vỡ vách Quỷ anh, mà muốn mượn lấy sức mạnh tấn công của Ngũ Lang để tiếp thêm lực cho bước nhảy của mình. Ngũ Lang vừa lao đi, Lỗ Thiên Liễu cũng lập tức xoay mình liễu nhảy vọt lên. Vào khoảnh khắc Ngũ Lang đâm trúng vách Quỷ anh, Lỗ Thiên Liễu đã kịp giậm chân lên vai Ngũ Lang, cơ thể lập tức lộn nhào trong không trung, lao vọt qua bên trên bức tường quỷ anh, rồi đáp xuống nóc nhà bên cạnh. Hiểu con không ai bằng cha mẹ. Khi Lỗ Thiên Liễu vừa rú lên, Lỗ Thịnh Nghĩa đã biết hai đứa trẻ sẽ hành động, nên lập tức khởi động hộp mưa đinh Tý Ngọ và bào thập hình toái thân. Kẻ trên nóc nhà không hề chuyển động, chỉ hơi nghiêng tán ô giấy dầu về phía Lỗ Thịnh Nghĩa, giống như đang che chắn gió táp mưa xiên. Thế nhưng chiếc ô giấy dầu rất đỗi tầm thường chớp mắt đã hất văng mấy chục mũi đinh nhọn và mười lưỡi bào rơi cả trên mái ngói. Nếu đây là cây dù thép Vũ Kim Cương của nhà họ Nghê ở Sơn Tây, chắn được những món vũ khí sắc bén nhường kia không có gì quái lạ. Thế nhưng nó chỉ là một chiếc ô bằng giấy dầu rất mực tầm thường! Đang tung người lên không, Lỗ Thiên Liễu cũng phóng Phi nhứ bạc bay đi. Sợi xích thép trên Phi nhứ bạc đã quấn trúng một đầu gọng nhô ra phía ngoài tán ô, rồi đột ngột vận lực vào tay giật lại. Tính toán của cô rất thấu đáo, nếu giật được chiếc ô, sẽ trợ giúp cho cha tấn công bằng ám khí thành công, ép kẻ đó phải nhường đường; nếu không giật được, sẽ mượn lực giật về của hắn để nhảy vọt qua đầu hắn. Chiếc ô quả nhiên đã bị hắn giật ngược lại, nhưng không những không kéo được cơ thể Lỗ Thiên Liễu bay lên, ngược lại còn giật phăng luôn sợi Phi nhứ bạc đang lồng trên tay cô. Vòng khuyên ở cuối sợi xích của Phi nhứ bạc xé rách toạc nửa ống tay áo, để lại trên cổ tay cô một vết đỏ bầm. Lỗ Thiên Liễu hạ xuống trên mép ngói ngay trên rìa mái hiên, nhưng chưa kịp đứng vững, kẻ cầm ô đã hành động. Hắn không đi cũng không nhảy, cơ thể vẫn thẳng đuột mà trượt đánh vèo từ trên nóc nhà xuống không một tiếng động, chiếc ô giấy dầu vụt xuống, mặt ô lao thẳng về phía Lỗ Thiên Liễu. Lỗ Thiên Liễu rất thành thạo về cấu tạo và cách sắp xếp của rãnh ngói, việc chạy nhảy qua nóc nhà, mái ngói cũng là sở trường của cô. Song lúc này, cô lại không hề có một mảy may phản ứng trước kẻ kia, cứ đứng đực ra kệ cho đỉnh ô đánh thẳng vào giữa ngực, cơ thể văng đi như một phiến lá rụng, rơi trở lại trong vách Quỷ anh. Ngũ Lang và Du Hữu Thích đỡ lấy Lỗ Thiên Liễu đang rơi ngang xuống, lúc này mới phát hiện ra tổn thương lớn nhất của cô chính là về mặt tinh thần. Lúc này, Lỗ Thiên Liễu bàn tay lạnh toát, người run cầm cập, tinh thần hoảng loạn, hai mắt đờ đẫn, miệng lảm nhảm như người dại: -Không có đầu! Không có đầu!
