Chương IV. Black Curtain. Tấm màn đen. Phần 2. [spoil] 7 giờ sáng. Anh lái xe đi ngay sau khi ăn xong điểm tâm. Anh lao đi như tên bắn giữa con đường trống vắng và u ám với hai bên vệ đường chỉ là xác những ngôi nhà đã cháy trơ trụi. Những ngôi nhà mà trước đây san sát bên nhau tạo thành một con phố sầm uất, hòa lẫn cùng sự nhộn nhịp của chốn thành thị. Đa số những căn nhà vô chủ đó bị tàn phá bởi nhiều đợt không kích của quân đội, số còn lại, bị anh đốt. Trước đây chính anh đã đốt nhẵn những ngôi nhà ấy. Dường như anh đã từng tận hưởng việc đốt phá bằng một thái độ kỳ lạ, phải chăng là vì anh là một kẻ tâm thần bị hấp dẫn bởi việc phóng hỏa, hay là vì anh nhận ra rằng việc làm này đem lại lợi ích thiết thực cho anh. Ban đầu thì anh làm thế để chúng không nhảy chuyền từ những mái nhà đối diện sang. Nhưng giờ thì mục tiêu của anh đã thay đổi, anh muốn triệt tiêu dần dần nơi nương náu của chúng, cho đến khi anh quét sạch chúng khỏi chốn này. Hôm nay anh tiếp tục thực hiện công việc ấy. Thứ công việc lặp đi lặp lại mỗi sáng thứ tư. Trước đây anh phóng hỏa bằng những vật dụng thông thường như diêm quẹt và xăng, nhưng anh đã chuyển sang một phương pháp khác mà anh cho là mau lẹ hơn nhiều. Chất nổ. Những nhà kho chứa hàng tấn chất nổ đã bị bỏ hoang khi quân đội rút khỏi cái nơi bị Chúa quên lãng này. Khoảng chục phút phóng xe ra ngoài doanh trại ở bến cảng, và lấy vài bao chất nổ các loại. Hành trình cuối cùng của đống chất nổ ấy là được anh đặt vào những điểm trụ của một ngôi nhà nào đó, và chờ hiệu lệnh từ kíp nổ, trước khi giải phóng một sức ép cực lớn kéo sập ngôi nhà. “Thật đơn giản và nhanh chóng làm sao” – theo cái cách mà anh nhận định. Phải, sẽ thật đơn giản nếu như không có tên biến dị nào lẩn trốn trong những căn nhà đó. Nhất là những căn nhà rộng lớn; hay nhiều tầng; hoặc là có một cấu trúc nội thất rắc rối. Đánh sập những mục tiêu ấy khiến anh có cảm giác như thể mình là gã tiều phu thử sức với cây đại thụ bằng chiếc rìu quèn, và cho dù thuốc nổ không thực sự bết bát đến mức chỉ đáng để so sánh với rìu, thì vẫn còn cái đám biến dị trốn trong mọi ngóc ngách của căn nhà. Nó không đơn giản như là đặt bom rồi kích nổ là xong chuyện. Anh cần phải sử dụng một cách tiết kiệm số thuốc nổ, đồng thời để vụ nổ không gây nguy hiểm cho mình. Và trên hết, anh cần chắc chắn rằng không có vật dụng hữu ích nào bị chôn cùng với đống gạch đổ của căn nhà, và cũng cần chắc chắn rằng không một kẻ thoái hóa nào sống sót bước ra khỏi cái tàn tích mà vụ nổ để lại. Nó có vẻ cực khổ hơn việc phóng hỏa khi anh chỉ cần một vài động tác đơn giản. Nhưng bất kỳ sự lựa chọn nào cũng có ý nghĩa của nó, dù rằng Sam không phải mẫu người thích cân nhắc kỹ lưỡng. Anh sẽ chọn cách mà anh cảm thấy là nó phù hợp hơn, hay đơn giản là anh thấy thích. Hôm nay anh đem theo khá nhiều vũ khí để thực hiện việc “dọn dẹp”. Một cây shotgun 12 gauge, súng trường tấn công M16A4, và một khẩu lục M92 Beretta giắt ở đùi. Những khẩu súng mới cáu, chưa từng được cầm qua bởi ai khác ngoài anh. Đúng hơn là, những kẻ đáng ra là sẽ sử dụng những khẩu súng này đều đã chết trước khi chúng kịp rời khỏi thùng tiếp tế. Những kho tiếp tế rải rác quanh đây là kho báu quý giá mà quân đội để lại sau khi họ chuốc lấy thất bại trong việc kìm hãm cuộc tấn công của lũ quái vật. Vài mươi phút tản bộ bên vỉa hè cũng đem lại một tỉ lệ phần trăm khá cao để có thể tìm được một khẩu súng - loại cao cấp, hoặc nếu muốn, anh có thể ghé qua một cửa hàng súng ống. Nhưng đa số vũ khí của anh được lấy từ các kho tiếp tế bị bỏ hoang của quân đội, ở cái nơi mà anh sẽ không bao giờ sử dụng hết súng đạn và bom mìn, và cũng tại đó, mọi thứ vũ khí đều ở trong tình trạng tốt nhất, không một vết bụi. Có lẽ anh nên tạ ơn Chúa vì đã hóa kiếp hết cho 99% dân số thế giới trước khi họ kịp sử dụng hết xăng dầu và súng đạn. Ít nhất là anh nghĩ thế, rằng anh là tên vô lại cuối cùng còn bước đi trên mặt đất. Kể từ khi các tuyến đường quốc lộ bị phong tỏa, các loại sóng điện biến mất và những kẻ sống sót cuối cùng của cả vùng Pennsylvania đều chôn thây dưới mồ thì anh không rời khỏi đây nữa. Anh đã từ bỏ những hy vọng và cố gắng để tìm kiếm người sống sót, dẫu biết cả thảy bảy tám tỉ con người trên quả đất này chẳng thể nào bị cơn đại dịch và những nạn nhân của nó đẩy vào bờ vực tuyệt chủng chỉ trong vòng một thời gian ngắn. Những thứ phim ảnh nhảm nhí và phi lôgic về các thảm họa diệt vong chẳng qua chỉ là trí tưởng tượng của một tay đạo diễn rỗi hơi với sở thích phóng đại mọi thứ lên. Con người là sinh vật láu cá nhất vũ trụ, quá láu cá để có thể bị một tai họa quật ngã hoàn toàn. Tất cả những gì họ cần là thời gian. Chỉ khoảng vài chục năm sau thôi – vào thời điểm mà anh không còn trên cõi đời nữa - cái nơi này sẽ trở lại như trước. Như cách đây một năm vậy. Có lẽ thế - anh nghĩ. Nhưng anh đã không còn quan tâm đến chuyện đó từ lâu. Việc sống đơn độc trong Philadelphia là đã quá đủ để đem lại cho anh cảm giác rằng anh là cá thể cuối cùng của một giống loài đã bị hủy diệt. Khuôn mặt anh thoáng hiện ra một nụ cười khẩy bám trên đôi môi khô khan. Sau gần nửa giờ lướt đi băng băng qua các con phố, anh quyết định dừng bước trước số 233 đường North Sloan. Nghĩ ngợi được một lúc thì anh lục lọi trong balô để lấy ra một tấm bản đồ và dùng bút chì đánh dấu lại. Nơi đây sẽ là khởi điểm của công cuộc san bằng đường North Sloan. Anh không quên kiểm tra lại đồ đạc trước khi dọn dẹp căn nhà có số 233 này : một khẩu súng săn và súng lục đã lên đạn, một con dao dã chiến, ba khối huốc nổ, một chiếc mũ có gắn đèn pin. Khi mọi thứ đã được chuẩn bị xong xuôi, anh bắt đầu tiến hành công việc. Mới đầu, anh rảo quanh ngôi nhà và đập nát mọi cửa sổ, cửa kính để ánh sáng lọt vào trong. Kế đến, anh, lăm lăm cây súng săn sặc mùi thép trong tay, đạp đổ cửa chính và xông vào nhà. Anh sớm nhận thấy một bầu không khí im ắng, ngột ngạt lạ thường kể từ khi anh đặt chân vào bên trong căn nhà. Đó là một hành lang cụt với những cánh cửa gỗ ở hai bên. Không có cửa sổ nào liên thông với hành lang này nên ngoài ánh sáng mờ ảo từ cửa chính ra, còn đâu là bóng tối trùm lên nhãn cầu của anh. Đi qua đi lại một hồi, anh quyết định kiểm tra từng phòng một trong căn nhà có cả thảy năm phòng, với hai phòng bên trái, hai phòng bên phải và một phòng ở cuối hành lang. Đặt tay lên núm vặn chốt cửa, anh không khỏi cảm thấy cảm giác hồi hộp đang dâng trào trong lồng ngực. Hít một hơi thật sâu, anh xoay chốt cửa thật nhanh rồi bất giác xông vào. Là phòng khách – anh nghĩ. Trên tường chi chít những mảnh giấy báo tin tức. Và trên bàn, la liệt những chai nước, lọ thuốc, lương khô. Không có dấu hiệu của sự sống, chỉ có duy nhất những vệt máu khô nham nhở dưới sàn và trên tường. Anh tiến tới kiểm tra những tủ đồ và gầm bàn để chắc chắn rằng không có vị chủ nhà hoài của nào đang ẩn nấp trong gian phòng, rồi cẩn thận đóng cửa lại trước khi lục tung cả căn phòng để tìm kiếm và thu thập những thứ nhu yếu phẩm. Anh nhét những món đồ mà anh cho là cần thiết vào hai chiếc balô rồi ném chúng ra cửa sổ. Xong, anh quay trở ra hành lang bên ngoài và tiến hành lục soát các căn phòng còn lại. Ở phía cuối hành lang là một căn bếp với những vết tích của một vụ hỏa hoạn. Tường và sàn cháy nám đen, các vật dụng và nội thất cũng bị cháy thảm hại đến nỗi anh không thể nhận ra hình dạng ban đầu của chúng. Kể cả cái mùi khó ngửi hòa lẫn và những tàn tro quanh quẩn trong không khí. Mùi của xác người chết cháy. Anh nhận ra ngay khi nó xộc vào mũi anh, vì anh cũng từng ngửi thấy nó không biết bao nhiêu lần mỗi khi đem những xác chết đi hỏa thiêu, nhưng anh không bao giờ có thể quen được việc phải ngửi thứ mùi đó. Nó khiến anh nôn thốc nôn tháo vào lần đầu tiên, và những lần sau, anh không thể nuốt nổi thứ gì. Thứ mùi đó quanh quẩn trong một căn phòng kín mít - những lỗ thông hơi và cửa sổ đều đã bị bịt kín bởi ván gỗ - tồn tại suốt một thời gian dài. Có thể tai nạn hỏa hoạn đã xảy ra khi căn nhà bị tấn công. Hoặc là...một kẻ nào đó đã bị nhốt và bị thiêu chết một cách có chủ đích trong căn bếp này. Nhưng dù là gì đi nữa : "Chả có gì đáng quan tâm ở đây cả" - anh nghĩ. Và thế là, nhún vai một cái, anh quay trở ra. Một kệ sách ngã đổ dưới sàn, một cái bàn học với bút viết và sách vở bị vứt lung tung, cùng với bốn phía tường sơn một màu hồng nhẹ, là những gì anh nhìn thấy khi bước vào căn phòng có đề chữ “Annie”. Trên chiếc tủ đầu giường, anh tìm thấy một khung ảnh vỡ. Sự tò mò thôi thúc anh cầm khung ảnh lên và nhìn ngắm nó một hồi lâu. Họ đã có một gia đình đầm ấm. Giống như anh. “Bố ơi” Một tiếng gọi thì thầm bất chợt vang lên nơi trí óc khiến anh giật thót, đánh rơi khung ảnh đang cầm trên tay. Anh xoay người lại ngay tắp lự, chĩa thẳng mũi súng về phía cửa phòng. Giọt mồ hôi đính trên khuôn mặt khô héo của anh rơi xuống ngay khi mắt anh bắt lấy hình ảnh của một cái bóng đang chuyển động bên ngoài hành lang. Có một con ở ngoài hành lang – anh quả quyết – chắc chắn là vậy. Anh tiến tới bên khung cửa bằng những bước đi thận trọng hết mức có thể. Không biết có phải là do anh muốn giấu đi tung tích của mình nên anh mới nín thở lại, hay chỉ đơn giản là sự hồi hộp đang bóp nghẹt khí quản của anh. Trong vòng mười lăm giây, anh không cho phép mình chớp mắt hay hít một hơi thở, và mồ hôi thì cứ đổ ròng khi anh bước gần tới khung cửa để mở. “Dào, quên đi !” Anh bật lên thành lời, căm phẫn trước sự nhu nhược của bản thân. Tao không giết cả trăm, cả ngàn tên trong số chúng để phải tiếp tục sợ hãi sự hiện diện của chúng – anh tự nhủ, và rồi, bằng những bước chân thô kệch dậm mạnh xuống sàn nhà bằng gỗ, anh lao ra khỏi phòng. Không có ai hết. Anh bật cười khi nhận ra mình đã bị giễu cợt một cách thảm hại. Thứ mà anh gọi là “bản năng sinh tồn đáng tự hào”, thứ mà đã được tôi luyện trong suốt quãng thời gian vật lộn với thảm họa, đã chơi anh một vố đau điếng. Sự thật khó chấp nhận này khiến anh lúc đầu phải ngụy biện bằng đủ mọi lí do để chính anh không tuôn ra những suy nghĩ chế giễu sự ngu ngốc của bản thân mình. Anh ghét cay ghét đắng mỗi khi nghe thấy những suy nghĩ đó, cho dù chúng đến từ bộ não của anh chứ không phải một lão hàng xóm dễ ghét hay là một con mụ kệch cỡm nào cả. Phải, vì tao là một kẻ điên rồ mà ! - anh kết luận. Chẳng mất bao lâu trước khi anh quyết định dẹp bỏ mọi sự thận trọng và cả những quy tắc hành động mà anh đã đặt ra từ muôn thuở. Lí do đến từ một dòng suy nghĩ mà ngay từ khoảnh khắc nó hiện ra trong đầu anh, anh đã vội vàng chấp nhận nó. Rằng là, công việc chết tiệt này sẽ không bao giờ kéo dài đến thế nếu như tao không suy nghĩ và hành động như một thằng đồng tính. Tất cả các phòng còn lại đều trống vắng như nhau. Không có vết tích của sự hiện diện của bất cứ ai ngoài chính anh. Còn đâu là những đống ngổn ngang bừa bộn, những vết máu khô tung tóe nham nhở. Vậy đấy, anh chửi rủa, lúc nào mọi thứ cũng khác hoàn toàn so với những gì tao nghĩ. Cả cái bản tính cẩn trọng mà anh vẫn luôn đề cao đã biến anh thành một trò cười, hay đúng hơn là, Một màn hài kịch nhạt nhẽo không có khán giả - anh nghĩ. Sau khi đặt những khối thuốc nổ vào vị trí, anh hậm hực tiến tới cửa ra vào. Nhưng có một thứ khiến anh nán lại một hồi lâu. Một tấm rèm đen nơi khung cửa sổ của căn phòng đề tên "Anvil & Robert". Ra khỏi nhà, anh không quên vòng ra sau hẻm và cầm theo hai chiếc balô mà anh quẳng ra từ cửa sổ phòng khách, rồi chất chúng lên cabin của chiếc xe đang đậu phía trước ngôi nhà. Chẳng còn việc gì để làm ở đây nữa ! - anh nghĩ, rồi phóng xe đến ngã tư. Buổi sáng của anh chính thức kết thúc khi anh nhấn nút kích hoạt. Tiếng cười khoan khoái của Sam vang lên cùng lúc với tiếng nổ. Gần như là anh tận hưởng việc lắng nghe cái âm thanh thủng màng nhĩ đó, và cả việc ngắm nhìn ngôi nhà đổ rạp xuống như miếng bánh xốp dưới sức mạnh kinh hồn của vụ nổ. Giữa lúc tận hưởng hương vị của niềm vui thích, anh bỗng nhớ ra cái gì đó. Nước mắt, một cách tự nhiên, trào ra khỏi khóe mắt mà những tưởng đã khô cứng lại từ lâu. Anh nhớ lại tấm rèm cửa trong căn phòng mà trước kia thuộc về người vợ của anh. Nó có màu đen. Một màu đen vô tận.[/spoil] 4 tháng là một khoảng thời gian dài...... Anyway, I'm back ^.^
Chương IV. The Black Curtain. Tấm màn đen. Phần 3. [spoil] Anh dùng hết số thuốc nổ còn lại và kéo sập ba ngôi nhà. Chiến dịch dọn dẹp đường North Sloan đã bước đầu có kết quả - anh phì cười, nhớ lại chất giọng ồm ồm của thầy Jess dạy Sử. Anh thực hiện mọi việc một cách nhanh nhất có thể, dẹp bỏ mọi sự suy tính và cẩn trọng bởi vì trong mắt anh, chúng chẳng khác gì bản tính của một kẻ nhu nhược. Mà anh thì chúa ghét lũ nhu nhược, nên anh không muốn phải ghét cả chính mình. Dù có những lúc, anh tự mỉa mai mình và cũng tự căm phẫn mình, tất cả chỉ để biết rằng mình vẫn còn sống, mình vẫn còn là người, và mình vẫn còn có cảm xúc. Trở về nhà sau một buổi sáng nắng chói chang, anh ngả lưng ra ghế, nhâm nhi trên môi một điếu thuốc. Loại thuốc lá mà trước đây anh chỉ có mơ mới dám hút, chỉ vì nó quá đắt. Giờ thì anh có thể tự do đập vỡ kính của một cửa hiệu nào đó và thong thả vơ vét bất kỳ hộp xì gà hay gói thuốc lá nào mà anh thích. Khá là tiện lợi, nhưng điều gì cũng có một cái giá nhất định. Cái giá của sự tự do… - anh thì thầm. Một kẻ tự do và toàn quyền là kẻ cô độc nhất thế gian. Và Sam cũng đại loại thế. Không biết là xui rủi hay may mắn. Chúng ngang bằng nhau về giá trị, theo như cách nhìn nhận của anh. Có đôi lúc anh cảm thấy, sự cô đơn là một món quà tặng kèm có giá, khi những kẻ đồng hành luôn có một nguy cơ khá cao để trở thành gánh nặng. Và cũng có đôi lúc, trong mắt anh, sự cô đơn lại là địa ngục tồi tệ và khủng khiếp nhất mà anh có thể tưởng tượng ra. Dẫu sao thì anh cũng chẳng có sự lựa chọn nào khác. Muốn sống, anh phải chấp nhận cuộc sống không có hình bóng của những con người khác. Ngược lại, cái chết sẽ là lựa chọn duy nhất. Nhưng có hai lí do khiến anh không chọn lấy cái chết. Thứ nhất, lòng tự tôn và cả lòng hận thù của anh không cho phép anh đầu hàng, ít nhất là trước khi anh giết đến con quái thai cuối cùng của Pennsylvania – mục tiêu mà anh đã đặt ra ngay từ “ngày đó”. Thứ hai, không ai có thể chắc chắn rằng anh sẽ không còn đơn độc nếu anh tìm đến cái chết. Anh vốn dĩ đã không còn tin vào Chúa trời hay những thứ hoang đường tương tự vậy, mặc dù anh cũng theo tôn giáo, nhưng đó là khi nền văn minh vẫn chưa sụp đổ. Khoảng thời gian mà đối với anh thì chẳng khác nào một thiên niên kỷ trước. Sau khi lau sạch mồ hôi trên trán, anh nhắm mắt lại và bắt đầu dòng suy nghĩ. Bỏ qua mớ giao tranh triết lý, bỏ qua những hồi ức về quá khứ, bỏ qua tất cả những thứ vô nghĩa. Tập trung vào thứ mà anh đã, đang và sắp phải đối mặt trên con đường tồn tại của mình. Anh sẽ không sống sót nổi nếu lúc nào anh cũng chỉ biết vật lộn với trí não trong những cuộc tranh vãi vô nghĩa. North Sloan có vẻ vắng vẻ hơn anh tưởng. Có lẽ chúng đã rời đi nơi nào đó. Hôm nay anh hoàn thành công việc mà không phải bắn một viên đạn nào. Khác hẳn với những lần trước, khi mà chúng luôn có mặt ở bất kỳ căn nhà nào mà anh ghé qua. Lần này thì tiệt nhiên không có lấy một kẻ phá bỉnh nào cả, ngoài một cái xác đang phân hủy. Cái xác của một con Reaper suy dinh dưỡng. Đây là điều thường thấy, khi mà thức ăn bắt đầu trở nên khan hiếm. Mặc dù động vật đã di cư đến thành phố từ những cánh rừng lân cận – không lâu kể từ khi nơi này không còn dấu chân con người, nhưng đó vẫn chưa phải là nguồn cung cấp hữu hiệu cho chúng. Và chúng sẽ quay ra cắn xé lẫn nhau, đơn giản vì bản năng sinh tồn vượt lên trên cảm nhận về đồng loại. Kẻ thắng sẽ có được máu thịt của kẻ thất bại, gần giống như một xã hội vô luật lệ nơi mà kẻ yếu bị đào thải một cách tự nhiên. Con Reaper này có lẽ đã chuốc lấy thất bại đó khi muốn ăn thịt một đồng loại khác, tiếc cho nó là những ngày đói dài đã không cung cấp đủ sức lực cho nó để có thể đánh bại đối phương, để rồi phải nằm phơi xác, mặc cho lũ vi khuẩn gặm nhấm chút tàn dư còn lại của cơ thể mục nát của nó. Cũng chính sự khan hiếm thức ăn mà lũ Reaper trở nên ngày càng cuồng dại. Một điều chẳng hề tốt lành gì. Việc chúng nhìn thấy anh cũng như một lũ bị bỏ đói qua nhiều năm tháng bỗng dưng nhìn thấy một miếng thịt hảo hạng. Kết quả thì không thể khác hơn được nữa. Rít một hơi thuốc dài, “Sẽ có ngày chúng nó tự gặm nhau đến tên cuối cùng”, Sam độc thoại trong nỗi khoái trá vừa ập đến một cách bất ngờ. Nhưng liệu có đơn giản như vậy không ? – anh tự vấn. Cái nơi này không chỉ có lũ Reaper. Vẫn còn vô vàn những thứ quái thai khác mà đa số chúng anh vẫn chưa từng được nhìn thấy tận mắt. Có chăng là những đoạn phim với chất lượng không thể thấp hơn, và chỉ kéo dài một lúc trước khi người quay phim tử nạn. Dường như chúng rất ít xuất hiện ở quanh khu vực này và chỉ tụ tập ở phần vành đai bên ngoài và trung tâm thành phố , hay đúng hơn là các khu ngoại vi. Những nơi mà anh chỉ dám bén mảng đến vào những lúc mặt trời đang đứng bóng. Cái lũ ấy chắc chắn đã tiến hóa theo thời gian, để có thể chịu đựng được những điều kiện khắc nghiệt. “Có hề gì” anh vung tay, đánh tan những nỗi lo âu đó. Chính tao cũng đang tiến hóa đây, anh nghĩ. Nhưng anh không nói lên thành tiếng. Thật ngu ngốc và ngớ ngẩn – dường như ngay tức thời, anh nêu lên nhận định của mình. Lần này anh nói lớn. Giá kể gã hàng xóm kế bên nhà còn sống thì hắn đã có thể nghe thấy anh, kẻ điên rồ nhất quả đất. "Ấy vậy mà thằng điên ấy lại làm được điều mà hàng tỉ kẻ khác không thể" - anh bật lên thành tiếng, xé tan sự im lặng của gian phòng. Bằng một cách nào đó, anh miễn nhiễm với căn bệnh - khả năng duy nhất của bản thân mà anh thực sự cảm thấy nó hay ho và có ích lợi. Ấy rồi, một lần nữa, anh lại trở thành con tàu bị trật khỏi đường ray. Cách đây một phút anh vẫn còn nghĩ đến lũ Reaper và những gì anh có thể sẽ phải đối mặt, nhưng giờ thì anh nâng cốc uống mừng cho một lí do mà chính anh cũng không biết. Anh đã trở thành một kẻ mâu thuẫn. Và anh cũng nhận ra điều đó từ lâu lắm rồi. Nhưng mỗi khi nhìn lại, anh lại cảm thấy nó như một phát hiện gì đó mới mẻ lắm, lạ kỳ lắm. Như thể một kẻ trải qua một giấc ngủ dài chợt tỉnh dậy và phát hiện những thay đổi xung quanh mình, và rồi, bằng một cách cần mẫn và hào hứng, hắn kiểm nghiệm những đổi thay đó, từng cái một. Hay đơn giản hơn là cảm giác của một gã người tối cổ khi hắn tạo ra ngọn lửa đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Một lần nữa, Chỉ có như thế mới giúp anh cảm thấy rằng anh thực sự còn sống. Chính sự mâu thuẫn đã hình thành trong bản tính của anh đó. Hơn là thực hiện thời gian biểu và tìm diệt từng kẻ biến dị ở cái nơi bị Chúa bỏ quên này. Điều tồi tệ nhất của một con người là sống nhưng không nhận thức được rằng mình vẫn đang sống. Nó còn kinh khủng hơn cái chết, hơn cả sự cô độc. Một kẻ bị mắc kẹt giữa ranh giới của sự sống và cái chết, cùng với tiềm thức trôi đi mãi trong một không gian tối đen bất tận, không thể cảm nhận được một hình ảnh, âm thanh hay mùi vị nào. Cứ như vậy, quờ quạng trong nỗi mơ hồ không thể lí giải. Nó khủng khiếp hơn bất kỳ cơn ác mộng nào mà con người có thể nghĩ ra. Anh đã từng là một kẻ như vậy. Khoảng thời gian mà anh cho rằng là tồi tệ nhất trong suốt cuộc đời mình. “Chết tiệt” anh gục xuống, đưa tay lên che lấy cặp mắt thâm quầng. “Tao không muốn nghĩ tới nó. Không bao giờ. Không một lần nào nữa” Anh đến bên quầy rượu và pha cho mình một ly rượu nhẹ. Làn nước rửa trôi mọi phiền muộn – anh săm soi ly rượu nho tím thẫm trên tay. “Nước” - anh lẩm bẩm - “Có lẽ tao sẽ ra bãi biển một ngày nào đó”. Một kỳ nghỉ dưỡng thực sự. Hơn mười hai tháng vùi đầu vào đủ thứ gian truân khổ sở, anh cũng cần phải nghỉ ngơi. “Mình cũng chưa từng có một kỳ nghỉ nào thực thụ” - anh đinh ninh. Anh vẫn không thể phủ nhận được hiện thực rằng những thứ đó đã trở nên quá xa vời đối với anh. “Hừ…một kỳ nghỉ thực thụ...” “Dẹp mẹ nó….!!” “Không.” Anh giơ cao cánh tay chuẩn bị ném thẳng cái ly thì đột ngột dừng lại. Cảnh tượng này tái diễn rất nhiều lần. Khi thì do cơn phẫn nộ bùng phát, khi thì do anh cảm thấy bức bí bởi hàng tấn thứ đè nặng lên mình. Lần này thì là do anh không thể chấp nhận nổi việc trở thành một con người mộng mơ và lúc nào cũng hy vọng. Nhưng anh chưa từng thẳng tay quăng một chiếc ly nào. Anh luôn bị ngăn lại, bởi một sự tác động bất thình lình từ sâu thẳm trong tâm can. Cứ thế, lần này cũng không ngoại lệ. Chiếc xe của bản tính nóng nảy đang lao đi băng băng trên xa lộ, đột nhiên bị nghiền nát bởi sức mạnh bí ẩn của sự mềm lòng. “Không…” - anh run rẩy và nhắc đi nhắc lại một chữ. Anh ngồi xuống chiếc ghế đẩu và uống rượu một cách từ từ, tất cả chỉ để trấn tĩnh bản thân. Tại sao, anh tự hỏi, dường như không hề mong đợi câu trả lời từ bất cứ ai. Một câu hỏi không có vế sau, chỉ duy nhất hai chữ đứng lẻ loi đó. Anh không đủ can đảm để đánh bẹp sự yếu đuối của chính mình để nói ra, hay thậm chí là nghĩ về vế sau của câu hỏi đó. Cuộc trốn chạy của anh khỏi nỗi sợ mà anh luôn lảng tránh bấy lâu bắt đầu rất nhanh và kết thúc cũng rất nhanh, khi hai từ "tại sao" được nhắc lại lần thứ hai trong trí não anh. Nhưng lần thứ hai này, nó vang lên thật mạnh mẽ, như thể muốn nổ tung và cuốn theo nhận thức của anh. TẠI SAO ??? Cơn xúc động khiến anh muốn thét lên một cách dữ dội nhất có thể. Để cả Philadelphia có thể nghe thấy. Để cả Pennsylvania có thể nghe thấy. Để cả đất nước này nghe thấy. Và cả thế giới này. Không cần biết là ai sẽ nhận được những rung động từ tiếng thét của anh, không cần biết ai sẽ cảm thông cho cuộc đời anh. Nhưng anh không làm được điều đó. Nước mắt và những cơn nấc ở cuống họng khiến anh không thể nói gì nữa. Anh khóc không ngừng nghỉ trong sự câm lặng và lạnh lẽo của gian phòng. Anh ngồi co rúm trong góc phòng, cố gắng thu mình lại nhỏ bé nhất có thể. Nước mắt giàn dụa như tắm trên khuôn mặt nhăn nhó của anh, nhỏ giọt xuống áo. Tiệt nhiên anh không phát ra một âm thanh nào, trừ tiếng nấc liên hồi nhưng vang lên ở một âm lượng mà ngay cả anh cũng không thể nghe thấy. Chiều, Anh chùi dọn các căn phòng. Khi mọi việc đã xong, anh tháo dỡ tấm màn màu đen và đem nó đi đốt tại nghĩa trang. Ngọn lửa phập phùng trước ngôi nhà mồ, thiêu rụi từng thớ vải. Anh ngồi đó hàng giờ liền, đôi mắt không rời khỏi ngọn lửa cháy bất tận đó. Cho đến khi tất cả mọi thứ chỉ còn là đống tro tàn, anh dùng một chiếc khăn và phất nó lên để thổi tro bay tản đi. Cơn gió nhẹ cuốn đi mọi thứ, cả nước mắt và nỗi buồn khôn nguôi của anh. Anh phải đóng ván vào khung cửa sổ đó trước khi trời sập tối. Hết chương 4.[/spoil] NOTE : Đã chỉnh sửa 1 số chi tiết từ các chap trước đến nay dành cho các bạn đọc mới. Đa số là chi tiết về văn phong và cách trình bày. Và đã bổ sung thêm hình ảnh cuối mỗi Chương và banner truyện ở Trang 1 nhằm tăng thêm phần sinh động. Nếu ai đọc truyện hay chỉ đơn thuần là ghé thăm topic để xem "cái này là cái gì" thì mong các bạn hãy để lại comment nhé :) Không cần phải là một comment phân tích, tán thưởng hay gì cả. Miễn không phải spam cũng được rồi. Các bạn cũng biết đấy, viết truyện trên mạng không phải chỉ để ý lượng người xem mà để ý sự quan tâm của người xem đối với truyện. Có thể truyện của mình vẫn chưa thực sự hay lắm vì mình cũng mới chập chững viết truyện thôi, nhưng nếu có thể, các bạn hãy giúp mình bằng cách để lại comment nhé :) Mình rất cần những động lực trực tiếp để có thể tiếp tục viết những chương sau cho bộ truyện này. Vì mình không thể tiếp tục một dự án mà không hề rõ nó có được quan tâm hay không, nó được đánh giá ra sao và cần phải khắc phục những gì. Cảm ơn các bạn !