Lời Nguyền Lỗ Ban Quyển 5 - Chương 12: Thuận xuất chăng Spoiler: Click vào để đọc Kẻ cầm ô chẳng thèm đếm xỉa tới bọn Lỗ Thịnh Nghĩa, lập tức xoay người lao vùn vụt qua các mái ngói, chạy về phía thác Nhạn Linh. Khi cơ thể nhảy vọt lên khỏi mái nhà, hắn hú lên một tiếng kinh dị, sau đó dưới sự hỗ trợ của chiếc ô, hắn đã nhẹ nhàng bay sang bên kia khe nước. Sau khi tiếng nổ khủng khiếp dội lên lần thứ hai, phía thác Nhạn Linh không những liên tiếp vọng đến những tiếng ầm ào, mà còn xen lẫn tiếng người kêu rú thảm thiết. Phát sinh tình huống quái đản như vậy, đương nhiên gã cầm ô phải chạy tới xem thực hư ra sao. Lỗ Thiên Liễu chưa kịp định thần, tiếng hú rùng rợn của kẻ cầm ô đã phát huy tác dụng. Lũ quỷ anh bắt đầu gào khóc, âm thanh từ thấp đến cao, từ chậm rãi đến chói gắt, từ đều đặn đến hỗn loạn. Tiếng khóc cũng muôn hình vạn trạng, hơn nữa cứ gào khóc được một lát, chúng lại thay đổi kiểu khóc. Tiếng khóc vừa vang lên, Lỗ Thịnh Nghĩa và Du Hữu Thích lập tức đưa hai tay lên bịt chặt lỗ tai, sắc mặt tái xanh tái mét. Lũ quỷ anh chỉ phát ra tiếng khóc suông chứ không hề rơi nước mắt, trong khi hai mắt Lỗ Thịnh Nghĩa và Du Hữu Thích đã nước mắt giàn dụa. Ngũ Lang cúi rạp người lao vào vách Quỷ anh một lần nữa, bộ dạng chẳng khác gì con trâu điên. Nhưng vừa đâm vào, cơ thể đã văng trở lại, hai chân bắt chéo ngồi trên mặt đất, vẻ mặt còn đờ đẫn thất thần hơn cả Lỗ Thiên Liễu. Tiếng khóc lóc của quỷ anh vô cùng đáng sợ. Chỉ một tiếng rú thảm thiết trước khi chết của một con quỷ anh trong ngõ loanh quanh đã khiến Lỗ Thiên Liễu phải nôn oẹ, huống hồ lúc này có tới hơn trăm con cùng đồng thanh gào khóc. Kẻ cầm ô vừa lao người vào trong khe núi dẫn đến dòng thác, bỗng có hai bóng đen một trước một sau từ bên trong lao vọt ra ngoài, chạy băng qua hắn mà đi. Chẳng ai để ý đến ai, cứ như không hề nhìn thấy nhau. Nhưng kẻ cầm ô vừa lao vào khe núi, lập tức quay phắt lại, chạy thục mạng ra ngoài theo sau hai người ban nãy. Liền sau đó, một dòng nước cực lớn phun ra cuồn cuộn qua khe núi, thế nước dữ dội không gì cản nổi. Dòng nước vọt thẳng ra giống như cánh tay của loài yêu quái khổng lồ, chớp mắt đã san bằng tất cả mọi thứ ở cửa khe núi. Rừng cây, hoa cỏ, đá tảng ngổn ngang, cầu ván xoay ba đoạn, chớp mắt đã không thấy đâu nữa, chỉ trơ lại mặt đất ngổn ngang đá vụn cành gãy. Tuy thế nước vô cùng hung hãn, song không kéo dài. Nó vừa phun ra khỏi khe núi, vách núi hai bên lập tức rung động kịch liệt, hình như có thứ gì đó đã ngăn chặn dòng nước lại. Vì vậy, dòng nước cuồn cuộn đều đổ hết xuống khe sâu bên dưới cầu ván xoay ba đoạn, ào ào chảy đi theo dòng khe, mà chưa chạm đến vị trí của đám Lỗ Thiên Liễu. Dòng nước cũng không cuốn trôi hai con người đang chạy phía trước. Bọn họ dường như rất có kinh nghiệm trước sự tấn công của dòng nước kiểu này, vừa thoát ra khỏi khe núi, lập tức nép sang một bên vách đá, gắng sức trèo thật nhanh lên trên. Kẻ cầm ô mặc dù chạy nhanh hơn hai người phía trước rất nhiều, thậm chí đã vượt qua bọn họ, song vẫn không thoát khỏi dòng nước hung hãn. Sau khi dòng nước ào qua, chỉ còn thấy chiếc ô giấy dầu bập bềnh một lát dưới khe rồi mất hút. Sau khi dòng nước đã chảy ào đi theo khe nước, hai người bám trên vách đá lập tức nhìn thấy vách Quỷ anh và bốn người đang bị vây khốn bên trong. -Lấy tâm cứu vật, vô tri vô giác, vạn vật đều không, trăm giác chẳng thật. Mặc kệ thanh sắc lú hình, tiếng kêu mê hoặc! - Một người bám trên vách đá cất tiếng sang sảng hô lớn. Những câu này xuất phát từ chương “Ly hư” trong cuốn “Huyền giác”, ý là hãy coi tất cả những thứ đẹp đẽ xấu xa đều là hư ảo, dùng cái tâm để cảm giác sự vật, như vậy mới có được một cái nhìn mới trong khi nhận thức về thế giới, đạt tới được cảnh giới tối cao. Con mắt thất thần của Lỗ Thiên Liễu đột nhiên chuyển động, rồi lập tức chiếu ra hai tia sáng xanh biếc. “Thanh đồng bích nhãn là bán tiên”, đúng như chưởng giáo thiên sư đã nhận định. Lỗ Thiên Liễu vẫn nằm trên mặt đất không đứng dậy ngay, chỉ đưa ngón tay chỉ về phía trước. -Là nó! Ngón tay vừa chỉ, Phi nhứ bạc lập tức bay vụt ra theo. Mặc dù chỉ còn lại một sợi Phi nhứ bạc, nhưng mục tiêu cũng chỉ có một con quỷ anh, một sợi Phi nhứ bạc đã là quá đủ. Quả cầu thép lao thẳng vào giữa miệng quỷ anh, tiếng khóc của nó lập tức câm bật, chỉ còn gắng gượng ư ử vài tiếng rất khó nghe trong cổ họng. Tiếng khóc của cả đám quỷ anh cũng nhanh chóng lặng xuống, đồng loạt biến thành tiếng ư ử. Ngũ Lang đang ngồi đờ đẫn trên đất hai mắt chợt đảo tròn rồi tỉnh lại, nhảy bật dậy, tiếp tục lao về phía vách Quỷ anh. Mục tiêu đã rất rõ ràng, chính là con quỷ đã bị quả cầu thép trên Phi nhứ bạc của Lỗ Thiên Liễu tọng vào giữa miệng. Lần này, vách Quỷ anh đã dễ dàng bị đánh thủng một lỗ, Ngũ Lang và con quỷ kia ôm xoắn lấy nhau đánh đấm huỳnh huỵch. Vách Quỷ anh đã tan rã, vì con quỷ đang giao chiến với Ngũ Lang chính là chủ anh. Nhưng cách hoạt động vách Quỷ anh và vách Bách anh lại có điểm khác nhau. Vách Bách anh sử dụng xác chết của trẻ nhỏ, nếu chủ anh bị phá, những con khác sẽ bị mất đi sự chỉ dẫn của bùa chú, nên hoàn toàn mất đi tác dụng. Nhưng quỷ anh lại khác, sau khi không còn chủ anh dẫn dắt, chúng sẽ tự thân chiến đấu, mục tiêu vẫn là mục tiêu ban đầu. Không thể dùng đao kiếm để đâm chém quỷ anh, nếu có thể chịu đựng được sự