dù mới đọc lần đầu, tớ quả thực bị lôi cuốn vào tình tiết câu chuyện, suy nghĩ của Sam, và hành động của anh trước một thảm họa nhân loại,... bởi chính cái gợi cảm, riêng biệt ở văn phong và tâm huyết mà tác giả dành cho câu chuyện này đón chờ phần tiếp theo của Carmine, thanks
Chương V. Distant Echo. Tiếng vọng xa. Phần 1. [spoil] Sam đưa ống ngắm ACOG của khẩu M4 vào tầm mắt, hướng thẳng mũi súng lên trên và cẩn trọng lia theo mục tiêu. Advanced Combat Optical Gunsights, ống ngắm quang học chiến đấu loại cải tiến, sản xuất bởi công ty Trijicon, là loại ống ngắm tiêu chuẩn được trang bị chủ yếu cho dòng súng M4 và M16. Độ tin cậy cao, độ phóng đại từ 1.5 đến 6.0x, hiệu quả trong những cuộc chạm trán ở khu vực rộng và thoáng. Tất nhiên, một phụ kiện cực kỳ hữu dụng khi đi săn. Anh đã đuổi theo chúng ra đến tận đây – vị trí mà anh cho là đảm bảo nhất để những phát súng của anh có thể đến đích. Anh khuỵu gối và giữ nguyên tư thế của mình suốt mười lăm giây đồng hồ. Mất tám giây để anh dự đoán đường bay của chúng, năm giây để đưa hồng tâm của ống nhắm vào vị trí, và hai giây còn lại, anh lẩm nhẩm đếm. Khi anh đếm đến 0, có 60% khả năng là chúng sẽ lọt vào ngay giữa hồng tâm. Anh sẽ siết cò ngay thời điểm đó, và độ trễ cho phép là 0.1 giây. Bằng không tốc độ bóp cò của anh sẽ không bắp kịp tốc độ bay của lũ chim. Chúng bay không nhanh so với tầm nhìn bình thường của con người, nhưng qua ống kính 6.0x thì lại là cả một vấn đề. Chúng sẽ chỉ hiện ngay giữa hồng tâm trong một khoảng thời gian rất ngắn, có thể là một cái chớp mắt. Anh không thể di chuyển hồng tâm theo chúng được mà phải dự đoán đường bay trước. Thêm nữa là loài chim rất nhạy trong việc phát hiện nguy hiểm. Đừng nói là thiế bị giảm thanh. Không một thiết bị nào có thể làm cho khẩu súng trở nên hoàn toàn im lặng – như trong những bộ phim về bọn sát thủ giết thuê. Một khẩu 9mm, giữa một khu vực thoáng và yên tĩnh thì ngay cả khi đã lắp thiết bị giảm thanh thì tiếng súng vẫn sẽ đủ lớn để đến tai một người đứng cách đó 30 mét. Chưa kể, súng trường như M4 thì chắc chắn là sẽ ồn ào hơn một khẩu lục 9 li, gấp nhiều lần. Đối với chim, chỉ cần viên đạn bay sượt qua chúng khoảng vài mét là đủ để khiến chúng hoảng loạn. Đường bay của chúng sẽ rất khó đoán biết và tốc độ của chúng cũng tăng lên. Lúc đó thì dù là thợ săn chuyên nghiệp, lính bắn tỉa hạng A hay là những gã cao bồi khét tiếng miền viễn Tây cũng khốn đốn. Tuyệt đối chẳng có thứ gì giống như phim ảnh. Hoặc là anh bắn trúng phát này, hoặc là cất súng vào và ngoan ngoãn về nhà. Gần chục lần đi săn đã tạo cho anh những phản xạ hữu ích. Anh có thể hòm hòm tính được những số liệu và đưa ra những dự đoán để phục vụ cho phát súng quyết định. Cái giá phải trả là hàng trăm viên đạn trượt và cảm giác hụt hẫng đè nặng mỗi khi để cho con mồi chạy thoát. Kết quả là anh tốn nhiều sức lực và thời gian hơn vào việc ước lượng, quan sát, nhưng tỉ lệ bắn trượt giảm đi rất nhiều. Tiến lên từ thất bại chính là phương pháp nâng cao kỹ năng tốt nhất. “1” – môi anh mấp máy. “0” Một cách rất quyết đoán, anh bóp cò. Hai viên đạn đuổi nhau ra khỏi nòng, kéo theo một âm thanh vang vọng cùng với chớp lửa, xé toang khung cảnh yên bình vốn có của một buổi chiều hiu quạnh. Gần như ngay khi thanh quản phát ra giọng nói khe khẽ đó thì trung ương thần kinh cũng đồng thời gửi xuống một tín hiệu đến ngón trỏ tay phải. Trong khoảnh khắc ấy, anh không cảm nhận được độ trễ. Thường thì khả năng phản xạ cho phép anh suy nghĩ và ứng biến trong một thời gian tối thiểu là 0.2 giây, đối với đa số người thì đó gần như là ngay lập tức, chỉ đủ để họ thực hiện hành vi chớp mắt. Bẩm sinh thì tần số sóng não của anh đã gấp hai lần người khác, thông qua việc luyện tập thì tố chất bẩm sinh đó lại càng được phát huy. Hàng nghìn lần quan sát chiếc đồng hồ bấm giờ đã tạo ra cho anh một thư viện dữ liệu phong phú để giúp anh xác định độ dài của một khoảng thời gian nhất định. Nhưng khi anh không thể xác định được thì đồng nghĩa với việc, khoảng thời gian đó ngắn hơn 0.2 giây. Lần này, độ trễ có lẽ chênh lệch giữa 0.05 giây, kể từ lúc anh đếm “0” cho đến khi anh siết cò súng. Tất cả những thông tin trên hiện lên trong đầu Sam gần như ngay lập tức, tuy còn chậm hơn sơ tốc đầu đạn. Cơ mặt anh dãn ra, bên khóe miệng khép lại và cong lên. Anh bắn trúng cả hai phát, dù đều vào cùng một mục tiêu. Nó ngã xuống từ 45 mét trên không trung. Ba mục tiêu còn lại đã vội vã bay khỏi tầm xử lý của anh ngay khi tiếng súng vừa vang lên. Thế là anh đã có món chính cho bữa tối của mình. Chỉ có một điều khiến anh không hài lòng : sức phá hủy của hai viên đạn đã phá nát nhiều phần mô cơ, thành ra kích cỡ của nó không còn được như ban đầu. Anh nhăn mặt, tháo hộp đạn ra và nhìn nó một cách thù ghét. Anh quên mất là mình đã gài loại đạn rỗng đầu (Hollow point) 5.56x45mm. Loại đạn súng trường chuyên dùng để sát thương mục tiêu bằng xương bằng thịt. Sức xuyên phá và sơ tốc không bằng đạn thường do phần đầu được thiết kế phẳng và có hơi hướm lõm vào trong, nên sức cản của không khí lớn hơn. Nhưng sức phá hoại đối với mục tiêu sinh học thì không cần bàn cãi : phá hủy nhiều mô cơ hơn, gây mất máu nhiều. Đầu đạn do sức xuyên phá không đủ mạnh nên sẽ nằm yên trong cơ thể của mục tiêu, gây thương tổn về lâu dài. Nếu không có áo giáp chống đạn thì dính một viên vào bất kỳ chỗ nào trên người cũng sẽ phải khốn đốn tột cùng, và viên thứ hai thường giết chết mục tiêu ngay lập tức. Quân đội đã trang bị cho hầu hết binh lính thông thường lại đạn này trong khoảng thời gian mà thảm họa bắt đầu bùng phát, đơn giản là vì nó làm cho việc tiêu diệt những kẻ bị nhiễm bệnh – Reaper – trở nên dễ dàng hơn so với đạn thông thường, dù nó không thực sự phổ biến cho lắm trong các trận chiến. Loại đạn 5.56x45mm rỗng đầu duy nhất được sản xuất là loại NATO 77 Grain Sierra MatchKing, và éo le thay là nó không mang đầy đủ tố chất của một loại đạn quân dụng thông thường. Tuy vậy nhưng nó chỉ kém hiệu quả so với đạn thường trong chiến tranh nóng, còn trong một trận chiến sinh tồn chống lại một lũ xác sống thì lại khác. Hầu hết đạn anh dự trữ đều là loại này, cả đạn 7.62x39 và 5.45x39mm của Nga dành cho các khẩu AK trong kho vũ khí của anh cũng là đạn rỗng đầu. Chúng không phải hàng chính hãng từ Nga, mà là một biến thể tự chế do một gã trùm trong giới buôn lậu vũ khí chịu trách nhiệm thiết kế và sản xuất từ đạn thường của Nga. Một trong số cả trăm chi nhánh của hắn là tại Philadelphia này : trên mặt là một cửa hàng súng ống được cấp phép nhưng ở dưới tầng hầm thì lại là một thế giới khác. Những thùng đạn rỗng đầu tự chế này là do anh cuỗm từ nhà kho dưới tầng hầm của cửa hiệu đó. Tất nhiên là sau khi căn bệnh quét qua mọi nơi và toàn bộ nhân viên đều biến thành cái thể loại mà thậm chí là việc mở cửa cũng không biết làm. Dù vậy nhưng anh vẫn thường phòng theo một hộp đạn xuyên phá đầu thép, full metal jacket, vì thỉnh thoảng anh chạm mặt với một vài kẻ địch có lớp da ngoài dày, hay thậm chí là có những lớp giáp được hình thành từ canxi và được xếp thành nhiều lớp để hạn chế các loại hỏa lực, cùng cách thiết kế của bộ áo giáp Dragon skin (loại áo giáp mà các miếng kevlar được xếp thành hình như vảy rồng). Một trở ngại khá lớn nếu chỉ dùng đạn thông thường. Dù là chúng không thường xuất hiện, phải nói là hiếm, nhưng hiếm không có nghĩa là không tồn tại. Chung quy là thế, nhưng trong săn bắn thì những viên đạn ấy lại tỏ ra kém hữu hiệu hơn cả. Đối với những mục đích khác nhau thì yêu cầu cũng khác nhau. Sở dĩ anh thủ theo đạn xuyên phá mà lại không mang theo cả loại chuyên dùng để săn bắn là vì anh không muốn hễ ra đường đi xa là lại phải mang vác nặng nề, thậm chí là một băng đạn vài ba viên cũng đủ để anh cảm thấy khó chịu. Về phần săn bắn ,anh dùng đạn dân dụng – loại tự vệ, cũng được các tay thợ săn ưa dùng - hoặc đạn xuyên phá, là chủ yếu. Sát thương của những loại đạn này là vừa đủ, sức phá hoại lại không cao quá mức cần thiết, và sơ tốc cũng lớn. Trừ phi anh muốn giết voi hoặc thú dữ. Thật éo le là anh đã không mang theo băng đạn nào loại đó. Cũng vì hôm nay anh không định đi săn, mà chỉ đơn giản là đến nghĩa trang và đốt tấm màn đen đó. Nhưng anh không thể bỏ lỡ lũ chim lượn vòng vèo trên trời. Thịt động vật tươi đối với anh bây giờ cứ như một món ăn thượng hạng xa xỉ, và anh sẽ bắn rụng bất cứ con chim nào anh nhìn thấy để lại được dịp thưởng thức những miếng thịt không-phải-thịt-đông-lạnh. Tiếc một điều là những con chim này khá nhỏ, lại dính những hai viên đạn rỗng đầu nên số thịt bị tiêu đi khá nhiều. Đạn rỗng đầu có độ biến dạng rất lớn, và khi va đập với mục tiêu thì sẽ thành hình cánh hoa, truyền tải toàn bộ lực sát thương vào mục tiêu. Nói nôm na, hiệu ứng khi dính đạn rỗng đầu cũng như khi dính đạn nổ, mặc dù lực nổ không phải được tạo ra bởi thuốc nổ mà là do lực va chạm quá mạnh. Đối với một con chim, không khác gì việc dùng dao mổ trâu để giết gà…con cả. Dù sao đi nữa, nhiêu đây cũng đủ cho hai bữa ăn. Anh sẽ dùng chúng một cách tiết kiệm, chỉ để ăn vào bữa tối. Giá trị dinh dưỡng không cao hơn thịt đông lạnh mà anh dự trữ là bao, do số lượng khá ít và cũng chỉ là thịt chim, nhưng khác nhau là ở cái vị. Cũng như một cốc nước tinh khiết và một thùng nước lã vậy. Nếu như ăn chỉ để bổ sung dinh dưỡng thì chẳng thà ông trời đừng cho tao cái lưỡi, Sam quả quyết, trong một cuộc tranh cãi với bộ não cách đây không lâu. Tâm trí của anh – hay chính là bộ não – cho rằng anh quá thừa hơi, và anh phản bác lại bằng câu nói trên. Tất nhiên, lý lẽ của anh quá vững chắc và anh giành lấy ngay phần thắng. Nhớ lại lúc đó, Sam bỗng cười khoan khoái. Một trong số ít những lần mà anh chiến thắng tâm trí của mình trong một trận chiến lý sự. Nụ cười đó nhanh chóng đảo ngược khi anh cảm thấy một cảm giác nhoi nhói bên tai. Anh nhổ toẹt một cái xuống nền đất, đưa tay lên ép chặt vào hai bên lỗ tai. Chẳng phải vì anh bực tức vì màng nhĩ bị đau nhức – anh vẫn luôn vặn nhạc mức cực lớn, thậm chí là nhạc dubstep và hard rock, thứ nhạc được tạo ra để thử thách thần kinh con người. Tiếng súng này chẳng sá gì đối với anh cả, cho dù là nó vang lên giữa lúc trong không gian không có lấy một tiếng động nào khác, khi mà lỗ tai con người nhận thức âm thanh một cách rõ ràng nhất. Anh đã từng phải đưa vào tai mình những tiếng động còn kinh khủng hơn. Mười lăm khẩu súng xả đạn đồng loạt. Ba chiếc F22 Raptor gầm rú giữa bầu trời. Những trái bom được rải xuống khắp mọi nơi. Tiếng la hét cuồng dại và tuyệt vọng của những kẻ đã nhìn thấy trước được số phận của mình. Hàng tháng trời sống trong sự tra tấn của tiếng ồn đã khiến anh nhờn đi. Và, một cách ngược ngạo, tai anh trở nên thính hơn hẳn. “Điếc mẹ nó ngay từ đầu thì lại chả đỡ khổ” Một con người, biết chắc mình không bao giờ có thể nghe thấy tiếng người nữa, thế nào cũng sẽ ước như vậy. Nhất là khi hắn phải cắn răng để cho những khối tạp âm điên cuồng hành hình mình mỗi đêm, và cả những âm vang từ quá khứ cứ lởn vởn trong tâm trí như một bóng ma ám ảnh hắn cho đến khi hắn trút hơi thở cuối cùng. Nhưng hắn không muốn chết. Hay đúng hơn là “chưa muốn chết”. Mặc dù theo hắn, cũng như lũ người đã quá chán ghét cuộc sống, cái chết chính là sự giải thoát. Hắn sẽ không phải chịu đựng đủ mọi thứ khổ ải như thế này. Nhưng chết mà không hoàn thành được những điều mình mong muốn thì chẳng thà đừng bao giờ được sinh ra còn hơn – hắn nghĩ vậy. Nếu hắn tự chọc thủng màng nhĩ của mình, hắn sẽ không sống được lâu. Âm thanh là cần thiết để hắn duy trì sự tồn tại. Hắn cần nó để nhận được đầy đủ thông tin về không gian xung quanh. Sự thiếu hụt thông tin chính là lí do lớn nhất dẫn đến cái chết trong một môi trường nguy hiểm. Nếu hắn nghĩ đến việc tự sát trong khoảng thời gian mà hắn hoàn toàn đánh mất mọi mục tiêu để sống thì có lẽ hắn đã không phải chịu đựng sự xỉ vả và sỉ nhục từ chính linh hồn của mình. Bởi lẽ, danh dự là một thứ đồ nhiễu sự, ngay cả khi hắn biết chắc ở đây chẳng có ai còn sống để cười vào sự hèn nhát của hắn. Cũng là vì, gần như trong hắn đã xuất hiện một nhân cách thứ hai. Nhưng không như những bộ phim hay tiểu thuyết trinh thám về những kẻ đa nhân cách, “Khách không mời” hay “Trường hợp bất thường của Bác sĩ Zekyll và Ngài Hyde”. Nhân cách thứ hai của hắn chỉ có duy nhất một thứ : giọng nói. Giọng nói đó vang lên mỗi phút trong cuộc đời của hắn, nhưng nó không phải âm thanh. Nó xuất hiện trong suy nghĩ của hắn. Nó chèn vào suy nghĩ của hắn những điều mà hắn không muốn nghĩ đến. Không phải ai khác, mà chính nó sẽ bật lên tràng cười sỉ nhục nếu hắn tỏ ra hèn nhát và nhu nhược trước cuộc đời. Hắn không muốn vậy. Và cũng vì, hắn là một gã đàn ông, gã đàn ông mà mang trong mình một lời thề. Hắn sẽ không chết trước khi hoàn thành lời thề đó. Đây, Sam Harrington, trầm ngâm giữa một cánh đồng hiu quạnh mà trước đây từng là công viên Fairmount. Ít nhất là trước khi một quả bom cỡ nhỏ thiêu rụi toàn bộ những hàng cây và chỉ để lại một ngọn đồi trọc với những bãi cỏ cháy sém. Từng có những cái xác chết cháy ở đây. Không còn ra hình người, đen như than và co rúm lại. Sam đã dọn dẹp số xác chết đó. Đây là nơi duy nhất mà anh có thể tìm thấy cảm giác bình yên, hơn cả ngôi nhà được vũ trang từ ống khói tới nền. Anh không muốn những cái xác đó lọt vào tầm mắt mình. Không phải là vì anh ghê sợ chúng, mà là vì chúng gợi cho anh cảm giác đau thương. Anh không muốn nhìn hay nghe thấy bất kỳ thứ gì dẫn nguồn tới quá khứ. Cả tiếng súng. Cứ mỗi lần anh siết cò súng, anh lại nghe thấy âm vang của ngày hôm đó. Ngày thứ hai của tuần lễ đáng nguyền rủa nhất trong đời anh. Quá khứ của ba mươi năm vật lộn với đời. Quá khứ của hai tháng địa ngục. Tất cả đều đã chết cùng con người cũ của anh. Mặc xác những hình ảnh đổ về hằng đêm, trong mỗi giấc ngủ. Mặc xác những tiếng vọng xa xôi mà đáng ra đã tắt ngấm từ rất lâu. Dù cho những nhát dao của nỗi ân hận và đau khổ luôn khó lành và đau đớn hơn cả trăm lần những vết thương da thịt. Anh không cho phép mình yếu đuối trước bất cứ thứ gì. Vì anh là thợ săn, là người phán xét, là kẻ hủy diệt. Và vì một lời thề. Ngay khi anh nhận thức được khả năng miễn nhiễm của mình, cùng với tiềm năng chiến đấu lẫn sinh tồn, thì anh đã hiểu ra. Chúa đã đáp lại lời khẩn cầu cuối cùng của anh bằng chút lòng nhân từ còn lại đối với con người - giống loài đã gây ra bao nhiêu tội ác với chính chúng, và cả với thiên nhiên. Anh cho rằng, ông ta cảm thấy muốn tán thưởng cho sự dũng cảm của anh. Khi đã chỉ ra cái mà anh cho là sự ngu ngốc trong cách suy nghĩ và cả cách làm của ông ta. Nhưng tán thưởng hay là trừng phạt, anh vẫn chưa thể làm rõ. Phải chăng đây chỉ là một bản án chung thân. Chung thân nhưng đi kèm với những hình thức tra tấn đủ loại và không bao giờ chấm dứt. Một bản án khủng khiếp hơn cả tử hình gấp nhiều lần. Lẽ ra ông ta nên tặng cho anh một cái chết êm dịu thay vì nhét cho anh đủ mọi khả năng tồn tại và chống chọi. Để rồi anh vẫn sống. Sống trong khổ ải. Đau đớn vì bị giày xéo cả về thể xác lẫn tinh thần. Cô độc giữa một thế giới đầy hiểm nguy và chết chóc. Sống vật vờ như một cái xác không có linh hồn. Sống từng ngày mà không có được một mục đích chính đáng. Báo thù, đó chẳng phải một mục đích đúng nghĩa để tiếp tục tồn tại. Dù anh vẫn biết, chính suy nghĩ báo thù đã ngăn không cho anh nốc thuốc độc vào mồm và chấm dứt mọi chuyện. Chúng phải trả giá trước khi anh chết. Nhưng như vậy thì sự tồn tại của anh còn có ý nghĩa nào khác ? Cũng câu hỏi đó, đã tràn về nhiều lần. Nhiều đến mức anh từ bỏ hẳn việc đếm. Phần lớn câu trả lời của anh là cùng một câu, nhưng đôi lúc lại có những đáp án khác. Bản thân câu hỏi này, cùng với cả ngàn cả vạn những câu hỏi khác, đều không có lời giải. Hơn thua nhau ở độ thuyết phục. Anh theo đuổi đáp án mà anh cho là nghe lọt tai hơn những câu trước. Anh từng nghĩ tới mục tiêu là tìm thuốc giải, nhưng chẳng mấy chốc là từ bỏ nó. Anh cũng từng đặt ra nhiệm vụ là tìm kiếm những người sống sót, và kết quả không khác đi được. Chúng quá xa khỏi tầm với của anh, và anh cũng không mấy hứng thú với những việc này. Anh đã không còn là một con người của hy vọng nữa rồi. Báo thù. Anh cảm thấy anh có thể làm được. Giết chóc và phá hủy luôn dễ hơn cứu rỗi và xây dựng. Từ lâu đã như vậy. Một viên đạn đáng giá một đô có thể giết chết một mạng người. Nhưng không một lượng tiền bạc nào có thể cứu người đó sống lại. Có lẽ những kẻ mà đã đem lại ngày tận thế cũng đã nghĩ như thế. Chúng đã có thể dùng tài năng của mình để giúp đỡ thế giới, nhưng thay vào đó thì chúng tạo ra lũ quái thai này. Cùng với căn bệnh. Thế đấy, mày cũng chẳng khác gì những kẻ đó. Lũ con hoang hèn hạ và chó má đó. Nhưng tao có thể làm cái đếch gì được nữa ? Về đến nhà, anh tự khen thưởng cho thành tích của mình bằng một ly rượu. Một thành tích nhỏ nhoi chẳng đáng là bao. Nhưng với một kẻ như Sam thì bấy nhiêu thôi cũng đủ để giữ trên khuôn mặt thô ráp của anh một nụ cười, không toe toét nham nhở thì cũng mỉm chi mà cười. Cũng khá đơn giản để hiểu. Cái kẻ tên Sam đó từ lâu đã trút bỏ vỏ bọc của một con người. Chính xác hơn là anh đã từ bỏ cái cách sống thông thường của một con người trong thời đại cũ. Anh ta đã vứt bỏ hết tất cả ngay từ khi nhận ra rằng Trái Đất, và cả thế giới này, đã không còn chuyển động trên cái trục mà nó vẫn quay quanh suốt cả tỉ năm nay. “Khả năng thích ứng” – anh độc thoại giữa không gian lạnh tanh và trống rỗng, trong lúc mân mê ly rượu và dòng chất lỏng thẫm tím bằng ánh nhìn trìu mến. Một tràng cười mỉa mai vang lên. Ngỡ như nó sẽ kéo dài bất tận đến khi phổi anh không còn chút không khí nào nữa. “Lại một cục nợ mà cái lão già thối tha trên kia tặng cho tao.”[/spoil]