bẩn thỉu ghê tởm của chúng, có thể tay không giao chiến với chúng. Nhưng tuyệt đối không được ra đòn quá mạnh, nếu nước vàng trong người chúng bắn ra, chỉ cần một giọt đã đủ làm tan rữa cả một con người sống. Vì vậy khi lũ quỷ anh vừa tan rã ào ào lao đến, Lỗ Thịnh Nghĩa và Du Hữu Thích chỉ còn cách tay không chống cự, chỉ có Lỗ Thiên Liễu vẫn có thể sử dụng vũ khí là sợi Phi nhứ bạc, vừa nhảy qua nhảy lại để né tránh, vừa phóng quả cầu sắt nhằm thẳng vào những bộ phận hiểm yếu của lũ quỷ ảnh như mắt, cổ họng. Chỉ một loáng sau, Ngũ Lang đã bị cả đám quỷ anh bu kín xung quanh, không thể động cựa. Mặc dù Lỗ Thịnh Nghĩa và Du Hữu Thích cùng hỗ trợ lẫn nhau, nhưng cả hai cũng đã mệt đến nỗi thở hổn hển, mồ hôi vã ra như tắm, đã sắp không trụ nổi nữa. Phi nhứ bạc tấn công không thấy hiệu quả, động tác nhảy nhót né tránh liên tục cũng đã trở nên rối loạn, Lỗ Thiên Liễu bắt đầu hoảng sợ, một chút nguyên lý huyền diệu vừa mới lĩnh ngộ ra giờ không biết tiêu tán nơi nào. Cô không thể ngờ được rằng, phá được chủ anh, làm tan rã được vách Quỷ anh, tình cảnh lại trở nên nguy hiểm gấp bội. -Có cách nào tiêu diệt chúng không? – May mà Lỗ Thiên Liễu vẫn nhớ ra bên khe nước còn có một cao nhân. -Phong bế toàn bộ chín vạn chín nghìn huyệt trên cơ thể, ba hồi chuông[12] sẽ chết! – Cao nhân ở bên khe nước trả lời. Nghe nói con người sau khi sinh ra, trên cơ thể có tổng cộng chín vạn chín nghìn huyệt bao gồm cả lỗ chân lông, những huyệt này đều có thể dùng để hô hấp, trao đổi không khí. Muốn huỷ diệt bọn quỷ anh, chỉ còn cách phong bế toàn bộ các huyệt vị trên người chúng. Đáp án này chẳng khác nào bảo với Lỗ Thiên Liễu đã hết cách. Dần dần, lũ quỷ anh đã dồn ba người Lỗ Thiên Liễu, Du Hữu Thích và Lỗ Thịnh Nghĩa đến cạnh khe nước, thậm chí không còn đủ chỗ để xoay chuyển thân mình. Nhưng lúc này nước dưới khe đã thành dòng cuồn cuộn, mặt nước đầy xoáy lớn xoáy nhỏ, nguy hiểm vô cùng. Lỗ Thiên Liễu, Du Hữu Thích giỏi bơi lội, nên thoạt nhìn đã biết nếu sa chân xuống dưới sẽ chỉ còn đường chết. Bây giờ phải làm thế nào? E rằng chỉ còn cách cầu nguyện mong cho kỳ tích xuất hiện, cầu xin thần tiên hạ phàm cứu rỗi giải cơn nguy ách. Không có thần tiên, nhưng lại có một vị thiên sư chẳng kém gì thần tiên. Đúng vào lúc Lỗ Thiên Liễu chống đỡ đến chân tay luống cuống, bỗng một giọng nói quen thuộc vang lên từ trên nóc nhà bên cạnh: -Dùng trong đuổi đục, ba mạch cắt đứt không mạch; không phân sống chết, tâm ngưng trệ hành vi chậm chạp. Trâu xanh của Lão Quân, yên tĩnh ngàn dặm; luật lệnh Thái Thượng, hãy xem ta thi hành! - Giọng nói sang sảng vừa vang lên, từ trên mái nhà thấy bột vàng, tro hương mù mịt bay