Well, ngày hôm nay mới có cơ hội ngồi đọc những chương gần đây của bạn, mình biết phải nói gì đây nhỉ ? Bao nhiêu lời khen mình đã nói ra hết từ những chương đầu rồi, tâm lý rất tốt, lột tả được sự thống khổ tận cùng của một kẻ ngày đêm chiến đấu với hai nỗi sợ lớn nhất trong đời mình: trở thành sinh vật mình kinh tởm và sự đơn độc. Những chap gần đây (tạm thời mình chưa đọc chapter mới nhất) vẫn làm được vai trò của nó là tiếp tục mang người đọc đến gần với xúc cảm của Sam, cảm nhận từng giây phút bị nỗi sợ hãi gặm nhấm, giày vò như một con cá vùng vẫy ở đất cạn. Cái chết, một khi ta đã nắm được cách chơi đùa với nó, có lẽ tạo nên sự hưng phấn làm giảm đi các mối âu lo khác, việc mỗi ngày học thêm một điều gì đó từ cuộc sống tự lực này có lẽ cũng có tác dụng như vậy. Mình nghĩ Sam vẫn luôn ở phía cán cân nhẹ hơn cho dù anh đã trải nghiệm qua những thứ tồi tệ bao nhiêu lần rồi, hay đã quen với cách chiến đấu, lẩn tránh, phá hoại...Nhưng đó là khi không phạm phải sai lầm nào, cái mạng anh đang treo, anh đánh cược với nó, làm đúng rồi sống tiếp hoặc là ẩn núp và chờ sự nhàm chán giết chết mình. Well, hình như mình đã có từng nói đến chuyện này rồi phải không, văn cậu viết tốt nhưng rất nặng nề, không sử dụng dài lâu được. Cốt truyện kiểu nhật ký này mình biết là phải như thế nhưng mình phải nói là nó thử thách sự kiên nhẫn của con người rất kịch liệt. Kiểu như: fat the wuck? Lại nữa sao? Góp ý nhỏ thế này, chỗ này nên tách ra, tạo cảm giác là Sam đã đứng lặng yên một lúc suy ngẫm về tấm hình đó
Anh Sam đang lao vào cái vòng lân quẩn của 1 kẻ đơn độc chẳng còn gì, chẳng còn ai. Nếu anh ko bắt chước như nv 9 trong Iamlegend là đem ma nơ canh về nói chiện thì a sẽ phát điên thôi. Theo med nghĩ nên cần 1 phụ nữ để cân bằng. Há Há
Đây mới là hồi 1 (Tháng 12 năm 2012) nên các chương đầu chủ yếu nói lên hết flashback và diễn tả khung cảnh cuộc sống cô độc của Sam trước. Còn các hồi sau mình đã tính hết các sự kiện then chốt rồi Gợi ý mình cũng đưa vào các chương đầu rồi. Tiểu thuyết một nhân vật thì trừ phi là nhà văn đại tài, không thì sẽ rất dễ gây nhàm chán về sau. Rút kinh nghiệm từ đó lẫn từ cmt của các lão tiền bối Chương V. Distant Echo. Tiếng vọng xa. Phần 2. [spoil] Hai viên đạn đã bắn trúng cổ và phần thân dưới của con chim. Sau một hồi lâu nhìn đống thịt biến dạng từng mang hình hài của một động vật lông vũ trên cái thớt gỗ, anh lắc đầu ngao ngán. Những phần thân thể dính đạn đã biến mất không dấu vết. Có lẽ những chỗ đó đều đã phát nổ thành từng mảnh ngay khi xảy ra sự chấn động giữa da thịt và đầu đạn. Nếu là vào chính giữa bụng hay ngực thì có lẽ chỉ còn có hai cái cánh là nguyên vẹn. Dù sao, bấy nhiêu đây cũng đủ cho một bữa tối. Ăn với số lượng ít ỏi sẽ dạy cho anh cách ăn từ tốn, hơn là cho mọi thứ vào miệng rồi nuốt trọn. Nóng nảy và kiên nhẫn đã sớm chiếm chỗ trong phần tính cách của anh từ lâu rồi. Anh dùng dao vặt lông, lóc sạch phần nội tạng và ngâm rửa thịt. Khi nãy trên đường về nhà, anh không quên ghé qua một kho chứa thức ăn gần đó để kiểm tra máy phát điện và lấy về một chai dầu thực vật và bịch bột chiên giòn. Anh sẽ tẩm bột chiên. Những món chiên gợi nhớ cho anh về mẹ. Người phụ nữ mà anh đã thề là cả đời sẽ không quên đi bà ấy. Anh lớn lên trong tình thương của mẹ. Như phần lớn những đứa trẻ khác. Mẹ anh là người Việt Nam. Một người mẹ dịu hiền, nhân hậu. Bà rất đẹp. Không một hoa hậu thế giới nào có thể đẹp hơn bà cả. Bà thường thưởng cho anh mỗi khi anh đạt kết quả học tập tốt bằng một bữa ăn thịnh soạn với món chính là đùi gà và tôm chiên lăn bột. Đó là lí do anh cố gắng học, cố gắng đạt được thứ hạng cao nhất trong lớp. Lí do chính không hẳn là vì món ăn ngon, mà là để nhìn thấy mẹ cười. Cười mỉm, da mặt căng ra, tự nhiên, chân thực. Đẹp hơn cả viên ngọc hoàn hảo nhất. Anh dành cho mẹ một tình thương yêu lớn đến độ không một thước đo nào có thể đong đếm. Và bà ấy cũng vậy. Câu chuyện của một gia đình đầm ấm hạnh phúc đáng lẽ phải nhận được một kết thúc có hậu. Mẹ anh qua đời năm 36 tuổi, vừa đúng sinh nhật thứ 14 của anh. Mùa thu năm 1988, ngoại ô bang Florida. Bị xâm hại và đâm tới chết. Kẻ thủ ác đã xóa hầu hết các dấu vết. Xác của bà bị để lại dưới một gốc cây trong rừng. Trên khuôn mặt lạnh cứng của mẹ, anh nhìn thấy máu chảy ra từ mũi và miệng. Mắt bà vẫn còn mở, mi mắt che quá nửa nhãn cầu. Và một dòng nước mắt đã khô. Máu, nhuộm đỏ chỗ đất mà bà trút hơi thở cuối cùng. Nhuộm đỏ ánh mắt của cha. Lần đầu tiên anh trải nghiệm cảm giác khủng khiếp nhất cuộc đời một con người. Đứng nhìn người mình thương yêu chết mà không thể làm gì được. Và lại còn là một cái chết thật tàn nhẫn, thật bi thảm. Cơ thể mẹ anh bị đâm rất tàn bạo, hàng chục nhát dao vào đủ mọi nơi. Sâu hoắm, rỉ máu không ngừng. Không có lấy một mảnh vải để che đi thân thể nhơ nhuốc. Có lẽ bà đã rất tuyệt vọng. Anh ước gì mình thật ngu ngốc và ngớ ngẩn để không biết được rằng mẹ mình đã chết trong nỗi đau đớn và tủi nhục tột cùng. Để không phải nhìn thấy mặt trái tội lỗi của một thế giới mà bấy lâu nay anh vẫn lầm tưởng một cách mù quáng. Đó là giây phút anh cảm thấy tất cả như sụp đổ. Cảm giác thật mãnh liệt, bịt kín lấy khí quản, thanh quản và cả hệ thần kinh của anh. Anh đứng chết trông như một pho tượng, trong bộ não không còn bất cứ một suy nghĩ nào nữa. Tim ngừng đập, máu ngừng chảy. Hoạt động của cơ thể anh bị đình trệ trong một khoảng thời gian mà đối với anh, không khác gì một thế kỷ ròng rã. Trong bộ nhớ non kém của anh bắt đầu tua lại những thước phim của những năm tháng hạnh phúc bên người mẹ. Nhưng lúc đó, anh nhận ra có một người, ngập chìm trong thứ cảm xúc còn lớn hơn anh gấp bội phần. Cha. Ông đứng chôn chân tại chỗ, tuyệt nhiên không cử động gì trong suốt mười phút đồng hồ. Cặp mắt của ông mở rộng hết mức có thể và nhìn chằm chằm vào mẹ. Lúc đó, anh nghe thấy đôi hàm của ông va vào nhau, run rẩy. Và rồi ông hét lớn. Tất cả mọi cảm xúc được ông tống ra ngoài, theo tiếng gào thét dữ dội và mãnh liệt đó. Tưởng chừng như tiếng gầm của sư tử chỉ còn là tiếng kêu chít chít của chuột khi đem ra so sánh. Ông lao tới bên mẹ. Ba cảnh sát đã ra sức giữ ông lại nhưng họ không thể giữ được quá hai giây. Tất cả mọi người chỉ còn biết dõi theo người đàn ông đau khổ đó, ôm chầm lấy cơ thể lạnh như mùa thu Florida. Ông khóc và gào thét trong nỗi buồn cực hạn. Anh cũng thế. Ông đã tự mình điều tra. Tự mình đòi lại công bằng. Ông không cho anh đi theo. nhưng anh đã bí mật gọi cho vị trưởng ban chuyên án điều tra về cái chết của mẹ anh và cùng ông ta bám theo để hỗ trợ trong tình thế bức thiết. Cả anh và người cảnh sát kia chứng kiến mọi chuyện. Đó là lần đầu tiên anh nghe thấy âm thanh của một khẩu súng. Một khẩu ru-lô. Anh nhớ rất rõ những gì diễn ra lúc đó. Cách hai mươi hai giây ông mới bắn một phát đạn. Số ngày và tháng trong sinh nhật của mẹ anh cộng lại, mười lăm tháng bảy. Tên sát thủ dính đạn vào chân thì lồm cồm bò dậy như một con sâu bất lực, nhưng hắn không khóc lóc thảm thiết và van xin tha mạng. Hắn cười như điên dại, và bắt đầu rống lên những điều mà ngay cả vị cảnh sát kia khi nghe qua cũng muốn rút súng và nã cho đến khi cả thế giới này không còn đạn để bắn. Nhưng cha anh vẫn giữ một cử chỉ và nét mặt. Cả nguyên tắc hai mươi hai giây một phát. Và rồi ông bắn cẳng chân còn lại. Tiếp đến là tay trái, tay phải, lồng ngực. Mỗi phát đạn, hắn lại co quắp người lên và rít lên một tiếng đau đớn. Phát đạn vào giữa ngực đã khiến hắn không còn làm được gì nữa. Hắn nằm một chỗ, thở dốc trong khi máu ộc ra từ mũi và miệng. Cảm giác đau đớn và tê dại đã bắt đầu xâm chiếm lấy toàn thân thể hắn – Sam đoán vậy, thông qua nét mặt nhăn nhó của hắn. Lúc đó Sam nhìn thấy trong ánh mắt của hắn là một sự kinh hãi không sao tả xiết. Nhãn cầu của hắn tập trung vào một nơi duy nhất. Không phải vào họng súng đen ngòm đang hướng thẳng vào đầu, mà là vào gương mặt lạnh cứng như một pho tượng của người đàn ông đang đứng trước bộ dạng xiu vẹo của hắn. Hai mươi hai giây cuối cùng, ông tra viên đạn .357 Magnum vào lỗ. Năm viên đạn trước đều là loại nhỏ không gây sát thương mạnh, cốt yếu là để tên tội phạm không chết quá nhanh. Nhưng .357 Magnum, được làm ra để mang lại cái chết nhanh chóng nhất nhưng cũng đau đớn nhất. Ông dành nó cho phát đạn ân huệ. Phải đến một thời gian sau này anh mới biết điều đó. Tiếng súng cuối cùng vang lên khi kim đồng hồ chỉ điểm đúng hai mươi hai giây kể từ phát bắn trước. Đầu đạn đâm thẳng vào giữa trán, xuyên qua rãnh liên bán cầu của bộ não. Sức công phá mạnh mẽ của đầu đạn tách hộp sọ hắn ra làm hai, khiến cả bộ óc trắng tanh tưởi của hắn phọt ra trên nền đất. Tất cả những tiếng súng đó đi vào đầu anh như một tệp tin âm thanh không thể bị xóa. Và mỗi khi anh tìm về ký ức thì tệp tin đó được bật lên một cách tự động. Âm lượng ở mức cao nhất và lặp đi lặp lại liên tục. Nó khiến anh có cảm giác như trong tâm trí anh ngự trị một con virus bất tử. Sinh ra cùng với vô số những căn bệnh tâm thần được ám vào đầu anh suốt thời gian qua. Đúng hơn là từ ngày mẹ mất. Tên tội phạm vốn là kẻ gây nên cái chết của mẹ anh và năm nữ sinh trung học cách đó ít lâu - với cùng một cách hành động, đã đền tội. Vị cảnh sát dường như có một nỗi cảm thông không thể diễn tả bằng lời đối với cha anh. Ông đã tạo dựng một hiện trường giả bằng cách nhận lấy khẩu ru-lô của cha anh và báo cáo về sở cảnh sát rằng chính ông đã hạ thủ tên tội phạm. Đồng thời, cha anh giao cho ông ta công trình điều tra của mình để xác nhận trước tòa án rằng cái gã bị bắn chết đó chính là kẻ gây ra mọi chuyện. Mọi sự thật về việc chính tay cha anh đã hạ thủ hắn, chỉ duy nhất hai người biết rõ. Từ đó anh không thấy cha cười nữa. Cuộc đời ông bỗng dưng lao thẳng xuống bờ vực tăm tối ở tuổi bốn lăm. Nhưng ông không trở thành một con người khó chịu và quát tháo kể từ sau cái chết của mẹ, mà ngược lại, ông luôn tỏ ra thật trầm lặng và nhỏ bé. Cho đến khi ông lâm chung vào năm cuối của anh ở đại học y. Nụ cười của ông trước phút ông lìa đời ở bệnh viện chính là một trong những bí ẩn lớn nhất mà cả đời anh không hiểu nổi. Anh và cha. Khác nhau về nhiều mặt trong tính cách. Nhưng dường như có chung một số phận. Có chăng chỉ là sự cách biệt về cách thức mà số phận chơi đùa với cuộc đời của anh và cuộc đời của ông ấy. Tuổi thơ của anh lớn lên rất hiếm bắt gặp hình ảnh của ông ấy. Có chăng cũng là những lần ông xỉ vả vào sự vô dụng của anh. Sự vô dụng mà ngay cả anh cũng phải thừa nhận. Điều đó để lại cho anh một ấn tượng mờ nhạt với cha. Ngay cả khi mẹ không còn nữa, ông lại càng trở nên xa lánh. Như một đứa trẻ khép nép mặc cả. Có nhiều đêm anh thấy ông ngồi trên ghế cùng điếu xì gà, trầm ngâm suy nghĩ trong ánh đèn bàn mập mờ. Ông ngồi đó giữ nguyên tư thế cho đến tận sáng, nhưng cặp mắt thì chỉ chớp chứ không nhắm lại. Đôi mắt đục ngầu xám xịt, đôi lúc nhìn xuống mặt đất thật lâu, có khi lại hướng về phía xa xăm. Ẩn sâu trong ánh mắt ấy là một nỗi thống khổ vô hạn khôn nguôi. Anh đi cùng cha về Philadelphia không lâu sau đó. Suốt chín năm trước khi ông lìa đời, ông đã dẫn dắt tương lai cho anh. Năm thi đại học, anh đậu á khoa, và được học trong một trường y danh tiếng. Sau khi ông mất, anh tổ chức tang lễ, chôn cất ông ở cạnh ngôi mộ của mẹ. Điều tối thiểu mà anh có thể làm. Anh sống dựa vào phần gia tài để lại và chuyển sang học kinh tế và làm thư ký cho một công ty tài chính. Johanna từng là đồng nghiệp của anh trong công ty đó. Hai người họ yêu nhau và kết hôn. Nhưng hôn lễ của anh vắng bóng cha mẹ. Lịch sử lặp lại cách đây không lâu. Khoảng thời gian mà anh tạm quên đi hai mươi năm quá khứ chẳng mấy tốt đẹp của mình. Khoảng thời gian mà có lẽ là hạnh phúc nhất đời anh. Tất cả chỉ kéo dài mười năm chẵn. Đến rất nhanh nhưng cũng qua đi rất nhanh. Tất cả khiến cho anh có cảm giác như ba mươi tám năm qua chỉ đơn thuần là một giấc mộng dài, mà một trong những sự khác biệt rõ ràng nhất chính là, cách đây một năm anh còn là một nhân viên văn phòng, nhưng giờ thì anh là một tên đồ tể. Đương đầu với đủ mọi thứ quái ác mà Chúa đã đặt ra cho anh như một sự trừng phạt, hay là thử thách để chứng minh anh đủ bản lĩnh để tồn tại. Anh sinh ra là để sống cô đơn. Điều này anh đã ngộ ra từ lâu và cố gắng bắt ép mình phải chấp nhận lấy nó. Nhưng tính cách mâu thuẫn đến phát bực của anh thì không ủng hộ việc đó. Đây cũng là trường hợp tương tự. Anh luôn tìm cách chạy trốn quá khứ, nhưng cũng không ít lần anh tận hưởng việc nhớ lại những hồi ức xa xôi đó. Không thể chống lại dòng nước thì tốt nhất là hãy trôi theo nó - lúc này đây, triết lý này là đúng đối với anh. Những lúc khác, anh cật lực chống lại. Anh cũng luôn ra sức bài trừ sự mâu thuẫn trong suy nghĩ của mình, nhưng cũng không ít lần anh cảm thấy chính sự mâu thuẫn đó đã tô màu vào bức tranh vô vị nhàm chán thể hiện đời sống tâm lý - vốn dĩ đã thiếu thốn trầm trọng - của anh. Anh có thể cảm thấy bực tức lẫn vui mừng mỗi khi anh tham gia vào một trận tranh cãi với bộ não, thứ mà mang trong nó sự hiện diện của hai kẻ : một kẻ mang tên gọi "nhân tính" luôn nói triết lý, và mang vai trò như vị thẩm phán mỗi khi anh làm một điều gì đó trái với lương tâm; còn kẻ kia là tín độ của chủ nghĩa hiện thực, luôn mở miệng xỉ vả mỗi khi anh tỏ ra ích kỷ với chính bản thân mình. Anh hoàn toàn không biết kẻ nào đúng, kẻ nào sai. Mỗi khi anh nghe theo "nhân tính", thì "thực dụng" sẽ lên tiếng sỉ nhục anh bằng những từ ngữ khó nghe nhất lấy nền tảng cơ bản từ chữ "ngu ngốc". Mỗi khi anh nghe theo "thực dụng", thì "nhân tính" sẽ trách móc anh bằng một loạt những suy nghĩ đánh mạnh vào cảm giác mặc cả tội lỗi. "Những chuyện đó có gì hệ trọng ?" Anh bật lên thành lời một cách thư thả, trong lúc lắng nghe tiếng động tí tách được tạo ra bởi những giọt dầu trên chảo. Chính anh cũng cảm thấy ngạc nhiên. Chỉ vài giờ trước thôi, anh còn ngồi ở phòng khách và khóc ròng, trách mắng bản thân mình sao mà quá yếu đuối để cho quá khứ quật ngã. Nhưng lúc này thì anh đang chìm trong một cảm giác dễ chịu mà anh chưa bao giờ được trải nghiệm. Thế đấy. Tính chất mâu thuẫn hiện diện ở mọi nơi trong anh. Từ trước đến giờ, anh vẫn luôn mắc kẹt trong cái vòng lẩn quẩn dó. Không muốn nhớ lại, nhưng cũng không muốn quên đi. Dù sao đi nữa thì kết quả vẫn chỉ có một, cho dù anh luôn đứng ở trọng tâm của cán cân, phân vân trong nỗi mơ hồ. Không biết nên làm thế nào mới đúng. Hẳn là cuộc sống của một con vật sẽ dễ thở hơn rất nhiều khi bản năng nắm trong tay quyền hạn cao nhất. Sống ngày qua ngày một cách vô tư lự, không hề lo âu, không hề dùi đầu vào phiền muộn. Cuộc sống mà anh đã từng mơ ước, cũng như cả tỉ ước mơ của những con người từng một thời bước đi trên mặt đất và dõng dạc rằng họ là loài động vật tiến hóa nhất hành tinh này, đều đã không còn nữa. Đấy. Cái điệp khúc mà ngày nào anh cũng nhắc đi nhắc lại. Về những gì mất, những gì còn lại. Khá đáng tiếc. Nhưng anh đã ngộ ra được một sự thật : quá khứ không như hiện tại và tương lai. Chỉ có hai lựa chọn : quên hoặc nhớ. Anh chọn cách “nhớ” – khi trước là vô tình, giờ là anh thực sự muốn nhớ. Cũng bởi vì anh trong quá khứ chưa bao giờ là một người quyết đoán. Anh tự nhủ, nhớ để biết mình từng sống như thế. Không phải để tiếc nuối hay hối hận. Nếu muốn sống thật vô tư thì trước tiên hãy biết cách dung nạp và thích ứng. Bài xích và trốn tránh hoàn toàn không có được tác dụng như người ta vẫn lầm tưởng. Nếu là vài ngày trước, hay thậm chí mới sáng nay thôi, thì hẳn anh đã khóc bù lu bù loa lên ngay khi nhớ lại cái chết của mẹ. Thay vào đó anh lại thấy thỏa mãn. Vì anh đã không quên đi một chuyện quan trọng. Mai là ngày giỗ của mẹ. 30/12. Sáng mai anh sẽ đi săn. Một cuộc săn thực sự. Không như lần này nữa.[/spoil]
Bọn mình chả phải tiền bối hay gì đó đâu, cũng đều là dân viết lách nghiệp dư cả mà, coi nhau là bạn bè cả đi, cậu cứ cư xử khách sáo như vậy mình cảm thấy xa cách quá.