xuống. Bột vàng và tro hương nhanh chóng lan rộng, động tác của lũ quỷ anh dần dần trở nên chậm chạp. -Mau lên đây! Thứ này chỉ có thể khiến chúng chậm lại một chốc thôi! – Đó là giọng nói của Chu thiên sư. Chu thiên sư đã mất tích trong rừng đạm trúc giờ lại đột nhiên xuất hiện. Lỗ Thiên Liễu lập tức tung mình nhảy vọt lên cao, phóng thẳng Phi nhứ bạc về phía phát ra giọng nói. Phi nhứ bạc cuốn vào bao kiếm của Chu thiên sư, chỉ thấy phía đó vận lực kéo mạnh, Lỗ Thiên Liễu lập tức bay vọt qua đầu lũ quỷ anh, đáp lên nóc nhà. Lúc này, phía dưới đã trở nên yên tĩnh, Lỗ Thịnh Nghĩa và Du Hữu Thích vẫn bị lũ quỷ anh xúm xít giữ chặt, không thể nhúc nhích. Song Lỗ Thịnh Nghĩa vừa may lại quay mặt về phía Lỗ Thiên Liễu, thấy cô bay lên nóc nhà, liền gào lên thật lớn: -Gỗ cụt ngọn hoa nho chùm, cành chia chạc đài sừng hươu. Quyết thì quyết luôn, rìu cưa cùng xuống! – Câu nói này tất cả người nhà họ Lỗ đều hiểu rõ, gỗ đã bị cụt ngọn có thể chạm khắc hoa nho, cành chia chạc có thể dùng để đẽo gọt bộ sừng hươu, ý nói là nên chú ý đến sự tốt xấu lợi hại trước mắt, gặp thời cơ phải quyết đoán, đưa ra lựa chọn chính xác. Ý Lỗ Thịnh Nghĩa muốn bảo Lỗ Thiên Liễu hãy mau chóng thoát thân, nếu cô thuận lợi thoát ra ngoài, rất có thể sẽ có trợ giúp đối với tình thế hiểm nghèo trước mắt. Lỗ Thiên Liễu không đi, cũng không tìm cách xuống cứu mọi người, mà tập trung quan sát để biện nhận hai người ở bờ bên kia khe nước. Trời tối đen nên cô nhìn không rõ, nhưng ba giác nhạy bén đã giúp cô nghe thấy tiếng cọ xát của bó nan tre đeo trên người Chúc Tiết Cao, ngửi thấy hơi rượu nồng nặc và mùi dầu mỡ trên người Thuỷ Du Bạo. Lúc này, dưới khe sâu không những nước lớn cuồn cuộn, mà tốc độ của dòng nước cũng đã vô cùng khủng khiếp. Vì vậy hai người kia chỉ có thể đứng ở trên bờ, không có cách nào vượt qua dòng nước xiết để sang trợ giúp. -Tôi đi trước đây! – Không biết Lỗ Thiên Liễu đang nói với ai. -Đi sẽ đi, ở tự ở, không chần chờ, tâm tương thông, mang hình bán tiên tự thoát tục, chớ tin lời mê hoặc yêu ma! - Lời của Thuỷ Du Bạo không phải ai nghe cũng hiểu, nhưng hiểu hay không chỉ là thứ yếu, quan trọng hơn là có tin hay không. Lỗ Thiên Liễu nghe xong, lập tức quay người nhảy qua nóc nhà lao mình vào trong bóng tối. Chu thiên sư bám sát theo sau Lỗ Thiên Liễu, hai cái bóng thoáng chốc đã biến mất trước tầm mắt mọi người. Vượt qua hai dãy nóc nhà, Lỗ Thiên Liễu không dám tiếp tục di chuyển trên nóc nhà nữa. Đường trên sống nóc là con đường bí mật của đối phương, thường rất hẹp và rất khó nhận ra. Mà thông thường những con đường này đều được nối với những khảm nút bén nhạy và thần tốc gấp bội, nguy hiểm vô cùng. Thế là Lỗ Thiên Liễu theo một mảng ngói có thể khẳng định là an toàn quay trở xuống đường phố, men theo con đường cô đã tiến vào để chạy ngược trở ra. Trở ra đáng lẽ sẽ thuận lợi hơn nhiều so với lúc tiến vào, vì nhiều khảm nút đã bị phá vỡ. Thế nhưng những mối uy hiếp to lớn hơn, đông đảo hơn đang dần dần vây kín, dần dần áp sát, mỗi một mối uy hiếp đều là một tai hoạ khủng khiếp mà Lỗ Thiên Liễu không thể trốn thoát hay chống trả. Lúc này, trong rừng cây ở hai bên con đường đá bên ngoài thị trấn đang lúc nhúc một bầy động vật trong tư thế sẵn sàng. Bọn chúng đều mang một bộ mặt quái đản, tựa như những chiếc mặt nạ ma quỷ, hay bộ mặt vẽ màu của diễn viên hát bội, màu sắc chói chang, hình thù kỳ dị. Đàn nút thú này không phải lần đầu tiên được điều động. Trước đó, chúng đã được sắp đặt trong Cửu chuyển thiên cách, đợi đến khi bọn Lỗ Thịnh Nghĩa đi tới vòng thứ tám sẽ đồng loạt tấn công. Nhưng không ngờ mới sau ba vòng, Chúc Tiết Cao đã đưa mọi người chạy thoát. Nút thú chưa được sử dụng, bởi vậy chúng đã được tập hợp đến đây, giữ sức chuẩn bị cho đợt tấn công tiếp theo. Trong một rãnh sâu cỏ cây rậm rạp ở phía xa hơn, một đám người bịt mặt y phục xanh chàm đang nhanh chóng di chuyển về phía thị trấn. Kỳ lạ là ở chỗ đám người này đều không có bàn tay, mà trên cổ tay trái có gắn móc câu đuôi bò cạp, cổ tay phải có gắn đao vuốt báo hai lưỡi. Bọn chúng từ nhỏ đã bị chặt đứt hai bàn tay, sau đó dùng đinh chốt chặt vũ khí vào xương bàn tay. Sau khi lớn lên, vũ khí sẽ được cố định như một bộ phận trên cơ thể. “Đôi tay” này ngoài việc giết người sẽ không thể làm được việc gì khác, vì vậy trong giang hồ gọi bọn chúng là “Thiên sinh sát” (sát thủ trời sinh). Mà đám Thiên sinh sát này chính là đội quân tiên phong do môn trưởng Chu gia điều động đến ứng cứu sào huyệt phía đông nam. Mục đích chuyến đi này của bọn họ là giết sạch toàn bộ những người bên ngoài đã đột nhập vào bên trong, đoạt lại thứ mà trưởng môn muốn có. Trên một triền dốc rợp cỏ nối tiếp với rãnh cỏ, lại có thêm một đám người trang phục đủ loại đang di chuyển về phía thị trấn. Họ di chuyển có vẻ khó khăn, vì triền dốc ở đây rõ ràng đã được bàn tay con người sửa sang, mặt cỏ trơn trượt khác thường, dường như chuyên dùng vào một mục đích gì đó. Đám người tuy không quá đông, song có vẻ ai cũng là cao thủ, họ đang di chuyển rất nhanh và chắc chắn qua khu vực nguy hiểm. Dựa theo tốc độ và hướng di chuyển của họ, có thể thấy chỉ một lát nữa thôi sẽ phải dụng đầu với đám Thiên sinh sát. Còn ở lối vào bên ngoài vùng núi Thiên Linh, người áo xanh đã từng hai lần đối đầu với Lỗ Nhất Khí cũng dẫn theo một đám người đông đảo tiến về phía thung