Chương V. Distant Echo. Tiếng vọng xa. Phần 3. [spoil] Cơn mưa gạch đá một lần nữa lại phát lên bản nhạc đinh tai nhức óc. Số lượng có vẻ nhiều hơn hôm qua. Ngày mai anh sẽ phải bỏ ra một hai tiếng đồng hồ để dọn dẹp bãi chiến trường đó, đã nhiều ngày anh không ngó ngàng tới số gạch đá khổng lồ nằm ngổn ngang ở mọi nơi. Một tuần nữa thôi và chỗ này sẽ bị lấp kín bởi một núi đá, nếu như anh ngồi đó mà không động tay động chân. Dường như chút ít trí khôn còn lại trong óc đã giúp chúng đi thu thập đá từ cái nơi mà Chúa mới biết ở đâu, rồi sau đó tụ lại đây mà trút lên nhà anh. Nếu như gọi chúng là “zombie” theo như cái cách mà người ta vẫn dùng để gọi những kẻ mất hết lí trí và đi săn tìm thịt sống, thì cái lũ này có hơi khác biệt. Quá khác biệt. Anh rít thuốc rồi ngả người ra giường. Lướt mắt qua kim giờ đang chỉ vào con số 7 trên mặt đồng hồ treo tường. Anh nằm đó, nhìn lên trần nhà với đôi con ngươi bị mi mắt trùm lên gần một nửa. Khuôn mặt lạnh cứng của anh tỏa ra một vẻ buồn rười rượi. Bên dưới lớp da gần như đã xám lại là những cơ mặt và dây thần kinh đang nghỉ ngơi sau một ngày dài hoạt động hết công suất. Đã quá lâu kể từ khi anh còn sử dụng đến cơ mặt của mình để biểu lộ cảm xúc, cũng như một chiếc máy ngừng làm việc đã lâu, bị bỏ xó cho đến khi đóng bụi thì mới được hoạt động lần nữa. Vốn dĩ anh là tuýp người khá dễ chịu và hòa đồng. Ít nhất đó là những gì mà bạn bè, đồng nghiệp và người thân nhận xét về anh. Cũng bởi vì trên khuôn mặt anh lúc nào cũng tràn ngập xúc cảm, chân thật, không gượng ép. Gần đây thì không còn thế nữa. Anh sớm nhận ra từng tế bào thần kinh trên mặt mình đều đã thoái hóa. Nụ cười của anh khi dang tay đón nhận một điều gì đó khiến anh cảm thấy vui - bất kể là một câu chuyện hài, cảm giác phấn khởi khi hoàn thành công việc, và thậm chí là khoái cảm được đem lại mỗi khi anh ra tay tàn sát chúng chính nhờ cái bệnh tâm thần mà gã côn đồ "thực dụng" đã ám vào người anh - hay cả khuôn mặt hơi nhăn lại mỗi khi buồn phiền, tất cả đều trông giả tạo đến mức thảm hại. Anh tự nhìn vào gương mỗi khi cảm nhận được sự thay đổi nơi nét mặt của mình, và tự nhận xét như vậy. Nếu như trong căn phòng này còn một người nào khác ngoài anh thì hắn đã chết vì chán. Giả tạo cũng chẳng để đánh lừa ai. Mà chân thực cũng chẳng để ai tán thưởng. Mà không, vẫn có một kẻ để bị sự giả tạo đánh lừa và để bị sự chân thực khiến cho phải thốt lên tán thưởng. Nhân cách thứ hai của anh đây. Anh không bị tâm thần phân liệt, cũng chẳng phải hoang tưởng. Không phải bệnh. Mà nó gần giống như chứng ám ảnh thường thấy ở nhiều người có tâm lý phức tạp. Một cách tình cờ anh cảm thấy có ai đó đang trú ngụ ở góc tối trong con tim của mình. Dẫu cho anh có thể chắc chắn rằng anh luôn giữ được quyền kiểm soát cả về thể xác lẫn tinh thần mọi lúc mọi nơi. Cuộc sống cô đơn tạo ra trong anh cả những vấn đề thần kinh lẫn những nỗi sợ mơ hồ. Anh khiếp đảm tiếng động mạnh - tất nhiên là chỉ khi anh không rõ tiếng động đó là gì, và cũng không cảnh giác trước nó, và thỉnh thoảng, sự ám ảnh của quá khứ. Anh không ngại việc phải nhớ về quá khứ, dù đôi lúc anh vui vẻ chấp thuận để cho tâm trí trôi ngược dòng thời gian, và đôi lúc anh cật lực phản kháng. Nhưng khi nói đến những hình bóng - những "bóng ma" theo đúng nghĩa đen - thì anh không bao giờ có thể làm quen được việc phải nhìn thấy chúng. Một trong những di chứng khủng khiếp nhất của cuộc sống cô đơn chính là ảo giác về sự hiện hữu của con người. Có thể là déjavu. Anh thường nhìn thấy có bóng người trong nhà, hoặc có những cảm nhận lạ thường như là bị ai đó dõi theo hoặc đang đứng sau lưng. Ngay cả khi bước chân ra khỏi nhà, anh cũng vẫn thấy điều tương tự. Những người xa lạ mà anh không thể nhìn rõ, hiện ra ở một con đường, góc phố hay tầng thượng một tòa nhà nào đó, khiêu khích anh và rồi biến mất ngay sau khi anh chớp mắt. Hoặc là, quay lưng bỏ chạy khỏi tầm mắt của anh nếu như anh nếu như anh ép buộc nhãn cầu của mình phải tập trung cực độ và ngăn cản không cho mi mắt cử động. Những lần đầu tiên, anh ra sức đuổi theo mỗi khi nhìn thấy chúng - tất nhiên kết quả chỉ có thể là anh chạy vòng vèo mãi từ nơi này đến nơi khác một cách mù quáng mà chẳng thể tìm thấy ai, như thể con cá bị dắt mũi bởi mồi câu hấp dẫn đánh mạnh vào cảm giác thèm ăn của nó. Nghe có vẻ như một mô-tuýp kinh điển trong những bộ phim hay câu chuyện rùng rợn về hiện tượng siêu linh. Anh không sợ chúng, nhưng căm ghét chúng. Chúng đem lại cho anh cảm giác như chính bản thân anh đã chơi khăm anh vậy. Bởi lẽ cặp mắt anh dùng để nhìn thấy chúng là của anh, và suy nghĩ muốn đuổi theo chúng được đưa ra bởi bộ não mà quyền sỡ hữu thuộc về anh. Việc ngộ ra sự thật tréo nghoe đó khiến anh cười ra nước mắt. Và thậm chí, có nhiều lúc anh nghe thấy những thứ mà khiến anh không tin nổi vào lỗ tai mình. Anh không tin vào ma quỷ. Cái đám đói ăn núp trong mọi xó xỉnh ở thành phố đã chết này đã là quá đủ cho một tác phẩm truyện hoặc phim kinh dị. Nhưng anh không thể nào tìm được lời giải thích cho những tiếng cười nói của trẻ con, tiếng bước chân ngoài hành lang, tiếng nấu nướng ở dưới bếp, và đủ mọi thứ âm thanh khác, vang lên bất chợt không báo trước. Cũng như cái cách mà nó biến mất dạng, không để lại bất cứ ấn tượng nào nơi màng nhĩ anh. Những điều mà anh chỉ từng đọc qua trong những cuốn truyện ma chọn lọc, giờ đây anh đều đã trải nghiệm. Sẽ chẳng có gì đáng bận tâm, nếu như thứ ảo giác đó không chỉ đánh lừa cặp mắt anh, mà còn cả hai bên tai. Chẳng hạn như có một lần nọ, suýt nữa anh đã mở cửa ra và bước ra ngoài giữa buổi tối khi mà chúng đã tụ tập trước nhà anh đông đảo hơn cả số lượng khán giả của một trận World Cup. Cũng bởi vì ảo giác khiến anh quên béng đi mất thời đại mà anh đang sống. Anh đã nghe thấy tiếng chuông xe đạp, tiếng cười nói của những đám đông tập thể dục buổi tối. Những âm thanh mà đã quá quen thuộc cho những con người bình dị cư ngụ trên con đường Baring. Một giây sơ ý và anh hoàn toàn bị dắt mũi. Điều đó khiến anh nghĩ rằng mình đã bị hoang tưởng thật. Một thằng điên thì tất yếu sẽ nhận lấy bệnh hoang tưởng như một hậu quả không thể tránh. Nhưng, mẹ nó, anh nghĩ, tao không phải chuyên gia tâm lý. Là một gã sinh viên y khoa, anh có thể tự chẩn đoán bệnh của mình và lái xe đến các hiệu thuốc để tìm kiếm thứ anh cần. Nhưng về bệnh liên quan đến tâm lý thì anh chịu. Đầu hàng. Mặc xác cho nó hành hạ mình như thế nào đi nữa. Khả năng thích ứng sẽ lo liệu phần còn lại, chỉ cần anh luôn giữ cho mình tỉnh táo ở một mức độ nhất định, chỉ cần anh không đánh mất hoàn toàn lí trí và rồi lại chết một cách lãng xẹt. Khi thế giới không còn quay đúng chiều của nó nữa, không bao giờ được lặp lại sai lầm, nếu như bạn vẫn còn chưa muốn chết. Sam thấu hiểu đến từng chữ trong triết lý đó. Bài học duy nhất tao cần để sống sót. Anh lầm bầm trong miệng rồi ngồi dậy. Xỏ chân vào đôi dép lê, anh tiến xuống dưới nhà. Trong không gian kín bưng và tối tăm đó, chỉ có những ánh đèn mập mờ dẫn lối cho anh. Cặp mắt của anh đã quen với bóng tối từ lâu, nên giờ đây điều kiện thiếu ánh sáng chẳng còn là một thử thách nan giải như trước nữa. Anh đi xuống hầm thông qua một cánh cửa dẫn từ nhà bếp. Căn hầm từng được dùng để chứa đồ cũ, giờ thì là cái kho vũ khí của anh. Hàng chục khẩu súng được treo trên tường với đủ mọi loại và kiểu dáng. Những thùng gỗ chứa vô số đạn dược được chất thành đống ở góc phòng. Ngoài ra còn phải kể đến vũ khí cận chiến : gậy bóng chày, mã tấu, búa, rìu, dùi cui tự chế,… Trông nơi đây chẳng khác nào cửa tiệm ngầm của một gã buôn vũ khí lậu. Số vũ khí dành cho ngày mai đã được anh chọn sẵn : súng trường AK74M báng gấp lắp thiết bị trợ ngắm FAS cùng mười băng đạn polymer 5.54x39mm Hollow point, shotgun M1014 và ba mươi sáu viên đạn gài, súng lục P99 với ba băng đạn 9x19mm Parabellum, cuối cùng là dao quắm quân dụng. Anh ước gì mình có thể mang nhiều hơn số đạn đó, nhưng số lượng tỉ lệ thuận với khối lượng, mà khối lượng thì tỉ lệ nghịch với độ cơ động. Mang vác quá nhiều sẽ khiến cho tốc độ bị giảm, thể lực cũng sẽ giảm nhanh hơn, và nhất là sẽ gây ra vướng víu khi di chuyển. Anh cũng chọn các khẩu súng có độ cơ động cao, dùng cả băng đạn polymer để giảm khối lượng. Anh lục lọi trong một hộc tủ, lấy ra một chiếc hộp dụng cụ ra và bắt đầu vệ sinh những khẩu súng. Anh cũng dốc đạn ra khỏi những băng đạn và chùi rửa cẩn thận. Lúc đó anh bắt đầu tán thưởng mặt còn lại của cái tính lo xa được hình thành trong bộ gene của anh ngay từ khi anh mới ra đời. Mặt còn lại của tất cả những gì đã tạo nên con người anh, Sam Harrington. Tại sao ? Tao không biết. Anh cười khúc khích sau khi để vụt hai câu nói đó khỏi cuống họng. Mày là một thằng điên. Tao biết. Tự nguyền rủa và cũng tự tán dương bản thân. Ánh sáng phản chiếu từ vỏ kim loại màu vàng óng của những viên đạn được chùi rửa tỉ mỉ hiện lên trong mắt Sam, mê hoặc anh trong giây lát. Giữa gian phòng lạnh lẽo, chỉ có một nhiệt lượng nhỏ bé tỏa ra từ ánh sáng ấy. Nhỏ bé nhưng đủ để Sam cảm thấy ấm áp một cách kỳ lạ. Anh lắp đạn lại vào trong băng, đặt sẵn vào các túi chứa đạn của bộ quân phục mà ngày mai anh sẽ khoác lên người. Trở về phòng, anh chậm rãi thả người xuống chiếc giường êm ái. Thở dài một hơi, anh với tay tới chiếc hộp nhạc đặt cạnh tủ đầu giường để đặt vào đó chiếc đĩa nhạc hòa tấu. Chiếc Wurlitzer 950, loại hộp nhạc cổ điển với cái giá cực kỳ đắt. Thứ anh cuỗm được từ một quán rượu dành cho dân đại gia tọa lạc ở trung tâm thành phố, tất nhiên là cùng với vài thùng rượu loại hảo hạng. Tiếng nhạc du dương vang lên giữa không gian mập mờ trong ánh đèn ngủ, kéo sụp mi mắt của anh xuống hai nhãn cầu đã mỏi mệt. Hôm nay anh ngủ sớm hơn mọi khi, tất nhiên chẳng phải vì sự mệt mỏi đã thấm vào từng đường gân thớ thịt. Và anh cũng sẽ thức dậy sớm hơn thường lệ. Rất sớm. Thay vì 7 giờ sáng như mọi khi thì kim chỉ báo thức trên đồng hồ để bàn đã được chỉnh ngay con số 3. Sẽ chỉ mất chưa đầy nửa tiếng để anh chuẩn bị cả thảy hành trang lẫn tinh thần. Thời gian còn lại cho đến lúc chúng trốn đi mất dạng, hay nói dễ hiểu hơn là đến lúc Mặt Trời mọc, là khoảng chừng hai tiếng đồng hồ. Thời điểm cực kỳ hoàn hảo cho kế hoạch của anh. Chiếc đồng hồ đã có thâm niên này thường được ông già dùng, và tiếng chuông của nó lớn tới mức anh có thể nghe thấy nó mỗi sáng mặc dù nằm cách ông ấy tới một phòng. Nó có tác dụng còn mạnh hơn cả loại cà phê mạnh nhất trong việc giữ cho người ta tỉnh táo. Anh sẽ cần sự tỉnh táo đó. [/spoil]
Med chưa đọc phần 2 nhưng nó có vẻ như là side thôi nên cmt trc phần 3 vậy Cái đoạn này quá trúc trắc. Dấu chấm nhiều khi thứa mức ko cần thiết. Cậu cũng nên đọc lại toàn bộ để sửa nhưng câu cho có chủ vị đầy đủ, thêm bớt từ thừa hay thiếu. Đừng lo quá, med cũng thường bị như thế này. Mình nghĩ câu văn hay nhưng đôi khí nó hơi quái ------------------------------------------------------------- Nội dung phần này ko có gì đáng kể. Sao med phải nói như vậy ? Ừ thì nhật kí ghi lại mọi chuyện cuộc sống mà, nhưng ko hiểu sao med thấy càng ngày nó càng bình dị một cách ngạc nhiên. Quanh đi quẩn lại chỉ có bấy nhiêu đó thôi. Med nghĩ nó cần 1 sự kiện khuấy động. Có thể là một con boss cực khủng chăng
Thực ra trước đây lối viết của mình là tống nhiều câu vào làm một, chỉ ngăn cách bằng dấu phẩy, trừ những phần phụ chú. Nhưng mà dạo này hơi lậm những truyện có phong cách viết kiểu chấm liên hồi (như là Những ngôi sao xa xôi, SGK lớp 9 tập 2 ) nên nó ám vào văn phong. Thôi thì tránh lạm dụng vậy Boss thì chưa đến đâu, nhưng "một sự kiện khuấy động" thì mình đã dành cho chap 6 rồi Chap 7 sẽ là phần flashback cuối cùng để chấm dứt Act I. Thanks med đã comment
Vẫn đang đọc, nhưng vì không thể nhịn nỗi nên comt trước cho cậu vài dòng. Truyện của cậu cuốn hút tớ không phải vì tình tiết, cũng chẳng phải cốt truyện mà là ở cách hành văn chuyên nghiệp. Lời viết mạnh lạc, chậm rãi như muốn dẫn dắt người đọc và khiến họ thấm nhuần từng câu từng chữ. Tớ không dám đọc lướt nên sẽ để dành đọc trên điện thoại trước khi đi ngủ. Sau khi đọc đến chương mới nhất sẽ vào cmt tiếp.
tui k thấy truyện này có gì lôi cuốn ngay từ đoạn lão hàng xóm bị lây nhiễm k 1 chút gì tiếc muối giống như nhìn những người mình không quen biết ra đi vậy ý kiến của 1 người mua sách không có tí kiến thức văn học nào đấy ủa??? mà định bẻ sang thể loại hành động hay sao mà thêm boss vào tui nghĩ vị tác giả đại tài của tui nổi máu lười nên chắc k có atc 2 đâu nhỉ ---------- Post added at 14:49 ---------- Previous post was at 14:21 ---------- nhưng tui sẽ đọc hết vì tui thấy tên này khá giống tui
Về điểm này thì mình công nhận, đó là một hạt sạn khá lớn. Mình sẽ cố gắng khắc phục ở những chap về sau :) Thể loại ban đầu đã là "Hành động" rồi mà bạn. Thực chất thêm boss hay không cũng chẳng liên quan gì đến thể loại cả, mà chỉ đơn giản là vẽ lên một mảng màu khác cho bức tranh thôi. Tôi đầu tư rất nhiều tâm huyết vào bộ truyện này, và tôi muốn đảm bảo chất lượng của mỗi một chương tôi viết. Để làm được điều đó với trình độ viết chưa được thành thạo lắm của tôi thì đòi hỏi rất nhiều thời gian, mong bạn thông cảm nếu như các chương sau bị delay quá lâu :)
Chương VI. Dust and Ash. Khói bụi và tro tàn. Phần 1. [spoil] Chiếc đồng hồ đặt dưới đèn ngủ chợt reo lên khi kim giờ chỉ đúng vào con số “3”, truyền vào hai bên tai Sam những âm thanh khiến anh lập tức lao vút ra khỏi giấc ngủ. Mi mắt anh mở căng ra rồi lại khép chặt, che giấu lấy con ngươi bên trong đang chuyển động không ngừng như một phương pháp để loại bỏ cảm giác ngái ngủ khỏi cặp mắt đã nhắm lại suốt bảy tiếng đồng hồ. Được khoảng vài giây thì anh chớp mắt liên tục, rồi anh vươn vai và chậm rãi rời khỏi chỗ nằm. Bước đi giữa hành lang tối, chỉ có duy nhất một ánh đèn mờ ảo dẫn lối cho anh đến phòng tắm. Dòng nước nóng phun ra từ vòi sen tưới lên đầu tóc và cơ thể cứng cáp của gã đàn ông mang ánh mắt sâu xa của một người từng trải, rửa trôi lớp bọt xà phòng trắng bám trên lớp da ngăm thô ráp và cả những nỗi lo âu phiền muộn vốn đã kết thành một khối nặng trĩu trong tâm trí gã, thay vào đó là cảm giác đê mê khó tả lấp kín lấy từng tế bào một. Anh đã không tận hưởng cái thú của những hoạt động sinh hoạt hết sức bình thường này từ rất lâu rồi, đến nỗi giờ đây anh hoàn toàn tỏ ra lạ lẫm khi trong phút chốc nhận ra sự hiện diện của những cảm giác mà bấy lâu nay anh đã quên đi mất. Tuýp người phổ biến của thời đại trước có lẽ sẽ chỉ thấy sự nhàm chán ở lối sống giản đơn này, nhưng giờ đây thì cái khái niệm về một cuộc sống bình dị đã trở thành thứ báu vật xa xỉ đối với bất cứ kẻ nào đang đấu tranh với cả thế giới để tồn tại từng ngày. Có thể hôm nay sẽ là ngày chết của anh. Đúng ra thì mọi giây mọi phút đều có thể là thời điểm mà anh chết, nhưng trong hôm nay thì tỉ lệ đó tăng cao hơn mọi khi. Cũng như thuyết bảo toàn năng lượng trong Vật lý, cuộc sống cũng có một chân lý tương tự : “muốn có được thứ này, phải chấp nhận mất thứ kia” luôn luôn đúng. Một chiếc máy sẽ không khởi động nếu ta không gạt công tắc. Kế hoạch sẽ không thành công nếu nó không được thực hiện, nhưng để thực hiện được nó, anh buộc phải mạo hiểm tính mạng. Anh chầm chậm đưa tay vặn khóa nước rồi đứng sững một hồi để những giọt nước còn sót lại trên người mình nhỏ xuống. Cũng thật chầm chậm, anh với tay lấy chiếc khăn tắm màu vàng và lau khô toàn thân. Ngay trước lúc anh sắp bước khỏi phòng tắm, bỗng có một thứ níu anh lại. Tấm gương mà từ nãy đến giờ bị hơi nóng làm nhòe đã bắt đầu hiện rõ trở lại. Trên đó, khuôn mặt của một người đàn ông hiện ra. Người này đã sẵn sàng đón nhận cái chết – anh nghĩ. Tắm rửa, thay quân phục, kiểm tra trang bị. Hai mươi phút là khoảng thời gian anh bỏ ra để kết thúc chuỗi công việc ấy. Còn năm phút cho anh hoàn thành nốt hai việc cuối cùng : nhấm nháp miếng bánh waffle và nốc sạch tách cà phê. Những khẩu súng đều đã được lên đạn, và tinh thần của anh cũng đã sẵn sàng. Anh đứng dậy khỏi ghế sôfa ngoài phòng khách khi những giọt cà phê cuối cùng trôi qua cổ họng, khoác theo cả một chiếc balô cỡ bự lên lưng. Trong tay anh lúc này đã cầm chắc một vật mà chừng nửa phút trước anh vừa lấy ra khỏi chiếc balô đó, một thiết bị kích nổ từ xa. Thiết bị kích nổ dùng cho số mìn mà anh chôn xung quanh nhà. Anh đứng ngó qua khe cửa, ngắm nhìn những hình dạng biến dị đang điên cuồng gào thét. Anh bỏ ra mười giây chẵn nhìn quanh để điểm mặt bọn chúng. Anh muốn biết chính xác có bao nhiêu tên đang ở đây, và có bao nhiêu tên sẽ nổ tung cùng số mìn anh đã chôn sẵn khi anh nhấn công tắc một chiều trên bộ điều khiển. Bốn mươi hai tên cả thảy. Bước ra vào lúc này sẽ là một nước đi không khôn ngoan, vì trong tay chúng đều có hàng đống gạch đá, không kể vô số những viên đá và mảnh vỡ đã phủ đầy lên thảm cỏ vàng úa sau khi thất bại trong việc đánh thủng qua bức tường vững chắc đang bảo vệ ngôi nhà. Anh sẽ ngay lập tức trở thành cục nam châm hút số gạch đó nếu anh phơi mình ra lúc này. Anh cầm sẵn súng ở tay phải và tay trái thì cầm chặt bộ điều khiển. Khi tiếng nổ vang lên, anh sẽ tận dụng yếu tố bất ngờ để bắn hạ những kẻ may mắn không bị vụ nổ nuốt chửng. Hít vào một hơi thật sâu như một cách để chuẩn bị tinh thần, anh gào lên thật to : “CHẾT ĐI !!!!” Tay anh siết mạnh lại, và anh nghe thấy tiếng công tắc được bấm. Ngay sau đó là những tiếng nổ vang lên liên hồi. Anh đã không lường trước là tiếng nổ lại lớn đến vậy, cùng với sức ép khủng khiếp tống vào cửa khiến anh như muốn bị thổi bay cùng cánh cửa ngoài lỏng lẻo. Nhanh chóng lấy lại thăng bằng, anh lao ra khỏi cửa. Mặt đường đã bị phá hủy hoàn toàn, tạo thành những cái lỗ to tướng. Khói và lửa bùng cháy trên những cái xác không còn nguyên vẹn của lũ Reaper. Máu đỏ sậm cùng số chất nhầy màu xanh lục khổng lồ bắn tung tóe và bám dính lên mọi nơi, cùng với những bộ phận cơ thể lẫn nội tạng văng lên cao và rớt xuống mặt đường như một cơn mưa thịt đỏ thẫm, cùng với đất đá và bụi khói mịt mù phụ họa, vẽ nên một bức tranh với đầy đủ những màu sắc cơ bản nhất để mô tả khung cảnh chết chóc, kéo theo đó là tiếng tru gào điên cuồng vang lên đồng loạt từ cổ họng những kẻ biến dị như bản nhạc đệm đi đôi một cách không thể hoàn hảo hơn với bức tranh về cái chết ấy. Tiếng súng vang lên ngay từ khoảnh khắc anh nhìn thấy tên đầu tiên. Hai đầu đạn Hollow Point 5.54x39mm rút ngắn khoảng cách mười lăm mét trong khoảng thời gian ngắn hơn cái chớp mắt gấp nhiều lần, đập lên cơ thể của con Reaper xấu số. Viên đạn thứ nhất, bằng lực đập mạnh mẽ, đã phá vỡ lớp da thịt bên ngoài và chạy sâu vào trong, xuyên qua những thanh xương sườn sau khi đã làm chúng gãy nát. Cấu trúc của viên đạn khiến đầu đạn nở ra như một bông hoa khi di chuyển bên trong cơ thể con Reaper, ra sức phá hoại những lớp mô, và chỉ khi đã biến quả tim của con quái thành mớ thịt vụn thì đầu đạn mới dừng lại trong lồng ngực đã bị bắn thủng ấy. Viên đạn còn lại cũng tương tự, nghiền nát những mạch máu, động mạch và cả xương cổ bằng xung lực cực mạnh, rồi cuối cùng xuyên qua cổ họng con quái và để lại một cái lỗ to tướng rỉ máu. Phần hàm rớt xuống khỏi khuôn mặt vốn đã chẳng còn bình thường của nó trước tác động của phát đạn ở cổ. Kết quả tất yếu là nó ngã chổng vó ra sau và nằm co giật như người lên cơn động kinh trong khi máu cứ đổ ra không ngừng từ thân thể tàn tạ không còn khả năng phục hồi. Hai tên khác sau khi phát giác tiếng súng đã lập tức quay về phía anh. Một tên trong số chúng gào lên như thể đang báo hiệu cho đồng loại, còn tên kia thì lấy đà rồi lao thẳng đến nơi anh đứng không chút chần chừ. Anh đưa đầu của gã vào tâm ngắm và bóp cò. Phát súng làm vỡ tung hộp sọ khiến hắn ngã ngửa theo quán tính, nằm bẹp xuống cùng những mảnh óc lẫn với máu đang tuôn ra từ phần đầu chỉ còn mỗi hàm dưới. Không để cho anh có một giây suy nghĩ, những tên khác lao đến từ phía ngã tư ngay sau khi viên đạn thứ ba được bắn ra. Năm tên cả thảy, hùng hổ và điên dại. Sam thì vẫn thế, không chút chần chừ, anh co ngón trỏ lại và giữ chặt tay. Sức giật kinh hồn của AK dường như là để đánh đổi lấy khả năng sát thương của nó vậy, mặc dù phiên bản AK74M đã cải thiện được đáng kể khuyết điểm này. Anh có thể cảm thấy khẩu súng như muốn nảy lên và trượt hẳn khỏi tay anh, và cả cảm giác đau nhức ở bờ vai, nơi báng súng tựa vào. Anh cố kìm chặt khẩu súng và giữ từng đường đạn chuẩn xác đến mức khó tin. Bảy tiếng súng vang lên nối đuôi nhau đã tiêu diệt hai tên và vô hiệu hóa khả năng di chuyển của ba tên còn lại với những phát đạn nhằm vào hạ bộ, khiến chúng chỉ còn có thể lết đi với bộ dạng thảm hại. Anh vẫn giữ nguyên vị trí và đón lõng những tên Reaper khác - lũ Reaper không bị những vụ nổ làm ảnh hưởng. Những quả mìn đã làm rất tốt công việc của chúng, triệt tiêu đến gần ba phần tư số lượng kẻ địch ở khu vực quanh nhà anh, nhưng chúng vẫn còn rất đông để anh có thể an tâm rời khỏi chỗ đứng. Gần một chục tên nối đuôi nhau chạy đến từ phía cuối đường phía bên trái, và một số khác đến từ ngã tư bên phải. Mẹ kiếp ! Anh phun ra tiếng chửi thề với vẻ mặt cau lại. Trong vòng vài giây, anh bắn hạ số Reaper phía ngã tư, sau đó cho tay vào túi để lấy ra một quả lựu đạn M67 và hướng sang đám còn lại đang tiến đến ngày một gần. Không đợi lâu hơn, anh rút chốt và thảy nó lên vỉa hè, nơi mà chỉ còn vài bước nữa là đám Reaper đó sẽ bước tới. Ngay khi quả lựu đạn rơi xuống, anh rút ngay khẩu shotgun từ sau lưng ra như một phương án dự phòng cho trường hợp quả lựu đạn không vô hiệu hóa được tất cả bọn chúng. Băng đạn gần cạn của khẩu AK sẽ không tỏ ra mấy hữu dụng nếu điều đó xảy ra, và anh cũng không còn thời gian thay đạn nữa. Nhưng có vẻ anh không cần phải bắn ra một viên đạn shotgun nào cả. Quả lựu đạn phát nổ ngay khi cả thảy mười tên bước vào vùng sát thương. Lực nổ thổi bay toàn bộ lũ quỷ đói, khiến chúng phân tán khắp mọi nơi. Gần một nửa trong số đó do đứng quá gần nên tay chân của chúng đều rời khỏi vị trí, để lại cho chúng phần thân và đầu ngọ nguậy trên vũng máu của chính chúng như những mớ thịt thối vô dụng. Lúc này đây anh mới đặt lại khẩu shotgun lên lưng và bước xuống khỏi bậc tam cấp. Từng bước chậm rãi, anh tiến đến ban tặng phát đạn kết liễu bằng khẩu súng lục P99 cho những kẻ đang bò trườn trên mặt đất trong vô vọng, và cả những kẻ chưa kịp lấy lại thăng bằng sau khi bị hất tung lên bởi sức mạnh của quả lựu đạn. Anh thực hiện cuộc xử tử không chút chậm trễ, và siết cò ngay khi tâm ngắm màu đỏ của thiết bị trợ nhắm Trijicon RMR trên khẩu P99 chạm tới mục tiêu. Không có gì ngăn cản được anh, và ngón trỏ của anh. Anh tránh không nhìn vào khuôn mặt chúng hay lắng nghe bất kỳ âm thanh nào được phát ra từ thanh quản của chúng để loại bỏ triệt để những giọt thương cảm còn sót lại trong một biển tàn nhẫn. Giá trị lẫn ý nghĩa của những phạm trù đạo đức đã bị chôn vùi dưới lớp đất đá sau khi xã hội sụp đổ rồi. Anh lặp lại nhiều lần suy nghĩ đó trong đầu như động tác đóng đinh. Mỗi lần cái khẩu hiệu đó vang lên là mỗi lần một nhát búa được giáng xuống, đẩy cây đinh của tư tưởng vào sâu hơn trên cái cột của tâm trí. Theo cùng một nhịp điệu với tín hiệu được bộ não gửi liên tục xuống ngón tay đang đặt trong khung cò của khẩu súng. Những suy nghĩ thương cảm cho một lũ không còn là người nữa chỉ có thể dùng hai từ “dư thừa” và “ngu ngốc” để diễn tả - anh cố gắng thuyết phục mình tin vào nhận định này. Anh đã sống một cách bình yên đằng sau lớp tường bảo vệ của ngôi nhà và dưới ánh áng chói chang của Mặt Trời đủ lâu để quên bẵng đi điều quan trọng nhất trong số những quy tắc sống còn : không bao giờ được mềm lòng. Trong phút chốc anh chợt nhận ra, rằng mình cứ như một chiến binh đã gác kiếm, và rồi khi hắn quay trở lại, hắn quên mất cả cách cầm kiếm. Giờ là lúc thích hợp nhất để người chiến binh đó lấy lại sức mạnh mà suốt những năm tháng vô thức hắn đã trót để mất vào tay thời gian. Anh cứ bước đi, dừng lại và bắn. Bất kỳ chuyển động nào cũng không thể thoát khỏi