lũng Ngộ Chân. Mặc dù hắn mặt ngoài tỏ ra điềm tĩnh, nhưng trong tâm tư đang vô cùng căng thẳng. Lần trước tại vùng Đông Bắc, không lấy được Kim bảo, chỉ coi như là vuột mất trong gang tấc. Tiếp đó đến chuyến hải hành tìm bảo, dẫu rằng không thu hoạch được gì, nhưng cũng không đến nỗi phải thất vọng. Nhưng nơi đây tương truyền là nơi cất giấu Thuỷ bảo, và đây cũng là kết luận mà nhà họ Chu phải vắt kiệt tâm lực suốt mấy đời mới thu được, là cứ địa mà gia tộc bọn họ chắc chắn nhất và cũng đã phải trả giá nhiều nhất. Mặc dù biết bao năm nay vẫn chưa thể tìm ra dấu vết bảo bối, song toàn bộ bảo cấu coi như đã nằm trọn trong tầm kiểm soát của Chu gia. Nếu như bảo bối này lại rơi vào tay người nhà họ Lỗ, thì còn nỗi hối hận nào lớn hơn. Sau khi nhận được thông tin có người đột nhập vào cứ địa, vốn dĩ hẵn định tập trung lực lượng tiêu diệt tất cả để trừ hậu hoạn. Nhưng sau đó suy đi tính lại, cuối cùng vẫn không thắng được ý tham của bản thân, nên quyết định mạo hiểm, lệnh cho thủ hạ nơi đây cố ý thả cho người Lỗ gia xâm nhập vào, đợi đến khi họ tìm được bảo bối mà bấy lâu gia tộc họ chưa thể lùng ra, mới ra tay cướp về. Nhưng hắn còn chưa kịp đến khu núi Thiên Linh, bên trong liền có tin tức báo ra, nói rằng cục diện đã khó bề khống chế. Những kẻ đột nhập chia làm mấy lộ, mỗi lộ đều áp dụng hành động riêng, cuối cùng cũng không biết đã lấy được bảo vật hay chưa, và ai đã lấy được bảo vật. Trước tình huống ngoài dự tính, kẻ áo xanh đã không thể bình tĩnh được thêm nữa. Bây giờ buộc phải bắt lấy toàn bộ những kẻ xâm nhập trước khi bọn họ kịp tẩu thoát, bất cứ giá nào cũng không được để một ai lọt lưới. Đây là đối sách duy nhất đảm bảo cho bảo bối không bị vuột mất. Đường ra trùng trùng vây bủa, trong trấn cạm bẫy giăng kín, trong khi vẫn chưa biết được bộ mặt thật của kẻ đi cùng, lại thêm những người thân yêu đang bị bủa vậy, lành dữ khó đoán, bước chân của Lỗ Thiên Liễu cứ chậm dần, chậm dần, cuối cùng dừng hẳn lại. Cô ngước mắt nhìn lên, gần là nhà cửa, xa là núi non, tất cả đều đã chìm nghỉm trong màn đêm thăm thẳm. Con đường dưới chân vẫn là con đường lúc trước đã đi vào, nhưng không biết bây giờ có còn đi được hay không, có đi qua được hay không? Còn nữa, cho dù cô có thuận lợi thoát ra đúng như quẻ bói đã gieo lúc trước, nhưng sau khi thoát ra, cô sẽ phải đi lối nào đây? Chưa thể đi ngay được! Vẫn còn chuyện hệ trọng cần phải thực thi! Trong màn mưa đêm mờ mịt, ánh mắt Lỗ Thiên Liễu một lần nữa lại rừng rực cháy sáng! Chú thích [12] Đạo gia thường dùng khoảng thời gian giãn cách giữa các lần đánh chuông để đo đếm những khoảng thời gian ngắn, một hồi chuông tương đương khoảng mười giây.