cặp mắt của anh, và nòng súng đã sẵn sàng nhả ra những viên đạn lạnh lùng. Anh bắn vừa đủ số đạn trong băng để đưa tất cả những kẻ hiện diện ở đó vào trạng thái bất động hoàn toàn. Đường Baring giờ đây trở nên tĩnh lặng hơn bao giờ hết, ít nhất là không gian yên tĩnh của buổi tối cuối cùng cũng được hoàn trả lại cho con đường này sau một thời gian dài chìm đắm trong giai điệu không dứt của mưa gạch đá và cả những tiếng gào thét tra tấn màng nhĩ. Chỉ còn lại tiếng lửa cháy hừng hực và tiếng thở hồng hộc của một gã đàn ông. Nhưng đó là chuyện của vài giây trước khi từ phía xa, vọng lại một tổ hợp âm của hàng ngàn, hàng vạn tiếng tru gào. Lũ Reaper đã nghe thấy âm thanh của trận chiến. Điều này đồng nghĩa với việc toàn bộ số Reaper trong vòng bán kính ít nhất là một cây số rưỡi sẽ kéo đến đây trong khoảng chừng nửa tiếng nữa thôi. Điều cần làm bây giờ là bịt kín mọi lối vào để căn nhà không bị xâm phạm trong thời gian anh rời khỏi đây. Những ánh đèn UV vẫn còn hoạt động tốt kể cả khi bị vùi dập bởi xung lực từ những quả mìn phát nổ, nhờ vào hai lớp kính bảo vệ bóng đèn : một lớp chống đạn, một lớp chống xung lực như kính bảo vệ của loại xe Humvee quân dụng hiện đại – chúng không thể xâm phạm vào vùng chiếu sáng của những ánh đèn UV, điều mà anh cho là có liên hệ tới việc chúng trốn tọt vào trong nhà mỗi khi Mặt Trời ló dạng. Nhưng dù vậy, cẩn thận vẫn tốt hơn. Anh vội vã kéo cánh cửa thép và cài những chốt khóa ngoài trước khi đóng luôn cánh cửa gỗ. Những chốt khóa mà rất ít khi anh động tới, vì thường thì chẳng có lí do gì để anh phải dùng chúng cả. Xong. Anh phủi tay. Chúng sẽ không thể đặt một bước chân vào pháo đài đáng tự hào này, anh quả quyết vậy. Từ phía xa, anh đã bắt đầu nghe thấy tiếng vọng lại của những đợt gào thét có quy mô của lũ Reaper đang kéo đến rầm rộ từ mọi nẻo đường. Chỉ còn chừng nửa giờ nữa, chúng sẽ lại tụ tập ở đây. Nhưng số lượng sẽ không còn là hàng chục nữa, mà là hàng trăm hàng nghìn. Chỉ một cuộc giao tranh nhỏ cũng đã đủ để phát ra lượng âm thanh có thể thu hút ngần ấy tên trong số chúng tới. Anh rút ra điều này khi chứng kiến sự suy vong của doanh trại Iron Rhino – một trong những doanh trại quân đội bám trụ lâu nhất trên đất Pennsylvania, một đám binh sĩ đã bất cẩn gây ra một vụ nổ dù không lớn mấy, và chưa đầy một giờ đồng hồ thì họ đã phải đối mặt với một số lượng đông đảo những kẻ bị nhiễm. Đông tới mức hàng chục khẩu súng trường, súng máy 50 li, và cả súng phóng lựu tự động Mk 19 khai hỏa cùng lúc, cũng đã không thể đẩy lùi được bước tiến của quân đoàn ấy. Khi ấy anh chỉ biết im lặng theo dõi bằng ống nhòm trên tầng thượng một tòa nhà cho đến khi người cuối cùng ngã xuống và trở thành bữa tối của lũ thây ma đói ăn. Có lẽ nên nói thêm là lúc họ chỉ còn mười người thì mọi hy vọng đều tiêu biến như bụi cát bị gió thổi tung đi, họ lặng lẽ đặt súng lên đầu và tự sát để có một cái chết bớt đau đớn hơn là bị gặm nhấm đến từng khúc xương. Giờ thì anh phải rời khỏi đây ngay trước khi số phận anh đi cùng một hướng với những người lính quá cố đó. Cách tốt nhất là đợi đến khi Mặt Trời mọc. Vào đúng giây phút tia nắng đầu tiên chạm đến nơi đây, chúng sẽ lại trở về cái vương quốc trong bóng tối vốn được dựng nên từ những gì còn lại của thành phố này. Đó chính là bước cuối cùng của kế hoạch mà anh vạch ra. …. Ba giờ rưỡi sáng. Đại lộ Lancaster trở nên ồn ào hơn mọi khi. Chiếc BMW của Sam đang lăn bánh với vận tốc ngày càng gia tăng. Từ hai bên lề, lũ Reaper kéo ra như đám đông chơi hội từ những tòa nhà lớn nhỏ san sát nhau, ra sức đuổi theo chiếc xe với lớp vỏ đen chìm hẳn vào bóng tối của thành phố Philadelphia không còn ánh điện, bất chấp sự thật rằng chúng không bao giờ có thể bắt kịp với tốc độ bôn mươi dặm một giờ đó. Mui xe của anh đâm vào những kẻ ngu ngốc lao mình ra đón lõng và cả những kẻ lang thang không hề chú ý đến sự hiện diện của anh. Một số bị bánh xe cuốn vào và một cách hiển nhiên, chúng chỉ còn có thể nằm đó và đếm những mili giây cuối đời trước khi bánh xe rít cháy lăn qua người, giày xéo cơ thể chúng bằng khối lượng hàng tấn và chỉ còn để lại những cái xác không nguyên vẹn nằm bất động nơi mặt đường nứt nẻ. Người chủ trước của chiếc xe này là một tay độ xe hơi thứ thiệt. Edward Rooney, 37 tuổi, từ những gì anh đọc được từ chứng minh thư của hắn trước khi giải thoát cho hắn khỏi kiếp làm quái vật trong một lần ghé qua cửa hiệu của hắn. Tiện tay anh lấy luôn chiếc xe về : coi như tiền công, anh nghĩ. Một lớp giáp làm từ sợi carbon bao bọc bên ngoài, bánh xe siêu bền, kính chống đạn, đèn pha cường độ chiếu sáng lớn đã được cải tiến để phát ra cả tia UV. Động cơ êm ru không hề phát ra tiếng động lớn ngay cả khi tốc độ đã tăng cao. Phương tiện đi lại hoàn hảo nhất mà anh có thể mong đợi. Anh dừng xe lại ở một địa điểm cách đích đến khoảng chừng một cây số, vì phần đường phía trước đã bị chặn bởi vô số những chiếc xe bỏ trống. Chúng vẫn ở đó, cùng một vị trí so với cách đây mấy tháng. Trước khi bước ra khỏi xe, anh ra soát khu vực xung quanh để chắc chắn rằng không có mối nguy nào đang ẩn nấp trong những hàng xe kia, và cả những cái đuôi dai dẳng mà có lẽ vẫn đang cố đuổi theo từ nãy giờ. Tạm thời xung quanh đây không có bóng dáng của chúng. Tốt. Nhưng không lâu nữa những kẻ bám đuôi sẽ đuổi đến nơi, nên anh cần rời khỏi đây ngay khi còn có thể. Ở môi trường vô âm thì bất kỳ âm thanh nào khi vang lên độc lập cũng sẽ đều lớn hơn bình thường, hay ít nhất là do lỗ tai con người cảm nhận được thế. Thính giác của Reaper cũng tương tự, và thính hơn tai người thường rất nhiều. Một phát súng AK thôi cũng đủ để kéo đến một bầy Reaper với số lượng đạt tới mức độ có thể làm anh khốn đốn. Anh có thể dùng dao quắm để giải quyết vấn đề, nhưng đó là khi một chọi một, còn hai tên trở lên thì lại là một câu chuyện khác. Khi đó, chỉ có súng mới cứu được anh. Tất nhiên không phải súng lục. Dù là đạn Hollow Point với cỡ đạn 9x19mm, anh vẫn phải mất tới bốn phát vào người mới có thể hạ được chúng. Còn vào đầu thì miễn không phải súng nhựa hay súng hơi, bất kỳ loại đạn nào cũng có thể vô hiệu hóa chúng chỉ bằng một phát bắn trúng đích. Hoặc là hai phát với những kẻ ngay cả khi không còn là người, chúng vẫn còn giữ nguyên cái bản chất cứng đầu. Nhưng trừ phi anh sỡ hữu tài bắn súng của Lucky Luke, có thể đảm bảo mười phần là mỗi phát đạn đều sẽ du hành qua hộp sọ của kẻ địch, thì anh mới có thể ung dung cầm súng lục ra mà đối chọi với nhiều tên cùng lúc. Bằng không thì sợ là anh chỉ có thể bắn hạ được một tên trước khi những tên khác lao lên và tặng anh một nhát chém chí mạng. Dù vậy nhưng trong trường hợp quân số kẻ địch không quá đông và anh nắm được thế chủ động thì những khẩu súng ngắn này vẫn có thể làm nên chuyện. Súng ống vẫn luôn tốt hơn vũ khí lạnh. Một khẩu súng ngắn được gắn giảm thanh chính là lựa chọn sáng suốt nhất cho lúc này. Không muốn kéo dài thời gian nữa, anh thò tay vào chiếc túi được đặt sẵn trên ghế bên cạnh và lấy ra hai băng đạn 9mm cùng một nòng giảm thanh. Tiếng lách cách vang lên khi anh xoay cố định nòng giảm thanh lên khẩu P99, anh siết chặt và vặn cái vật hình trụ dài đó đến khi không vặn được nữa thì thả tay ra. Di chuyển thật mau lẹ nhưng cũng phải thật im lặng, và bằng mọi giá tránh những cuộc đụng độ không cần thiết. Tuyệt đối không gây chú ý hoặc là nổ súng, ngay cả P99 đã được lắp giảm thanh, trừ trường hợp bắt buộc. Như đã nói, một khẩu súng lục 9mm dù là đã được lắp đặt giảm thanh cũng sẽ phát ra một âm thanh không hề nhỏ trong môi trường vô âm, đủ để tai người nghe thấy trong vòng mười mét, và đối với Reaper, khoảng cách đó lớn hơn nhiều. Một sơ hở, một sai lầm nhỏ cũng sẽ phải trả giá bằng cái chết – chân lý này bao giờ cũng đúng đối với những kẻ tham gia vào canh bạc đòi hỏi con người phải đặt cược tính mạng của họ vào đó. Anh dán chặt những lời nhắc nhở đó vào đầu và chậm rãi mở cửa xe, không quên khoác lên vai chiếc túi xách mà khi nãy anh lấy đạn và nòng giảm thanh ra khỏi đó. Gọi là túi xách, nhưng balô cỡ lớn thì đúng hơn. Tám khối C4 gắn cùng các bảng mạch điện tử vừa có thể hẹn giờ nổ, vừa có thể được kích nổ bằng công tắc. Tất cả đều liên kết với chiếc công tắc một chiều mà anh mang theo. Khi mặt trời mất dạng, lũ quái ấy sẽ tràn ra đường như ong vỡ tổ. Tất nhiên những tòa nhà – nơi mà chúng trú ẩn vào ban ngày – sẽ trở nên vắng vẻ hơn. Nếu muốn phá hủy những tòa nhà đó, đây là thời điểm thích hợp nhất. Anh có thể bấm kíp nổ bất cứ lúc nào nhưng quan trọng là có thể thâm nhập vào những tòa nhà và đặt những khối C4 vào vị trí mới là vấn đề cần phải giải quyết. Lũ Reaper khi tràn ra đường sẽ tản mát theo mọi hướng, và tỉ lệ chạm mặt chúng dù vẫn cao nhưng ít ra nó không đạt đến mức một Reaper trên một mét vuông. Ra đường vào ban đêm không hề nguy hiểm hơn việc chui vào một xó tối tăm nào đó vào ban ngày, mà phải nói là an toàn hơn gấp nhiều lần. Chỉ cần anh có được một mức độ cẩn trọng nhất định và kỹ năng cần thiết để tiêu diệt chúng. Điều đó giảm thiểu đến 1000 lần tỉ lệ tử vong của anh so với việc vác mặt vào một tòa nhà nào đó và khám phá ra số lượng Reaper cao đến mức đòi hỏi phải có hỏa lực của cả một tiểu đoàn thủy quân lục chiến để đối chọi với tỉ lệ chiến thắng nằm vỏn vẹn ở ngưỡng 5/10. Một phép so sánh dễ hiểu, những tòa nhà cao tầng vào ban ngày có tính chất như một cỗ máy nghiền khổng lồ hoạt động không ngừng nghỉ, mà bộ phận dùng để nghiền chính là hàng ngàn con Reaper khát máu đói thịt. Đặt số bom này vào những điểm trọng yếu bên trong tòa nhà, quay trở về, đợi đến khi trời sáng và bọn chúng trở về nơi nương náu. Khi đó, việc cuối cùng anh cần làm là bấm công tắc. Nhưng trước tiên, anh phải vác đống đồ đạc nặng gần chục kí lô này đến đích an toàn. Khu liên hợp chọc trời Liberty Place, gồm hai trong số những tòa nhà cao nhất Phildelphia, chỉ sau Comcast Center. Vài tiếng nữa, 7 giờ sáng ngày 30/12/2012, nơi này sẽ trở về cát bụi.[/spoil]
Truyện vẫn đầy những xúc cảm nặng nề và mãnh liệt như mọi khi, mỗi chương trôi qua như là một trang viết thấm đẫm các thời điểm căng thẳng đếm từng giây đang sống trôi qua, cùng những miêu tả nội tâm gần như là đẩy một người đến giới hạn của sự chịu đựng. Về vật chất, có vẻ như Sam không thiếu thốn bất cứ thứ gì, anh hiện giờ là chủ nhân đồng sở hữu cả khoanh đất rộng lớn của thành phố Philadelphia cùng với lũ Reaper kia. Nhưng về tinh thần, anh là người thiếu thốn các mối quan hệ trong hiện tại nhất quả đất. Cũng chẳng sao vì không chắc còn có ai đang sống ngoài kia để giành giật danh hiệu đó với anh. Như Sam đã tự nhủ, suy nghĩ về những thứ đó cũng chẳng để làm gì. Câu truyện một lúc lại một nặng nề, với các kiến thức về súng và đạn đạo cũng ngày càng dồn dập hơn, mình mong trong tương lai sẽ có những khoảng nhỏ bình yên để lại cho cả nhân vật và người đọc.
Cám ơn bác Axetylen Bác vẫn luôn là người mang lại nguồn động lực lớn nhất để em tiếp tục viết. Xin nhắc lại lần nữa là em luôn ghi nhận và trân trọng những lời góp ý của các bác Thường thì mình viết theo khá nhiều phương thức. Những đoạn diễn tiến nhẹ nhàng, chậm rãi, nói về các hoạt động thông thường như các chap đầu thì giọng văn mình chủ yếu tập trung vào tâm lý của Sam, mang tính sâu sắc. Nhưng khi vào trường đoạn hành động, mình sẽ viết theo lối dồn dập và luôn kèm theo các lời giải thích cho từng chi tiết (điều này là do mình bị nhiễm phong cách của manga Toriko và cả Khối lập phương :P), có thể sẽ máy móc một chút, và các bạn sẽ thường xuyên nhìn thấy các những thuật ngữ, ví dụ, và trên hết là những con số từ mét tới giây, cũng vì mình muốn bộ truyện vừa mang cả phong cách tâm lý lẫn khoa học. Mình nói sẵn ở đây để mọi người có bị rối vì phong cách viết thay đổi xoành xoạch của truyện thì vẫn nhận biết được mục đích của tác giả, tại sao lại liên tục thay đổi văn phong...
Chương VI. Dust and Ash. Khói bụi và tro tàn. Phần 2. [spoil] Sam len lỏi qua từng dãy xe bỏ trống, cố gắng giấu mọi tung tích của bản thân. Từng bước chân của anh thật mau lẹ nhưng cũng rất cẩn trọng, không để phát ra tiếng động nào khác ngoài tiếng đế giày cạ nhẹ vào sỏi cát. Tư thế của anh lúc này trông thật kỳ cục, nhưng cũng chẳng quá phóng đại khi nói chính dáng đi này đã đưa anh vào điểm mù của toàn bộ sinh vật hiện hữu ở đó. Tận dụng tối đa tiềm lực của ngoại cảnh và bóng tối, anh giảm thiểu khả năng bị phát hiện bởi thị giác của lũ Reaper xuống mức thấp nhất. Anh cũng kiểm soát hơi thở của mình và loại bỏ toàn bộ những suy nghĩ lẫn cảm giác âu lo để gián tiếp điều chỉnh nhịp tim và huyết áp, giữ cho tinh thần minh mẫn, từ đó tránh cảm giác căng thẳng, không để quá trình trao đổi chất bị rối loạn. Số lượng mồ hôi cần phải được kiểm soát chặt chẽ để cơ thể không phát ra mùi, thậm chí đến hơi thở cũng thế. Reaper phát triển nhất là thính giác và khứu giác, hai giác quan được cho là còn tốt hơn cả thị giác trong việc rà soát môi trường xung quanh, và vì lẽ đó, mùi hương và tiếng động là hai thứ tối kị. Làm chủ sự trao đổi chất là chìa khóa đầu tiên, nhưng với một kẻ chẳng có mấy kiến thức về các môn Yoga và võ thuật dưỡng sinh như Sam thì biện pháp chủ động nhất là thông qua việc kiểm soát tâm lý bằng sự bình tĩnh. Không được dao động, không được có ý nghĩ tiêu cực, luôn giữ bình tĩnh và sự tự tin vừa đủ. Sam thừa sức để thực hiện việc đó. Anh đã sống suốt một năm trời trong địa ngục. Giờ đây, không một thứ gì có thể khiến anh sợ hãi cả. Anh càng cẩn trọng hơn khi đi sâu chừng hơn 100 mét vào con đường bị lấp kín bởi những chiếc xe đã dừng hoạt động từ rất lâu, bởi lẽ anh đã bắt đầu có cảm giác rằng có ít nhất một Reaper trong vùng bán kính 5 mét tính từ vị trí của anh. Một khoảng cách cực kỳ nguy hiểm. Thông thường, 10 mét đã là quá đủ để một Reaper phát hiện ra anh, không cần biết anh có che giấu sự hiện diện của mình kỹ thế nào chăng nữa. Trừ khi anh có phép tàng hình và có thể loại bỏ mọi mùi hương từ cơ thể mình, kể cả pheromone, thì may ra anh mới có thể đánh lừa được những sinh vật đã tráo đổi lí trí và tư duy để sỡ hữu những đặc tính của loài thú dữ. Nhưng trong trường hợp này thì lại khác : Sự cảnh giác của chúng đang ở mức lỏng lẻo nhất, có lẽ vì chúng đã không thể tìm được con mồi là một con người kể từ cái chết của cư dân cuối cùng của thành phố Phidelphia, tất nhiên là trừ Sam Harrington. Và cũng bởi vì chúng không hề biết tới sự hiện diện của anh ở nơi mà tưởng chừng như đã không còn bóng người này. Một con dã thú phải chờ quá lâu để có một con mồi thì tự nhiên nó sẽ mất đi sự hào hứng trong việc tìm kiếm con mồi mồi, và những giác quan vốn dĩ luôn hoạt động hết công suất để săn mồi và luôn được đặt trong chế độ “chủ động” sẽ dần dà chuyển sang “bị động”. Những thông tin cơ bản về sự hô hấp và tư thế đi đứng của chúng là đầu mối cơ bản. Cử động của mũi và cổ họng, cả âm thanh như tiếng ngáy nhẹ phát ra theo từng hơi thở, cho thấy sự tập trung khướu giác chỉ còn dành cho việc “hô hấp”. Cả dáng đi lừ đừ, cử động cổ hạn chế, và việc mi mắt đã trùm lên quá nửa nhãn cầu. Bằng kinh nghiệm và trực giác, Sam đi đến kết luận : khả năng phát hiện con mồi của lũ Reaper giờ đây ở dưới mức 1/5, nhưng điều đó không có nghĩa là anh có thể nới lỏng sự cẩn trọng. Tình thế của anh như một con chuột đi giữa một tổ rắn say ngủ, chỉ cần nó không mắc một sai lầm ngu ngốc nào khiến cho lũ rắn tỉnh dậy, nó sẽ toàn mạng mà thoát ra khỏi cái tổ chứa đầy thiên địch ấy. Có điều, con chuột này quá ranh mãnh để bị coi thường, và trong trường hợp xấu nhất, nó sẽ cắn trả lũ rắn. Tất nhiên, đó là “trong trường hợp xấu nhất”. Giờ thì “con chuột” Sam Harrington đã đi được hơn 200 mét, và hàng xe thì càng ngày càng dày đặc. Đây là một trong số những đường lớn dẫn tới các khu vực sơ tán nên số lượng phương tiện lưu thông đổ vào rất nhiều trong một thời gian ngắn, cộng với sự hỗn loạn tăng theo cấp số cộng, kết quả hiển nhiên là tình trạng ùn tắc mà chỉ có thể dùng New York ngày 11/9 như một sự so sánh tương đồng, thậm chí là hơn. Ngay cả phương tiện di chuyển đường bộ của quân đội, nếu không phải xe tăng có tải trọng lớn, có thể đè bẹp những chiếc xe này mà tự mở đường thì sợ là humvee hay thiết giáp cũng trở thành nạn nhân của sự ùn tắc. Anh đã từng thấy một số chiếc bị kẹt chết khiến người trong xe phải đập vỡ kính chắn gió chính diện để chui ra ngoài, hay là người của quân đội phải bỏ xe mà đi bộ. Càng vào sâu, cấu trúc của số xe này lại càng khép kín hơn, cho đến khi anh nhận thấy không thể tiếp tục di chuyển bằng đường chính nữa thì anh rẽ vào một con hẻm. Chiếc thang dẫn lên cầu thang thoát hiểm đã được tháo sẵn khi những người chủ quá cố của căn nhà hai tầng này tìm lối thoát giữa cơn hoạn nạn và nó vẫn giữ nguyên vị trí. Sam leo lên đó và men theo cầu thang để lên tầng thượng. Khu phố này có những dãy nhà được xây san sát nhau, chưa kể trước đây có một cơ số những dân thường tị nạn trên mái những căn nhà đã dựng nên hẳn một hệ thống cầu vượt thủ công để qua lại các mái nhà, có thể nói đây là con đường tốt nhất mà anh có thể trông đợi vào lúc này. Sự ứng biến của con người đã gián tiếp hợp thức hóa môi trường với hoàn cảnh, cũng như cái cách mà anh đã tái cấu trúc cuộc sống của mình để có thể tồn tại. Mạng lưới giao thông trên mái nhà này chỉ hữu dụng kể từ đoạn đường này trở đi do những đoạn trước đã bị phá hỏng gần hết, nếu không thì anh cũng chẳng phải len lỏi từng chút một vào con đường cái chật hẹp và đầy nguy hiểm phía dưới chỉ để đến được đây. Số lượng Reaper trên đây khá ít, do lần trước khi đến đây để khảo sát đường đi, anh đã tiện tay khóa các cánh cửa dẫn lên sân thượng ở các tòa nhà, đồng thời chặn một số lối đi mà lũ Reaper có thể dùng để leo lên, chẳng hạn như kéo đổ các máng xối, ống nước,... tuy nhiên, độ chắc chắn vẫn chỉ ở mức tương đối. Chúng vẫn có thể tìm những con đường mà anh không để ý đến, hay đơn giản là phá những cánh cửa bị chặn. Một căn lều dựng tạm bợ với giấy báo và đồ hộp vứt lung tung là thứ đầu tiên anh nhìn thấy khi leo lên tầng thượng của cửa tiệm tạp hóa này. Hai bộ xương khô nằm cạnh nhau bên trong căn lều, chồng chéo lên nhau. Cũng lần trước khi anh đến để khảo sát lối đi, cảnh tượng này đã lôi kéo anh vào việc tìm hiểu cái cách mà họ đã chết. Và rồi, anh đã có một trải nghiệm phi thường. Một nam một nữ - anh đoán vậy, thông qua trang phục của họ. Họ chết giữa giấc ngủ. Ôm lấy nhau và nói nhau nghe về những hy vọng hão huyền, về một kế hoạch vĩ đại : thoát khỏi đây, tìm đến một vùng đất khác và sống ở đó cho đến hết cuộc đời. Cho đến khi cô gái - bộ xương mặc váy với hộp sọ bị vỡ một phần – đột ngột bị biến đổi do đã nhiễm bệnh từ trước và tấn công chàng trai. Vết thương chí mạng không đủ để giết chết ngay chàng trai, và anh ta, một cách nhanh trí, vớ lấy chiếc búa gần đó và chấm dứt nỗi đau của người yêu. Sau đó thì chàng trai, người mà đã chấp nhận cái chết không thể tránh khỏi, vẫn nằm đó, ôm lấy cơ thể biến dạng của cô gái, và trút hơi thở cuối cùng. Anh không biết kết luận của anh có đúng với những gì đã diễn ra hay không, nhưng những gì anh nhìn thấy lúc đó đã lên tiếng tán đồng với kết luận của anh. Anh nhớ rất rõ, toàn bộ cảnh tượng đó hiện lên như một thước phim chiếu chậm đúng vào giây phút mà đôi mắt anh tiếp xúc với hình ảnh bộ hài cốt của đôi nam nữ ấy. Trời đột ngột tối, những cột khói bốc lên từ phía xa. Khung cảnh của một năm trước thình lình hiện lên xung quanh anh khiến anh nghĩ ngay đến việc anh đã bị đưa trở về quá khứ. Từng hình ảnh, âm thanh, cảm giác lạnh lẽo của bầu trời đêm,... tất cả đều chân thật đến nỗi suýt nữa anh chẳng còn phân biệt được đâu là thực tại. Giọng thều thào của cặp tình nhân nọ vang lên rõ từng tiếng bên tai anh. Làn da ngâm đen cùng mái tóc dài ngang hông của cô gái. Thân hình vạm vỡ và bộ râu lưa thưa của chàng trai. Bên cạnh họ, chiếc nến tỏa ra ánh sáng lung linh giữa màn đêm. Từ phía xa, thỉnh thoảng vọng lại những tiếng súng, tiếng nổ, nhưng họ vẫn nằm đó với dáng vẻ thật bình yên. Cho đến khi... Cô gái ho nhẹ, và bất chợt ộc ra cả lít máu. Tay cô ôm chặt lấy bụng mình trong khi máu tuôn ra từ cuống họng, và cơn đau giằng xé thì chầm chậm thấm qua từng tế bào. Chàng trai hoảng hồn ôm chặt lấy cô, người phụ nữ mà đang quằn quại giữa quá trình biến đổi tàn khốc. Những khối u sớm vây kín lấy cả khuôn mặt và cơ thể cô, kéo theo là những móng vuốt xé toạt lớp thịt nơi mu bàn tay và dài ra dần, nuốt chửng cả bàn tay và những ngón tay nhỏ nhắn vào một khối thịt cục mịch. Chàng trai ấy vẫn ôm chặt lấy người yêu, và gọi lên tên Chúa một cách nguyền rủa bằng chất giọng yếu ớt run rẩy. Tiếng tru gào từ thanh quản biến dị của cô gái đã khép lại đoạn phim quá khứ đó và đưa tâm trí anh quay về với thực tại. Ảo giác ? Di chứng của bệnh tâm lý ? Hiện tượng siêu nhiên ? Cái cách mà vạn vật xung quanh anh bỗng chốc khoác lên mình hình hài của quá khứ, anh có thể chắc chắn đó không phải ảo giác, nhưng lại càng không muốn tin đó là một sự tái dựng có chủ đích, bất kể là ai đã thực hiện việc đó đi chăng nữa. Với anh, vốn dĩ những cái gọi là “hiện tượng siêu nhiên” chẳng qua chỉ là hệ quả của những chấn thương tâm lý trước đây. Đó là cách giải thích của anh cho những lần anh nhìn thấy bóng dáng người ở phía xa hay nghe thấy tiếng động lạ, tiếng thì thầm trong nhà. Nhưng lần này thì lại khác. Khác hoàn toàn. Đó không phải sự hồi tưởng, vì trong trí nhớ của anh không có bất kỳ dấu vết nào của cảnh tượng anh vừa chiêm nghiệm. Lần đó, Sam không bước chân ra đường trong suốt hai ngày trời. Giờ đây nhìn lại bộ hài cốt, anh không tránh khỏi cơn rùng mình, nhưng anh liền gạt chuyện đó qua một bên. “Mình không có thời gian cho việc này...” – anh nghĩ, dù trong lòng vẫn đinh ninh. Anh tiếp tục men theo lối đi được tạo nên bởi ván gỗ và phế liệu, băng qua từng con phố. Nhiều cây cầu và tòa nhà bị phá hủy khiến cho mạng lưới giao thông trở nên rối rắm khi anh đi vào ngày một sâu hơn, nhưng anh đã thuộc nằm lòng từng lối đi để đến được mục tiêu sớm nhất có thể. Thành quả của cả một tuần mò mẫm đường đi và vạch kế hoạch di chuyển. Nhớ lại khoảng thời gian không lâu sau khi dịch bệnh bắt đầu bùng phát, việc cảnh vật và lối đi bị thay đổi mỗi ngày cũng không lạ lẫm gì với anh cả. Những đợt oanh tạc của chiến đấu cơ và các đoàn xe tăng, những cố gắng bám víu cuộc sống của lũ người còn sót lại. Chúng phá hủy những con đường cũ và tạo ra những lối đi mới, và rồi cứ thế tiếp diễn, cho đến khi người lính cuối cùng trên đất Pennsylvania này ngã xuống thì những nẻo đường mới không bị biến dạng bởi bom đạn nữa. Quá trình đó kéo dài không lâu nhưng cũng đủ để Philadelphia bị biến dạng trầm trọng, và do đó, bản đồ chỉ còn là phương tiện để xác định phương hướng. Băng qua ngã ba đường Market và đường South 30[SUP]th[/SUP] bằng một cây cầu được tạo ra bởi một cái tháp nước bị phá sập, Sam đặt chân vào một khu công trường. Chiếc đèn pin cột trên đầu anh được bật lên, soi sáng hành lang phía trước. Đây từng là một bãi giữ xe, sau đó họ giải tỏa nó để triển khai một dự án trung tâm thương mại. Nhưng trước khi dự án này hoàn thành thì nó đã bị đình chỉ vô thời hạn khi đại dịch bùng phát, và những người sống sót đã tận dụng nơi này như một chỗ trú ẩn hoàn hảo. Hơn ba trăm thường dân tụ tập lại ở đây để tị nạn, dưới sự lãnh đạo của những binh sĩ đào ngũ và sĩ quan cảnh sát – những người không tán đồng với cách giải quyết chỉ có “hủy diệt” và “giết chóc” được đề xuất bởi chính phủ. Họ là một trong những trại tị nạn tồn tại lâu nhất sau thảm họa, nhờ vào cấu trúc của tòa nhà đã ngăn không cho lũ Reaper xâm phạm, nhờ sự tổ chức chặt chẽ của đội ngũ lãnh đạo và cũng nhờ nắm được những bí quyết để đối phó với những kẻ bị nhiễm. Mỗi ngày, càng có nhiều người đến gia nhập với họ. Nhưng trại tị nạn này cũng không nằm ngoài tầm với của bóng ma tội lỗi khi những kẻ lãnh đạo nhận ra : sự tồn tại lâu dài không có chỗ cho lòng nhân từ và lối ứng xử bằng tình cảm. Những cuộc thảm sát tập thể được tiến hành một cách bí mật để loại bỏ tất cả những người nghi ngờ bị nhiễm. Bất kể đàn ông hay phụ nữ, trẻ em, người già. Họ cho phép tất cả những ai có mong muốn gia nhập, nhưng họ sẽ để cho bạn sống HOẶC là âm thầm đập nát đầu bạn trong giấc ngủ rồi sau đó vứt xác cho Reaper, đó là còn tùy vào việc bạn có bị nhiễm hay không. Bức tường bê-tông xám xịt u ám và những vết máu loang lổ còn lưu lại như gợi nhớ cho anh cái đêm đầu tháng hai. Một bi kịch đã xảy ra - sự cố mà đã khiến cho cả trại tị nạn này bị đè bẹp, và anh là người chứng kiến tất cả từ một vị trí cách đó không xa. Một người trong số họ nhiễm bệnh do bị chém trúng, nhưng hắn đã che giấu chuyện đó đi và qua mặt những đội kiểm tra. Hắn biết, nếu như họ phát hiện ra việc hắn đã bị nhiễm bệnh, chắc chắn hắn sẽ bị giết và vứt xác để làm mồi dụ lũ Reaper đi. Kết quả tất yếu : hắn biến đổi, tấn công và lây nhiễm cho những người khác, những người khác thì biến đổi và lại lây nhiễm,... Cuối cùng, hàng trăm sinh mạng trú ẩn bên trong tòa nhà đã bị quét sạch chỉ sau một đêm. Hỗn loạn đã khiến họ đánh mất đi sự tổ chức cần thiết, trong khi đáng lẽ ra họ đã có thể ngăn chặn việc này trước khi số người bị nhiễm chạm mốc 10 người. Những doanh trại và trại tị nạn khác cũng chịu số phận tương tự. Hoặc không thể chống trả nổi những đợt tấn công, hoặc bị một kẻ ham sống châm ngòi cho sự suy vong của cả một tập thể, hoặc là vô số những trường hợp khác nữa. Nhưng dẫu cho có bao nhiêu trường hợp hay tình huống nào khác thì kết quả vẫn chỉ có một. Dù là nhanh hay chậm, Tử Thần cũng không bỏ sót một ai cả. Anh thở ra một hơi rồi tiếp tục bước đi. Khi quân đội cho nổ đường cống ngầm ở khu vực này thì hơn một trăm mét đường Market đã bị kéo sập theo, và để vượt qua thì chỉ có cách đi qua tòa nhà này. Đi qua hai hành lang dài nữa và sẽ có một chiếc thang dẫn xuống phần sau của đường Market. Phần đường đó, bên cạnh việc nó vẫn còn lành lặn thì nó còn có ít xác xe hơn và anh cũng sẽ dễ dàng di chuyển hơn. Đi thẳng, băng qua cầu và sáu ngã tư tiếp theo là anh sẽ đến được mục tiêu : tòa nhà One Liberty Place. Theo như kế hoạch, anh sẽ đến đó trong vòng hai mươi phút nữa, và anh sẽ dành số thời gian còn lại để thâm nhập vào tòa nhà và đặt số C4 này vào vị trí. Kế hoạch là vậy, cho đến khi anh chợt nghe thấy một tiếng động lạ vang lên ngay dưới chân. RẦM ! Mặt sàn mục nát vỡ toang ra khiến anh rơi thẳng xuống tầng dưới. Cơ thể anh đập mạnh xuống nền sàn trong tư thế nằm sấp làm cho anh gừ lên một tiếng đáng sợ. “Con mẹ nó chứ...” giữa lúc thở hồng hộc như một con trâu nước, anh thuận miệng buông ra luôn tiếng chửi thề. “Chỗ đếch nào đây ??” Như để mau chóng tìm ra lời đáp cho câu hỏi đó, ánh sáng của chiếc đèn pin trên đầu anh dò dẫm vào bóng tối một cách vội vã. Dần dà xác định được vị trí của mình, anh đứng dậy chậm rãi, ngẫm nghĩ cách ứng biến để kế hoạch không bị gián đoạn. Nhưng, mọi suy nghĩ của anh ngưng hẳn lại vào đúng khoảnh khắc mà anh nhìn thấy chúng. Sáu cái nhãn cầu sáng quắc của ba con Reaper đồng loạt nhìn về phía Sam, truyền tải đến bộ não của chúng những dữ liệu và thông tin hình ảnh của gã đàn ông đang ngồi trước mặt chúng. Là con mồi - bản năng của loài thú ăn thịt nói với chúng như vậy. Còn anh, anh nghe thấy rất rõ, Những mệnh lệnh đến từ trí não. “Nguy hiểm !” “Giết chúng !” “Mau !”[/spoil] 1 tháng delay và cuối cùng cũng có hàng Mong là part mới không hẻo quá